Professional Documents
Culture Documents
(Nckh Nhóm 5) Những Yếu Tố Tác Động Đến Thái Độ Của Giảng Viên Trường Đại Học Kinh Tế - Luật Đối Với Sinh Viên Thuộc Cộng Đồng Lgbt+
(Nckh Nhóm 5) Những Yếu Tố Tác Động Đến Thái Độ Của Giảng Viên Trường Đại Học Kinh Tế - Luật Đối Với Sinh Viên Thuộc Cộng Đồng Lgbt+
TIỂU LUẬN
NHÓM 5
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Giảng viên: Huỳnh Ngọc Chương
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THÁI ĐỘ CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC KINH TẾ - LUẬT ĐỐI VỚI SINH VIÊN THUỘC CỘNG ĐỒNG LGBT+
Tỷ lệ đóng
Thành viên MSSV Phần nội dung góp cho đề
tài
Kết quả nghiên cứu
Kết luận: Câu hỏi nghiên cứu
Nguyễn Bích Ngọc K204081581 20%
(2), Hướng nghiên cứu trong
tương lai
Phương pháp nghiên cứu
Nguyễn Thu Phương K204081591 Kết luận: Câu hỏi nghiên cứu 20%
(1), Hạn chế
Tóm tắt
Các khái niệm nghiên cứu liên
Vũ Thành Nam K204081577 20%
quan
Tổng hợp và thiết kế tiểu luận
MỤC LỤC
TÊN ĐỀ TÀI 2
MỤC LỤC 3
DANH MỤC BẢNG BIỂU 5
DANH MỤC HÌNH 6
TÓM TẮT 7
PHẦN MỞ ĐẦU TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 8
1. Bối cảnh và lý do chọn đề tài 8
2. Mục tiêu nghiên cứu 8
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
3.1. Đối tượng nghiên cứu 8
3.2. Phạm vi nghiên cứu 9
4. Đóng góp của đề tài 9
5. Kết cấu đề tài 9
PHẦN NỘI DUNG 10
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 10
1.1. Các khái niệm có liên quan 10
1.2. Nền tảng lý thuyết 12
1.2.1. Thuyết thái độ 12
1.2.2. Thuyết dị tính 12
1.3. Lược khảo các nghiên cứu đi trước 12
1.4. Khung phân tích đề xuất 15
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. Quy trình nghiên cứu 20
2.2. Phương pháp nghiên cứu 20
2.3. Phương pháp lấy mẫu 21
2.4. Phương pháp phân tích dữ liệu 22
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 23
4
Bảng 1 Bảng tổng hợp lược khảo các bài nghiên cứu trước 13
6
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu nhằm xác định: Thái độ của giảng viên đối với sinh viên thuộc cộng
đồng LGBT+ và những nhân tố tác động đến thái độ của giảng viên đối với sinh viên
thuộc cộng đồng này.
Qua quá trình lược khảo và tham khảo các khung phân tích từ những nghiên cứu đi
trước, chúng tôi đã đưa ra 4 nhân tố có thể tác động đến thái độ của giảng viên đối với
sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+ để phân tích: (1) Quê quán, (2) Tôn giáo, (3) Thâm
niên giảng dạy và (4) Xu hướng tính dục.
Nhằm có được dữ liệu đáng tin cậy và chất lượng, bài nghiên cứu đã sử dụng
phương pháp tiếp cận định tính. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành liên hệ và phỏng vấn trực
tiếp 5 giảng viên thông qua các câu hỏi khảo sát đã chuẩn bị cùng với việc gửi các câu
hỏi trả lời tự luận qua văn bản cho 20 giảng viên.
Sau khi phỏng vấn các giảng viên thuộc Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu của đề
tài, chúng tôi tiến hành tổng hợp dữ liệu và phân tích định tích qua 2 bước: (1) Tóm tắt
và diễn giải lại thông tin dữ liệu, (2) Vận dụng phần diễn giải để đưa vào những đánh giá
và nhận xét cá nhân nhóm về đặc tính, xu hướng, nguyên nhân của kết quả khảo sát. Sau
cùng đưa ra quả và kết luận cho đề tài nghiên cứu.
Cuối cùng, thông qua việc nhận và đánh giá kết quả từ bài nghiên cứu, nhóm nhận
thức và chỉ ra các hạn chế của đề tài ở thời điểm hiện tại, từ đó có những hướng nghiên
cứu tiếp theo để phát triển đề tài trong tương lai.
