Tài Liệu Không Có Tiêu Đề

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

Phân tích hình tượng sông Đà trữ tình

Bài làm
“Chúng thủy giai đông tẩu / Đà giang độc bắc lưu” (Nguyễn Quang
Bích). Hai câu thơ chữ Hán đã đề cập tới một nét độc đáo của sông Đà khi
mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, chỉ có sông Đà một mình chảy
theo hướng Bắc - đó cũng là đặc điểm khơi gợi hứng thú khám phá và
chiêm ngưỡng của một nhà văn suốt đời kiếm tìm cái đẹp và sự độc đáo.
Nhưng khi mượn câu thơ xưa làm lời đề từ, có lẽ tác giả Người lái đò sông
Đà không chỉ muốn nhắc đến sự ngược ngạo của dòng sông mà còn nhằm
khẳng định cá tính độc đáo của mình trong dòng sông văn chương, đó là
văn phong đầy sáng tạo của một nhà văn có ý thức sâu sắc về cái tôi cá
nhân, về bản ngã, về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm
đầy ắp những tư liệu địa lí, lịch sử khắc họa hình ảnh con sông Đà mang
vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng.
https://www.facebook.com/le.khanhu.560
https://www.facebook.com/SOMNUSRothschild

Nguyễn Tuân là tác giả lớn của văn học hiện đại Việt Nam với những
thành tựu xuất sắc ở cả hai giai đoạn trước và sau năm 1945, Sáng tác
của Nguyễn Tuân mang phong cách riêng độc đáo trước và sau năm 1945.
Sáng tác của Nguyễn Tuân mang phong cách riêng độc đáo trong đó nổi
bật chất tài hoa uyên bác. Là một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn
Tuân thường khám phá thế giới ở phương diện văn hóa thẩm mĩ, thường
miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Người lái đò sông Đà là
bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập Sông Đà năm
1960. Sông Đà là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn
Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 - 1960,
chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khao khát xê dịch mà chủ yếu để
tìm kiếm chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây
Bắc. Tác phẩm đã thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ
thuật Nguyễn Tuân.

Cảm hứng lãng mạn luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ
bởi sự tương phản. Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, sự tương phản
hiện hữu ngay trong đối tượng miêu tả bởi làm nên dòng sông Đà thực sự,
ngoài chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị trữ tình đằm
thắm, vẫn là dòng sông ấy, nhưng sau khi dòng sông vặn mình vào một cái
bến cát, khi chút bọt nước cuối cùng của sóng gió thượng nguồn “xèo xèo
tan trên cát”, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân đã bất ngờ dẫn người đọc
đến một sông Đà êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích.
Miêu tả vẻ đẹp trữ tình của dòng sông, nhà văn thay đổi cách viết, ông
không tả hay kể lại theo lời kể của ông đò nữa mà viết theo những cảm
xúc tức thời của một du khách, mỗi đoạn văn khi thì bay tạt ngang qua
sông Đà, khi thì theo chân anh liên lạc, khi thì ngồi con thuyền êm trôi…là
một lần nhà văn phát hiện một vẻ đẹp của con sông.

