Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 22

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG I SƠ LƯỢC BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI 7
NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC, ẤN ĐỘ
1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực 7
1.2. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc 9
1.3. Chính sách đối ngoại của Ấn Đô ̣ 11
CHƯƠNG II CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC PHÒNG CỦA TRUNG 13
QUỐC TRONG TRANH CHẤP BIÊN GIỚI VỚI ẤN ĐỘ
2.1. Tranh chấp biên giới Trung – Ấn 13
2.2. Chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong 15
tranh chấp biên giới với Ấn Độ
2.3. Nhận định rút ra từ chiến lược an ninh quốc phòng 21
của Trung Quốc trong tranh chấp biên giới với Ấn Độ
KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
MỞ ĐẦU
Thế giới trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX đầy biến động.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra hết sức mạnh mẽ, tác động sâu sắc
đến hầu hết các quốc gia dân tộc, thúc đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa nền kinh
tế thế giới. Chủ nghĩa tư bản vận dụng được những thành tựu của cách mạng
khoa học công nghệ, tiếp tục phát triển. Chủ nghĩa xã hội bộc lộ những yếu kém
khuyết tật, rơi vào khủng hoảng và sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu. Những năm
cuối của thập kỷ 70, đầu những năm 80, trong quan hệ quốc tế bắt đầu xuất hiện
xu thế đối thoại chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình quốc tế hóa nền
kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, đặc biệt là chiến lược của các nước lớn đã
ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình chính trị, an ninh khu vức.
Trung Quốc là quốc gia có lợi ích gắn liền với lợi ích của châu Á - Thái
Bình Dương - khu vực có tầm quan trọng lớn nhất thế giới về kinh tế, an ninh và
chính trị. Vì vậy, nước này luôn xác định và theo đuổi mục tiêu nâng cao vai trò,
vị thế, gia tăng sự ảnh hưởng đối với khu vực. Những năm gần đây, nhờ cải cách
đất nước thành công, Trung Quốc trở thành quốc gia có nền kinh tế đứng thứ hai
thế giới, sau Mỹ. Không dừng ở đó, họ liên tục đưa ra các chính sách, chiến
lược, nhằm phát triển đất nước trở thành cường quốc số 1 thế giới. Thực hiện
sáng kiến “Vành đai và con đường”, Trung Quốc đầu tư hàng nghìn tỉ USD vào
nhiều nước, trong đó có các nước Đông Nam Á (ASEAN) để hợp tác, giúp các
nước này phát triển kinh tế; đồng thời, tăng cường sự ảnh hưởng, chi phối an
ninh, chính trị và nhiều mục tiêu chiến lược khác. Với lợi thế sức mạnh kinh tế,
Trung Quốc triệt để lợi dụng vấn đề này chi phối hoạt động sản xuất, cung ứng
toàn cầu và quan hệ quốc tế của các nước. Tuy nhiên, họ cũng chịu tác động
không nhỏ từ môi trường quốc tế và khu vực, nên phải điều chỉnh các chính
sách, đưa ra chiến lược “tuần hoàn kép” để nỗ lực thúc đẩy kinh tế tiêu dùng
trong nước, tự chủ về công nghệ và tăng cường quan hệ quốc tế. Cùng với đó,
Trung Quốc chú trọng củng cố sức mạnh quân sự, hiện đại hóa quân đội, gia
tăng hoạt động quân sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Biển Đông,
như: diễn tập phô trương sức mạnh vũ khí, phương tiện quân sự; đưa ra bộ luật
Hải cảnh... Những hành động đó đã và đang làm cho tình hình an ninh khu vực
trở nên phức tạp hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường hòa bình, ổn định và
sự phát triển của khu vực.
Xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc không mang tính sống còn, bởi vì
2 quốc gia này, 2 nền văn minh này đã cùng tồn tại trong 3.000 năm và sẽ cùng
tồn tại trong tương lai. Những gì đang xảy ra trong quan hệ giữa 2 nước chỉ là
5
một giai đoạn ngắn trong lịch sử lâu dài của họ. Khi nghiên cứu xung đột biên
giới Trung Quốc - Ấn Độ sẽ cho chúng ta có cái nhìn khách quan về chiến lược
an ninh quốc phòng của Trung Quốc, từ đó có những chính sách phù hợp để
không chịu sự tác động của cuộc tranh chấp này. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề
“Chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong tranh chấp biên giới
với Ấn Độ” làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Nô ̣i dung bài tiểu luâ ̣n được chia ra làm hai chương gồm:
Chương I: SƠ LƯỢC BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA TRUNG QUỐC, ẤN ĐỘ

Chương II: CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC PHÒNG CỦA TRUNG QUỐC
TRONG TRANH CHẤP BIÊN GIỚI VỚI ẤN ĐỘ

