Bai Giang Lich Su Dang

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 241

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BÀI GIẢNG
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
(SỬ DỤNG TRONG CÁC TRƯÒNG ĐẠI HỌC- HỆ KHÔNG CHUYÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ)

ThS. LÊ HỒNG QUANG

LƯU HÀNH NỘI BỘ- 2021


Chưong nhập môn
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ,
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu, HỌC TẬP
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. Đối tưọng nghiên cứu của môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Đối tượng nghiên cứu của khoa học Lịch sử Đảng là sự ra đời, phát triển và hoạt
động lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ lịch sử.
1. Trước hết là các sự kiện lịch sử Đảng, cần phân biệt rõ sự kiện lịch sử Đảng gắn
trực tiếp với sự lãnh dạo của Đảng. Phân biệt sự kiện lịch sử Đảng với sự kiện lịch sử dân
tộc và lịch sử quân sự trong cùng thời kỳ, thời điểm lịch sử. Môn học lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam nghiên cứu sâu sắc, có hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng, hiểu rõ nội dung, tính
chất, bản chất của các sự kiện đó gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Các sự kiện thể hiện
quá trình Đảng ra đời, phát triển và lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, kháng chiến
cứu quốc và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trên các lĩnh
vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,...
Sự kiện lịch sử Đảng là hoạt động lãnh đạo, đấu tranh phong phú và oanh liệt của
Đảng làm sáng rõ bản chất cách mạng của Đảng với tư cách là một đảng chính trị “là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thảnh lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc". Hệ thống các sự kiện lịch sử Đảng làm rõ thẳng lợi, thành tựu của
cách mạng, đồng thời cũng thấy rõ những khó khăn, thách thức, hiểu rõ những hy sinh,
cống hiến lớn lao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, sự hy sinh, phấn đấu của các tổ chức
lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, của mỗi cán bộ, đảng viên, với những tấm
gương tiêu biểu. Các sự kiện phải được tái hiện trên cơ sở tư liệu lịch sử chính xác, trung
thực, khách quan.
2. Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước
bằng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách lớn. Lịch sử Đảng có đối tượng nghiên cứu là
Cương lĩnh, đường lối của Đảng, phải nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung Cương lĩnh,
đường lối của Đảng, cơ sở lý luận, thực tiễn và giá trị hiện thực của đường lối trong tiến
trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh, đường lối đúng đắn là điều kiện
trước hết quyết định thắng lợi của cách mạng. Phải không ngừng bổ sung, phát triển đường
lối phù hợp với sự phát triển của lý luận và thực tiễn và yêu cầu của cuộc sống; chống
nguy cơ sai lầm về đường lối, nếu sai lầm về đường lối sẽ dẫn tới đổ vỡ, thất bại.

2
Đảng đã đề ra Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2-1930); Luận cương chính trị (10-
1930); Chính cương của Đảng (2-1951) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Quá trình lãnh đạo,
Đảng đề ra đường lối nhằm cụ thể hóa Cương lĩnh trên những vấn đề nổi bật ở mỗi thời kỳ
lịch sử. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Đường lối kháng chiến bảo vệ Tổ quốc.
Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đối mới. Đường lối quân sự. Đường lối đối ngoại.v.v. Đảng quyết định những
vấn đề chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng. Đảng là người tổ chức phong
trào cách mạng của quần chúng nhân dân hiện thực hóa đường lối đưa đến thắng
lợi.
3. Đảng lãnh đạo thông qua quá trình chỉ đạo, tể chức thực tiễn trong tiến trình cách
mạng. Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam làm rõ thắng lợi, thành tim, kinh
nghiệm, bài học của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
kháng chiến giành độc lập, thống nhất, thành tựu của công cuộc đổi mới. Từ một quốc gia
phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, một nước thuộc địa, bị đế quốc, thực dân cai trị,
dân tộc Việt Nam đã giành lại độc lập bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với
bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử; tiến hành hai cuộc kháng chiến giải phóng, bảo vệ Tổ quốc,
thống nhất đất nước; thực hiện công cuộc đổi mới đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đảng cũng thẳng thắn nêu rõ những
khuyết điểm, hạn chế, khó khăn, thách thức, nguy cơ cần phải khắc phục, vượt qua.
Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng là giáo dục sâu sắc những kinh nghiệm, bài học
trong lãnh đạo của Đảng. Tống kết kinh nghiệm, bài học, tìm ra quy luật riêng của cách
mạng Việt Nam là công việc thường xuyên của Đảng ở mỗi thời kỳ lịch sử. Đó là nội
dung và yêu cầu của công tác lý luận, tư tưởng của Đảng, nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ
của Đảng. Lịch sử Đảng là quá trình nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vảo thực tiễn Việt Nam. cần nhận thức rõ và chú trọng
giáo dục những truyền thống nổi bật của Đảng: truyền thống đấu tranh kiên cường, bất
khuất của Đảng; truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng; truyền thống gắn bó mật
thiết với nhân dân, vì lợi ích quốc gia, dân tộc; truyền thống của chủ nghĩa quốc tế trong
sáng.
4. Nghiên cứu Lịch sử Đảng là làm rõ hệ thống tổ chức Đảng, công tác xây dựng
Đảng qua các thời kỳ lịch sử. Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng đế nêu cao hiểu biết về
cồng tác xây dựng Đảng trong các thời kỳ lịch sử về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Xây dựng
Đảng về chính trị bảo đảm tính đúng đắn của đường lối, củng cố chính trị nội bộ và nâng
cao bản lĩnh chính trị của Đảng. Xây dựng Đảng về tư tưởng “Đảng lấy
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Xây dựng Đảng
về tổ chức, củng cố, phát triển hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, tuân thủ các nguyên tắc
tổ chức cơ bản”. Xây dựng Đảng về đạo đức với những chuẩn mực về đạo đức trong Đảng và ngăn chặn, đẩy lùi
sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
II. Chức năng, nhiệm vụ của môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Là một ngành của khoa học lịch sử, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ của khoa
học lịch sử, đồng thời có những diêm cấn nhấn mạnh.
1. Chức năng của khoa học Lịch sử Đủng
Trước hết đó là chức năng nhận thức. Nghiên cứu và học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam để nhận thức
đầy đủ, có hệ thống những tri thức lịc sử lãnh đạo, đấu tranh và cầm quyền của Đảng, nhận thức rõ về Đảng với tư
cách một Đảng chính trị-tổ chức lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam. Quy luật ra
đòi và phát triển của Đảng là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. Đảng được trang bị học thuyết lý luận, có Cương lĩnh, đường lối rõ ràng, có tổ chức, kỷ luật chặt chẽ,
hoạt động có nguyên tắc. Từ năm 1930 đến nay, Đảng là tổ chức lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam. Từ
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, nghĩa là Đảng nám chính quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng.
Đảng thường xuyên tự xây dựng và chỉnh đốn để hoàn thành sứ mệnh lịch sử trước đất nước và dân tộc.
Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam còn nhàm nâng cao nhận thức về thời đại mới của
dân tộc-thời đại Hồ Chí Minh, góp phần bồi đắp nhận thức lý luận từ thực tiễn Việt Nam. Nâng cao nhận thức về
giác ngộ chính trị, góp phần làm rõ những vấn đề của khoa học chính trị (chính trị học) và khoa học lãnh đạo,
quản lý. Nhận thức rõ những vấn đề lớn của đất nước, dân tộc trong mối quan hệ với những vấn đề của thời đại và
thế giới. Tổng kết lịch sử Đảng để nhận thức quy luật của cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, quy luật đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Nghiên cứu, biên soạn, giảng dạy, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cần quán triệt chức năng giáo dục
của khoa học lịch sử. Giáo dục sâu sắc tinh thần yêu nước, ý thức, niềm tự hào, tự tôn, ý chí tự lực, tự cường dân
tộc. Tinh thần đó hình thành trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và phát triển đến đỉnh cao ở thòi kỳ
Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam giáo dục lý
tưởng cách mạng với mục tiêu chiến lược là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó
cũng là sự giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận, con đường
phát triển của cách mạng và dân tộc Việt Nam. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam giáo dục
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần chiến đấu bất khuất, đức hy sinh, tính tiên phong
gương mẫu của các tổ chức đảng, những chiến sĩ cộng sản tiêu biểu trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam có vai
trò quan trọng trong giáo dục truyền thống của Đảng và dân tộc, góp phần giáo dục đạo
đức cách mạng, nhân cách, lối sống cao dẹp như Hồ Chí Minh kháng định: “Đảng ta là đạo
đức, là văn minh”.
Cùng với hai chức năng cơ bản của sử học là nhận thức và giáo dục, khoa học lịch sử
Đảng còn có chức năng dự báo và phê phán. Từ nhận thức những gì đã diễn ra trong quá khứ
để hiểu rồ hiện tại và dự báo tương lai của sự phát triển. Năm 1942, trong tác phẩm Lịch sử
nước ta, Hồ Chí Minh đã dự báo: “Năm 1945 Việt Nam độc lập”. Sau này, Người còn nhiều
lần dự báo chính xác trong 2 cuộc kháng chiến. Lãnh đạo đòi hỏi phải thấy trước. Hiện
nay, Đảng nhấn mạnh nâng cao năng lực dự báo. Để tăng cường sự lãnh đạo, nâng cao sức
chiến đấu của Đảng, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Phải kiên
quyết phê phán những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, hư hỏng. Hiện nay, sự phê phán nhằm
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
2. Nhiệm vụ của khoa học Lịch sử Đang
Nhiệm vụ của khoa học lịch sử Đảng được đặt ra từ đối tượng nghiên cứu đồng thời
cụ thể hóa chức năng của khoa học lịch sử Đảng.
- Nhiệm vụ trình bày có hệ thống Cương lĩnh, đường lối của Đảng. Khoa học lịch sử Đảng có nhiệm vụ
hàng đầu là khắng định, chứng minh giá trị khoa học và hiện thực của những mục tiên chiến lược và sách lược cách mạng
mà Đảng đề ra trong Cương lĩnh, đường lối từ khi Đảng ra đời và suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng. Mục tiêu và con đường đó là sự kết hợp, thống nhất giữa thực tiễn lịch sử với
nền tảng lý luận nhằm thúc đấy tiến trình cách mạng, nhận thức và cải biến đất nước, xã
hội theo con đường đúng đắn. Sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, đã và dang được hiện thực hóa.
- Nhiệm vụ tái hiện tiến trình lịch sử lãnh đạo, đấu tranh của Đảng. Từ hiện thực
lịch sử và các nguồn tư liệu thành văn và không thành văn, khoa học lịch sử Đảng có
nhiệm vụ rất quan trọng và làm rõ những sự kiện lịch sử, làm nối bật các thời kỳ, giai
đoạn và dấu mốc phát triển căn bản của tiến trình lịch sử, nghĩa là tái hiện quá trình lịch
sử lãnh đạo và đấu tranh của Đảng. Những kiến thức, tri thức lịch sử Đảng được làm sáng
- tỏ từ vai trò lãnh đạo, hoạt động thực tiễn của Đảng, vai trò, sức mạng của nhân
dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoạt động của Đảng không biệt lập mà thống
nhất và khơi dậy mạnh mẽ nguồn sức mạnh từ giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn dân tộc.
- Nhiệm vụ tổng kết lịch sử của Đảng. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam không dừng lại mô
tả, tái hiện sự kiện và tiến trình lịch sử, mà còn có nhiệm vụ tổng kết từng chặng đường và suốt tiến trình
lịch sử, làm rõ kinh nghiệm, bài học, quy luật và những vấnđề lý luận của cách mạng Việt Nam. Kinh nghiệm
lịch sử gẳn liền với những sự kiện hoặc một giai đoạn lịch sử nhất dịnh. Bài học lịch sử
khái quát cao hơn gán liền với một thời kỳ dài, một vấn dề của chiến lược cách mạng hoặc
khái quát toàn bộ tiến trình lịch sử của Đảng. Quy luật và những vấn đề lý luận ở tầm tổng
kết cao hơn. Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu,
xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh
với thực tế. Đó là lý luận chân chính”1.
“Lý luận do kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta, do kinh nghiệm từ
trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó thành
ra lý luận”2.
Hồ Chí Minh nhiều lần đặt ra yêu cầu phải tổng kết, tìm ra quy luật riêng của cách
mạng Việt Nam. Qua nhiều lần tổng kết, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
“Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn” 3.
“Con dường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù họp với thực tiễn của Việt Nam
và xu thế phát triển của lịch sử”4.
- Một nhiệm vụ quan trọng của lịch sử Đảng là làm rõ vai trò, sức chiến đấu của hệ
thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở trong lãnh đạo, tổ chức thực tiễn. Những
truyền thống nổi bật của Đảng. Trí tuệ, tính tiên phong, gương mẫu, bản lĩnh của cán bộ,
đảng viên. Tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo, những chiến sĩ
cộng sản tiêu biểu trong các thời kỳ cách mạng. Những giá trị truyền thống, đức hy sinh và
tấm gương tiêu biểu luôn luôn là động lực cho sự phát triển và bản chất cách mạng của
Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10-2016) khẳng định: “Chúng ta có quyền tự
hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta-Đảng của

1Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, trang 273.
2Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 5, trang 312.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Van kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tập 55, trang
356.
4Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc lần thừ xu, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, trang 66.

Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng”. Có một nhiệm vụ
là hoàn thiện hệ thống tư liệu lịch sử Đảng.
III. Phương pháp nghiên cứu, học tập môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam
1. Quán triệt phương pháp luận sử học
Phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cần dựa trên
phương pháp luận khoa học mác xít, đặc biệt là nắm vững chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận thức lịch sử một cách khách quan, trung thực
và đúng quy luật. Chú trọng nhận thức lịch sử theo quan điểm khách quan, toàn diện, phát
triển và lịch sử cụ thể. Tư duy từ thực tiễn, từ hiện thực lịch sử, coi thực tiễn và kết quả
của hoạt động thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo.
Nhận thức rõ các sự kiện và tiến trình lịch sử trong các mối quan hệ: nguyên nhân và kết
quả, hình thức và nội dung, hiện tượng và bản chất, cái chung và cái riêng, phố biến và đặc
thù.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử là kết quả của tư duy biện chứng, khoa học để xem xét,
nhận thức lịch sử. Khi nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, cần thiết phải
nhận thức, vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhận thức tiến trình cách mạng do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Lý luận về hình thái kinh tế-xã hội; về giai cấp và đấu tranh
giai cấp; về dân tộc và đấu tranh dân tộc; về vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân
trong lịch sử; về các động lực thúc đấy sự phát triển của xã hội và lịch sử; về cách mạng xã
hội và tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và
Đảng Cộng sản.
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn dắt sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc. Nghiên cứu, nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng
để hiểu rõ lịch sử Đảng. Tư tưởng Hồ Chí Minh và tư duy, phong cách khoa học của
Người là cơ sở và định hướng về phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, không ngừng sáng tạo, chống chủ nghĩa giáo điều và chủ quan duy ý chí.
2. Các phương pháp cụ thê
Khoa học lịch sử và chuyên ngành khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đều
sử dụng hai phương pháp cơ bản: phuơng pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời
chú trọng vận dụng các phương pháp nghiên cứu, học tập các môn khoa học xã hội khác.
Phương pháp lịch sử

1
“Phương pháp lịch sử là các con đường, cách thức tìm hiểu và trình bày quá trình phát
triển của các sự vật và hiện tượng nói chung, của lịch sử loài người nói riêng với đầy đủ
tính cụ thể, sống động, quanh co của chúng”.
“Phương pháp lịch sử là nhằm diễn lại tiến trình phát triển của lịch sử với muôn màu
muôn vỏ, nhằm thể hiện cái lịch sử với tính cụ thể hiện thực, tính sinh dộng của nó. Nó
giúp chúng ta nắm vững được cái lịch sử để có cơ sở nắm cái logic được sâu sắc”.
Phương pháp lịch sử đi sâu vào tính muôn vẻ của lịch sử để tìm ra cái đặc thù, cái cá
biệt trong cái phổ biến. Các hiện tượng lịch sử thường hay tái diễn, nhưng không bao giờ
hoàn toàn như cũ; phương pháp lịch sử chú ý tìm ra cái khác trước, cái không lặp để thấy
những nét đặc thù lịch sử. Phương pháp lịch sử để thấy bước quanh co, có khi thụt lùi tạm
thời của quá trình lịch sử. Phương pháp lịch sử đòi hỏi nghiên cứu thấu đáo mọi chi tiết
lịch sử để hiểu vai trò, tâm lý, tình cảm của quần chúng, hiểu điểm và diện, tổng thể đến
cụ thể, Chú trọng về không gian, thời gian, tên đất, tên người để tái hiện lịch sử đúng như
nó đã diễn ra. Phương pháp lịch sử không có nghĩa là học thuộc lòng sự kiện, diễn biến
lịch sử mà phải hiểu tính chất, bản chất của sự kiện, hiện tượng, do đó không tách rời
phương pháp logic.
Phương pháp logic
“Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình
thức tổng quát, nhằm mục đích vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự
vận dộng của chúng”.
Phương pháp logic đi sâu tìm hiểu cái bản chất, cái phổ biến, cái lặp lại của các hiện
tượng, các sự kiện, phân tích, so sánh, tổng hợp với tư duy khái quát để tìm ra bản chất
các sự kiện, hiện tượng. Xác định rõ các bước phát triển tất yếu của quá trình lịch sử để
tìm ra quy luật vận động khách quan của lịch sử phương pháp logic chú trọng những sự
kiện, nhân vật, giai đoạn mang tính điển hình, cần thiết phải nắm vững logic học và rèn
luyện tư duy logic, phương pháp logic có ý nghĩa quyết định đến sự nhận thức đúng đắn
thế giới khách quan, hiện thực lịch sử, thấy rõ đuực hướng phát triển của lịch sử. Từ nắm
vững quy luật khách quan mà vận dụng vào thực tiễn cách mạng, góp phần chủ động cải
tạo, cải biến thế giới và lịch sử.
Chỉ có nắm vững phương pháp lịch sử và phương pháp logic với có thể hiểu rõ bản
chất, nhận thức đúng đắn, giảng dạy và học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam một
cách có hiệu quả, với tư cách một môn khoa học. Phương pháp lịch sử và phương pháp
logic có quan hệ mật thiết với nhau và đó là sự thống nhất của phương pháp biện chứng
mác xít trong nghiên cứu và nhận thức lịch sử. Các phương pháp đó không tách rời mà

8
luôn luôn gắn với nguyên tắc tính khoa học và tính đảng trong khoa học lịch sử và trong
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cùng với hai phương pháp cơ bản là phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cần coi trọng phương pháp tống kết thực
tiễn lịch sử gắn với nghiên cứu lý luận đế làm rõ kinh nghiệm, bài học, quy luật phát triển và
những vấn đề về nhận thức lý luận của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Chú trọng
phương pháp so sánh, so sánh giữa các giai đoạn, thời kỳ lịch sử, so sánh các sự kiện, hiện
tượng lịch sử, làm rõ các mối quan hệ, so sánh trong nước và thế giới.v.v.
Phương pháp học tập của sinh viên, hết sức coi trọng nghe giảng trên lớp để nắm
vững những nội dung cơ bản của từng bài giảng của giảng viên, và nội dung tổng thể của
môn học. Thực hiện phương pháp làm việc nhóm, tiến hành thảo luận, trao đổi các vấn đề do
giảng viên đặt ra đế hiểu rõ hơn nội dung chủ yếu của môn học. Sử dụng công nghệ thông
tin trong giảng dạy và học tập. Tổ chức các cuộc làm việc tại bảo tàng lịch sử quốc gia,
bảo tàng địa phương và các di tích lịch sử đặc biệt gắn với sự lãnh đạo của Đảng. Thực
hiện kiểm tra, thi cử theo dứng quy chế đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của các
trường đại học.
Nghiên cứu, giảng dạy, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam cần chú trọng
phương pháp vận dụng lý luận vào thực tiễn. Điều dó dòi hỏi nấm vững lý luận cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin, bao gồm triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học,
nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn luôn liên hệ lý luận với thực tiễn Việt Nam để
nhận thức đúng đắn bản chất của mỗi hiện tượng, sự kiện của lịch sử lãnh đạo, đấu tranh
của Đảng.
Tính khoa học là sự phản ánh kết quả nghiên cứu sự vật, hiện tượng, sự kiện lịch sử
phải đạt đến chân lý khách quan. Tính khoa học đòi hỏi phản ánh lịch sử khách quan,
trung thực với những đánh giá, kết hợp dựa trên luận cứ khoa học, tôn trọng hiện thực lịch
sử. Tính khoa học yêu cầu phương pháp nghiên cứu sáng tạo, nghiêm túc và có trách
nhiệm. Tính đảng cộng sản trong nghiên cứu lịch sử và lịch sử Đảng là đứng trên lập
trường chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nhận thức lịch sử một cách khoa
học, đúng đắn; là sự phản ánh đúng đắn quan điểm, đường lối của Đảng vì lợi ích của giai
cấp vô sản, của nhân dân lao động và của dân tộc; là thế hiện tính chiến đấu, biểu dương
cái đúng đắn, tốt đẹp, phê phán cái xấu, cái lạc hậu, hư hỏng và những nhận thức lệch lạc,
sai trái, phản động của các thế lực thù địch; luôn luôn kế thừa và phát triển sáng tạo. Tính
khoa học và tính đảng là thống nhất và đều hướng tới phục vụ nhiệm vụ chính trị của
Đảng, của cách mạng vì lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đối với hệ đại học không chuyên về lý luận chính trị, với phân bổ 2 tín chỉ (30 tiết
giảng lý thuyết), tập trung nghiên cứu các chương tương ứng với 3 thời kỳ nổi bật của
lịch sử Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc
(1930-1945); Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến giành độc lập hoàn toàn, thống nhất đất
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc (1945-1975); Đảng lãnh đạo cả nước
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và thực hiện công cuộc đổi mới (1975-2018).
Với hệ đại học chuyên lý luận chính trị (3 tín chỉ), giảng viên giảng sâu hơn các thời kỳ
lịch sử đồng thời có chương về tổng thể các bài học về sự lãnh đạo của Đảng và có thể
giới thiệu có hệ thống, sâu sắc các Cương lĩnh của Đảng. Sinh viên chú trọng hơn tự
nghiên cứu.
Với hệ đại học không chuyên về lý luận chính trị, sinh viên cần nắm vững có hệ
thống những vấn đề cơ bản của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiểu rõ đặc điểm, mâu
thuẫn chủ yếu của xã hội thuộc địa, phong kiến ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX. Sự phát triển tất yếu của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc để giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội và giải phóng con người. Các phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp xâm lược từ lập trường cần Vương đến lập trường tư sản, tiểutư sản, quakhảonghiêm lịch sử đều lầnlượt thất
bại. Tình hình đất nước đen tối như không có đường ra. Trong hoàn cảnh đó, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc-Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường đấu tranh đúng đắn để tự giải phóng dân tộc, xã
hội, vì cuộc sống của nhân dân. Người đã truyền bá lý luận cách mạng là chủ nghĩa Mác-
Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam vả phát triển sáng tạo
học thuyết lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam; Chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, lý
luận, chính trị, tổ chức, cán bộ để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời mùa Xuân năm 1930 với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã mở ra thời kỳ
phát triển mới của cách mạng và dân tộc Việt Nam.
Từ năm 1930 đến năm 1945, Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh không ngừng bổ sung,
phát triển Cương lĩnh, đường lối, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc theo con đường xã
hội chủ nghĩa, hoàn thiện đường lối giải phóng dân tộc, lãnh đạo các phong trào cách
mạng rộng lớn (1930-1931), (1936-1939) và cao trào giải phóng dân tộc (1939-1945) dẫn
đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. cần nắm vững tính chất, đặc
điểm, ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng Tháng Tám và bản Tuyên ngôn độc lập (2-9- 1945)
- một thời đại mới được mở ra trong lịch sử dân tộc và cách mạng Việt Nam.
Cần hiểu được hoàn cảnh lịch sử những khó khăn, thách thức của thời kỳ mới, Đảng
phải có đường lối, chiến lược và sách lược thích hợp để vừa kháng chiến vừa kiến quốc,
xây dựng chính quyền nhà nước và chế độ mới. Đề ra đường lối và lãnh đạo kháng chiến
làm thất bại các kế hoạch chiến trang của thực dân Pháp đưa đến chiến thẳng lịch sử Điện
Biên Phủ (7-5-1954) và các nước ký kết Hiệp nghị Geneve (21-7-1954). Đế quốc Mỹ thay
thế thực dân Pháp, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam và tiến hành
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 với các chiến lược chiến
tranh tàn bạo chống lại dân tộc Việt Nam và phong trào cách mạng giải phóng trên thế
giới. Đảng đề ra đường lối, kiên trì lãnh đạo đấu tranh, vượt qua thách thức hiểm nghèo
dẫn đến toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước (30-4-1975).
Cần nhận thức rõ quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
với đường lối do Đại hội III của Đảng đề ra (9-1960) và Đảng lãnh đạo đưa cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc sau năm 1975. Hiểu được quá trình
đổi mới tư duy lý luận, khảo nghiệm thực tiễn trong những năm 1975-1986 để hình thành
con đường đổi mới đất nước. Nắm vững đường lối đổi mới được hoạch định tại Đại hội VI
của Đảng (12-1986). Sự phát triển đường lối và tổ chức thực hiện hơn 30 năm qua đưa đất
nước vững bước phát triển trên con đường xã hội chủ nghĩa. Lãnh đạo cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, các cuộc kháng chiến, cách mạng xã hội chủ nghĩa phải vượt qua nhiều
nguy cơ, khó khăn, thách thức, trong đó có cả khuyết điểm, yếu kém ở mỗi thời kỳ. Đảng
đã kiên cường cùng toàn dân vượt qua, quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, thực hiện thành
công sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhận thức rõ hơn những truyền
thống vẻ vang của Đảng.
Đối với hệ đại học chuyên lý luận chính trị, sinh viên cần nắm vững và hiểu sâu sắc
hơn những vấn đề cơ bản của lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu trên đây. Cả giảng
dạy và học tập của hệ chuyên lý luận chính trị cần chú trọng khai thác cơ sở lý luận từ chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để làm rõ những vấn đề thực tiễn của cách
mạng Việt Nam. Chú trọng nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Karl Marx, Friedrich
Engels và V.I.Lênin, các tác phấm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự vận dụng sáng tạo bản
chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với thực tiễn
Việt Nam đã dẫn tới thắng lợi của cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, và quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ dổi mới. Nghiên cứu, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
đối với chuyên ngành lý luận chính trị, cần thiết phải tổng kết làm rõ điều đó để nâng cao
trình độ, năng lực tư duy lý luận, nhận thức sâu sắc hiện thực lịch sử đấu tranh và lãnh đạo
của Đảng.
Hệ đại học chuyên ngành lý luận chính trị chú trọng nghiên cứu sâu sắc các Cương
lĩnh của Đảng, từ Cương lĩnh đầu tiên (2-1930) đến Luận cương chính trị (10-1930),
Chính cương của Đảng (2-1951), Cương lĩnh xây dựngđất nước trong thời kỳ quả độlên chủ nghĩaxã hội (6-
1991) và bổ sung, phát triển năm 2011. Hiểu rõ sự nhất quán, giá trị cách mạng, khoa học,
tính toàn diện, phát triển và sáng tạo trong Cương lĩnh, đường lối