8
PHẦN MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Để thực hiện được đề tài “Thái độ của giảng viên đối với sinh viên thuộc cộng đồng
LGBT”, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn những giảng viên thuộc trường Đại học
Kinh tế- Luật. Trong đó, đối tượng phân tích chính của đề tài này là những nhân tố ảnh
hưởng đến thái độ của giảng viên trường Đại học Kinh tế- Luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong điều kiện thời gian và không gian không thuận lợi, và bước đầu tập làm
nghiên cứu khoa học, năng lực còn hạn chế nên nhóm nghiên cứu chỉ tập trung thực hiện
trong trường đại học Kinh tế- Luật , là nơi mà các giảng viên đang giảng dạy, cũng như
tiếp xúc và quan sát những bạn sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+.
PHẦN KẾT LUẬN: Với những kết quả thu được ở chương 3, chương 4 tổng hợp những
kết luận phục vụ cho câu hỏi nghiên cứu. Bên cạnh đó chỉ ra những hạn chế của bài làm
và hướng nghiên cứu tương lai.
10
nhiều trường hợp những người có xu hướng tính dục ngoài dị tính tự mình tạo ra khoảng
cách với cả cộng đồng LGBT+.
1.1.2.LGBT+
Khái niệm LGBT+ hay LGBTQ+ được hiểu là cộng đồng những người có xu hướng
tính dục ngoài dị tính nói chung. LGBT+ là viết tắt của các chữ cái đầu các xu hướng đó:
Lesbian (đồng tính nữ), Gay (đồng tính nam), Bisexual (song tính), Transgender (chuyển
giới) và Queer (không nhận mình theo xu hướng nào) hoặc Questioning (đang xác định xu
hướng). Biểu tượng dấu cộng được thêm vào phía sau đại điện cho các nhóm xu hướng
khác hiện đang tồn tại như: Asexual (vô tính), Intersex (liên giới) hay Non-binary (phi nhị
nguyên giới), v.v...
Lesbian
Định nghĩa về xu hướng này được dùng khi một người phụ nữ bị hấp dẫn về thể chất lẫn
tinh thần bởi một người phụ nữ khác. Thậm chí, một số người đồng tính nữ còn được xác
định là đồng tính nam hoặc là phụ nữ đồng tính nam.
Gay
Đây tính từ được dùng để để chỉ bộ phận những người là nam có sức hấp dẫn về thể chất
lần tinh thần với nhau.
Bisexual
Thuật ngữ này được dùng cho những người bị hấp dẫn về thể chất lẫn tinh thần bởi cả
những người cùng giới hoặc khác giới. Mức độ song giới tính của mỗi người có thể khác
nhau và ranh giới giữa người dị tính và song tính cũng rất mong manh vì trên thực tế, hầu
như tất cả mọi người đều có một chút cảm xúc gì đó với người cùng giới với mình mặc dù
mang xu hướng tính dục dị tính.
Transgender
Một thuật ngữ chung để chỉ những người có biểu hiện về cảm xúc, tinh thần, tình cảm
khác với giới tính sinh học của họ khi sinh ra. Trên thực tế, có nhiều bác sĩ đã kê đơn
thuốc nội tiết tố cho những người chuyển giới để giúp cơ thể họ phù hợp với bản dạng
giới của họ. Một số khác thì tìm đến phương pháp phẫu thuật. Tuy nhiên, không phải tất
cả người chuyển giới đều có thể hoặc sẽ thực hiện chúng, việc một người có phải là người
chuyển giới hay không không phụ thuộc vào ngoại hình của họ.
Queer
Đây là một tính từ được sử dụng bởi một số người có xu hướng tình dục không chỉ là dị
tính. Thông thường, đối với những người xác định là đồng tính luyến ái, các thuật ngữ
12
đồng tính nữ, đồng tính nam và song tính được cho là quá hạn chế và/hoặc chứa đầy hàm
ý văn hóa mà họ cảm thấy không thể dùng cho họ. Một số người có thể sử dụng “queer”
hoặc “genderqueer” để mô tả bản dạng giới hoặc biểu hiện giới tính của họ.
Questioning
Đôi khi, Q được nhìn thấy ở cuối LGBT, nó cũng có nghĩa là nghi vấn. Thuật ngữ này mô
tả một người nào đó đang đặt câu hỏi về xu hướng tình dục hoặc bản dạng giới của họ.