6
CHƯƠNG I
SƠ LƯỢC BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG
QUỐC, ẤN ĐỘ
1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực
Trong những năm qua tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh chóng,
phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường: Trước tiên phải kể đến đó là
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa xã
hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, song điều đó không làm thay đổi tính
chất của thời đại, loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Nguy có chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng
xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo,
chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục phát triển với
trình độ ngày càng cao, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, tạo ra xu
thế quốc tế hóa nền kinh tế toàn cầu. Nó vừa tạo ra những thời cơ nhưng cũng
vừa tạo ra những thách thức đối với các nước chậm phát triển. Thời cơ do sự
phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra là nó đã tác động đến
nền tảng kinh tế của tất cả các quốc gia, tạo ra xu thế đổi mới, cải cách cả về
kinh tế và chính trị xã hội. Nó đã tạo ra những điều kiện để phân loại phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất mà các nước nghèo và chậm phát triển có thể tranh
thủ ngay những thành tựu và điều kiện đó để phát triển đất nước. Thách thức do
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra là vì những thành tựu của nó một
phần đã bị con người sử dụng vào mục đích chiến tranh để sản xuất ra những
loại vũ khí giết người hàng loạt có thể hủy diệt nền văn minh nhân loại. Mặt
khác nó cũng còn tạo ra những thách thức về khoảng cách giàu nghèo và về vận
tốc phát triển đối với các nước nghèo và chậm phát triển về kinh tế.
Cộng đồng thế giới đang đứng trước nhiều vấn đề có tính chất toàn cầu
(bảo vệ môi trường; hạn chế sự bùng nổ dân số; phòng ngừa và đẩy lùi những
bệnh tật hiểm nghèo…) không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết
được, mà cầm có sự hợp tác đa phương. Năm là, khu vực Châu Á Thái Bình
Dương, phát triển năng động và tiếp tục phát triển với tốc độ cao. Đồng thời
cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định.
Đảng ta đã nhận định những xu thế trong quan hệ quốc tế trong giai đoạn
hiện nay là: Hòa bình ổn định và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trong
quan hệ quốc tế hiện nay. Vì hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày
càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới; Các
7
quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác liên kết khu
vực và quốc tế. Hợp tác, liên kết ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay
gắt; Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh
chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và
nền văn hóa dân tộc; Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng cộng sản và công
nhân, các lực lượng cách mạng tiến bộ trên thế giới vẫn kiên trì đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và toàn bộ xã hội; Các nước có chế độ chính trị xã
hội khác nhau, vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình. Đây là xu
thế rất mới, thể hiện rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp
không phân tuyến trong giai đoạn hiện nay.
Các đại diện tình hình thế giới và những xu thế trong quan hệ quốc tế nêu
trên đã tác động đến việc hình thành đường lối, chính sách đối nội và đối ngoại
của mỗi nước và làm nảy sinh tính đa phương, đa dạng trong quan hệ quốc tế
hiện nay. Trong bối cảnh thế giới và trong nước hết sức khó khăn và phức tạp.
Song với tinh thần luôn độc lập, tự chủ, sáng tạo Đảng ta đã thể hiện rõ bản lĩnh
và trí tuệ của mình trong việc hoạch định chủ trương và chính sách đối ngoại
sánh vai với các cường quốc trên thế giới.
Môi trường chính trị an ninh ở khu vực Đông Nam Á trong những năm
đầu thế kỉ 21 đã có nhiều biến đổi theo hướng bất lợi cho hòa bình và ổn định
khu vực so với môi trường chính tri an ninh ớ Đông Nam Á những năm 90 của
thế kỉ trước. Phong trào li khai đã được kích trở lại từ sự kiện Đông Timor rời
khỏi Indonesia để trở thành một quốc gia độc lập. Sự có mặt của Mỹ ở một số
nước Đông Nam Á làm cho Mỹ và các đồng minh của Mỹ trở thành một trong
những kẻ thù của các lực lượng hồi giáo li khai.
Những diễn biến trên trong tình hình khu vực Đông Nam Á đã được các
lực lượng khủng bố quốc tế xem là cơ hội thuận lợi để biến vùng này trở thành
địa bàn hoạt động quan trọng trong cuộc chiến chổng Mỹ và các đồng minh. Các
hoạt động khủng bổ trong khu vực ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ
tàn bạo trong mấy năm gần đây bởi có sự kết hợp giữa các lực lượng khủng bố
quốc tế và khu vực mà điển hình là cuộc đánh bom ở khu du lịch Bali,
Indonesia.
Bên cạnh đó còn nhiều thách thức an ninh phi truyền thống đang gia tăng
và trở nên trầm trọng như buôn lậu vũ khí, ma túy, phụ nữ và trẻ em ngày càng
trở nên dễ dàng trong bối cảnh khu vực hóa đang diễn ra mạnh mẽ.
Các vấn đề có “tác động lan tỏa” ảnh hưởng đến an ninh toàn khu vực do
hệ quả của sự lệ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về kinh tế, chính trị và an ninh
8
của các quốc gia trong khu vực. Đó là các vấn đề liên quan đến nội trị của một
số nước, vấn đề tăng cường vũ trang trong khu vực và các vấn đề an ninh phi
quân sự như năng lượng, lương thực, môi trường... Lấy vấn đề tăng cường mua
sắm vũ khí trong khu vực trong thời gian gần đây làm ví dụ. Mặc dù có nhiều
nguyên nhân để lý giải hiện tượng này, nhưng ớ khía cạnh nào đó, việc này thể
hiện sự lo ngại lẫn nhau và thiếu lòng tin của các nước trong khu vực về môi
trường an ninh trong tương lai.
1.2. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc
1.2.1. Quan hê ̣ ngoại giao của Trung Quốc
Từ năm 1949, quan hệ của Trung Quốc với thế giới đã thay đổi đáng kể.
Năm 1955, khi Hội nghị Á - Phi diễn ra, Trung Quốc chỉ thiết lập quan hệ ngoại
giao với 22 quốc gia. Năm 1950, kim ngạch nước ngoài của Trung Quốc chỉ ở
mức 1,13 tỷ USD. Hiện nay, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 178
nước, với kim ngạch tăng mạnh lên 4.620 tỷ USD, trở thành đối tác thương mại
lớn nhất của hơn 120 quốc gia và khu vực. Trung Quốc đạt được như vậy là do
toàn cầu hóa kinh tế và hệ thống quốc tế hiện nay.

Để phản biện những chỉ trích về sự trỗi dậy của Trung Quốc, Chủ tịch
Tập Cận Bình đưa ra nhiều học thuyết mới về mối quan hệ của Trung Quốc với
thế giới. Đó là xây dựng cộng đồng chung vận mệnh nhân loại. Theo đó, sự trỗi
dậy của Trung Quốc gắn kết với thế giới, xây dựng một cộng đồng chung, chia
sẻ tương lai với tất cả các nước khác, thay vì tìm kiếm quyền bá chủ, gây chiến,
bắt nạt kẻ yếu hoặc bần cùng hóa nước láng giềng. Tại hội thảo về tư tưởng của
Chủ tịch Tập Cận Bình vừa qua, Trưởng Ban Liên lạc Đối ngoại Trung ương
Trung Quốc Tống Đào lưu ý rằng tư tưởng của Chủ tịch Tập Cận Bình cho thấy
cách thức Trung Quốc thúc đẩy mô hình quan hệ quốc tế kiểu mới và thúc đẩy
xây dựng một cộng đồng chung chia sẻ tương lai vì nhân loại. Trung Quốc sẽ
kết nối lợi ích cơ bản của mình với các quốc gia khác và gắn kết giấc mơ Trung
Hoa với giấc mơ của nhân dân trên thế giới. Trung Quốc đã nỗ lực ủng hộ thúc
đẩy sự phát triển thông qua sự phát triển chung của thế giới, và tăng cường quan
hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, công bằng và công lý, hợp tác cùng
thắng, thay cho mong muốn bá chủ.
Khái niệm xây dựng cộng đồng chung vì chia sẻ tương lai vì nhân loại của
Chủ tịch Tập Cận Bình không chỉ giải quyết làm thế nào vừa duy trì sự trỗi dậy
của Trung Quốc gắn liền với thế giới, mà còn giúp Trung Quốc tiếp tục thực

9
hiện mục tiêu thúc đẩy quan hệ quốc tế và trật tự thế giới. Chủ tịch Tập Cận
Bình nhấn mạnh để xây dựng một thế giới mở, bao trùm, sạch và đẹp, hòa bình
lâu dài, an ninh và thịnh vượng chung, cộng đồng quốc tế cần thúc đẩy quan hệ
đối tác, an ninh, tăng trưởng, kết nối, trao đổi các nền văn minh, và xây dựng hệ
sinh thái lành mạnh. Cuối cùng, mục tiêu chính sách ngoại giao của Trung Quốc
là thúc đẩy xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai chung vì nhân loại bằng cách
trở thành người phát triển hòa bình, vì sự phát triển chung, là chỗ dựa cho hệ
thống thương mại đa phương và tham gia quản trị kinh tế toàn cầu.
Tư tưởng của Tập Cận Bình cũng cam kết theo con đường hòa bình và
phát triển, nhấn mạnh Trung Quốc sẽ bảo vệ lợi ích cốt lõi, bao gồm chủ quyền,
an ninh và lợi ích phát triển. Trung Quốc luôn thúc đẩy xây dựng một mạng lưới
đối tác toàn cầu, mở ra con đường mới cho ngoại giao tránh đối đầu và liên
minh, ủng hộ đối thoại và hợp tác. Sáng kiến "Vành đai, Con đường", với
nguyên tắc tham vấn rộng rãi, đóng góp vì lợi ích chung, là một trong những
trọng tâm của ngoại giao Trung Quốc, đồng thời là nền tảng vững chắc cho việc
xây dựng cộng đồng vận mệnh chung vì nhân loại.
1.2.2. Đặc điểm của Ngoại giao Trung Quốc
Công bằng và công lý là điểm quan trọng nhất của ngoại giao Trung
Quốc. Theo Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại giao Trung Quốc Vương
Phàn, cho rằng nhiều cường quốc trong lịch sử đã đưa ra quan điểm về giá trị
của họ, như Mỹ thể hiện qua việc bảo vệ dân chủ và tự do. Vậy, những giá trị
phía sau ngoại giao của Trung Quốc là gì? Đó là một nước xã hội chủ nghĩa do
Đảng Cộng sản lãnh đạo, giá trị vững chắc nhất trong ngoại giao là sự công bằng
và công lý, vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt sự phát triển và hợp tác của thế
giới trong tương lai.
Trên thực tế, để biện hộ cho việc ủng hộ giá trị cốt lõi của mình, một số
nước phương Tây đã can thiệp vào các vấn đề nội bộ của nước khác và chà đạp
lên chủ quyền để thực hiện lợi ích riêng của mình. Trái lại, Trung Quốc ủng hộ
sự công bằng và công lý dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và hợp tác cùng có lợi.
Sự bình đẳng trong quan hệ quốc tế là nguyên tắc cơ bản. Do vậy, Trung Quốc
đối xử với tất cả các quốc gia như nhau, không bỏ qua nước nhỏ và không đối
đầu hoặc hạ thấp nước lớn nào khác.
Thế giới ngày nay đang có nhiều hơn các vấn đề song suy giảm khả năng
giải quyết các vấn đề toàn cầu. Các nước lớn phương Tây từng đưa ra những
hứa hẹn về quản trị toàn cầu nhằm đối phó với các vấn đề thế giới, nhưng đang
mất dần tính chủ động và khả năng giải quyết, thậm chí rút khỏi các thỏa thuận
10
quốc tế. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đã đưa ra sáng kiến cải cách quản trị
toàn cầu, hướng dẫn trật tự thế giới hướng tới công bằng và công lý.