11
của Đảng. Đó cũng là chuyên đề có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc trong nghiên cứu,
học tập lịch sử Đảng.
Sinh viên hệ chuyên ngành lý luận chính trị tiếp cận và chủ động phát triển tính độc
lập trong nghiên cứu, học tập, tham gia tổng kết kinh nghiệm, bài học lịch sử, những quy
luật và lý luận của cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Có thể nghiên cứu,
kế thừa và phát triển những tổng kết quan trọng và rất cơ bản của Đảng. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1976) tổng kết 45 năm lãnh đạo cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, nhất là 2 cuộc kháng chiến với những bài học có ý nghĩa
sâu sắc về lý luận và thực tiễn. Đại hội VI của Đảng (12-1986) tổng kết quá trình lãnh đạo
cách mạng, đặc biệt lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, thấy rõ sự cần thiết phải đổi
mới tư duy lý luận và đề ra đường lối đổi mói. Đại hội XII của Đảng (1-2016) tổng kết 30
năm đổi mới, khẳng định sự phát triển nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Với sinh viên chuyên ngành lý luận chính trị, việc nghiên cứu sâu về xây dựng Đảng
ở các thời kỳ lịch sử Đảng là rất quan trọng. Từ lý luận về đảng chính trị để nghiên cứu
Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách một đội tiền phong lãnh dạo cách mạng Việt Nam
và từ năm 1945 là Đảng cầm quyền ở Việt Nam. Hiện nay, trên thế giới, mỗi nước đều do
một đảng chính trị cầm quyền, trực tiếp nắm bộ máy nhà nước. Nghiên cứu xây dựng
Đảng qua các thời kỳ lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam để hiểu rõ Đảng đã được xây
dựng như thế nào về chính trị, tư tưởng, lý luận, tổ chức, cán bộ và về đạo đức, bảo đảm
giữ vững và nâng cao bản chất cách mạng, khoa học của Đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt, bảo đảm sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Từ thành công về xây dựng Đảng và thắng lợi của cách mạng, khẳng định
những truyền thống vẻ vang của Đảng: truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng;
truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường, bất khuất, thật sự vì nước, vì dân; truyền
thống gắn bó mật thiết với dân tộc, giai cấp và nhân dân, trưởng thành trong phong trào
cách mạng của quần chúng; truyền thống của chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Hiểu rồ những vấn đề xây dựng Đảng trong lịch sử để vận dụng những kinh nghiệm
để làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Chống nguy cơ sai lầm về đường
lối, nguy cơ quan liêu, tham nhũng, xa rời quần chúng và những biểu hiện tiêu cực khác.
Thực hiện tốt hơn Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (30-10-2016) về tăng cuờng xây dựng,
chỉnh đón Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến ”,
“tựchuyểnhóa”trongnộibộ.
Lich sử Đảng Cộng sản Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, là cả một
pholịchsửbằngvàng. Đó chính là tính khoa học, cách mạng, giá trị thực tiễn sâu sắc
12
trong Cương lĩnh, đường lối của Đảng; là sự lãnh đạo đúng đắn, đáp ứng kịp thời những
yêu cầu, nhiệm vụ do lịch sử đặt ra; những kinh nghiệm, bài học quý báu có tính quy luật,
lý luận của cách mạng Việt Nam và những truyền thống vẻ vang của Đảng. Nghiên cứu,
học tập lịch sử Đảng không chỉ nắm vững những sự kiện, cột mốc lịch sử mà cần thấu
hiểu những vấn đề phong phú đó trong quá trình lãnh đạo và đấu tranh, để vận dụng, phát
triển trong thời kỳ đối mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện dại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế hiện nay.
Mục tiêu của nghiên cứu, học tập môn học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là nâng
cao nhận thức, hiểu biết về Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đưa đến những thắng lợi, thành tựu có ý nghĩa lịch sử to lớn trong sự phát triển
của lịch sử dân tộc. Qua học tập, nghiên cứu lịch sử Đảng õế giáo dục lý tưởng, truyền
thống đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc, củng cố, bồi đắp niềm tin đối với sự lãnh
đạo của Đảng, tự hào về Đảng và thế hệ trẻ gia nhập Đảng, tham gia xây dựng Đảng ngày
càng vững mạnh, tiếp tục thực hiện sứ mệnh vẻ vang của Đảng lãnh đạo bảo vệ vững chắc
Tổ quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

13
Chưong 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI VÀ LÃNH ĐẠO
ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)

MỤC TIÊU
về kiến thức:
Cung cấp cho sinh viên những tri thức có tính hệ thống quá trình ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam (1920-1930), nội dung CO’ bản, giá trị lịch sử của Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành
chính quyền (1930-1945).
về tư tưởng:
Cung cấp cơ sở lịch sử, góp phần củng cố niềm tin của thế hệ trẻ vào con đường
cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước-sự lựa chọn đúng đắn, tất yếu, khách
quan của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đầu dựng Đảng.
về kỹ năng'.
Từ việc nhận thức lịch sử thời kỳ đầu dựng Đảng, góp phần trang bị cho sinh viên
phương pháp nhận thức biện chứng, khách quan về quá trình Đảng ra đời và vai trò lãnh
đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xác lập chính quyền cách mạng.
I. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đòi và Cưong lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
(tháng 2- 1930)
1. Bối cảnh í ịch sử
Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu-Mỹ có những chuyển biến mạnh mẽ
trong đời sống kinh tế-xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự
do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa), đẩy mạnh quá
trình xâm chiếm và nô dịch các nước nhỏ, yếu ở châu Á, châu Phi và khu vục Mỹ-Latinh,
biến các quốc gia này thành thuộc địa của các nước đế quốc. Trước bối cảnh đó, nhân dân
các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đế quốc, tạo
thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở châu Á. Cùng với
phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ
nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa trở thành một bộ phận quan
trọng trong cuộc dấu tranh chung chống tư bản, thực dân. Phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước châu Á đầu thế kỷ XX phát triển rộng khắp, tác động mạnh mẽ đến phong trào
yêu nước Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến
đổi sâu sắc tình hình thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ có ý
nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản, mà còn có
tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Tháng 3-1919, Quốc
tế Cộng sản, do V.I.Lênin đứng đầu, được thành lập, trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ
chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới. Quốc tế Cộng sản không những vạch
dường hướng chiến lược cho cách mạng vô sản mà cả đối với các vấn đề dân tộc và thuộc
địa, giúp đõ, chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc. Cùng với việc nghiên cứu và hoàn
thiện chiến lược và sách lược về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sán đã tiến
hành hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở
khu vực này đi theo khuynh hướng vô sản. Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920) đã
thông qua luận cương về dân tộc và thuộc địa do V.I.Lênin khởi xướng. Cách mạng Tháng
Mười và những hoạt động cách mạng của Quốc tế Cộng sản đã ảnh hưởng mạnh mẽ và
thức tỉnh phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam và
Đông Dương.
Tình hình Việt Ncim và các phong trào yên nước trước khi có Đảng
Là quốc gia Đông Nam Á nằm ở vị trị địa chính trị quan trọng của châu Á, Việt Nam
trở thành đối tượng nằm trong mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp trong cuộc chạy đua
với nhiều đế quốc khác. Sau một quá trình điều tra thám sát lâu dài, thâm nhập kiên trì của
các giáo sĩ và thương nhân Pháp, ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt
Nam tại Đà Nang và từ đó từng bước thôn tính Việt Nam. Đó là thời điểm chế độ phong
kiến Việt Nam (dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn) đã lâm vào giai đoạn khủng
khoảng trầm trọng. Trước hành động xâm lược của Pháp, Triều đình nhà Nguyễn từng
bước thỏa hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến ngày 6-6-1884 với Hiệp ước Patơnốt
(Patenotre) đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt Nam trở thành “một xứ thuộc địa,
dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”5.
Tuy triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp, nhưng nhân dân Việt Nam
vẫn không chịu khuất phục, thực dân Pháp dùng vũ lực để bình định, đàn áp sự nổi dậy
của nhân dân. Đồng thời với việc dùng vũ lực đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu
nước của nhân dân Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền
thuộc địa, bên cạnh đó vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai. Pháp thực
hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia
ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nằm trong Liênbcmg
ĐôngDươngthuộcPháp (Union Indochinoise)6 dược thành lập ngày 17-10-1887

5 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 401.
6 Bao gồm: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên, Ai Lao.
theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp.
Từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lớn:
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) do toàn quyền Đông Dương Paul Dou
mer (Pôn du me ) thực hiện và khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929). Mưu đồ của
thực dân Pháp nhàm biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị trường
tiêu thụ hàng hóa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao
động rẻ mạt của người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề.
Chế độ cai trị, bóc lột hà khắc của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam là “chế
độ độc tài chuyên chế nhất, nó vô cùng khả ố và khủng khiếp hơn cả chế độ chuyên chế
của nhà nước quân chủ châu Á đời xưa” 7. Năm 1862, Pháp đã lập nhà tù ở Côn Đảo để
giam cầm những người Việt Nam yêu nước chống Pháp.
về văn hoá-xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập
nhà tù nhiều hon trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn
xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn
và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai
hoá văn minh” của nước “Đại Pháp”...
Chế độ áp bức về chính trị, bóc lột về kinh tế, nô dịch về văn hóa của thực dân Pháp
đã làm biến đồi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam. Các giai cấp cũ phân hóa,
giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện với địa vị kinh tế khác nhau và do đó cũng có thái độ
chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc.
Dưới chế độ phong kiến, giai cấp địa chủ và nông dân là hai giai cấp cơ bản trong xã
hội, khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, giai cấp địa chủ bị phân hóa.
Một bộ phận dịa chủ câu kết với thực dân Pháp và làm tay sai dắc lực cho Pháp
trong việc ra sức đàn áp phong trào yêu nước và bóc lột nông dân; Một bộ phận khác nêu
cao tinh thần dân tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ
phong kiến, tiêu biểu là phong trào cần Vương; Một số trở thành lãnh đạo phong trào
nông dân chống thực dân Pháp và phong kiến phản động; Một bộ phận nhỏ chuyển sang
kinh doanh theo lối tư bản.
Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất (khoảng hơn 90% dân số), đồng
thời là một giai cấp bị phong kiến, thực dân bóc lột nặng nề nhất. Do vậy, ngoài mâu
thuẫn giai cấp vốn có với giai cấp địa chủ, từ khi thực dân Pháp xâm lược, giai cấp nông
dân còn có mâu thuẫn sâu sắc với thực dân xâm lược. “Tinh thần cách mạng của nông dân
không chỉ gắn liền với ruộng đất, với đời sống hằng ngày của họ, mà còn gắn bó một cách

7 Phan Văn Trường: Bài đăng trên tờ La Cloche Félée, số 36, ngày 21 -1-1926.
16
sâu sắc với tình cảm quê hương đất nước, với nền văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc” 8.
Đây là lực lượng hùng hậu, có tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất cho nền độc lập tự
do của dân tộc và khao khát giành lại ruộng đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong
lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân phong kiến.
Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành gắn với các cuộc khai thác thuộc địa,
với việc thực dân Pháp thiết lập các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, khu đồn điền...
Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có
những đặc điểm riêng vì ra đòi trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, chủ
yếu xuất thân từ nông dân, cơ cấu chủ yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền, lực lượng
còn nhỏ bé9, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng
phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng.
Giai cáp tư sản Việt Nam xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân. Một bộ phận gắn
liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền thực
dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc, họ bị
thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế. Vì vậy, phần lớn tư sản
dân tộc Việt Nam có tinh thần dân tộc, yêu nước nhưng không có khả năng tập họp các
giai tầng để tiến hành cách mạng.
Tầng lớp tiếu tư sản (tiếu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) bị đế quốc, tư bản chèn ép,
khinh miệt, do đó có tinh thần dân tộc, yêu nước và rất nhạy cảm về chính trị và thời cuộc.
Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh, thái độ hay dao động, thiếu kiên định, do đó tầng
lớp tiểu tư sản không thể lãnh đạo cách mạng.
Các sĩ phu phong kiến cũng có sự phân hóa. Một bộ phận hướng sang tư tưởng dân
chủ tư sản hoặc tư tưởng vô sản. Một số người khởi xướng các phong trào yêu nước có
ảnh hưởng lớn.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọng cả về
chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân Pháp đã làm
phân hóa những giai cấp vốn là của chế dộ phong kiến (địa chủ, nông dân) đồng thời tạo
nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc, tiếu tư sản) với thái độ chính
trị khác nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và phong kiến phản động trở
thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng gay gắt.