Lược khảo là việc trình bày tổng quan những nghiên cứu trước đây về chủ đề muốn
nghiên cứu và những câu trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu. Nhóm đã tiến hành lược
khảo tổng cộng tất cả 35 bài nghiên cứu, trong đó có 20 bài gốc và 15 bài có liên quan.
Một số các nghiên cứu đi trước trong những năm gần đây (2019-2021) mà nhóm đã
lược khảo và được tổng hợp trong bảng sau:
Bảng 1 Bảng tổng hợp lược khảo các bài nghiên cứu trước
To examine
L. S. Discrimination is widely
reported
Casey, S. experienced by LGBTQ adults
experiences of
Discrimination Reisner, across health care and other
discrimination
in the United Mary T G domains, especially among
against lesbian,
States: Findling, racial/ethnic minorities. Policy
gay, bisexual,
Experiences of R. and programmatic efforts are
transgender, and
3 lesbian, gay, Blendon, needed to reduce these negative
queer (LGBTQ)
bisexual, J. Benson, experiences and their health
adults in the
transgender, Justin M. impact on sexual and/or gender
United States,
and queer Sayde, minority adults, particularly
which broadly
Americans Carolyn E. those who experience
contribute to
Miller compounded forms of
poor health
(2019) discrimination.
outcomes.
In order to know
the recent views
or perspective
of people
towards lesbian
Knowledge &
gay bisexual
Perception Of
and transgender
Medical A result has shown that majority
(LGBT) a study
Students of respondents have accept and
Ramya is conducted.
Towards The support LGBT people. There
Madarapu, The study
LGBT were no much significant
K. Pratap, investigated
(Lesbian, Gay, differences. The findings from
4 T. Padma, attitudes toward
Bisexual & this study can be used to acquire
V. Kalyan, LGBT by
Transgender) knowledge to people about
P. Srikanth surveying 200
Patients & societal attitudes to decrease any
(2019) students from
Their Rights: oppression or gender
Mamata college
A Cross discrimination.
Khammam in
Sectional
2019 to
Study.
determine
student’s
perceptions
regarding LGBT
community.
5 A Gap Shally This work It was found that the attitude of
Analysis of Dabra explores the gap the teachers was quite positive
the Perception (2021) between the whereas that of students was
of College attitude of more towards neutrality. The
15
Bước 2: Lấy khung phân tích cơ sở (khung phân tích bài gốc) + kết hợp với các
khung phân tích có liên quan. Tìm hiểu, chọn lọc một số nhân tố quan trọng, có tác động
lớn đến thái độ của giảng viên đối với sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+.
Ví dụ: Ở khung phân tích bài “Knowledge & Perception Of Trainee Teachers Towards
the LGBT Community”, qua nghiên cứu và tìm hiểu thì nhóm chọn được nhân tố Xu
hướng tính dục, Tôn giáo và Độ tuổi là có ảnh hưởng lớn. Còn những nhân tố còn lại có
ảnh hưởng nhưng chỉ một phần không đủ lớn nên nhóm đã lược bỏ qua. Tương tự như
những khung phân tích còn lại
(iii) Những định kiến và kỳ thị đối với cộng đồng LGBT+ vẫn còn tồn tại rất nhiều
trong xã hội. Thầy/Cô có khuyến khích sinh viên của mình "come out" hay không?
Tại sao?
Quê quán
(i) Ở quê quán của Thầy/Cô, mọi người có thái độ như thế nào đối với cộng đồng
LGBT+?
(ii) Nhận thức chung về cộng đồng LGBT+ ở quê nhà có định hướng thái độ của
Thầy/Cô đối với sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+ không?
Tôn giáo
(i) Tôn giáo của Thầy/Cô có cái nhìn như thế nào (cởi mở, hà khắc,...) về cộng đồng
LGBT+? Điều đó có được thể hiện qua giáo điều/giáo lý nào hay không?
(ii) Thầy/Cô có cố gắng để mang niềm tin tôn giáo vào thái độ của mình đối với
cộng đồng LGBT+ hay không?
Thâm niên giảng dạy
Góc nhìn của Thầy/Cô về cộng đồng LGBT+ có chịu ảnh hưởng trong quá trình
giảng dạy ở trường Đại học hay không và nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi đó
(những câu chuyện về sinh viên thuộc LGBT+; quan sát/tiếp xúc với họ trong quá
trình giảng dạy,...)