Một đặc điểm nổi bật khác của ngoại giao Trung Quốc là sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản. Từ khi Trung Quốc bước vào kỷ nguyên mới, cải cách sâu rộng
bao gồm cải cách thể chế đã phát triển hệ thống Đảng Cộng sản lãnh đạo công
tác đối ngoại với cách tiếp cận và cơ chế phản ứng hiệu quả. Trung Quốc đồng
thời tăng cường năng lực và kỷ luật của Đảng trong công tác đối ngoại, trở thành
một điểm nổi bật trong việc nỗ lực thúc đẩy hiện đại hóa hệ thống quản lý nhà
nước và khả năng cải thiện và phát triển hệ thống xã hội. Từ khi thành lập đến
nay, Đảng Cộng sản đã gắn kết chủ nghĩa nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Tại Đại hội Đảng lần thứ 19, Chủ tịch Tập Cận Bình đã tuyên bố những cống
hiến to lớn mới cho nhân loại chính là sứ mệnh luôn tuân theo của Đảng.

1.3. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ


Những năm đầu thế kỷ XXI, Ấn Độ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại
với các nước lớn và một số khu vực trên thế giới, “Liên kết với phương Tây và
hướng về phía Đông”, thực hiện chính sách ngoại giao toàn diện, lấy ngoại giao
kinh tế là trọng tâm... nhằm nâng cao vị thế quốc tế, tầm ảnh hưởng trong khu
vực và thế giới, tạo môi trường hòa bình, ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế
bền vững; bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ [4, tr.86].
Do tình hình thế giới thay đổi: Sau Chiến tranh lạnh (năm 1991), ngoài
việc mất đi đối tác chiến lược gần gũi nhất là Liên Xô, Ấn Độ phải đối mặt cùng
lúc với cuộc khủng hoảng thứ hai là sự đổ vỡ cán cân thanh toán, cho thấy mô
hình kinh tế hướng nội và nửa bế quan tỏa cảng mà Ấn Độ áp dụng trong thời
gian dài đã kết thúc. Những xu hướng mới của nền kinh tế thế giới lúc đó đã gây
áp lực và tác động sâu sắc đến định hướng kinh tế của Ấn Độ, thúc đẩy nền kinh
tế nước này trở nên cởi mở hơn đối với các khái niệm như thị trường tự do và
quá trình toàn cầu hóa.
Ưu tiên hàng đầu của Ấn Độ kể từ cuộc khủng hoảng kép năm 1991 là trở
thành một cường quốc phát triển. Mục tiêu này là động lực chính mà Ấn Độ
theo đuổi và cũng là chất xúc tác để Ấn Độ thúc đẩy tiến trình hội nhập vào trật
tự thế giới.
Chính sách đối ngoại của Ấn Độ tập trung vào: Tăng cường mở rộng quan
hệ với tất cả các nước, trong đó chú trọng quan hệ với các nước lớn, các trung
tâm kinh tế thế giới, các nước láng giềng phía Đông nhằm tận dụng các nguồn
lực bên ngoài cho phát triển kinh tế.
11
Đẩy mạnh quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Để đẩy nhanh quá trình
hội nhập, Ấn Độ đã thực hiện một số biện pháp chính, như: tích cực tham gia
vào các diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế, tích cực phát huy vai trò lãnh đạo
các quốc gia đang phát triển trên nhiều diễn đàn.
Nâng cao vị thế và vai trò của Ấn Độ ở khu vực và thế giới, đưa Ấn Độ
trở thành một cường quốc ở châu Á và trên thế giới trong những thập niên đầu
thế kỷ XXI. Để thực hiện mục tiêu này, Ấn Độ đang tìm cách mở rộng ảnh
hưởng của mình trên toàn thế giới mà trước mắt là ra các quốc gia châu Á - Thái
Bình Dương. Năm 1991 Ấn Độ đưa ra chính sách Hướng Đông (Look East
Policy), đến thời Thủ tướng N. Modi đã nâng cấp thành chính sách Hành động
phía Đông (Act East Policy). Ấn Độ cũng đang cố gắng xác lập vị trí, vai trò
cường quốc trên trường quốc tế thông qua việc phấn đấu trở thành ủy viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc.
Trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ thời Thủ tướng N. Modi bao gồm:
1) Ấn Độ trên hết; 2) Ưu tiên vùng lân cận; 3) Vượt qua những chướng ngại lịch
sử; 4) Từ thực hiện quy tắc đến tạo ra quy tắc; 5) Ấn kiều của Ấn Độ; 6) Tăng
cường kết nối văn hóa.
Chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ được công bố năm 1991, và được
nội các của Ấn Độ theo đuổi liên tục trong hai thập niên. Đến tháng 9 năm 2014,
Thủ tướng Narendra Modi đã tuyên bố quyết định đổi tên chính sách “Hướng
Đông” thành “Hành động ở phía Đông” nhằm đạt mục tiêu chung nhất là biến
Ấn Độ trở thành một cường quốc kinh tế và quân sự không chỉ ở khu vực Châu
Á mà còn trên phạm vi toàn thế giới, cụ thể hơn nhằm đạt được 3 mục tiêu chủ
yếu sau: một là, dựa vào khu vực để phục vụ cho sự phát triển ổn định của Ấn
Độ, đặc biệt là thúc đẩy sự phát triển ở 7 bang vùng Đông Bắc Ấn Độ - những
bang kém phát triển về kinh tế - xã hội và bất ổn an ninh; hai là, hội nhập kinh tế
khu vực; ba là, mở rộng ảnh hưởng của Ấn Độ ra toàn khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương.
Chính sách “Hành động ở phía Đông” giống như chính sách “Hướng
Đông”, tuy nhiên, thực tế cho thấy, rõ ràng đây là một bước tiến của Ấn Độ
trong việc kết nối với các quốc gia ASEAN. Đồng thời cũng là con đường mà
Ấn Độ muốn thông qua để kiềm chế Trung Quốc [5, tr.127].