8 Lê Duẩn: Giai cấp công nhân Việt Nam và liên minh công nông, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, trang
119.
9Số lượng công nhân đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất (1913) có khoảng 10 vạn người; đến cuối năm
1929, số công nhân Việt Nam là hon 22 vạn nguửi, chiếm trên 1,2% dân số.
17
Trong bối cảnh đó, những luồng tư tưởng ở bên ngoải: tư tưởng Cách mạng tư sản Pháp
1789, phong trào Duy tân Nhật Bản năm 1868, cuộc vận động Duy tân tại Trung Quốc năm 1898,
Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc năm 1911..., đặc biệt là Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 đã tác động mạnh mẽ, làm chuyển biến phong trào yêu nước những năm cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX. Năm 1919, trên chiến hạm của Pháp ở Hắc Hải (Biển Đen), Tôn Đức Thắng tham
gia đấu tranh chống việc can thiệp vào nước Nga Xô viết. Năm 1923, luật sư Phan Văn Trường từ
Pháp về nưó'c và ông công bố tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (The
Maniíesto of the Communist Party) trên báo La Cloche Fêlẻe, từ số ra ngày 29-3 đến 20-4-1926, tại
Sài Gòn, góp phần tuyên truyền tư tưởng vô sản ở Việt Nam.
Các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng
Ngay từ khi Pháp xâm lược, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp với tinh thần quật
cường bảo vệ nền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục, rộng khắp.
Đến năm 1884, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã đầu hàng, nhưng một bộ phận
phong kiến yêu nước đã cùng với nhân dân vẫn tiếp tục đấu tranh vũ trang chống Pháp.
Đó là phong trào cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng (1885-1896).
Hưởng ứng lời kêu gọi cần Vương cứu nước, các cuộc khỏi nghĩa Ba Đình (Thanh Hoá), Bãi Sậy
(Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh)... diễn ra sôi nổi và thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại
xâm của các tầng lớp nhân dân. Nhưng ngọn cò' phong kiến lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu
để tập hợp một cách rộng rãi, toàn thể các tầng lớp nhân dân, không có khả năng liên kết các trung
tâm kháng Pháp trên toàn quốc nữa. Cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại (1896) cũng là
mốc chấm dứt vai trò lãnh đạo của giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước chống thực
dân Pháp ở Việt Nam. Đầu thế kỷ XX, Vua Thành Thái và Vua Duy Tân tiếp tục đấu tranh chống
Pháp, trong đó có khởi nghĩa của Vua Duy Tân (5-1916).
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ỏ' vùng miền núi và trung du phía Bắc,
phongtràonôngdân Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo của vị thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám,
nghĩa quân dã xây dựng lực lượng chiến dấu, lập căn cứ và đấu tranh kiên cường chống thực dân
Pháp. Nhưng phong trào của Hoàng Hoa Thám vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, không có
khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuối
cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp.
Từ những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước Việt Nam chịu ảnh hưởng, tác động của
tràolưudânchủtưsản, tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu, xu
hướng cải cách của Phan Châu Trinh và sau đó là phong trào tiểu tư sản trí thức của tổ chức Việt
Nam Quốc dân đảng (12-1927 - 2-1930) đã tiếp tục diễn ra rộng khắp các tỉnh Bắc Kỳ, nhưng tất cả
đều không thành công.
Xu hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo: Với chủ trương tập hợp lực lượng
với phương pháp bạo động chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở Nhật Bản, phong trào theo
xu hướng này tổ chức đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập (gọi là phong trào
“Đông Du”). Đen năm 1908, Chính phủ Nhật Bản câu kết với thực dân Pháp trục xuất lưu học sinh
Việt Nam và những người đứng đầu. Sau khi phong trào Đông Du thất bại, với sự ảnh hưởng của
Cách mạng Tân Hợi (1911) Trung Quốc, năm 1912 Phan Bội Châu lập tổ chức Việt Nam Quangphục hội
với tôn chỉ là vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước cộng hòa dân
quốc Việt Nam. Nhưng chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội lại thiếu rõ ràng. Cuối năm 1913,
Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam tại Trung Quốc cho tới đầu năm 1917 và sau này bị quản
chế tại Huế cho đến khi ông mất (1940). Ảnh hưởng xu hướng bạo động của tổ chức Việt Nam Quang
phụchội đối với phong trào yêu nước Việt Nam đến đây chấm dứt.
Xu hưóng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan Châu Trinh và những người cùng chí hướng
muốn giành độc lập cho dân tộc nhưng không đi theo con đường bạo động như Phan Bội Châu, mà
chủ trương cải cách đất nước. Phan Châu Trinh cho rằng “bất bạo động, bạo động tắc tử”; phải
“khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, phải bãi bỏ chế độ quân chủ, thực hiện dân quyền, khai
thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Đe thực hiện được chủ trương ấy, Phan Châu Trinh đã đề nghị
Nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách. Đó chính là sự hạn chế trong xu hướng cải cách để cứu
nước, vì Phan Châu Trinh đã “đặt vào lòng độ lượng của Pháp cái hy vọng cải tử hoàn sinh cho
nước Nam,... Cụ không rõ bản chất của đế quốc thực dân” 1. Do vậy, khi phong trào Duy Tân lan
rộng khắp cả Trung Kỳ và Nam Kỳ, đỉnh cao là vụ chống thuế ở Trung Kỳ (1908), thực dân Pháp
đã đàn áp dã man, giết hại nhiều sĩ phu và nhân dân tham gia biếu tình. Nhiều sĩ phu bị bắt, bị đày
đi Côn Đảo, trong đó có Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Nguyên Cấn... Phong trào
chống thuế ở Trung Kỳ bị thực dân Pháp dập tắt, cùng với sự kiện tháng 12-1907 thực dân Pháp ra
lệnh đóng cửa Trường Đông Kinh Nghĩa Thục 2 phản ánh sự kết thúc xu hướng cải cách trong
phong trào cứu nước của Việt Nam.
Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng: Khi thực dân Pháp đẩy mạnh khai thác
thuộc địa lần thứ hai, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp càng trở nên
gay gắt, các giai cấp, tầng lớp mới trong xã hội Việt Nam đều bước lên vũ
1
Trần Văn Giàu: Sự phát triển tư tướng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám-Hệ ý thức tư sản vù sự thất
bại của nó trước nhiệm vụ lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, 1975, trang 442.
2
Trường Đông Kinh Nghĩa thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí... thành lập ở Hà Nội, nhằm truyền
bá tư tưởng dân chủ, tự do tư sản, nâng cao lòng tự tôn dân tộc cho thanh niên Việt Nam.
19 ỉ)
đài chính trị. Trong đó, hoạt động có ảnh hưởng rộng và thu hút nhiều học sinh, sinh viên yêu nước
ở Bắc Kỳ là tổ chức ViệtNamQuốcdânđảng do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Trên cơ sở các tổ chức yêu
nước của tiểu tư sản trí thức, Việt Nam Quốc dân đảng được chính thức thành lập tháng 12-1927
tại Bắc Kỳ.
Mục đích của Việt Nam Quốc dân đảng là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập
dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản, với phương pháp đấu tranh vũ trang nhưng theo lối
manh động, ám sát cá nhân và lực lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên.... Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở
một số tỉnh, chủ yếu và mạnh nhất là ở Yên Bái (2-1930) tuy oanh liệt nhưng nhanh chóng bị thất
bại. Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng đã thể hiện là “...một
cuộc bạo ỗộng bất ỏắc dĩ, một cuộc bạo ỗộng non, ỏế rồi chết luôn không bao giờ ngóc ỗầu lên
nổi. Khẩu hiệu “không thành công thì thành nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất
hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư
sản”10.
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất khuất
kiên cường chốn 2; ngoại xâm, các phong trảo yêu nước theo ngọn cờ phona; kiến, ngọn cờ dân
chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Dù với nhiều cách
thức tiến hành khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên, “các
phong trào cứu nước từ lập trường cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản qua khảo nghiệm
lịch sử đều lần lượt thất bại” 11. Nguyên nhân thất bại của các phong trào đó là do thiếu đường lối
chính trị đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một
tổ chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định được phương
pháp đấu tranh thích hợp để đánh đổ kẻ thù.
Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cho đến những năm 20 của thế kỷ XX đều thất bại,
nhưng đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam, đặc biệt góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí
thức tiên tiến chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu
thế của thời đại. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có
một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện đế thành tập Đảng
Trước yêu cầu cấp thiết giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, với nhiệt huyết cứu
nước, với nhãn quan chính trị sắc bén, vượt lên trên hạn chế của các bậc yêu nước đương thời, năm
1911, Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Qua trải
nghiệm thực tế qua nhiều nước, Người đã nhận thức được rằng

10 Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1959, trang 41.
11 Đàng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Dàng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 51, trang 14.
20
một cách rạch ròi: “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người hóc
lột và giống người bị bóc lộf\ từ đó xác định rõ kẻ thù và lực lượng đồng minh của nhân dân các
dân tộc bị áp bức.
Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ tới nhận
thức của Nguyễn Tất Thành-đây là cuộc “cách mạng đến nơi”. Người từ nước Anh trở lại
nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị hướng về tìm hiểu con đường Cách mạng
Tháng Mười Nga, về V.I.Lênin.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến
bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng trận trong Chiến
tranh thế giới thứ nhất họp ở Versailles, (Vécxây, Pháp) , Tổng thống Mỹ Wooderow
Wilson (Uynxơn) tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự quyết cho các nước thuộc địa.
Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt HộinhữngngườiAnNamyêunước ở Pháp
gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho
nhân dân Việt Nam) ngày 18-6-1919. Nhó nười Việt Nam tiêu biểu cho tinh thần yêu nước
ở Pháp, gồm: Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền
và Nguyễn Ái Quốc. Những yêu sách đó dù không được Hội nghị đáp ứng, nhưng sự kiện
này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ai Quốc càng hiểu rõ hơn
bản chất của đế quốc, thực dân.
Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảolần thứ nhất nhữngluận cươngvề vấnđề dântộc và vấn đề thuộc
địa của V.I.Lênin dăng trên báo L'Humanité (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những
luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải dáp những vấn đề co bản
và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của
V.l.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân
tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế
Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12- 1920) tại thành phố Tua
(Tour). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng
sản do V.I.Lênin thành lập).
Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán thành Quốc tế
Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản-tức là Đảng Cộng sản Pháp.
Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng
Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến
quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Trong những năm
1919-1921 Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp Albert Sarraut (An be xa rô) nhiều lần gặp
Nguyễn Ái Quốc mua chuộc và đe dọa. Ngày 30-6-1923, Nguyễn Ái Quốc tới Liên Xô và
làm việc tại Quốc tế Cộng sản ở Mátxcơva, tham gia nhiều hoạt động, đặc biệt là dự và
đọc tham luận tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (17-6 - 8-7-1924), làm việc trực tiếp ở Ban

21
Phương Đông của Quốc tế Cộng sản.
Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục
khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích
cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam.
Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng
về tư tưởng: Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của các nước
thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng
lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời Sống
côngnhân,TạpchỉCộngsản,TậpsanThưtínquốctế,...
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn
Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương. Vừa nghiên cứu lý
luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc tích cực tố cáo, lên án bản chất áp
bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu
gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của chủ
nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành
tuyên truyền tư tưởng về con đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng theo lý luận
Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ gan bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động
Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy” 12. Đảng mà không có
chủ nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Phải
truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Việt Nam.
về chỉnh trị. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và dặc điểm của phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về
cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa ra những luận điểm quan trọng về
cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân
tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới
giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng nhà nước
mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.

12 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 289.
Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một
bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc dịa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ
cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc vào
cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở “chính
quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc
hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề,
vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông
làm động lực cách mạng: “công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông” 13. Do vậy, Người xác định rằng,
cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người” 14.
về vấn đề Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng trước hết phải
có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tố chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.
Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
phát động từ ngày 29-9-1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, rèn luyện cán bộ và
xây dựng phát triển tổ chức của công nhân.
về tổchức. Sau khi lựa chọn con đường cứu nước-con đường cách mạng vô sản-cho dân
tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” 15. Vì vậy, sau một thời gian
hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế về cách mạng vô sản, tháng 11- 1924,
Người đến Quảng Châu (Trung Quốc)-nơi có đông người Việt Nam yêu nước hoạt động-
để xúc tiến các công việc tả chức thành lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn
một số thanh niên tích cực trong Tâmtâmxã, lập ra nhóm Cộngsảnđoàn.
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại Quảng
Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. PIỘi đã công bố chương trình, điều lệ của
Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở)
rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng
sản). Hệ thống tổ cức của Hội gồm 5 cấp: trung ương bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ hay thành bộ,
huyện bộ và chi bộ. Tống bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ đại hội. Trụ sỏ' đặt
tại Quảng Châu.