Nhà văn đã thấy dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của
người thiếu nữ diễm kiều. Vóc dáng mềm mại của dòng sông Đà được nhà
văn vẽ nên bằng ngôn ngữ văn xuôi giàu cả chất thơ, chất nhạc và chất
họa: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Chính nhịp câu, lời văn và
nghĩa chữ đã góp phần gợi tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông.
Từ đỉnh trời Tây Bắc, áng tóc mun huyền thoại “dài ngàn ngàn, vạn vạn
sải” ấy nối liền những khoảng không gian mênh mông của đất nước…Câu
văn rất dài chỉ có một dấu ngắt duy nhất kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài,
tuôn dài…” vừa gợi tả sinh động độ dài của dòng sông, vừa đem đến cảm
giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn tuôn chảy
từ những dãy núi hùng vĩ của vùng biên giới Tây Bắc, miên man chảy
xuống đồng bằng, lặng lẽ hòa vào sông Hồng rồi tha thiết đổ ra biển.
Người con gái ấy có mái tóc “tuôn dài tuôn dài” tưởng chừng như bất tận.
Trên suối tóc ấy, thiếu nữ còn biết kín đáo cài lên những bông hoa ban,
hoa gạo làm duyên. Rõ ràng, sông Đà là một sơn nữ, một mĩ nhân duyên
dáng và gợi cảm. Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng
thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông khúc hạ nguồn. Từ “áng”
gợi mở sự lãng mạn, thơ mộng, gợi cảm xúc thẩm mỹ, đầy chất thơ. Khi so
sánh dòng sông như một “áng tóc trữ tình”, nhà văn đã đem đến cho sông
Đà nét mềm mại, đằm thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ tính, nhưng lại không
làm mất đi vẻ đẹp hùng vĩ, lớn lao của dòng sông. Với tiết tấu câu văn
chậm rãi, thủ pháp trùng điệp, dường như Nguyễn Tuân đang đua tài cùng
tạo hóa để miêu tả cho được vẻ đẹp êm đềm, dịu dàng của Đà giang khúc
hạ nguồn. Trong câu văn miêu tả rất tài hoa của Nguyễn Tuân, có thể thấy
sông Đà đã nhận thêm vào dòng chảy của mình nét thơ mộng, huyền ảo
của “mây trời”, sự tươi tắn rực rỡ của “hoa ban hoa gạo tháng hai”, và đặc
biệt là cái ấm áp thật gần gũi thân yêu của “làn khói núi Mèo đốt nương
xuân”. Hệ thống hình ảnh mang đậm dấu ấn xứ sở Tây Bắc, vừa lãng mạn
vừa huyền ảo, mở ra những chiều cảm nhận mới về sông Đà. Cách miêu
tả của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim
nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của “đất nước Tổ quốc bao la”, sau nữa
vì nó gắn bó gần gũi thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của
những vẻ đẹp “vang bóng một thời” nay đã có sự thay đổi cơ bản trong
quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn lạc lõng, xa xôi, cái đẹp
hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc
sống đời thường của những người lao động bình thường.

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn hiện ra qua những màu sắc đầy biến ảo
khi vì niềm yêu và sự say mê, Nguyễn Tuân đã quan sát dòng sông một
cách công phu và tinh tế trong những thời điểm khác nhau, với những sắc
thái khác nhau. Phát hiện những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng
sông, nhà văn quả quyết màu nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa
có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân, nước sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”
trong sáng, quí giá và êm nhẹ. Việc so sánh màu “xanh ngọc bích” của
sông Đà với “màu xanh canh hến” của sông Gâm, sông Lô không chỉ là
biểu hiện khá quen thuộc của một nhà văn thị tài, thích khoa tài hoa, khoe
uyên bác mà còn là sự thiên vị của một niềm yêu ! Đó còn là con sông Đà
“lừ lừ chín đỏ” vào mùa thu - những từ ngữ tượng hình đã gợi tả dòng
chảy nặng nề, điềm đạm và chậm rãi của con sông đầy nặng phù sa
thượng nguồn. Giữa khung cảnh ngày xuân thơ mộng của thiên nhiên Tây
Bắc, Sông Đà hiện lên như một mĩ nhân tràn đầy xuân sắc, một thiếu nữ
đương độ xuân thì. Hình ảnh so sánh “nước sông Đà mùa thu như da mặt
một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất
mãn bực bội gì mỗi độ thu về” đã không chỉ làm hiện lên màu sắc rất đặc
trưng của nước sông Đà trong mùa thu mà còn thể hiện sức mạnh tiềm
tàng ẩn chứa những đe dọa của một dòng sông vẫn “năm năm báo oán,
đời đời đánh ghen” với con người. Và đặc biệt, chưa bao giờ con sông lại
có màu “đen” như thực dân Pháp đã “đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây
vào” và gọi bằng một cái tên lếu láo - Sông Đen. Bằng sự khẳng định này,
Nguyễn Tuân không chỉ tôn vinh vẻ đẹp của dòng sông mà còn trực tiếp
bày tỏ tình cảm yêu mến đối với sông Đà, niềm tự hào về vẻ đẹp của con
sông xứ sở. Vậy là, ngay khi dừng lại miêu tả nét thơ mộng, trữ tình của
dòng sông, hình ảnh của một sông Đà hung bạo hình như vẫn ám ảnh đâu
đây trong sự quan sát và cảm nhận của nhà văn luôn say mê những cảm
giác mạnh.