12
CHƯƠNG II
CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC PHÒNG CỦA TRUNG QUỐC TRONG
TRANH CHẤP BIÊN GIỚI VỚI ẤN ĐỘ
2.1. Tranh chấp biên giới Trung Quốc với Ấn Độ
Biên giới giữa Trung Quốc và Ấn Độ đang bị tranh chấp tại hai mươi địa
điểm khác nhau. Kể từ những năm 1980, đã có hơn 20 vòng đàm phán giữa hai
nước liên quan đến các vấn đề biên giới này. Một nghiên cứu của ORF chỉ ra
rằng chỉ 1 đến 2 phần trăm các sự cố biên giới từ năm 2010 đến 2014 được đưa
lên truyền thông. Ấn Độ đã ghi nhận hơn 660 vụ vi phạm LAC của Quân đội
Giải phóng Nhân dân Trung Quốc năm 2019 cùng 108 vụ vi phạm trên không
trong cùng năm; tăng đột biến từ những năm trước. “Không có bản đồ công khai
mô tả LAC của Ấn Độ” và Bản đồ Khảo sát Ấn Độ là bằng chứng duy nhất về
biên giới chính thức của Ấn Độ. Đối với Trung Quốc, LAC chủ yếu là tuyến yêu
sách chủ quyền ở khu vực Ladakh, nhưng ở phía đông bắc Ấn Độ, Trung Quốc
cũng tuyên bố chủ quyền Aurunachal Predesh. Một báo cáo của nhà ngoại giao
Shyam Saran năm 2013 được tuyên bố rằng Ấn Độ đã mất
640 km2 (247 dặm vuông Anh) do “xua đuổi khỏi khu vực” bởi tuần tra Trung
Quốc, nhưng sau đó ông rút lại tuyên bố của mình về bất kỳ mất mát lãnh thổ
nào từ sự xâm nhập của Trung Quốc. Bất chấp các tranh chấp, cuộc giao tranh
và bế tắc, không một phát súng nào được bắn giữa hai nước dọc biên giới trong
hơn 50 năm [1, tr.90].
Trong thời gian lãnh đạo Trung Quốc là Tập Cận Bình thăm New Delhi
vào tháng 9 năm 2014, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã thảo luận về vấn đề
biên giới và kêu gọi một giải pháp. Modi cũng lập luận rằng việc làm rõ các vấn
đề biên giới sẽ giúp hai nước “nhận ra tiềm năng của mối quan hệ với
nhau”. Tuy nhiên, vào năm 2017, Trung Quốc và Ấn Độ đã có một cuộc đụng
độ lớn ở Doklam kéo dài 73 ngày. Kể từ đó, Trung Quốc đã tăng cường sự hiện
diện quân sự ở khu vực cao nguyên Tây Tạng, mang theo xe tăng Type 15, trực
thăng Harbin Z-20, máy bay không người lái CAIG Wing Loong II và pháo
phản lực gắn trên xe PCL-181. Sân bay Ngari Gunsa cũng đã được mở rộng với
sự hiện diện của máy bay chiến đấu Shenyang J-16 và J-11s. Sân bay cách
Pangong Tso, Ladakh 200 km (124 dặm) [2, tr.156].
Nhiều lý do đã được trích dẫn là ngòi nổ cho các cuộc giao tranh này. Một
lý do được các nhà quan sát Mỹ tuyên bố là việc chiếm đất của Trung Quốc liên
quan đến biện pháp xâm lấn các phần nhỏ của lãnh thổ nước khác trong một thời
gian dài, một chiến thuật được gọi là cắt lát salami. Vào giữa tháng 6 năm 2020,
13
ủy viên hội đồng đảng Bharatiya Janata từ Nyoma, Ladakh, tuyên bố rằng các
chính phủ Ấn Độ liên tiếp (bao gồm cả chính phủ Narendra Modi hiện tại) đã bỏ
bê các khu vực biên giới trong nhiều thập kỷ và khiến một “con mắt mù” thành
đất đai của Trung Quốc trong khu vực. Theo bà, Ấn Độ đã thất bại thảm hại
trong việc bảo vệ biên giới và thậm chí năm nay dọc theo LAC Ấn Độ đã mất
rất nhiều đất, với việc là gia đình bà đã mất đất chăn thả vào tay người Hán ở
Koyal. Các nhà lãnh đạo Ladakhi địa phương khác cũng đã thừa nhận các cuộc
xâm lấn tương tự của người Trung Quốc trong khu vực.
Giáo sư của MIT Taylor Fravel nói rằng Trung Quốc đang phản ứng trước
sự phát triển cơ sở hạ tầng của Ấn Độ ở Ladakh, như đường Darbuk-Shyok-
DBO. Ông cũng nói thêm rằng đó là một sự thể hiện sức mạnh của Trung Quốc
giữa đại dịch COVID-19, bắt nguồn từ Vũ Hán và đã gây thiệt hại cho cả nền
kinh tế Trung Quốc và các mối quan hệ ngoại giao. Chủ tịch chính phủ lưu vong
Tây Tạng, tuyên bố rằng Trung Quốc đang tạo ra các vấn đề biên giới do sức ép
các vấn đề nội bộ trong phạm vi Trung Quốc và áp lực quốc tế đang tác động lên
Trung Quốc bởi COVID-19. Jayadeva Ranade, Chủ tịch Trung tâm Phân tích và
Chiến lược Trung Quốc và trước đây là Thành viên Hội đồng tư vấn an ninh
quốc gia Ấn Độ, cho rằng sự xâm lược hiện tại của Trung Quốc trong khu vực là
bảo vệ tài sản và các kế hoạch tương lai ở Ladakh và các khu vực liền kề
như Hành lang kinh tế Pakistan - Trung Quốc; như vậy quân Trung Quốc nhất
định sẽ không rút. Pravin Sawhney đưa ra lý do tương tự, cùng với tuyên bố của
Amit Shah trước quốc hội rằng Aksai Chin là một phần của lãnh thổ liên minh
Ladakh khiến người Trung Quốc khó chịu. Siddiq Wahid cũng chỉ ra sự phân
chia của Jammu và Kashmir vào năm 2019, thêm rằng các bộ trưởng cao cấp
của Đảng Bharatiya Janta cho đến tháng 5 năm 2020 vẫn tuyên bố rằng tất cả
những gì còn lại là dành cho Ấn Độ để giành lại Gilgit - Baltistan Nhà ngoại
giao Ấn Độ Gautam Bambawale cũng tuyên bố rằng các động thái của New
Delhi vào tháng 8 năm 2019 liên quan đến Jammu và Kashmir đã khiến Bắc
Kinh khó chịu.
Cựu đại sứ Ấn Độ tại Trung Quốc Ashok Kantha nói rằng những cuộc
giao tranh này là một phần của sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc ở
cả biên giới Ấn-Trung và biển đông. Nhà ngoại giao Ấn Độ Phunchok
Stobdan chỉ ra sự xuất hiện của một sự thay đổi chiến lược lớn hơn và Ấn Độ
nên cảnh giác với điều đó. Tướng Lục quân Ấn Độ đã nghỉ hưu Syed Ata
Hasnain nói rằng các cuộc giao tranh là một phương tiện nhắn tin chiến lược tới
các nước láng giềng của Trung Quốc trong một thế giới hậu COVID, và khiến