22
13 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốcgia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 288.
14 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốcgia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 283.
15 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốcgia, Hà Nội, 2011, tập 1, trang 209.
23
Hội đã xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo),
tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, truyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và phương
hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo in bằng tiếng Việt
và ra hàng tuần, mỗi số in khoảng 100 bản. Ngày 21-6-1925 ra số đầu tiên, đến tháng 4-
1927, báo do Nguyễn Ái Quốc phụ trách và ra được 88 số. Sau khi Nguyễn Ái Quốc rời
Quảng Châu (4-1927) đi Liên Xô, những đồng chí khác trong Tổng bộ vẫn tiếp tục việc
xuất bản và hoạt động cho đến tháng 2-1930 với 202 số (từ số 89 trở đi, trụ sở báo chuyển
về Thượng Hải). Một số lượng lớn báo Thanh niên được bí mật đưa về nước và tới các
trung tâm phong trào yêu nước của người Việt Nam ở nuức ngoài. Báo Thanhniên đánh dấu
sự ra dời của báo chí cách mạng Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực
tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực
sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Từ giữa năm 1925 dến tháng
4-1927, Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn luyện tại nhà số 13 và 13 B đường Văn
Minh, Quảng Châu (nay là nhà số 248 và 250). Sau khi được đào tạo, các hội viên được
cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản.
Trong số học viên được đào tạo ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học trường
Đại học Cộng sản phương Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (Trung
Quốc).
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4-1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcova và
sau đó được Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở nhiều nước Châu Âu. Năm 1928, Người
trở về Châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức Thái Lan).
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho những
người Việt Nam yêu nước tại Quảng Châu, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Dông xuất
bản thành cuốn Đường Cách mệnh. Đây là cuốn sách chính trị đầu tiên của cách mạng Việt
Nam, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với
cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên phong. ĐườngCáchmệnh xác định
rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng. Tác phẩm
thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin vào đặc điểm của Việt Nam. Những điều kiện về tư tưởng, lý luận,
chính trị và tổ chức để thành lập Đảng đã được thể hiện rồ trong tác phẩm.
ở trong nước, từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu
phát triển cơ sở ở trong nước, dến đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập. Hội còn chú
trọng xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan
điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tố chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai
cấp công nhân ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ
sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm
1928-1929 theo xu hướng cách mạng vô sản. Đó là tồ chức tiền thân của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
3. Tỉtành lập Đảng Cộng sán Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đáng
Các tố chức cộng sản ra đời
Với sự nỗ lực cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và những hoạt động tích cực của các
cấp bộ trong tố chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên trên cả nước dã có tác dụng
thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý
thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh của
thợ thuyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy 1Ĩ1Ô ngày càng lớn, nội dung chính trị ngày càng
sâu sắc. số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong năm 1928-1929 tăng gấp 2,5 lần
so với 2 năm 1926-1927
Đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam. tổ
chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong
trào. Trước tình hình đó, tháng 3-1929, những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc Kỳ (Trần Văn
Cung, Ngồ Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà 5D, phố Hàm
Long, Hà Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Ngày 17-6-1929, đại
biếu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội),
quyết định thành lập ĐôngDươngCộngsảnĐảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa
liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo Búaliềm làm cơ quan ngôn luận.
Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, những thanh niên yêu nước ở Nam Kỳ
theo xu hướng cộng sản, lần lượt tố chức nững chi bộ cộng sản. Tháng 11-1929, trên CO'
sở các chi bộ cộng sản ở Nam Kỳ, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập tại Khánh Hội, Sài
Gòn, công bố Điều lệ, quyết định xuất bản TạpchíBônsơvích.
Tại Trung Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng (là một tố chức thanh niên yêu nước có cả
Trần Phú, Ngưyễn Thị Minh Khai...) chịu tác động mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách
mạng thanh niên-đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Tháng 9-1929, những người
tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng đảng họp bàn việc thành lập ĐôngDươngCộngsảnLiênđoàn
và ra Tuyên đạt, khẳng định: “...những người giác ngộ cộng sản
chân chính trong Tân Việt Cách mệnh Đảng trịnh trọng tuyên ngôn cùng toàn thể đảng
viên Tân Việt Cách mệnh Đảng, toàn thể thợ thuyền dân cày và lao khổ biết rằng chúng
tôi đã chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản Liên đoàn... Muốn làm tròn nhiệm vụ thì trước
mắt của Đông Dương Cộng sản liên đoàn là một mặt phải xây dựng cơ sở chi bộ của Liên
đoàn tức là thực hành cải tổ Tân Việt Cách mạng Đảng thành đoàn thể cách mạng chân
chính...”16. Đến cuối tháng 12-1929, tại Đại hội các đại biểu liên tỉnh tại nhà đồng chí
Nguyễn Xuân Thanh-ủy viên Ban Chấp hành liên tỉnh (ga Chợ Thượng, huyện Đức Thọ,
tỉnh Hà Tĩnh), nhất trí quyết định “Bỏ tên gọi Tân Việt. Đặt tên mới là Đông Dương
Cộng sản liên đoàn”. Khi đang Đại hội, sợ bị lộ, các đại biểu di chuyển đến địa điểm mới
thì bị địch bắt vào sáng ngày 1-1-1930. “Có thể coi những ngày cuối tháng 12- 1929 là
thời điểm hoàn tất quá trình thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn được khởi đầu từ
sự kiện công bố Tuyên đạt tháng 9-1929”17.
Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 đã
khẳng định bước phát triển về chất của phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh
hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng
sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách
mạng chân chính, không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức
trên cả nước.
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày
càng lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực
lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng
trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước nhu cầu cấp bách của phong trảo cách mạng trong nước, với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản, ngày 23-12-1929, Nguyễn Ái Quốc đến Hồng Kông (Trung
Quốc) triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến
họp tại Cửu Long (Hồng Kông) tiến hành hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành
một chính đảng duy nhất của Việt Nam.
Thời gian Hội nghị từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930. (Sau này Đảng quyết nghị lấy
ngày 3 tháng 2 dương lịch làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng) 18. Trong Bảo cáo gửi Quốc tế
Cộngsản, ngày 18-2-1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng tôi họp vào ngày mồng 6-1.

16 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 1, trang 404.
17 Lịch sử biên niên Đáng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 1, trang 319.
Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên
quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, tôi nói cho họ biết những sai lầm và họ
phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương
lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản... Các đại biểu trở về An Nam
ngày 8-2”19
Thành phần dự Hội nghị: gồm 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh
Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm
và Nguyễn Thiệu), dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-đại biểu của Quốc tế Cộng
sản.
Chương trình nghị sự của Hội nghị:
1. Đại biểu của Quốc tế Cộng sản nói lý do cuộc hội nghị;
2. Thảo luận ý kiến của đại biểu Quốc tế Cộng sản về: a) Việc hợp nhất tất cả các
nhóm cộng sản thành một tổ chức chung, tổ chức nảy sẽ là một Dảng Cộng sản chân
chính; b) Ke hoạch thành lập tổ chức đó.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất:
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng
sản Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
3. Thảo Chính cưong và Điều lệ sơ lược;
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
5. Cử một Ban Trung ương lâm thời...”20.
Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, thông qua các văn
kiện quan trọng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo: ChánhcươngvantàtcủaĐảng, Sáchlược vắn
tắtcủaĐảng,ChươngtrìnhtómtắtcủaĐảng,ĐiềulệvắntắtcủaĐảngCộngsảnViệtNam.
Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức
ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ
nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Quy định điều kiện vào Đảng: là những người
“tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu
và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ

20.

18 Sau này, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) quyết nghị: "... từ nay sẽ lấy
ngày 3 tháng 2 dưcmg lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng”.
19 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2,
trang 19-
phận đảng”21 22.
Hội nghị chủ trương các đại biểu về nước phải tổ chức một Trung ương lâm thời để lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Hệ thống tổ chức Đảng từ chi bộ, huyên bộ, thị bộ hay khu bộ, tỉnh bộ,
thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
Ngoài ra, Hội nghị còn quyết định chủ trương xây đụng các tổ chức công hội, nông hội, cứu
tế, tổ chức phản đế và xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền của Đảng.
Đen ngày 24-2-1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất
được hoàn thành với Quyết nghị của Lâm thời chấp ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp nhận Đông
Dương Cộng sản Liên đoản gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có
giá trị như một Đại hội Đảng. Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêugọi nhân dịp thành lập Đảng.
Mở đầu Lời kêu gọi, Ngưò'i viết: “Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải quyết vấn đề cách mạng
nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ”.
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh chỉnh trị đầu tiên của Đảng
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành
lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng2 đã phản ánh về
đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt
Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam 23.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: Từ việc
phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam-một xã hội thuộc địa nửa phong kiến,
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt
cần phải giải quyết, đi đến xác định đưòttg lối chiến lược của cách mạng Việt Nam “chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, mục
tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng
thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.
Xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến”, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Cương lĩnh đã xác định:
Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành

20 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đcuvị Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 2.
27
21 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đàng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 7-8.
22 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 2-5.

28
độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, trong đó chống đế quốc, giành độc lập cho
dân tộc được đặt ở vị trí hàng đầu.
về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do tổ chức,
b) Nam nữ bình quyền,v.v... c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”. về phương diện
kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn (như
công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho
Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của
công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và
nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ... Những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
về phương diện xã hội và phương diện kinh tế nêu trên vừa phản ánh đúng tình hình kinh
tế, xã hội, cần được giải quyết ở Việt Nam, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện, triệt
đế là xóa bỏ tận gốc ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, đặc biệt là giải phóng cho hai giai cấp công
nhân và nông dân.
Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân-đây là lực lượng
cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các
giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Do vậy,
Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình", “phải thu phục cho được đại
bộ phận dân cày,... hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông... để kéo họ đi vào
phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiếu địa chủ và tư bản An Nam mà
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Đây
là cơ sở của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết
rộng rãi các giai cấp, các tầng lóp nhân dân yêu nước và các tổ chức yêu nước,cách mạng,
trên cơ sở đánh giá đúng đắn thái độ các giai cấp phù hợp với đặc điếm xã hội Việt Nam.
Xác định phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng
định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng , trong bất cứ hoàn cảnh
nào cũng không được thoả hiệp “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông
mà đi vào đường thoả hiệp”. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích hợp để lôi kéo tiểu
tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, nhưng kiên quyết: “bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng (Dảng Lập hiến, v.v.) thì phải dánh dố”.
Xác định tinh thần doàn kết quốc tế, Cương lĩnh chỉ rồ trong khi thực hiện nhiệm vụ
giải phóng dân tộc, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản thế giói, nhất là giai cấp vô sản Pháp. Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt
Nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới: “trong khi tuyên
truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên

23 Theo Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị số 31-TB/TW, ngày 1-6-2011, về một số vấn đề trong bán
thảo Lịch sử Đàng Cộng sòn Việt Nam tập t (1930-1954).
lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới”. Như vậy, ngay từ khi thành lập,
29
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế và mang bản chất quốc tế của giai
cấp công nhân.
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp
phái thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng”24. “Đảng là đội tiên phong của dạo quân vô sản gồm một số lớn của giai
cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”25.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm
cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt
Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản vả chủ yếu của
dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng dắn, sát thực thái độ các giai tầng
xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối
chiến lược và sách của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng,
nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và
sách lược đã đề ra.
Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng Việt Nam cần phải thống nhất các tổ
chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, vói uy tín chính trị
và phương thức hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì họp
nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù
“vắt tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng
Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới.
4. Ỷ nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng bế tắc về dường lối
cứu nước, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại: cách mạng Việt
Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Đó là kết quả của
sự vận động phát triển và thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn
bị tích cực, sáng tạo, bản lĩnh của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự đoàn kết, nhất trí của
những chiến sĩ cách mạng tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: ChủnghĩaMác-Lêninkếthợpvớiphongtràocôngnhânvà

24 Đảng Cộng sàn Việt Nam: Văn kiện Đàng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 4.
25 Đảng Cộng sàn Việt Nam: Vân kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2, trang 6.

30
phong trào yêu nước đã dẫn tới viêch thành lập Đảng, “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã
trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”1.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản
cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng
những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại,
định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Đường
lối đó là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
một cách đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh chính trị đầu tiến đã khẳng
định sự lựa chọn con đường cách mạng cho dân tộc Việt Nam-con đường cách mạng vô
sản. Con đường duy nhất đúng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản phù hợp với nội dung và xu thế của thời
đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại: “Đối với nước ta, không còn
con đường nào khác để có độc lập dân tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. cần
nhấn mạnh rằng đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm
1930 với sự ra đời của Đảng ta”2.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của dân
tộc Việt Nam, trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
II. Lãnh đạo quá trình đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
1. Phong trào cách mạng 1930-1931 và khôi phục phong trào 1932-1935.
Phong trào cách mạng năm 1930-1931 và Luận cương chính trị (10-1930)
Trong thời gian 1929-1933, khi Liên Xô dang đạt được những thành quả quan trọng
trong công cuộc xây dựng đất nước, thì ở các nước tư bản chủ nghĩa diễn ra một cuộc
khủng hoảng kinh tế trên qui mô lớn với những hậu quả nặng nề, làm cho những mâu
thuẫn trong lòng xã hội tư bản phát triển gay gắt. Phong trào cách mạng thế giới dâng cao.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 ảnh hưởng lớn đến các nước thuộc địa và phụ
thuộc, làm cho mọi hoạt động sản xuất đình đốn. Ở Đông Dương, thực dân Pháp tăng
cường bóc lột để bù đắp những hậu quả của cuộc khủng hoảng ở chính quốc, đồng thời

1
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 406.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Đủng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 51, trang 13-
tiến hành một chiến dịch khủng bố trắng nhằm đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930).
Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và tay sai càng phát triển gay gắt.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với hệ thống tổ chức thống nhất và cương lĩnh
chính trị đúng đắn, nám quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam đã “lãnh

32
đạo ngay một cuộc đấu tranh kịch liệt chống thực dân Pháp”26.
Từ tháng 1 đến tháng 4-1930, bãi công của công nhân nổ ra liên tiếp ở nhà máy xi
măng Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), các đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng, nhà
máy dệt Nam Định, nhà máy diêm và nhà máy cưa Bến Thủy... Phong trào đấu tranh của
nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh...
Truyền đơn, cờ đỏ búa liềm xuất hiện trên các đường phố Hà Nội và nhiều địa phưoìig.
Từ tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1-5-1930, nhân dân
Việt Nam kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động với những hình thức đấu tranh phong phú.
Riêng trong tháng 5-1930 đã nổ ra 16 cuộc bãi công của công nhân, 34 cuộc biểu tình của
nông dân và 4 cuộc đấu tranh của các tầng lớp nhân dân thành thị. Từ tháng 6 đến tháng
8- 1930 đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh, nổi bật nhất là cuộc tổng bãi công của công nhân
khu công nghiệp Bến Thủy-Vinh (8-1930), đánh dấu “một thời kỳ mới, thời kỳ đấu tranh
kịch liệt đã đến”27.
Ở vùng nông thôn hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nổ ra nhiều cuộc biểu tình lớn của
nông dân. Tháng 9-1930, phong trào cách mạng phát triển đến dỉnh cao với những hình
thức đấu tranh ngày càng quyết liệt. Cuộc biểu tình của nông dân Hưng Nguyên, ngày 12-
9- 1930, bị máy bay Pháp ném bom giết chết 171 người. Như lửa đổ thêm dầu, phong
trào cách mạng bùng lên dữ dội.
Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở
nhiều nơi tan rã. Các tổ chức đảng lãnh đạo ban chấp hành nông hội ở thôn, xã đứng ra
quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông thôn, thực hiện chuyên chính với kẻ thù, dân chủ
với quần chúng nhân dân, làm chức năng, nhiệm vụ một chính quyền cách mạng dưới
hình thức các uỷ ban tự quản theo kiểu Xô viết.
Tháng 9-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng gửi thông tri cho Xứ ủy Trung Kỳ
vạch rổ chủ trương bạo động riêng lẻ trong vài địa phương lúc đó là quá sớm vì chưa đủ
điều kiện. Trách nhiệm của Đảng là phải tổ chức quần chúng chống khủng bố, giữ vững
lực lượng cách mạng, “duy trì kiên cố ảnh hưởng của Đảng, của Xô viết trong quần