Xu hướng tính dục
Đối với các xu hướng tính dục ngoài dị tính (thích người khác giới) phổ biến hiện
nay như đồng tính, song tính, chuyển giới,... Thầy/Cô có cảm thấy cởi mở nhất với
xu hướng nào không và lý do Thầy/Cô cởi mở nhất với xu hướng đó?
Bảng câu hỏi phỏng vấn trên được nhóm sử dụng trong quá trình thu thập dữ liệu dưới hai
hình thức:
- Phỏng vấn trực tiếp giảng viên dựa trên bảng hỏi
- Phỏng vấn thông qua văn bản bằng việc gửi bảng hỏi trực tiếp đến email của giảng viên
của giảng viên. Từ đó, nhóm lựa chọn được một mẫu bao gồm những giảng viên có tiềm
năng nhất để thực hiện phỏng vấn.
Mẫu nghiên cứu của nhóm bao gồm 25 giảng viên. Về giới tính, giảng viên nữ
chiếm 57,1%, giảng viên nam chiếm 42,9%. Thâm niên giảng dạy được phân thành hai
nhóm: (i) từ 1-5 năm, (ii) trên 5 năm; trong đó 50% giảng viên thuộc nhóm (i), 50% giảng
viên thuộc nhóm (ii). Chuyên môn giảng dạy của giảng viên bao quát 3 nhóm ngành trọng
điểm: Kinh tế - Quản lý - Luật với tỉ lệ lần lượt 42,9%; 21,4%; 35,7%. Về mặt quê quán,
có 42,9% giảng viên đến từ miền Nam, 35,7% đến từ miền Trung và 21,4% đến từ miền
Bắc. Phần lớn giảng viên không theo tôn giáo, số này chiếm 71,4% tổng thể mẫu và
28,6% còn lại theo các tôn giáo như: Thiên Chúa giáo (14,3%), Phật giáo (7,1%), Công
giáo (7,1%).
kiến đối với cộng đồng LGBT+ nói chung, khiến giảng viên vẫn còn e dè khi chia sẻ về
vấn đề này. Trích lời từ một giảng viên được phỏng vấn: “Định kiến của xã hội Việt Nam
vẫn còn. Gia đình và xã hội có thể làm tổn thương tinh thần các em nếu các em chưa thực
sự sẵn sàng”. Ta thấy rằng, việc “come out” hay không không ảnh hưởng quá nhiều đến
giới tính thực sự cũng như năng lực, đạo đức của cá nhân ấy, nó càng không khiến thay
đổi định kiến lẫn sự kỳ thị mà cộng đồng đã “dán nhãn” lên nhóm giới tính này.
Suốt quá trình phỏng vấn, yếu tố tôn giáo không được khai thác triệt để. Phần lớn
giảng viên được phỏng vấn không theo tôn giáo nào, chỉ có một số rất ít phản hồi của
giảng viên về việc theo một tôn giáo cụ thể.
Trong số những giảng viên được phỏng vấn, một giáo viên theo đạo Thiên Chúa
giáo cho rằng nếu chỉ dựa vào câu chữ của kinh thánh, thì mọi người hay hiểu là Thiên
Chúa sinh ra loài người có nam có nữ, thuỷ tổ của loài người là ông Adam và bà Eva,
thuộc 2 giới tính rõ ràng, do đó Hội Thánh Công giáo chưa công nhận hôn nhân đồng tính
cho đến thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, giáo viên đó cho rằng mặc dù vẫn có niềm tin vững
vàng vào Thiên Chúa và Hội Thánh, song vẫn không cố gắng áp đặt niềm tin tôn giáo vào
việc bày tỏ thái độ đối với sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+: “Với mình, Chúa chỉ dạy 2
điều: yêu Chúa và yêu người. Và miễn là các khác biệt, dù là khác biệt về giới hay khác
biệt về điều gì khác không cản trở thực hiện 2 điều đó thì tất cả khác biệt đều đáng được
tôn trọng”.
Vì những hạn chế về điều kiện và phạm vi cỡ mẫu còn tương đối nhỏ, những dữ liệu
thu được từ khảo sát không giúp kết luận yếu tố tôn giáo có ảnh hưởng đến thái độ hay
không? Và ảnh hưởng theo chiều hướng nào? Đây còn là một câu hỏi mở mà nhóm
nghiên cứu sẽ tiếp tục khảo sát đánh giá trong tương lai để mang lại kết quả rõ ràng hơn.