14
Ấn Độ ưu tiên khu vực Himalaya hơn việc chú ý khu vực Ấn Độ Dương, nơi dễ
bị tổn thương hơn đối với Trung Quốc.
2.2. Chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong tranh
chấp biên giới với Ấn Độ
Đảng Cộng sản Trung Quốc xác định mục tiêu của việc cải cách hệ thống
an ninh - quốc phòng là: xây dựng một đội quân lớn mạnh của Đảng trong tình
hình mới; động viên toàn quân và lực lượng ở các lĩnh vực kiên định lòng tin,
quy tụ ý chí, thống nhất tư tưởng và hành động, thực thi toàn diện chiến lược cải
cách quân đội lớn mạnh, kiên định đi theo con đường xây dựng quân đội hùng
mạnh mang đặc sắc Trung Quốc. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng
đối với quân đội. Từ bỏ hoàn toàn mô hình quân đội hiện nay (vốn theo mô hình
của Liên Xô). Nâng cao năng lực tác chiến, xây dựng một quân đội tinh nhuệ, có
thể giành chiến thắng trong chiến tranh hiện đại, tương xứng với vị thế quốc tế,
những lợi ích an ninh và phát triển của Trung Quốc. Xây dựng hệ thống chỉ huy
theo chiều dọc, gồm 3 lớp “Quân ủy Trung ương - Bộ Tư lệnh tác chiến vùng
(chiến khu/quân chủng) - người lính” và một hệ thống quản lý thông suốt từ
Quân ủy Trung ương tới các quân chủng/chiến khu và tới binh sĩ (theo mô hình
của các nước phát triển).
Trung Quốc hiện ít quan tâm đến việc phân tích các mối đe dọa mới hay
các vấn đề mang tính trừu tượng, thay vào đó là lập ra những yêu cầu mà lực
lượng vũ trang Trung Quốc phải thực hiện. Những yêu cầu đó bao gồm: (1)
Đảm bảo khả năng đối phó đồng thời với hàng loạt các trường hợp khẩn cấp nội
bộ và mối đe dọa về mặt quân sự mang tính chiến thuật và phi chiến thuật có thể
gây nguy hiểm đến chủ quyền của Trung Quốc trên cả đất liền, trên biển và trên
không; (2) Ủng hộ việc bảo vệ một cách nghiêm ngặt và rõ ràng sự thống nhất
của Tổ quốc-yếu tố cần thiết để thực hiện thành công Sáng kiến “Vành đai và
Con đường”; (3) Đảm bảo an ninh của Trung Quốc “trong bối cảnh mới”; (4)
Bảo vệ lợi ích của Trung Quốc ở nước ngoài-tài sản chiến lược mới của Trung
Quốc với tư cách là cường quốc kinh tế toàn cầu; (5) Cải thiện tính hiệu quả của
hệ thống răn đe chiến lược bằng hạt nhân và trên mạng, cũng như khả năng PLA
thực hiện thành công một cuộc phản công nhanh chóng và có tính ngăn chặn cao
bằng hạt nhân; (6) Tăng cường sự tham gia của PLA trong các hoạt động gìn giữ
hòa bình quốc tế; (7) Tăng cường bảo vệ lãnh thổ Trung Quốc trước chủ nghĩa
biệt lập và chủ nghĩa khủng bố; (8) Cải thiện khả năng của PLA trong việc thực
hiện đầy đủ các nhiệm vụ của họ trong các cuộc khủng hoảng môi trường và y tế.

15
Thể hiện tham vọng “nước lớn” của Trung Quốc ở ngoài biên giới: Đây là
tham vọng vượt ngoài ranh giới lãnh thổ của Trung Quốc và những khu vực
hành chính đặc biệt. Không những thế, Trung Quốc hiện đang tìm kiếm các căn
cứ quân sự mới ở nước ngoài trong khu vực và ở nhiều châu lục. Đặc biệt, việc
quân sự hóa các đảo và đảo nhân tạo mà Trung Quốc chiếm đóng và xây dựng
trái phép trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là những ví dụ
điển hình [3, tr.137].
Xung đột mâu thuẫn Ấn Độ và Trung Quốc là một trong những mâu thuẫn
tồn tại hàng thập kỷ giữa hai quốc gia láng giềng này. Với tổng diện tích tranh
chấp lên tới 120.000 km2, sau 21 vòng đàm phán, hai bên mới dừng lại ở những
nguyên tắc chung nhất và ngay cả thỏa thuận trao đổi bản đồ cũng chưa thực
hiện được. Một thách thức chiến lược với Ấn Độ là việc Trung Quốc gia tăng
ảnh hưởng tại khu vực Nam Á và Ấn Độ Dương. Chiến lược an ninh quốc
phòng của Trung Quốc trong tranh chấp biên giới với Ấn Độ nhằm mục đích tận
dụng quan hệ với Pakistan để chống Ấn Độ. Trên trường quốc tế, Bắc Kinh
ngăn New Delhi tham gia Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Trung Quốc còn lo
ngại Ấn Độ tăng cường quan hệ với Mỹ để chống Trung Quốc, sau khi
Washington và New Delhi ký một số thỏa thuận phối hợp giữa quân đội hai
nước.
Luật mới quy định quân đội và cảnh sát vũ trang Trung Quốc có nhiệm vụ
canh giữ biên giới chống lại mọi hành động “xâm lược, lấn chiếm, xâm nhập,
khiêu khích”. Các lực lượng này được phép sử dụng vũ khí trong trường hợp cần
thiết “để chống lại những người vượt biên trái phép thực hiện hành vi tấn công,
kháng cự”. Luật cũng quy định rằng Trung Quốc có thể đóng cửa biên giới trong
trường hợp xảy ra một cuộc chiến tranh hoặc xung đột vũ trang ở gần đe dọa an
ninh biên giới nước này. Bên cạnh đó, chính phủ có thể thực hiện các biện pháp
“củng cố quốc phòng biên giới, hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội, mở cửa khu vực
biên giới, cải thiện dịch vụ công và cơ sở hạ tầng, hỗ trợ đời sống và công ăn
việc làm của người dân nơi đây”. Tuy nhiên, luật cũng yêu cầu nhà nước tuân
thủ các nguyên tắc “bình đẳng, tin cậy lẫn nhau, tham vấn hữu nghị, xử lý các
vấn đề tranh chấp biên giới trên bộ với các nước láng giếng thông qua đàm
phán” [4, tr.181].
Chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong tranh chấp biên
giới với Ấn Độ thể hiện: Trung Quốc đã và đang xây dựng các làng phòng thủ
biên giới trên khắp LAC. Vào tháng 7/2021, Chủ tịch Tập Cận Bình đã đến thăm
một ngôi làng ở Tây Tạng giáp với bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ. Ngay cả
16
trước khi Trung Quốc thông qua luật biên giới mới, Tư lệnh quân khu miền
Đông của Ấn Độ, tướng Manoj Pande cho biết, việc Bắc Kinh thành lập các
ngôi làng biên giới nhằm phục vụ cho cả mục đích quân sự lẫn dân sự đã khiến
nước này lo ngại. “Trung Quốc đã xây dựng các làng kiểu mẫu ở biên giới, dựa
trên chính sách hoặc chiến lược riêng của họ. Vẫn chưa rõ có bao nhiêu người
định cư ở đó. Đối với chúng tôi đây là vấn đề đáng quan tâm và chúng tôi đã
đưa vấn đề này vào kế hoạch hành động của mình” [2, tr.82]. Nhà phân tích D.S.
Hooda cho rằng, Trung Quốc “muốn sử dụng lực lượng dân sự để củng cố các
yêu sách của nước này”: “Bắc Kinh đang cố gắng thay đổi hiện trạng không chỉ
thông qua sự hiện diện về quân sự mà còn cả sự hiện diện dân sự. Điều này đồng
nghĩa với việc chúng ta sẽ chứng kiến sự xuất hiện của nhiều cộng đồng dân cư
ở gần LAC hơn” [2, tr.83]. Giống như việc triển khai tàu cá dân sự để phục vụ
cho chiến lược bành trướng ở Biển Đông, Trung Quốc cử những người chăn thả
gia súc vào các khu vực biên giới hoang vu trên dãy Himalaya trước khi triển
khai quân đội, để tạo ra tình huống tranh chấp sau đó áp đặt tuyên bố chủ quyền.
Cách tiếp cận như vậy sẽ giúp Bắc Kinh từng bước thực hiện tham vọng mở
rộng lãnh thổ.
Chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong tranh chấp biên giới
với Ấn Độ với mục tiêu chơi trò đánh phủ đầu để răn đe. Trước hết giáo sư Vaiju
Naravane nhắc lại, cho dù Bắc Kinh khẳng định “không có ý định gây hấn”
nhưng theo các nhà quan sát, việc Trung Quốc tăng cường sự hiện diện quân sự ở
đường biên giới chung không hơn không kém là dấu hiệu cho thấy chính quyền
của ông Tập Cận Bình đang “thực sự chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh”. Hai
chuyên gia, Prem Shakar Jha và Victor Gao (nguyên là thư ký của cố thủ tướng
Chu Ân Lai) trong bài tham luận đặng trên trang mạng Thewire.in của Ấn Độ
cùng kết luận “Mục tiêu chiến lược mà quân đội Trung Quốc đang theo đuổi khi
chiếm đóng ngọn đồi nhìn xuống hồ Pangong Tso” là để tự vệ, đề phòng bị Ấn
Độ tấn công. Kế tới, vẫn theo hai chuyên gia này, hành động hù dọa của Bắc
Kinh nhằm nhắc nhở New Delhi tôn trọng những thỏa thuận mà đôi bên đã ký
kết, đồng thời “chính quyền New Delhi cần nhanh chóng xua tan những mối
hoài nghi trong đầu giới lãnh đạo Trung Quốc về sự thay đổi trong chính sách
đối ngoại của Ấn Độ từ năm 2014” khi thủ tướng Modi lên cầm quyền.
Chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong tranh chấp biên
giới với Ấn Độ nhằm giết chết từ trong trứng nước tham vọng bá chủ khu vực
của Ấn Độ. Nguyên nhân là do: Thứ nhất, chỉ vài tháng khi lên cầm quyền vào
mùa xuân 2014 thủ tướng Modi đã đặt bút ký với Washington văn bản mang tên