26 Hồ Chí Minh Toctn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 20.
27 Báo Người lao khô, cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung Kỳ, số 13, ngày 18-9-1930.
33
chúng, để đến khi thất bại thì ý nghĩa Xô viết ăn sâu vào trong óc quần chúng và lực lượng
của Đảng và Nông hội vẫn duy trì”28.
Khi chính quyền Xô viết ra đời và là đỉnh cao của phong trào cách mạng. Từ cuối
năm 1930, thực dân Pháp tập trung mọi lực lượng đàn áp khốc liệt, kết hợp thủ đoạn bạo
lực với những thủ đoạn chính trị như cưỡng bức dân cày ra đầu thú, tổ chức rước cờ vàng,
nhận thẻ quy thuận... Đầu năm 1931, hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu
nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù đày. Tháng 4-1931, toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương
Đảng bị bát, không còn lại một ủy viên nào 29. “Các tổ chức của Đảng và của quần chúng
tan rã hầu hết”30.
Mặc dù bị tổn thất nặng nề, nhưng phong trào cách mạng 1930-1931 có ý nghĩa lịch
sử quan trọng đối với cách mạng Việt Nam, đã “khẳng định trong thực tế quyền lãnh đạo
và năng lực lãnh đạo cách mạng của giai cấp vô sản mà đại biểu là Đảng ta; ở chỗ nó đem
lại cho nông dân niềm tin vững chắc vào giai cấp vô sản, đồng thời đem lại cho đông đảo
quần chúng công nông lòng tự tin ở sức lực cách mạng vĩ đại của mình.. .” 31.
Phong trào cách mạng đã rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu
nước. Đặc biệt, “Xô viết Nghệ An bị thất bại, nhưng đã có ảnh hưởng lớn. Tinh thần anh
dũng của nó luôn luôn nồng nàn trong tâm hồn quần chúng, và nó đã mở đưcmg cho thắng
lợi về sau”32.
Cao trào cũng để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu “về kết hợp hai nhiệm vụ
chiến lược phản dế và phản phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân với
phong trào đấu tranh của nông dân, thực hiện liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở nông thôn với phong trào cách mạng ở
thành thị, kết họp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang v.v.. .”33.
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 10-1930
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ
nhất tại Hương Cảng tức Hồng Kông (Trung Quốc), quyết định đổi tên Đảng Cộng sản
Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí
thư của Đảng.

28 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập 2,
trang 83.
29 Đảng Cộng sàn Việt Nam: Vãn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6,
trang 332.
30 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 20.
31 Lê Duẩn: Dưới lá cờ vổ vang của Đáng vì dộc lập tự do, vì chú nghĩa xã hội tiến lên giành những
thắng lợi mới. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, trang 38-39.
32Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 20.
33 Trường Chinh: Đời đời nhớ ơn Các Mác và di theo con đường Các Mác đã vạch ra, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1968, trang 52.
Luận cương chính trị của Đảng Cộng san Đông Dương có các nội dung chính':
Xác định mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao
Miên là “một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ,
phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”.
về phương hướng chiến lược của cách mạng, Lưận cương nêu rõ tính chất của cách
mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư scm dân quyền”, “cỏ tính chất
thể địa và phản đế”. Sau đó sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời. kỳ tư bẳn mà tranh đấu
thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải tranh đấu để đánh đổ các
di tích phong kiến, đảnh để các cách bóc lột theo lối tiền tiền tư bẩn và để thực hành thô
địa cách mạng cho triệt dể” và “đánh đẻ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương
hoàn toàn độc lập”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau:


đánh đổ để quốc chủ nghĩa mới phả được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa
được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đảnh đố được đế quốc chủ
nghĩa”. Luận cương nhấn mạnh: “Vắn đề thổ địa là cải cốt của cách mạng tư sản dân
quyền”, là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.
Giai cấp vô sản và nông dân là hai động chính của cách mạng tư sản dân quyền,
trong đó giai cấp vô sản là động lực chính và mạnh.
về lãnh đạo cách mạng, Luận cương khẳng định: “điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi
của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị
đúng có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà
trưởng thành”.
về phương pháp cách mạng, Luận cương nêu rõ phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng
về con đường “võ trang bạo động”. Đốn lúc có tình thế cách mạng, “Đảng phải lập tức
lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho
công nông”. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân theo
khuôn phép nhà binh”.
Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế giai
cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là
giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa. 34

34 Nhù ng đoạn trích Luận cương chính trị cùa Đung Cộng sán Đỏng Dương (Dự án để thào luận trong
Đáng) đều dẫn theo Đàng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tập
2, trang 88-103. /
Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã xác định nhiều vấn đề cơ bản về chiến lược
cách mạng, về cơ bản thống nhất với nội dung của Chính cương, sách lược vắn tắt của Hội
nghị thành lập Đảng tháng 2-1930. Tuy nhiên, Luận cương đã không nêu rõ mâu thuẫn
chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa, không nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; không đề ra được một chiến lược
liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và tay
sai. Nguyên nhân của những hạn chế đó là do nhận thức chưa đầy đủ về thực tiễn cách
mạng thuộc địa và chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh, nhấn mạnh một chiều đấu
tranh giai cấp đang tồn tại trong Quốc tế Cộng sản và một số Đảng Cộng sản trong thời
gian đó. Những hạn chế của Đảng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp
và vấn đề dân tộc, giữa hai nhiệm vụ giải phóng dân tộc và cách mạng ruộng đất, cũng
như trong việc tập họp lực lượng cách mạng còn tiếp tục kéo dài trong nhiều năm sau.
Sau hội nghị Trung ương tháng 10-1930 Đảng đã có chủ trương mới. Ngày 18-11-
1930 Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị về vấn đề thành lập “Hội phản đế Đằng minh ”, là
tổ chức mặt trận đầu tiên để tập hợp đoàn kết các giai cấp tầng lớp dân dân tộc, khẳng
định vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cuộc đau tranh khôi phục tố chức và phong trào cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ
nhất (3-1935)
Do bị tổn thất nặng nề, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn đấu tranh cực
kỳ gian khổ. Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thôngcáo về việc đế quốc Pháp
buộc dân cày ra đầu thú, vạch rõ thủ đoạn của kẻ thù và đề ra các biện pháp hướng dẫn quần
chúng đấu tranh. Hội nghị Trung ương (3-1931) quyết định nhiều vấn đề thúc đẩy đấu
tranh. Năm 1931, các đồng chí Trung ương bị địch bắt. Trần Phú bị địch bắt ngày 18-4-
1931 tại Sài Gòn.
Trong khi thực dân Pháp khủng bố ngày càng dữ dội, tư tưởng hoang mang dao động
xuất hiện trong quần chúng và cả một số đảng viên, nhưng chỉ là số ít, “đa số đồng chí hết
sức trung thành, hiến dâng cho Đảng đến giọt máu cuối cùng” 1. Xứ ủy Trung Kỳ không
nhận rõ điều đó, nên đã đề ra chủ trương “thanh trừ trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận
rễ”. Tháng 5-1931, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị nghiêm khắc phê phán chủ
trương sai lầm về thanh Đảng của xứ ủy Trung Kỳ và vạch ra phương hướng xây dựng
Đảng, “làm cho Đảng bôn-sê-vích hóa để cách mạng hóa quần chúng, qua đó mà

1
Đảng Cộng sàn Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tập 3, trang 157.
duy trì cơ sở, phát triển phong trào cách mạng, đồng thời qua thử thách đấu tranh mà vận
động phát triển Đảng”35.
Ngày 11-4-1931, Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông
Dương là chi bộ độc lập. Đó là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trong nhà tù đế quốc, các đảng viên của Đảng nêu cao khí tiết người cộng sản.
Tổng Bí Lhư Trần Phú hy sinh ngày 6-9-1931 tại Nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn).
Trước lúc hy sinh còn căn dặn các đồng chí của mình “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!”.
Nằm trong xà lim án chém, Nguyễn Đức Cảnh vẫn viết tổng kết công tác vận động công
nhân. Người thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng trước lúc hy sinh khẳng khái nói: “con
đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng”. Những đảng viên cộng sản
trong các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), Vinh, Hải Phòng, Côn Đảo... bí
mật thành lập nhiều chi bộ để lãnh đạo đấu tranh chống khủng bố, chống chế độ nhà tù hà
khắc, đòi cải thiện sinh hoạt... Cuộc đấu tranh phản đối án tử hình Lý Tự Trọng nổ ra ở
Khám Lớn (11- 1931) gây náo động cả thành phố Sài Gòn. Anh chị em tù ở Hỏa Lò tuyệt
thực phản đối vụ án tử hình Nguyễn Đức Cảnh. Cuộc đấu tranh chống chế độ nhà tù hà
khắc ở Kon Tum diễn ra đẫm máu...
Nhiều chi bộ nhà tù tổ chức huấn luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về lý luận Mác-
Lênin, đường lối chính trị của Đảng, kinh nghiệm vận động cách mạng; tố chức học văn
hóa, ngoại ngữ v.v. Nhiều tài liệu huấn luyện đảng viên được biên soạn ngay trong tù
như: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Gia đình và Tổ quốc, Lịch sử tóm tắt ba tể chức quốc tế (chủ yếu là Quốc tế
Cộng sản), Những vần đề cơ bản của cách mạng Đông Dương. Một số tác phẩm của chủ nghĩa Mác-
Lênin như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Tư bản, Làm gì?, Bệnh ấu trĩ “tả” khuynh trong phong trào cộng sản,
HaisáchlượccủaĐảngxãhộidânchủ... được dịch tóm tắt ra tiếng Việt.
Các chi bộ đảng trong nhà tù còn ra báo bí mật để phục vụ việc học tập và đấu tranh
tư tưởng, ở nhà tù Hỏa Lò có các tờ báo Đuốc đưa đường và Con đường chính. Ở Côn Đảo có
báo Ngườitùđỏ và tạp chí Ỷkiếnchung...
Ngày 6-6-1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh ở Hồng Kông bắt
giam. Đầu năm 1934, sau khi ra tù, trở lại làm việc ở Quốc tế Cộng sản (Mátxcơva-Liên
Xô).
Đầu năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số
đồng chí công bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương và các chương trình hành
động của Công hội, Nông hội, Thanh niên cộng sản đoàn...

35 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tập 3, trang 157.
36
Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương (15-6-1932) vạch ra nhiệm vụ đấu
tranh trước mắt để khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng, đặc
biệt cần phải “gây dựng một đoàn thể bí mật, có kỷ luật nghiêm ngặt, cứng như sắt, vững
như đồng, tức Đảng Cộng sản để hướng đạo quần chúng trên con đường giai cấp chiến
đấu”36.
Khi Đảng và phong trào cách mạng còn gặp nhiều khó khăn, tháng 3-1933, đồng chí
Hà Huy Tập (Hồng Thế Công) đã xuất bản Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương, bước
đầu tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, khắng định công lao và sáng kiến của dồng
chí Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng.
Từ ngày 2 đến ngày 9-5-1933, Tòa án Đại hình Sài Gòn mở phiên tòa xét xử 120
chiến sĩ cộng sản, trong đó có các đồng chí Ngô Gia Tự, Nguyễn Chí Diểu, Lê Văn
Lương, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp, Bùi Lâm và đày ra Côn Đảo.
Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài của
Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập lãnh đạo, chỉ đạo phong trào trong nước như
chức năng, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương.
Đến đầu năm 1935, hệ thống tổ chức của Dảng được phục hồi. Đó là CƯ sở để tiến
tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng.
Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao (Trung Quốc),
đề ra ba nhiệm vụ trước mắt: 1- Củng cố và phát triển Đảng, 2- Đẩy mạnh cuộc vận động
tập hợp quần chúng, 3- Mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh, ủng hộ
Liên Xô và ủng hộ cách mạng Trung Quốc... Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều
lệ Đảng và các nghị quyết về vận động quần chúng. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung
ương mới do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, bầu đoàn đại biếu di dự Đại hội VII Quốc
tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935) vẫn chưa đề ra một chủ trương chiến lược phù
hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, chưa đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu và tập họp lực lượng toàn dân tộc. Đại hội Đảng vẫn cho rằng, “người ta không làm
cách mạng phản đế, sau đó mói làm cách mạng điền địa. Cách mạng sẽ chỉ thẳng lợi với
điều kiện hai cuộc cách mạng ấy gán bó chặt chẽ với nhau và cùng đi với nhau” 37. “Chính
sách của Đại hội Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong
nước lúc bấy giờ”38.