1. Kết luận
Chủ đề LGBT+ đặt dưới góc nhìn của giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Luật là một đề
tài mới mẻ và gợi cho nhóm nghiên cứu rất nhiều sự tò mò. Trong quá trình tiếp cận và
nghiên cứu đề tài, nhóm đã quyết định tập trung đi tìm lời giải đáp cho hai câu hỏi sau:
(i) Thái độ chung của giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Luật đối với sinh viên thuộc
cộng đồng LGBT+ như thế nào?
(ii) Những nhân tố nào tác động đến thái độ của giảng viên Trường Đại học Kinh tế - Luật
đối với sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+?
1.1. Thái độ chung của giảng viên đối với sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+
Kết quả của bài nghiên cứu chỉ ra rằng thái độ của giảng viên đối với sinh viên
thuộc cộng đồng LGBT+ phần lớn là tích cực và cởi mở, mặc dù vẫn còn một bộ phận
nhỏ giữ thái độ trung lập. Song, nhóm không ghi nhận bất cứ phản hồi tiêu cực và gay gắt
nào của giảng viên đối với cộng đồng này. Đây là một tín hiệu lạc quan cho thấy môi
trường học tập dành cho sinh viên LGBT+ đã được cải thiện kể từ khi một nghiên cứu của
CCIHP (2011) chỉ ra rằng 17% những hình thức bạo lực mà học sinh, sinh viên LGBT+
phải chịu đến từ bản thân giáo viên và cán bộ trường học. Sự đi lên tích cực trong thái độ
của giảng viên là động lực lớn giúp cho sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+ thể hiện và
phát huy khả năng của mình trong môi trường học thuật cũng như môi trường xã hội
(Susan R Rankin, JC Garvey, A Duran, 2019). Bên cạnh ghi nhận được thái độ tích cực từ
giảng viên, nhóm nghiên cứu nhận thấy phần lớn giảng viên thẳng thắn nhấn mạnh vai trò
thứ yếu của mình trong việc định hướng sinh viên LGBT+. Vì thế, giảng viên sẽ đóng vai
trò là một người đồng hành hơn là một người đấu tranh cho sinh viên thuộc cộng đồng
LGBT+.
1.2. Những nhân tố tác động đến thái độ của giảng viên đối với sinh viên thuộc cộng
đồng LGBT+
Các yếu tố quan trọng tác động đến thái độ của giảng viên đối với sinh viên thuộc
cộng đồng LGBT+ được phân tích bao gồm: Quê quán, Tôn giáo, Thâm niên giảng dạy
và Xu hướng tính dục. Ở nhân tố đầu tiên - Quê quán, chúng tôi quan sát thấy có sự chấp
nhận ở mức độ khác nhau giữa 3 miền, góc nhìn thoải mái và cởi mở hơn tăng dần từ
miền Bắc, miền Trung đến miền Nam. Mức độ chấp nhận khác nhau này có thể đến từ
văn hóa làng quê của các vùng miền. Mặc dù có sự khác nhau đó, song, yếu tố quê quán
không góp phần định hướng thái độ của giảng viên đối với sinh viên thuộc cộng đồng
LGBT+. Thứ 2, nhân tố Tôn giáo chưa được khai thác triệt để vì hạn chế phạm vi cỡ mẫu
còn tương đối nhỏ, những giảng viên được phỏng vấn đa phần trả lời không theo tôn giáo
nào. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi chỉ khai thác được một khía cạnh nhỏ của
Thiên Chúa giáo. Quan sát thấy, mặc dù cho đến hiện tại, Thiên Chúa giáo và Hội thánh
27
Công giáo chưa chấp nhận hôn nhân đồng tính nhưng giảng viên không cố áp đặt niềm tin
tôn giáo vào việc thể hiện thái độ đối với sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+. Thâm niên
giảng dạy là một nhân tố gắn liền với giảng viên và ảnh hưởng đến thái độ của họ đối với
sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+. Nghiên cứu của chúng tôi nhận được kết quả theo
chiều hướng tích cực, rằng thông qua việc công tác, đứng lớp, giảng viên có thể quan sát
hành vi, thái độ cũng như những đóng góp từ các sinh viên thuộc cộng đồng này, từ đó có
cái nhìn thấu hiểu, sâu sắc hơn. Cụ thể, mức độ tác động của nhân tố này là khác nhau.