17
“Tầm Nhìn Chiến Lược Chung về Châu Á Thái Bình Dương và Khu Vực Ấn Độ
Dương (Joint Strategic Vision for the Asia-Pacific and Indian Ocean Region)”.
Đây là một công cụ cho phép New Delhi bảo đảm quyền tự do giao thông hàng
hải ở Biển Đông. Thứ hai, Ấn Độ được hưởng quy chế “đối tác quốc phòng quan
trọng” của Hoa Kỳ. Điểm thứ ba, New Delhi đã tham gia tập trận chung với Nhật
Bản và Mỹ ở Biển Đông và đã mở vịnh Bengale đón chiến dịch tập trận Malaba
với một loạt các bài tập nhằm phong tỏa eo biển Malacca giữa Malaysia và
Indonesia. Đây là nơi 90 % dầu lửa của Trung Quốc nhập vào phải đi qua và cũng
là cửa ngõ đưa 40 % xuất khẩu của Trung Quốc ra thế giới bên ngoài.
Hành động thứ tư khiến Bắc Kinh tức giận là sắc lệnh được thủ tướng
Modi ban hành vào tháng 8/2019 chấm dứt quy chế tự trị của Jamu và
Cachemir, gộp luôn cả lãnh thổ Gilgit do Pakistan kiểm soát và toàn bộ vùng
cao nguyên Ladakh vào với bản đồ của Ấn Độ. Cái gai trong mắt Bắc Kinh ở
đây là quyết định nói trên của New Delhi bao gồm luôn cả vùng Aksai Chin
thuộc cao nguyên Ladakh mà tới nay vẫn do Trung Quốc quản lý.
Lý do thứ năm khiến Trung Quốc gây hấn với Ấn Độ là New Delhi không
ngừng thắt chặt quan hệ quân sự với Mỹ, Nhật và gần đây nhất là với Úc, trong
khi kênh đối thoại giữa Bắc Kinh với Washington, Tokyo và Canberra đều đang
tắc nghẽn
Chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong tranh chấp biên
giới với Ấn Độ nhằm xua tan những mối đe dọa tiềm tàng. Với thế thượng
phong không thể chối cãi vậy tại sao Trung Quốc thường xuyên gây hấn với đối
phương? Tác giả bài viết trả lời: Bắc Kinh phải gồng mình vì những lý do “đối
ngoại và đối nội”. Dưới tác động của dịch Covid-19 kinh tế Trung Quốc bị
chựng lại. Bắc Kinh bị cộng đồng quốc tế chỉ trích xử lý kém cỏi để khủng
hoảng y tế xuất phát từ Vũ Hán lan rộng ra toàn cầu. Chính quyền của ông Tập
Cận Bình cảm thấy “bị đe dọa” trước liên minh giữa Ấn Độ và Hoa Kỳ ngày
càng chặt chẽ trong lúc mà quan hệ giữa Bắc Kinh và Washington đang xấu đi
hơn bao giờ hết.
Do vậy Trung Quốc muốn “giết chết từ trong trứng nước mọi tham vọng
của Ấn Độ trong khu vực” và để đạt đến đích Bắc Kinh sử dụng lại lá bài từng
được dùng hồi năm 1962 đó là “làm nhục” New Delhi. Lần này, Trung Quốc
dùng đồng tiền để lôi kéo những nước láng giềng của Ấn Độ từ Nepal đến
Bangladesh … về phía mình.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) có chủ ý rõ ràng trong việc
ráo riết tiếp cận để tìm cách đổi tiền lấy ảnh hưởng với các nước láng giềng
18
ngay cạnh Ấn Độ là Bangladesh, Miến Điện, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri
Lanka, cũng như bằng cách uy hiếp đồng minh thân cận nhất của Ấn Độ là
Bhutan. Trung Quốc dường như cũng đã tính toán chính xác rằng Ấn Độ, bất
chấp sức mạnh quân sự hùng mạnh của mình, sẽ cực kỳ kiềm chế khi đối mặt
với sự cố gắng trâng tráo của Quân đội Giải phóng Nhân dân (People’s
Liberation Army – PLA) vào giữa năm 2020 nhằm tràn sang gần 1.000 kilomet
vuông phía đông Ladakh ở khu vực phía tây của Đường kiểm soát thực tế (Line
of Actual Control – LAC) phân chia hai cường quốc.
Kể từ khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng vào năm 1950 và sáp nhập
khu vực này trong năm tiếp theo, tự mở rộng lãnh thổ của mình đến biên giới
của Ấn Độ, Trung Quốc đã là một nước láng giềng đầy vẻ hăm dọa với quốc gia
đông dân thứ hai thế giới. Bất chấp ba thỏa thuận, vào năm 1993, 1996 và 2013,
nhằm duy trì hòa bình và ổn định trên LAC, Bắc Kinh đã liên tục phản bác về
các đường ranh giới, và kể từ những năm 1980 đã dần dần chiếm được tổng số
640 kilomet vuông đất thông qua nhiều lần xâm nhập vào Ladakh trước cuộc tấn
công mạnh vào phía đông Ladakh trong năm 2020.
Đồng minh thân cận của Trung Quốc là Pakistan cũng có tranh chấp biên
giới với Ấn Độ. Hai nước láng giềng đã giao chiến bốn lần, tại thời điểm Chia
cắt vào năm 1947, và vào năm 1965, 1971 và 1999. Cuộc chiến năm 1971 cũng
sản sinh ra Bangladesh từ sự sụp đổ của Đông Pakistan. Ấn Độ có chung đường
biên giới dài 4.097 kilomet với Bangladesh; 3.323 kilomet với Pakistan; 1.751
kilomet với Nepal; 1.643 kilomet với Miến Điện; 699 kilomet với Bhutan; và
106 kilomet với Afghanistan.
Trung Quốc đang mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình một cách có chủ
đích bằng cách phát triển một chuỗi các cảng trên khắp Bangladesh, Miến Điện,
Maldives, Pakistan và Sri Lanka, về cơ bản là bóp nghẹt Ấn Độ trong vòng cung
biến động. Các chuyên gia quân sự nước ngoài đã đặt tên cho kế hoạch này là
chiến lược “chuỗi ngọc trai”. Trung Quốc đã xây dựng Cảng Gwadar ở
Baluchistan, Pakistan, cảng này nối với Kashgar ở khu vực Tân Cương xa xôi về
phía tây của Trung Quốc thông qua Hành lang Kinh tế Trung Quốc-Pakistan
(China-Pakistan Economic Corridor – CPEC) trị giá trên 1 triệu tỷ đồng (46 tỷ
đô la Mỹ) mà cả hai đối tác đều ca ngợi là “tượng đài lớn của tình hữu nghị
Pakistan-Trung Quốc”.
Xe tăng, tàu hộ tống và máy bay chiến đấu do Trung Quốc chế tạo cũng
trang bị cho quân đội Bangladesh, và binh lính của nước này thường xuyên được
đào tạo tại Trung Quốc. Hai nước đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, và
19
Bangladesh chính thức gia nhập OBOR trong chuyến thăm đến Dhaka của Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình vào năm 2016. Kể từ đó, chín
dự án trị giá khoảng 163 nghìn tỷ đồng (7,1 tỷ đô la Mỹ) đã được tiến hành.
Những dự án này nằm trong 27 dự án cơ sở hạ tầng thuộc OBOR do Trung
Quốc tài trợ ở Bangladesh. Bắc Kinh cũng tuyên bố chính sách không đánh thuế
đối với 97% hàng hóa nhập khẩu từ Bangladesh. Trung Quốc đã hứa hỗ trợ tài
chính khoảng 689 nghìn tỷ đồng (30 tỷ đô la Mỹ) cho Bangladesh, làm lu mờ
các khoản đóng góp viện trợ phát triển của Ấn Độ là khoảng 230 nghìn tỷ đồng
(10 tỷ đô la Mỹ).
Bangladesh cũng đã chốt một thỏa thuận trị giá 23 nghìn tỷ đồng (1 tỷ đô
la Mỹ) với Trung Quốc về quản lý nước sau khi không đạt được thỏa thuận về
việc dùng chung nước của Teesta với Ấn Độ. Đây là con sông dài thứ tư của
nước này, bắt nguồn từ Ấn Độ. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của
Bangladesh, với hoạt động thương mại giữa hai nước trị giá 413 nghìn tỷ đồng
(18 tỷ đô la Mỹ). Tổng lượng hàng hóa mua bán của Ấn Độ với Bangladesh có
giá trị dao động khoảng 218 nghìn tỷ đồng (9,5 tỷ đô la Mỹ).
Mặc dù vào năm 2014, một thỏa thuận để Trung Quốc xây dựng một cảng
ở Sonadia, Bangladesh bị thất bại, nhưng Trung Quốc đã tìm được một địa điểm
thay thế ở Miến Điện để tăng cường sự hiện diện của mình tại Vịnh Bengal trên