Trong niềm yêu nhớ của Nguyễn Tuân, sông Đà gợi cảm như một “cố
nhân”. Để thể hiện sự gợi cảm của một dòng sông gần thương xa nhớ,
nhà văn đã tạo ra một tình huống đặc biệt cho nỗi nhớ, niềm yêu, cho
những bồn chồn, khát khao, vồ vập…Đó là tình huống đi rừng lâu ngày,
bắt đầu thèm chỗ thoáng, thèm một không gian phóng khoáng mênh mông,
và nhất là thèm được gặp lại sông Đà - “cố nhân” ! Hai chữ “cố nhân” vừa
là hình ảnh nhân hóa dòng sông như một người bạn cũ, vừa đưa đến cho
dòng sông chút vương vấn cổ kính, xưa cũ của Đường thi. Nhìn dòng sông
thấy “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương mặt mình rồi bỏ chạy” là
cái nhìn của người chưa ra đến cửa rừng, mới chỉ thấy từng miếng sáng
của dòng sông lấp lóa nắng thấp thoáng ẩn hiện giữa những vạt cây mà đã
háo hức, bồn chồn, đã vội vàng, khao khát. Khi liên tưởng mặt sông giống
như “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, Nguyễn
Tuân đã đem đến cho sông Đà vẻ lãng mạn huyền ảo của hoa khói, sự
trong sáng rực rỡ của sắc xuân, cái bâng khuâng vời vợi nhớ nhung trong
câu thơ được coi là “thiên cổ lệ cú” của Lí Bạch: “Yên hoa tam nguyệt há
Dương Châu”. Liên tưởng của nhà văn làm xao xuyến những tâm hồn luôn
yêu nhớ phong vị Đường thi cổ điển, để rồi nỗi xao xuyến ấy mơ hồ lan tỏa
trên dòng sông gợi cảm, khiến sông Đà không chỉ chảy trong không gian
mà như còn trôi chảy trong dòng thời gian miên viễn, xa xăm của thế giới
Đường thi. Nguyễn Tuân cảm nhận rõ nét cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân
quen của con sông Đà và nhất là cái chất thơ như ngấm vào trong từng
cảnh sắc thiên nhiên sông Đà. Đó là cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa
tam nguyệt há Dương Châu chứa chan sự bùi ngùi tiếc nhớ. Đó là cái vui
tràn đến, ùa ra thành nhịp điệu: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn
bươm bướm trên sông Đà” cho thấy tấm lòng trìu mến hoan hỉ của nhà
văn đối với tạo vật. Hai chữ “sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập
như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không
gian phóng khoáng của bên bãi Đà giang tạo ra cảm giác như nhà văn
đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông để rồi say đắm
òa vào những khoảng không gian phóng khoáng của bên bãi Đà giang tạo
cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà
mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian ấy, thậm chí không
kịp bình tĩnh để quan sát bằng lí trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể,
tất cả đều bị cuốn đi theo những xúc cảm dồn dập, gấp gáp, cuốn đi theo
những khao khát, say mê…Cảm xúc gặp lại sông Đà cũng được cụ thể
hóa trong những so sánh bất ngờ, thú vị: “Chao ôi, trông con sông, vui như
thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Có thể thấy hình ảnh sông Đà gợi cảm vô cùng trong tâm hồn nhà văn qua
so sánh “trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”. Và
cuối cùng, trong hình ảnh so sánh về cảm giác gặp lại sông Đà, “nó đằm
đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”, sông Đà đã thực sự trở thành người bạn
cũ, người tri âm với bao kỉ niệm gắn bó trong quá khứ, bao nhớ thương
trong hiện tại, bao hẹn hò chung thủy trong tương lai, với sự gợi cảm của
mình, sông Đà đã thực sự trở thành một cố nhân, một tình nhân, dẫu trái
tính mà vẫn có sức hấp dẫn, mê hoặc lòng người đến kì lạ. Nếu cái nắng
tháng ba Đường thi chứng kiến cuộc chia li giữa đôi bạn Lí Bạch và Mạnh
Hạo Nhiên thì cái nắng ở đây dường như tươi sáng hơn, “đằm đằm ấm
ấm” hơn vì nó can dự vào cuộc hội ngộ giữa cố nhân và cố nhân.