36 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đcmg Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tập 4, trang 14.
37 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 5, trang 419.
38 HỒ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 21.
37
Đại hội lần thứ nhất đánh dấu sự phục hồi hệ thốn? tổ chức của Đảng và phong trào
cách mạng quần chúng, tạo điều kiện để bước vào một cao trào cách mạng mới.
2. Phong trào dãn chủ 1936-1939
Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng
Để giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933, giai cấp tư
sản ở một số nước như Đức, Italia, Tây Ban Nha... chủ trương dùng bạo lực đàn áp phong
trào đấu tranh trong nước và chuẩn bị phát động chiến tranh thế giới để chia lại thị trường.
Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và tạm thời thẳng thế ở một số nơi. Nguy cơ chủ nghĩa phát
xít và chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh quốc tế.
Quốc tế Cộng sản họp Đại hội VII tại Mátxcơva (Liên Xô) (7-1935), xác định kẻ thù
nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít. Nhiệm vụ trước mắt của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến
tranh bảo vệ dân chủ và hòa bình. Đe thực hiện nhiệm vụ đó, giai cấp công nhân các nước
trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ, lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản Đông Dương dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản có Lê Hồng Phong,
Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Nọn. Tổng Bí thư Lê Hồng Phong được bầu làm ủy
viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.
Trong thời gian này, các đảng cộng sản ra sức phấn đấu lập mặt trận nhân dân chống
chủ nghĩa phát xít. Đặc biệt, Mặt trận nhân dân Pháp thành lập từ tháng 5-1935 do Đảng
Cộng sản Pháp làm nòng cốt, đã giành được thắng lợi vang dội trong cuộc tổng tuyển cử
năm 1936, dẫn đến sự ra đời của Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp. Chính phủ này ban
bố nhiều quyền tự do dân chủ, trong đó có những quyền được áp dụng ở thuộc địa, tạo
không khí chính trị thuận lợi cho cuộc đấu tranh dòi các quyền tự do, dân chủ, cải thiện
đời sống của nhân dân các nước trong hệ thống thuộc địa Pháp. Nhiều tù chính trị cộng
sản được trả tự do. Các đồng chí đã tham gia ngay vào công việc lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng góp phần rất quan trọng thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển.
ở Việt Nam, mọi tầng lớp xã hội đều mong muốn có những cải cách dân chủ nhằm
thoát khỏi tình trạng ngột ngạt do khủng hoảng kinh tể và chính sách khủng bố trắng do
thực dân Pháp gây ra. Đảng Cộng sản Đông Dương đã phục hồi hệ thống tổ chức sau một
thời gian đấu tranh cực kỳ gian khổ và tranh thủ cơ hội thuận lợi để xây dựng, phát triển
tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng rộng rãi.
Ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại Thượng Hải
(Trung Quốc), do Lê Hồng Phong chủ trì, có Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên dự, nhằm “sửa
chữa những sai lầm” trước đó và “định lại chính sách mới” dựa theo những nghị quyết
38 n„
1
của Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản . Hội nghị xác định nhiệm vụ trước mắt là chống
phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân
chủ, cơm áo và hòa bình; “lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi chính để bao gồm các
giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân
tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ đơn sơ” 2. Hội
nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang các hình thức tổ
chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp, kết hợp với bí mật,
bất hợp pháp. Đồng chí Hà Huy Tập là Tống Bí thư của Đảng từ tháng 8-1936 đến tháng
3-1938.
Các Hội nghị lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937) Ban Chấp hành Trung ương
Đảng bàn sâu hon về công tác tổ chức của Đảng, quyết định chuyển mạnh hơn nữa về
phương pháp tố chức và hoạt động để tập hợp đông đảo quần chúng trong mặt trận chống
phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình. Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tháng 3-1938 nhấn mạnh “lập Mặt trận dân chủ thống nhất là một nhiệm vụ
trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại3.
Cùng với việc đề ra chủ trương cụ thế, trước mắt để lãnh đạo phong trào dân chủ
1936-1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ giữa
hai nhiệm vụ phản đế và điền địa. Chỉ thị của Ban Trung ương Gửi các tố chức của Đảng (26-7-
1936) chỉ rõ, “ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan
tâm đến sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp, có thể sẽ nảy sinh những khó khăn để
mở rộng phong trào dân tộc”4.
Trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới (tháng 10-1936), Đảng nêu quan điểm:
“Cuộc dân tộc giải phóng không nhất thiết phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa.
Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền
địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa thì cần phải đánh đố đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ
không xác đáng”. “Nói tóm lại, nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc
tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa
là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh
cho được toàn thắng”5. Với văn kiện này, Trung ương Đảng đã nêu cao tinh thần đấu tranh,
thẳng thắn phê phán quan điểm chưa đúng và bước đầu khắc phục hạn chế trong Luậncương
chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10-1930. Đó cũng là nhận thức mới, phù hợp với
tinh thần trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tại Hội
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 21.
2
Đàng Cộng sán Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 144.
’ Đảng Cộng sàn Việt Nam: Văn kiện Đủng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 350
và 360.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 74.
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, trang 152.
39
nghị thành lập Đảng (2-1930) và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái
Quốc.
Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa bình
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc vận dộng dân chủ diễn ra trên quy mô rộng lớn, lôi
cuốn đông đảo quần chúng tham gia với nhũng hình thức đấu tranh phong phú.
Nắm cơ hội Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp quyết định trả tự do một số tù chính
trị, thi hành một số cải cách xã hội cho lao dộng ở các thuộc địa Pháp và cử một ủy ban
điều tra thuộc địa đến Đông Dương, Đảng phát động một phong trào đấu tranh công khai
của quần chúng, mở đầu bằng cuộc vận động lập “ủy ban trù bị Đông Dương đại hội”
nhằm thu thập nguyện vọng quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông
Dương. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, quần chúng sôi nổi tổ chức các cuộc mít tinh,
hội họp để tập hợp “dân nguyện”. Trong một thời gian ngắn, ỏ’ khắp các nhà máy, hầm
mỏ, đồn điền, từ thành thị đến nông thôn đã lập ra các “ủy ban hành động” để tập họp
quần chúng. Riêng ở Nam Kỳ có 600 ủy ban hành động.
Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của chính phủ Pháp là Gôđa (Godard) đi kinh lý
Đông Dương và Brêviê (Brévié) sang nhận chức toàn quyền Đông Dương, Đảng vận
động hai cuộc biểu dương lực lượng quần chúng dưới danh nghĩa “đón rước”, mít tinh,
biểu tinh, đưa đơn “dân nguyện”.
Ngày 5-5-1937, Tổng Bí thư Hà Huy Tập với bút danh Thanh Hương xuất bản cuốn
Tờrốtxìcy và phản cách mạng phê phán những luận điệu “tả” khuynh của các phần tử Tờrốtkít ở
Việt Nam như Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường,... góp phần xây dựng Đảng về tư tưởng,
chính trị và tổ chức.
Các báo chí tiếng Việt và tiếng Pháp của Đảng, Mặt trận Dân chủ Đông Dương ra
đời. Nhiều sách chính trị phổ thông được xuất bản để giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lênin và
chính sách mới của Đảng. Cuốn vấnđềdâncày (1938) của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân
Đình (Võ Nguyên Giáp) tố cáo tội ác của đế quốc và phong kiến đối với nông dân và làm
rõ vai trò quan trọng của nông dân trong cách mạng. Cuốn Chủ nghĩa Các Mác của Hải Triều
được in và phát hành năm 1938. Ngoài ra còn một số cuốn sách giới thiệu về Liên Xô,
cách mạng Trung Quốc, Mặt trận nhân dân Pháp và Mặt trận nhân dân Tây Ban Nha.
Theo sáng kiến của Đảng, Hội truyền bả quốc ngữ ra đời. Từ cuối năm 1937 phong trào
truyền bá quốc ngữ phát triển mạnh.

40
Hội nghị Trung ương Đảng (29 - 30-3-1938) quyết định lập Mặt trận Dân chủ Đông
Dương để tập hợp rộng rãi lực lượng, phát triển phong trào. Hội nghị bầu đồng chí Nguyễn
Văn Cừ làm Tống Bí thư của Đảng.
Các hình thức tổ chức quần chúng phát triển rộng rãi, bao gồm các hội tương té, hội
ái hữu. Trong những năm 1937-1938, Mặt trận Dân chủ còn tổ chức các cuộc vận động
tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Hội đồng
kinh tế lý tài Đông Dương.
Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ xuất bản cuốn sách Tự chí trích thẳng thắn chỉ
rõ những sai lầm, khuyết điểm, nêu rõ những bài học cần thiết trong lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng. Đó là tác phẩm có ý nghĩa lý luận, thực tiễn về xây dựng Đảng, tự phê bình và phê
bình để nâng cao năng lực lãnh đạo và bản chất cách mạng của Đảng.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), thực dân Pháp đàn áp cách mạng.
Đảng rút vào hoạt động bí mật. Cuộc vận động dân chủ kết thúc. Đó thực sự là một phong
trào cách mạng sôi nổi, có tính quần chúng rộng rãi, nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt là
chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Đảng nhận
thức đầy đủ ràng, “những yêu sách đó tự nó không phải là mục đích cuối cùng”, “bằng cải
cách không thể nào thay đổi một cách căn bản trật tự xã hội cũ”*. Song muốn đi đến mục
đích cuối cùng, cách mạng phải vượt qua nhiều chặng đường quanh co, từ thấp đến cao,
giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành tháng lợi hoàn toàn.
Qua cuộc vận động dân chủ, Đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người
được tập hợp, giác ngộ và rèn luyện. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Tổ
chức Đảng đuực củng cố và phát triển. Đến tháng 4-1938, Đảng có 1.597 đảng viên hoạt
động bí mật và hơn 200 đảng viên hoạt động công khai, số hội viên trong các tổ chức quần
chúng công nhân, nông dân, phụ nữ, học sinh, cứu tế là 35.009 người39 40.
Đảng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm mới. Đó là kinh nghiệm về chỉ đạo chiến lược:
giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt; về xây dựng một
mặt trận thống nhất rộng rãi phù họp với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, phân hóa và cô
lập cao độ kẻ thù nguy hiếm nhất; về kết hợp các hình thức tổ chức bí mật và công khai đế
tập hợp quần chúng và các hìn thức, phương pháp đấu tranh; tổ chức Đông Dương đại hội,
đấu tranh nghị trường, trên mặt trận báo chí, đòi dân sinh, dân chủ, bãi công lớn của công
nhân vùng mỏ (12-11-1936), kỷ niệm Ngày Quốc tế lao động 1-5. Thực tiễn phong trào chỉ
ra rằng: “Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần

39 Lê Duấn: Dưới lá cờ vỏ vang cùa Đáng, vì độc lập tự do, vì chú nghĩa xã hội, tiến lên giành những
thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975, trang 38.
40 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Đủng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6,
trang 374.
chúng nhân dân ủng hộ và hăng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào
quần chúng”41.
Tháng 10-1938, Nguyễn Ái Quốc rời Mátxcơva (Liên Xô) trở lại Trung Quốc trên lộ
trình trở về Tổ quốc. Năm 1939, từ Trung Quốc, Người đã gửi nhiều thư cho Trung ương
Đảng ở trong nước, truyền đạt quan điểm của Quốc tế Cộng sản và góp nhiều ý kiến quan
trọng về sự lãnh đạo của Đảng.
Cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đã làm cho trận địa và lực lượng cách mạng
được mở rộng ở cả nông thôn và thành thị, thực sự là một bước chuẩn bị cho thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám sau này.
3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945
Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giói thứ hai bùng nổ. Chính phủ Đalađiê (Daladier)
thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách
mạng ở thuộc địa. Mặt trận Nhân dân Pháp tan vỡ. ở Đông Dương, bộ máy đàn áp được
tăng cường, lệnh thiết quân luật được ban bố. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương
ra Nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng
pháp luật, giải tán các hội, đoàn, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ
tập đông người...
Tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ của Thủ tướng Pêtanh (Pétain) ký
văn bản đầu hàng Đức. Tưóng Đờ Gôn (Charles De Gaulle) ra nước ngoài để xây dựng
lực lượng kháng chiến chống Đức. Sau khi chiếm một loạt nước châu Âu, tháng 6-1941
Đức tiến công Liên Xô.
Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy
thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng; thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy”
nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Tháng
9-1940, quân phiệt Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và câu kết với Nhật
để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm cho nhân dân Đông Dương phải chịu
cảnh “một cổ hai tròng”.
Từ giữa năm 1941, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển. Tháng 12-
1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Quân phiệt Nhật lần lượt đánh chiếm nhiều
thuộc địa của Mỹ và Anh ở trên biển và trong đất liền.
Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt động
bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, dồng thời vẫn chú trọng các đô thị. Ngày

41 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 7, trang 21.
42
29-9-1939, Trung ương Đảng gửi toàn Đảng một thông báo quan trọng chỉ rõ: “Hoàn cảnh
Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”42.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1 1-1939) tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia
Định) phân tích tình hình và chỉ rõ: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương
không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách
ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. Hội nghị nhấn
mạnh “chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giò’ cũng phải thay đổi ít nhiều cho
hợp với tình thế mới”. “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm
tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái
mục đích ấy mà giải quyết”43. Khấu hiệu “cách mạng ruộng đất” phải tạm gác và thay
bằng các khấu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay lãi nặng, tịch thu ruộng đất của đế
quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc chia cho dân cày. Hội nghị chủ trương thành
lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, các giai
cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dưo’ng nhằm đánh đố đế quốc Pháp và tay
sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 đã đáp ứng yêu đúng cẩu
khách quan của lịch sử, đưa nhân dân bước vào thời kỳ trực tiếp vận động giải phóng dân
tộc.
Ngày 17-1-1940, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt. Nhiều đồng chí Trung
ương cũng sa vào tay giặc.
Tuy nhiên, hơn một tháng sau khi Nhật vào Đông Dương, Hội nghị cán bộ Trung
ương họp tháng 11-1940 lập lại Ban Chấp hành Trung ương và cho rằng: “Cách mạng
phản đế và cách mạng thố địa phải đồng thời tiến, không thế cái làm trước, cái làm sau”.
“Mặc dù lúc này khẩu hiệu cách mạng phản đế-cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và
thiết dụng hơn song nếu không làm được cách mạng thố địa thì cách mạng phản đế khó
thành công. Tình thế hiện tại không thay đổi gì tính chất cơ bản của cuộc cách mạng tư sản
dân quyền Đông Dương”44. Trung ương Đảng vẫn còn trăn trở, chưa thật dứt khoát với chủ
trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra tại Hội nghị tháng 11-
1939.
Saư 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về
nước và làm việc ở Cao Bằng. Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ

42 Đẳng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đủng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6,
trang 756,
536.
43 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6,
trang 536,
43
538. ^
44 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7,
trang 68
và 74.
tám Ban chấp hành Trung ương Đảng. “Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng trước
mắt của Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt Minh, khẩu
hiệu chính là: Đoàn kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hoãn cách
mạng ruộng đất”45. Trung ương bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Hội nghị
Trung ương nêu rõ những nội dung quan trọng:
Thứnhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách
là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp-Nhật, bởi vì dưới hai tầng
áp bức Nhật-Pháp, “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy
vong không lúc nào bằng”46.
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đồi chiến lược” và giải thích:
“Cuộc cách mạng ở Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một
cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. Trung ương
Đảng khẳng định: “Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm
cách mạng giải phóng dân tộc”47. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định tiếp tục
tạm gác khâu hiệu “đánh dồ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các khẩu
hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng
đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Hội nghị chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong
lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, nếu không dòi được độc lập
tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó
là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc”.
Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi
hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp-Nhật, các dân tộc trên cõi
Đông Dương sẽ “tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành lập một
quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng” 48. Từ
quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận
riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung.
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “không phân biệt thợ thuyền, dân cày,
phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống
nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc”. Các