bờ biển phía đông của Ấn Độ. Trong chuyến thăm Miến Điện vào tháng
1 năm 2020, ông Tập đã hoàn tất một thỏa thuận cho Dự án Cảng Nước sâu của
Đặc khu kinh tế Kyaukpyu, với chi phí khoảng 30 nghìn tỷ đồng (1,3 tỷ đô la
Mỹ) trong giai đoạn đầu tiên.
Cảng này nằm ở bang Rakhine thuộc phía tây, cạnh Bangladesh về phía
bắc, sẽ tiếp giáp với Vịnh Bengal. Bên kia vịnh, Ấn Độ đang phát triển một căn
cứ tàu ngầm hạt nhân có tên là Dự án Varsha gần Bộ Tư lệnh Hải quân phía
Đông tại Visakhapatnam. Kyaukpyu có thể kiêm cả vai trò là một cơ sở quân sự
nếu phát sinh xung đột. Chi phí ban đầu của dự án là 161 nghìn tỷ đồng (7 tỷ đô
la Mỹ) đã bị cắt giảm do Miến Điện lo sợ về một cái bẫy nợ. Các dự án cơ sở hạ
tầng quan trọng khác do Trung Quốc viện trợ đang được tiến hành là Thành phố
Yangon Mới và Khu Hợp tác Kinh tế Biên giới Trung Quốc-Miến Điện. Trung
Quốc bị nghi ngờ đang duy trì một đơn vị tình báo hải quân tại một căn cứ ở
quần đảo Coco, gần vùng lãnh thổ đảo Andaman và Nicobar xa xôi của Ấn Độ.
Vào năm 2017, khi Sri Lanka gặp khó khăn trong việc trả các khoản nợ theo
thỏa thuận trị giá hơn 25 nghìn tỷ đồng (1,1 tỷ đô la Mỹ) với Trung Quốc để
phát triển cảng biển phía nam Hambantota, Bắc Kinh đã giành quyền kiểm soát
20
cảng chiến lược này thông qua hợp đồng thuê 99 năm. Trung Quốc được sử
dụng cảng này, và trong tương lai là cả Gwadar nữa, làm căn cứ Hải quân PLA
để củng cố sức mạnh của mình ở vùng ven biển.
Trung Quốc đã thâm nhập vào Bhutan trong những năm gần đây, đỉnh
điểm là việc PLA xâm nhập vào vương quốc Phật giáo không giáp biển này vào
tháng 11 năm 2020 để xây dựng những gì các hình ảnh vệ tinh cho thấy là một
khu dân cư dài và hẹp dọc theo cao nguyên Doklam. Cao nguyên này, nằm ở
khu vực biên giới ngã ba đang có tranh chấp mà hai nước này có chung với Ấn
Độ, là địa điểm của một cuộc đối đầu căng thẳng dài 73 ngày giữa Trung Quốc
và Ấn Độ vào năm 2017. Các hình ảnh tiếp theo cho thấy những kho đạn dược
đã được xây dựng dọc theo khu định cư mới.
Trước cuộc xâm nhập này, Trung Quốc đã công bố một “giải pháp trọn
gói” cho tranh chấp ranh giới với Bhutan. Giải pháp này trở lại đề xuất năm
1996 về việc Trung Quốc nhượng cho Bhutan các khu vực tranh chấp về phía
bắc để đổi lấy các khu vực tranh chấp về phía tây, bao gồm Doklam và ranh giới
phía đông của Bhutan, bao quanh khu bảo tồn rừng Sakteng. Bhutan là đồng
minh đáng tin cậy nhất của Ấn Độ trong khu vực, nhưng Hiệp ước Hữu nghị Ấn
Độ-Bhutan năm 1949 và 2007 không có điều khoản quốc phòng rõ ràng.
Doklam đóng vai trò then chốt đối với vị thế bá chủ của Trung Quốc
trong khu vực, cũng như Thung lũng Chumbi của Tây Tạng, phía bắc Doklam
và Hành lang Siliguri của Ấn Độ, về phía nam, cả hai đều là nút thắt chiến lược
ở vùng núi. Với một bước tiến táo bạo, Trung Quốc có thể cắt đứt hành lang dài
60 kilomet này, còn được gọi là “Cổ Gà”, một tuyến đường rộng 22 kilomet nối
liền phần đất liền của Ấn Độ với tám bang ở vùng đông bắc xa xôi nằm giáp với
Bangladesh, Bhutan, Miến Điện và Khu tự trị Tây Tạng của Trung Quốc.
2.3. Nhận định rút ra từ chiến lược an ninh quốc phòng của Trung
Quốc trong tranh chấp biên giới với Ấn Độ
Thứ nhất, các cường quốc thế giới cạnh tranh quyết liệt nhằm nâng cao vị
thế, gia tăng sự ảnh hưởng, hoạt động can dự, chi phối, tác động, buộc các nước
vừa và nhỏ phải lệ thuộc vào chính sách, chiến lược của mình. Chiến lược an
ninh quốc phòng của Trung Quốc trong tranh chấp biên giới với Ấn Độ cũng
dẫn đến nhiều bất lợi, tác động tiêu cực đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam.
Nếu chúng ta không kiểm soát tốt, sẽ dẫn đến nguy cơ mất tự chủ, phụ thuộc,
thậm chí chệch hướng quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta cần chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình
hình, dự báo chính xác chiến lược của các cường quốc, các đối tác chiến lược,
21
làm cơ sở tham mưu, hoạch định chủ trương, chiến lược, đối sách, giải pháp,
khâu đột phá phù hợp, khoa học, không để bị động, bất ngờ; giảm thiểu, ngăn
chặn tác động tiêu cực; kiên quyết không để lệ thuộc vào nước ngoài; kết hợp
chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong tranh chấp
biên giới với Ấn Độ không chỉ chi phối, lôi kéo các nước trong khu vực, gây
mâu thuẫn, chia rẽ các nước trong khối ASEAN, mà còn tác động đến quốc
phòng, an ninh khu vực và Việt Nam. Vì vậy, các nước trong khối ASEAN cần
tỉnh táo, cảnh giác trước chính sách, chiến lược của các cường quốc trong khu
vực và thế giới, đặc biệt là mưu đồ của họ ở Biển Đông; từ đó, có chính sách,
chiến lược hợp lý, giữ vững quan điểm, lâ ̣p trường trên cơ sở Hiến chương
ASEAN, luâ ̣t pháp quốc tế; kiên trì giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện
pháp hòa bình. Đặc biệt là, tăng cường đoàn kết nội khối, tập trung xây dựng
ASEAN vững mạnh, phát huy vai trò, trách nhiệm với cộng đồng, có chứng
kiến, đấu tranh với những hành động coi thường, bỏ qua luật lệ quốc tế, tranh
chấp, vi phạm chủ quyền lãnh thổ trên bộ, trên không, trên biển, đảo của một số
cường quốc. Tuyệt đối không để các cường quốc khu vực, thế giới lợi dụng chi
phối, dẫn đến lệ thuộc về chính trị, kinh tế, đối ngoại, làm phương hại đến lợi
ích, an ninh của mỗi quốc gia và khu vực ASEAN. Đồng thời, nắm chắc tình
hình mọi mặt, có chính sách thích hợp trong giải quyết các vấn đề liên quan đến
quốc phòng, an ninh; tích cực đóng góp vào sự đoàn kết, chống chủ nghĩa cường
quyền, áp đặt của một số cường quốc đối với khu vực, xây dựng cộng đồng
ASEAN “hòa bình, ổn định, độc lập và tự chủ”.
Thứ ba, cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung
tâm. Các cường quốc vừa hợp tác, thỏa hiệp để bảo vệ lợi ích, vị thế, ảnh hưởng
của mình, vừa kiềm chế, ngăn chặn ảnh hưởng của “đối thủ” chiến lược trong
khu vực và thế giới. Cho dù vậy, các cường quốc vẫn phải tuân thủ luật pháp,
công ước quốc tế đã ký kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền, lợi ích, thể chế
chính trị của các nước; bởi, đây là mục tiêu, lợi ích, trách nhiệm, nguyện vọng
chung của các nước và cộng đồng quốc tế, nhằm giảm thiểu thách thức, bảo đảm
an ninh trong khu vực, thế giới. Điều đó, thuận lợi cho ta đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển, đảo theo đúng luật pháp, công ước quốc tế. Để thực hiện có hiệu
quả, phải chủ động nắm, dự báo chính xác tình hình, dự kiến phương án, đối
sách thích hợp; tránh đối đầu, bị cô lập, bị “kẹt” trước mưu đồ, toan tính chiến
lược hay thỏa hiệp của các cường quốc; làm hạn chế yếu tố bất lợi và khai thác