Và có lẽ nét trữ tình thi vị nhất của sông Đà chính là ở sắc thái “lặng tờ
hoang dại” của nó. Mở đầu đoạn là một câu văn êm ru trong những thanh
bằng: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Câu văn đã đưa con thuyền, nhà văn
và cả người đọc vào một cõi mơ êm đềm, yên ả, một cõi hoang sơ vắng
lặng như chưa từng có dấu vết của con người. Tính từ “lặng lờ” lặp lại tới
hai lần cùng câu văn mang ý nghĩa khẳng định: “Hình như từ đời Lí đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi khiến cho sự
êm đềm, tĩnh lặng của dòng sông dày thêm không chỉ vì cái yên ả trong
không gian mà như còn vì cái thăm thẳm xa xăm của thời gian. Tính chất
ước lệ của cụm từ “đời Lí đời Trần đời Lê” đưa đến cảm giác cuộc sống
như ngưng lại nơi đây, để bờ bãi sông Đà cũng ngưng lại trong một không
gian nguyên sơ, thuần khiết, an lành. Cái lặng tờ trầm tư đột ngột của con
sông vốn đã ồn ào, mạnh mẽ gợi lên không khí thiêng liêng trang trọng cổ
kính. Đó là dòng sông cổ thi “trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ” mà ta đã
từng bắt gặp trong trang thơ của Huy Cận, sông Đà con sông lịch sử đã
từng chứng kiến một chặng đường oanh liệt, hào hùng của dân tộc ta trong
những cuộc chiến tranh vệ quốc, câu văn không tả mà nó có sức gợi mênh
mông của thi ca. Bờ sông tiếp tục được miêu tả trong những hình ảnh so
sánh độc đáo: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên
như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cách so sánh của Nguyễn Tuân đã
không hề làm rõ, làm hiện hữu hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ
thể hóa những khái niệm trừu tượng mà thậm chí chỉ càng đẩy dòng sông
trôi xa thêm vào miền mộng ảo, phiêu diêu trong cõi hồng hoang xa xôi,
trong thế giới cổ tích huyền hoặc của tuổi thơ. Và chính trong thế giới ấy
mà người đọc cảm nhận rõ hơn sự “lặng tờ, hoang dại” của một dòng sông
trong trẻo, êm đềm. Nghệ thuật điệp cấu trúc đã kết dính hai câu thành một
bè thơ gợi cảm, bồng bềnh, vấn vương cảm xúc hoài cổ mà ta đã bắt gặp
ở người nghệ sĩ một thời vang bóng này. Những câu văn của Nguyễn
Tuân như những giai điệu êm ái, trữ tình, vừa làm sống dậy những vẻ đẹp
của đời sống hiện đại vừa đưa người đọc trôi về những miền kí ức xa xăm
của “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã tìm về vẻ
đẹp xưa trong cái ngày hôm nay - tình yêu quê hương xứ sở.

Nguyễn Tuân so sánh không phải để cụ thể hóa sự vật mà để trừu tượng
hóa, thơ mộng hóa. Lời văn chứng tỏ sự tài hoa của cây bút bậc thầy về
ngôn ngữ, ông đã dùng tưởng tượng để tạo nên liên tưởng nhằm gieo vào
lòng người đọc bao cảm xúc để được cùng nhà văn tận hưởng cái vẻ đẹp
hoang dại và hồn nhiên của bờ bãi sông Đà. Say đắm trong cái tĩnh mịch
của dòng sông nhưng nhà văn vẫn “thèm được giật mình vì một tiếng còi
xúp-lê của chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai
Châu”. Có lẽ đây là cách làm duyên của Nguyễn Tuân cách nói vừa tô đậm
ấn tượng về một không gian lặng lẽ, mơ màng đến độ phải “thèm giật
mình” để rũ mình khỏi giấc mộng xưa. Qua đó, Nguyễn Tuân còn gửi gắm
cái khao khát sự đổi mới của đất Tây Bắc hoang sơ trong không khí xây
dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ở miền Bắc trong những năm 1960.