Đối với giảng viên có thâm niên từ 1-5 năm đánh giá thâm niên giảng dạy tác động mạnh
mẽ đến họ trong việc định hướng thái độ của họ đối với sinh viên thuộc cộng đồng
LGBT+, còn giảng viên có thâm niên 5 năm trở lên lại chịu tác động ít hơn. Có thể nhận
định rằng, giảng viên càng trẻ thì mức độ chấp nhận cũng như thay đổi góc nhìn thông
qua việc đánh giá và quan sát thuận lợi và cởi mở hơn. Điều này phù hợp với nghiên cứu
của Steffens & Wagner (2004) khi cho rằng cá nhân càng trẻ thì càng dễ dàng có quan
điểm tích cực và tư duy cởi mở, dễ thay đổi hơn đối với cộng đồng LGBT+. Cuối cùng,
Xu hướng tính dục chia ra làm 2 chiều hướng chính. Một bộ phận giảng viên không bị tác
động bởi nhân tố này. Phát hiện này tương tự với nghiên cứu của Kristof De Witte & cộng
sự (2019) khi nhận định rằng không tìm thấy sự khác biệt khi so sánh sự thoải mái của
giảng viên và sinh viên đối với cặp đồng tính nam và cặp đồng tính nữ. Bên cạnh đó, một
bộ phận giảng viên khác lại có cái nhìn thiện cảm hơn đối với các cặp đồng giới so với
các xu hướng tính dục khác.
2. Hạn chế
Bài nghiên cứu này còn tồn tại một số hạn chế. Trong đó hạn chế lớn nhất là cỡ mẫu
khảo sát còn tương đối nhỏ do hạn chế nguồn lực và đặc thù riêng của đối tượng nghiên
cứu dẫn đến dữ liệu thu thập được không đảm bảo tính đại diện tổng thể. Tuy nhiên,
nhóm nghiên cứu đã cố gắng khắc phục bằng cách khai thác triệt để dữ liệu định tính thu
được. Ngoài ra, chủ đề nghiên cứu LGBT+ là một vấn đề nhạy cảm và tế nhị, hình thức
thu thập dữ liệu mang tính cá nhân hóa cao, vì thế không loại trừ khả năng người phỏng
vấn trả lời không trung thực nhằm bảo vệ hình ảnh cá nhân. Để giảm bớt tác động của hạn
chế này, nhóm đã thiết kế bảng hỏi với một số câu hỏi mang tính chất tương đương làm
cơ sở so sánh và loại ra biến không đủ độ tin cậy.
thể phát triển bằng cách nghiên cứu giới tính của giảng viên có ảnh hưởng đến việc định
hướng thái độ của họ đối với sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+ hay không và tác động
theo chiều hướng như thế nào? Bên cạnh đó, bài nghiên cứu hiện tại kiểm tra thái độ rõ
ràng của giảng viên nhưng đôi khi nhận lại được những câu trả lời chung chung, đại khái.
Nghiên cứu tương lai cũng có thể xác định thái độ ngầm của giảng viên vì ta biết rằng cả
thành kiến rõ ràng lẫn ẩn ý đều có thể ảnh hưởng đến hành vi của cá nhân (Greenwald &
cộng sự, 2009). Giảng viên có thể sẽ không nhận thức được những thành kiến đã ăn sâu
trong tư tưởng và những thành kiến đó vô tình định hướng đến cách họ thể hiện thái độ
đối với sinh viên thuộc cộng đồng LGBT+. Từ dữ liệu thu thập được từ mẫu giảng viên,
nghiên cứu trong tương lai cũng có thể kiểm tra thái độ của những đối tượng khác trong
môi trường giảng đường như sinh viên, nhân viên tại trường,... Nhờ đó, có thể đánh giá
khách quan mức độ công bằng ở môi trường Đại học và có những giải pháp phù hợp. Bất
kể niềm tin cá nhân như thế nào, những người làm trong môi trường giáo dục đều có trách
nhiệm cung cấp cho tất cả các học sinh (ở bất kỳ xu hướng tính dục/giới tính) một nền
giáo dục chất lượng và một môi trường học tập an toàn, công bằng.
29