22
yếu tố có lợi, giải quyết tốt các vấn đề “đối tác, đối tượng”. Chủ động ngăn ngừa
nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời
những yếu tố bất lợi, nhất là nguy cơ gây đột biến; đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Kiên quyết, kiên trì bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.

23
KẾT LUẬN
Chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc đã nâng cao vị thế Trung
Quốc, gia tăng sự ảnh hưởng, hoạt động can dự, chi phối, tác động, buộc các
nước vừa và nhỏ phải lệ thuộc vào chính sách, chiến lược của mình. Cải cách hệ
thống an ninh - quốc phòng của Trung Quốc sẽ thúc đẩy hợp tác sâu rộng, mang
lại môi trường, điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trên nhiều lĩnh vực: phát triển
kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh và là cơ hội để khẳng định vị thế trên
trường quốc tế. Tuy nhiên, chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc
trong tranh chấp biên giới với Ấn Độ cũng dẫn đến nhiều bất lợi, tác động tiêu
cực đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam. Nếu chúng ta không kiểm soát tốt,
sẽ dẫn đến nguy cơ mất tự chủ, phụ thuộc, thậm chí chệch hướng quá trình hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta
cần chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình, dự báo chính xác chiến lược của
các cường quốc, các đối tác chiến lược, làm cơ sở tham mưu, hoạch định chủ
trương, chiến lược, đối sách, giải pháp, khâu đột phá phù hợp, khoa học, không
để bị động, bất ngờ; giảm thiểu, ngăn chặn tác động tiêu cực; kiên quyết không
để lệ thuộc vào nước ngoài; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường quốc phòng, an ninh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Tiến hành chiến lược an ninh quốc phòng của Trung Quốc trong tranh
chấp biên giới với Ấn Độ, Trung Quốc muốn hướng đến mục tiêu: Lợi ích quốc
gia và tình hình quốc tế liên tục thay đổi, bởi vậy nhiệm vụ an ninh - quốc phòng
cũng cần phải thay đổi. Quân đội cùng các thể chế khác phải được điều chỉnh để
theo kịp tốc độ “trỗi dậy” của Trung Quốc. Chiến lược an ninh quốc phòng của
Trung Quốc trong tranh chấp biên giới với Ấn Độ phải bảo vệ chủ quyền trên
biển và trên đất liền,… tất cả đều vì lợi ích Trung Quốc.

24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh (2015), Vai trò ngày càng tăng của Trung Quốc tại khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 15/2015.
2. Nguyễn Anh Dũng (2018), Về chiến lược quân sự mới của Trung Quốc
- Tác động và ảnh hưởng tới an ninh khu vực, Nxb Sự thật, Hà Nội.
3. Trần Văn Khoa (2018), Trung Quốc với “Giấc mộng Trung Hoa”, Tạp
chí Cộng sản, số (12) 9/2018.
4. Nguyễn Văn Lam (2016), An ninh và hợp tác trong khu vực Châu Á
Thái Bình Dương, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 33/2016.
5. Nguyễn Văn Thế (2013), Quan hệ đối ngoại Việt Nam đầu thế ki XXI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25

You might also like