Đặc biệt nhất là hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhưng khỏi án
cỏ sương…như tiếng bạc rơi thoi”. Những định ngữ “thơ ngộ, đầu nhung,
cỏ sương…” giống như một chiếc đũa thần kì diệu chạm tới đâu thì ở đó
sự vật như cựa quậy, sống động có hồn. Cái hoang dại không mất đi mà
trái lại đem đến cho người đọc một vẻ đẹp tươi tắn, tinh khiết văng vẳng
trong không gian tĩnh lặng của đôi bờ sông đà là một tiếng “còi sương”
ngân xa như mở ra một chân trời thơ bát ngát. Hình ảnh này đã làm tăng
thêm ảo giác như nhà văn bước lạc vào một cõi trong trẻo, an lành, thuần
hậu, và không có thực của thế giới cổ tích, ảo giác mãnh liệt đến mức nhà
văn bỗng thèm được giật mình “vì một tiếng còi xúp lê của chuyến xe lửa”,
niềm khao khát này không chỉ là ước mơ hiện đại hóa miền Tây Bắc mà
còn là cách để âm thanh của cuộc sống hiện tại giúp nhà văn nhận ra mình
vẫn đang ở thế giới thực của hiện tại, vẫn là con người trong nền văn minh
hiện đại. Không một sự miêu tả trực tiếp nào lại khiến sự “lặng lờ, hoang
dại” của dòng sông hiện lên rõ nét đến thế như trong lời ao ước của
Nguyễn Tuân khi đứng bên một dòng sông quá đỗi êm đềm. Cuộc đối thoại
giữa ông khách sông Đà và con vật “lành” đích thực là một bài thơ trữ tình,
nó chập chờn chơi vơi. Hươu hỏi người hay người tự hỏi một giả định vừa
thực vừa ảo. Chỉ cần một nét vẽ của Nguyễn Tuân về đàn hươu núi đã gợi
trước mắt người đọc cái vẻ đẹp hoang dã hồn nhiên của con sông. Hình
ảnh “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”
như mang sức nặng của một tâm hồn đang hòa vào cùng cảnh vật. Một
câu văn có cả màu sắc, đường nét và đặc biệt cách miêu tả của nhà văn
cũng vô cùng độc đáo. Biện pháp nghệ thuật so sánh cùng với nghệ thuật
lấy động tả tĩnh gợi lên không gian tĩnh mịch đến độ người ta có thể nghe
thấy cả tiếng cá quẫy đuôi làm đàn hươu phải giật mình và ông khách sông
Đà cũng chợt tỉnh mộng để quay về thực tại.

Thuyền tôi trôi trên “dải sông Đà bọt trắng lênh đênh…”. Đến đây tác giả
đã phát hiện ra sông Đà với vẻ đẹp tình tứ lãng mạn, vẻ đẹp đậm đà bản
sắc văn hóa bởi nó được gắn với câu thơ rất mực tài hoa của thi sĩ Tản Đà
“Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”. Ở đây
ta lại bắt gặp một giọng văn quen thuộc của nhà văn họ Nguyễn ông luôn
nhìn sự vật dưới phương diện văn hóa, lịch sử, thẩm mĩ. Càng về xuôi
sông Đà càng rộng thêm ra bởi vậy nhìn dòng nước lững lờ trôi mà ta như
cảm thấy nó “nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng
nguồn Tây Bắc” và “con sông như đang lắng nghe giọng nói êm êm của
người về xuôi”. Bằng tấm lòng với vẻ đẹp quê hương đất nước, nghệ thuật
văn xuôi điêu luyện của Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc những
khoái cảm được ngắm nhìn vẻ đẹp về con sông Đà nghệ sĩ lãng mạn trữ
tình.

Trong đoạn văn miêu tả dòng sông trữ tình, cái tôi trữ tình của nhà văn
đã trực tiếp xuất hiện qua lời kể hào hứng: “tôi đã nhìn say sưa làn mây
mùa xuân…tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu…”, trong những lời cảm
thán nồng nàn: “Chao ôi, trông con sông vui như…”, “chao ôi, thấy thèm
được giật mình…”. Vậy là, bên cạnh một Nguyễn Tuân sắc sảo, tài hoa và
uyên bác còn có một Nguyễn Tuân đam mê, dạt dào cảm xúc, khi xao
xuyến nỗi nhớ nhung như một “tình nhân”, như một “cố nhân”...khi bồng
bột như trẻ nhỏ trước mênh mông phóng khoáng của bờ sông Đà, bãi
sông Đà, khi lại say đắm muốn tan hòa vào thế giới êm đềm bát ngát của
dòng sông; và nhất là luôn lai láng niềm mong ước của một thi nhân muốn
được “để thơ vào sông nước”.

Với con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc đến một
không gian thơ mộng, huyền ảo. Nhà văn sử dụng nhiều câu văn giàu sức
gợi tả, nhẹ nhàng sâu lắng đi vào lòng người đúng như phong cách của
ông: “Nguyễn Tuân là định nghĩa đích thực của một nghệ sĩ tài hoa”. Bằng
nhiều góc độ, nhiều điểm nhìn khác nhau tác giả đã khám phá trọn vẹn
những nét vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng trữ tình của phong cảnh
sông Đà, qua đó ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc, gắn bó máu thịt với
thiên nhiên Tây Bắc, tình yêu mãnh liệt, niềm tự hào về vẻ đẹp của non
sông đất nước. Có thể khẳng định Nguyễn Tuân đã rất công phu khi tìm
hiểu và miêu tả những vẻ đẹp đa dạng của Đà giang. Trên cả hai khía
cạnh hung bạo và trữ tình của sông Đà, ta đều thấy người nghệ sĩ Nguyễn
Tuân đã dồn nhiều tâm sức và tài năng của mình để khắc họa những đặc
tính, những vẻ đẹp của con sông đã “ăn đời ở kiếp với người dân Tây
Bắc”. Với Nguyễn Tuân, thiên nhiên không thuần túy là thiên nhiên, thiên
nhiên cũng là một sản phẩm nghệ thuật vô giá của tạo hóa. Cần phải trân
trọng và làm phát lộ các vẻ đẹp của nó. Qua hình tượng sông Đà, nhà văn
muốn kín đáo thể hiện tình cảm yêu mến tha thiết và mê say đối với thiên
nhiên đất nước. Những đoạn văn miêu tả con sông Đà mang đậm phong
cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: ngôn ngữ phong phú, kiến
thức uyên bác, cảm hứng trước những cảnh tượng gây cảm giác mãnh liệt
và sự vật được phát hiện, miêu tả ở phương diện cái đẹp. Ông đã thể hiện
rõ nét phong cách nghệ thuật của mình trong những trang viết tài hoa,
uyên bác khi miêu tả dòng sông, trong cách tô đậm những sắc thái phi
thường, tuyệt mĩ trong việc soi chiếu dòng sông từ góc độ văn hóa, thẩm
mĩ. Và nhất là trong cách khắc họa dòng sông Đà như một công trình mĩ
thuật kì vĩ tuyệt vời của tạo hóa, để từ đó người đọc nhận ra tình yêu say
đắm của nhà văn với quê hương, đất nước.

Ngòi bút tài hoa và biến hóa của Nguyễn Tuân đã thổi linh hồn cho sông
Đà, để vật thể vô tri vô giác hiện lên như một con người có những tính
cách đối nghịch mà thống nhất: vừa dữ dội, hung bạo, hùng vĩ vừa dịu
dàng, nên thơ, trữ tình. Sông Đà không chỉ là dòng chảy địa lí mà đã trở
thành một tri âm tri kỉ của con người, một phần quê hương máu thịt không
thể cắt rời. Tác phẩm là sự khám phá độc đáo của Nguyễn Tuân về dòng
sông huyền thoại, là tình yêu của nhà văn với Tây Bắc nói riêng, với non
sông gấm vóc nói chung. Nếu không phải là một nghệ sĩ tài hoa, một trái
tim yêu mến mãnh liệt non sông, Tổ quốc làm sao nhà văn tái hiện được
một vùng đất giang sơn gấm vóc tuyệt vời như thế.

You might also like