45 Hồ Chỉ Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 23.
46 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang I 12.
119. 47 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang 118,
48A Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đòng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang 113.
44
tổ chức quần chúng trong mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”. Trong việc xây
dựng các đoàn thể cứu quốc, “điều cốt yếu không phải những hội viên phải hiểu chủ nghĩa
cộng sản, mà điều cốt yếu hơn hết là họ có tinh thần cứu quốc và muốn tranh đấu cứu quôc
.
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể
dân tộc”49 50. Hội nghị chỉ rõ, “không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xô
viết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hiệp và thành lập chính phủ dân chủ cộng hòa” 51.
Thứ sáu, Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của
Đảng và nhân dân; “phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội
thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”. Trong những hoàn cảnh nhất định thì “với lực
lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương
cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn” 52. Hội
nghị còn xác định những điều kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tồng khởi
nghĩa.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương
chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, khắc phục triệt để những hạn chế của
Luận cương chính trị tháng 10-1930, khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân
tộc đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Đó là ngọn cờ dẫn đường cho toàn dân Việt Nam đấy
mạnh công cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành
độc lập tự do.
Phong trào chống Pháp-Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ
trang:
Ngày 27-9-1940, nhân khi quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật tiến đánh phải rút chạy qua
đường Bắc Sơn-Thái Nguyên, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương
nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ Bắc Sơn. Đội du kích Bắc Sơn
được thành lập. Khởi nghĩa BắcSơn là bước phát triển của đấu tranh vũ trang vì mục tiêu giành
độc lập.
Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi. Theo chủ
trương của Xứ ủy Nam Kỳ, một kế hoạch khỏi nghĩa vũ trang được gấp rút chuẩn bị.

49 Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đảng Toàn tập,Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội,
Tháng 11-1940, Hội nghị cán bộ Trung ương họp ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh)
quyết định duy trì và củng cố lực lượng vũ trang ở Bắc Sơn và đình chỉ chủ trương phát
động khởi nghĩa ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, chủ trương hoãn cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ chưa
được triển khai thì cuộc khởi nghĩa đã nổ ra đêm ngày 23-11-1940. Quân khởi nghĩa đánh
chiếm nhiều đồn bốt và tiến công nhiều quận ly. Chính quyền cách mạng được thành lập
ở một số địa phương và ban bố các quyền tự do dân chủ, mở các phiên tòa để xét xử phản
cách mạng... Cuộc khởi nghĩa bị đế quốc Pháp đàn áp khốc liệt, làm cho lực lượng cách
mạng bị tổn thất nặng nề, phong trào cách mạng Nam Kỳ gặp khó khăn trong nhiều năm
sau.
Khói lửa của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chưa tan, ngày 13-1-1941, một cuộc binh
biến nố ra ở đồn Chợ Rạng (huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) do Đội Cung chỉ huy,
nhưng cũng bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng.
Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô Lương là “nhũng tiếng súng
báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các dân
tộc ở một nước Đông Dương”53.
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941), Nguyễn Ái
Quốc gửi thư (6-6-1941) kêu gọi đồng bào cả nước: “Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng cao
hơn hết thày, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu
giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”54.
Pháp-Nhật ngày càng tăng cường đàn áp cách mạng Việt Nam. Ngày 26-8-1941,
thực dân Pháp xử bắn Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần,
Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn, Gia Định. Lê Hồng Phong hy sinh trong nhà tù Côn
Đảo (6-9-1942). Tháng 8-1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh trên đường đi
công tác ở Trung Quốc cũng bị quân Trung Hoa dân quốc bắt giữ hơn một năm (từ tháng
8-1942 đến tháng 9-1943). Trước quân thù tàn bạo các chiến sĩ cộng sản đã nêu cao ý chí
kiên cường bất khuất và giữ vững niềm tin vào thang lợi tất yếu của cách mạng.
Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, nêu rõ: “Việt Nam độc lập đồng
minh (Việt Minh) ra đời”. Chương trình Việt Minh đáp ứng nguyện vọng cứu nước của
mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh phát triển rất mạnh, mặc dù bị kẻ thù khủng
bố gắt gao.
2000, tập 7, trang 112,
50 Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đáng Toàn tập,Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội,
2000, tập 7, trang 114.
51 Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đáng Toàn tập,Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội,
2000, tập 7, trang 127.
52 Đàng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đảng Toàn tập,Nxb Chính trị quốc gia,Hà Nội,
2000, tập 7, trang 132.
45
53 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn lập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, trang 109.
54 Hồ Chỉ Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, trang 230.
46 (ì/
Đảng tích cực chăm lo xây dựng đảng và củng cố tổ chức, mở nhiều lớp huấn luyện
ngắn ngày, đào tạo cán bộ về chính trị, quân sự, binh vận. Nhiều cán bộ, đảng viên trong

47
các nhà tù Sơn La, Chợ Chu, Buôn Ma Thuột... vượt ngục về địa phương tham gia lãnh
đạo phong trào.
Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc
Yên) nay thuộc Hà Nội, đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào quần
chúng rộng rãi và đều khắp nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa trong tương lai
có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não của quân thù.
Đảng và Việt Minh cho xuất bản nhiều tờ báo: Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặtxiềng, Cứu quốc,
Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong, Kèn gọi lỉnh, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập, v.v...
Trong các nhà tù đế quốc, những chiến sĩ cách mạng cũng sử dụng báo chí làm vũ khí đấu
tranh, ra các tờ báo Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng sông
Công (Bá Vân)...
Năm 1943, Đảng công bố bản ĐecươngvềvănhóaViệtNam, xác định văn hóa cũng là một
trận địa cách mạng, chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân
tộc, khoa học và đại chúng. Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu
hút trí thức và các nhà hoạt động văn hóa vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do.
Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước thành lập Đảng Dân
chủ Việt Nam (6-1944). Đảng này tham gia Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động,
góp phần mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc.
Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt và người Pháp. Từ
Trung ương đến các địa phương đều có ban binh vận.
Việt Minh là mặt trận đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn
luyện lực lượng chính trị rộng lớn, một lực lượng cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong
tổng khởi nghĩa giành chính quyền sau này.
Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng chú trọng chuẩn bị lực
lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đội du kích Bắc
Sơn được duy trì và phát triển thành Cứu quốc quân. Sau 8 tháng hoạt động gian khổ, một
bộ phận Cứu quốc quân vượt khỏi vòng vây của quân Pháp, rút lên biên giới phía Bắc,
nhưng giữa đường đi bị phục kích và tổn thất nặng. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại đã
phân tán lực lượng hoạt động tại chỗ, phát triển cơ sở chính trị.
Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập một đội vũ trang ở Cao Bằng
để thúc đẩy phát triển cơ sở chính trị và chuấn bị xây dựng lực lượng vũ trang. Tháng 12-
1941, Trung ương ra thông cáo CuộcchiếntranhTháiBìnhDươngvàtráchnhiệmcần
kíp của Đảng, chỉ rõ các đảng bộ địa phương cần phải vận động nhân dân đấu tranh chống
địch bắt lính, bắt phu, chống cướp đoạt tài sản của nhân dân, đòi tăng lương, bớt giờ làm
cho công nhân, củng cố và mở rộng các đội tự vệ cứu quốc, thành lập các tiểu tổ du kích
để tiến lên thành lập đội du kích chính thức, mở rộng cơ sở quần chúng và lực lượng vũ
trang ở các khu du kích... tiến lên phát động khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.
Ở Bắc Sơn-Võ Nhai, Cứu quốc quân tiến hành tuyên truyền vũ trang, gây cơ sở
chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang,
Vĩnh Yên... Từ Cao Bằng, khu căn cứ được mở rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn,
Lạng Sơn. Các đoàn xung phong Nam tiến đầy mạnh hoạt động, mở một hành lang chính
trị nối liền hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn-Vũ Nhai (cuối năm 1943). Tổng bộ Việt
Minh ra chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa. Không khí chuẩn bị cho khởi nghĩa sôi nổi trong khu căn
cứ.
Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc, thông báo chủ
trương của Đảng về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân. Bức thư nêu rõ: “Phe xâm
lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối
cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian
rất gấp. Ta phải làm nhanh!”55.
Cuối năm 1944, ở Cao-Bắc-Lạng, cấp ủy địa phương gấp rút chuẩn bị phát động
chiến tranh du kích trong phạm vi ba tỉnh. Lúc đó, Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở lại
Cao Bằng, kịp thời quyết định đình chỉ phát động chiến tranh du kích trên quy mô rộng
lớn vì chưa đủ điều kiện. Tiếp đó, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lộp Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóngquân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt động và phương châm tác chiến
của lực lượng vũ trang. Bản Chỉ thị này có giá trị như một cương lĩnh quân sự tóm tắt của
Đảng.
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải, phóng quân do Võ Nguyên Giáp tổ chức ra
đòi ở Cao Bằng. Ba ngày sau, đội đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phai Khắt (25- 12-1944)
và Nà Ngần (26-12-1944). Đội đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân
sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao- Bắc-Lạng.
Ngày 24-12-1944, Đoàn của Tổng bộ Việt Minh do Hoàng Quốc Việt dẫn đầu sang
Trung Quốc liên lạc với các nước Đồng Minh để phối hợp chống Nhật. Tháng 2-1945,
lãnh tụ Hồ Chí Minh sang Trung Quốc tranh thủ giúp đỡ của Đồng minh chống phát xít
Nhật.
Cao trào kháng nhật cứu nước:

55 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, trang 538.
48
\

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân
Liên Xô truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở Đông
Âu và tiến về phía Berlin (Đức), ở Tây Âu, Anh-Mỹ mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất
Pháp (2-1945) rồi tiến về phía Tây nước Đức. Nước Pháp được giải phóng, chính phủ Đờ
Gôn về Paris.
Ở mặt trận Thái Bình Dương, quân Anh đánh vào Miến Điện nay là Myanmar. Quân
Mỹ đổ bộ lên Philippin. Đường biển đến các căn cứ ở Đông Nam Á bị quân Đồng minh
khống chế, nên Nhật phải giữ con đường duy nhất từ Mãn Châu qua Đông Dương xuống
Đông Nam Á. Thực dân Pháp theo phái Đờ Gôn ở Đông Dương ráo riết chuẩn bị, chờ
quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật thì sẽ khôi phục lại quyền thống trị của
Pháp. “Cả hai quân thù Nhật-Pháp đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày chết, quyết
liệt cùng nhau”56.
Với sự chuẩn bị từ trước, ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng đảo chính lật đổ Pháp, độc
chiếm Đông Dương. Pháp chống cự yếu ót rồi nhanh chóng đầu hàng. Sau khi đảo chính
thành công, Nhật thi hành một loạt chính sách nhằm củng cố quyền thống trị. Chính phủ
Bảo Đại-Trần Trọng Kim được Nhật dựng ra với cái bánh vẽ “độc lập” để phục vụ cho nền
thống trị của chủ nghĩa phát xít. Do có lợi ích gắn liền với quân phiệt Nhật, Nội các Trần
Trọng Kim ra Tuyên cáo, kêu gọi “quốc dân phải gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn
nữa và phải thành thực hợp tác với nước Đại Nhật Bẳn trong sự kiến thiết nền Đại Đông
Á, vì cuộc thịnh vượng chung của Đại Đông Á có thành thì sự độc lập của nước ta mới
không phải là giấc mộng thoáng qua”57.
Dự đoán đúng tình hình, ngay trước lúc Nhật nổ sung lật đổ Pháp, Tổng Bí thư
Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng
Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) để phân tích tình hình và đề ra chủ trương chiến lược mới.
Ngày 12-3-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật, Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta, chỉ rõ bản chất hành động của Nhật ngày 9-3-1945 là một cuộc đảo chính tranh
giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân
dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật; thay khẩu hiệu “đánh đuối phát xít
Nhật-Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”, nêu khẩu hiệu “thành lập chính
quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương” dế chống lại chính phủ thân Nhật.
Chỉ thị quyết định phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề
cho cuộc tống khởi nghĩa, đồng thời sẵn sàng chuyển lên tổng khởi nghĩa khi có đủ điều
kiện. Bản chỉ thị ngày 12-3-1945 thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết, kịp thời của Đảng.

49

56 Ngọn cờ giải phóng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1955, trang 46.


57 Việt Nam đế quốc Công báo, ngày 15-6-1945, trang 5.
Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật
cứu nước và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám năm 1945. Dưới sự lănh đạo của Đảng và Việt Minh, từ giữa tháng 3-1945 trở đi,
cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ.
Chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần nổ ra ở vùng thượng du và
trung du Bắc kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối họp với
lực lượng chính trị giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc
Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang... Khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi)
thắng lợi, đội du kích Ba Tơ được thành lập và xây dựng căn cứ Ba Tơ.
Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức ủybangiảiphóngViệtNam.
Ngày 15-5-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách
mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ
trang thành Việt Nam giải phóng quân, phát triển lực lượng bán vũ trang và xây dựng bảy chiến
khu trong cả nước.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang), chỉ thị gấp rút chuẩn bị
đại hội quốc dân, thành lập “khu giải phóng”. Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức
được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Son, Tuyên Quang, Thái
Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh
Yên. ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập và thi hành các chính sách của Việt
Minh. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước. Nhiều
chiến khu mới được xây dựng như chiến khu Vần-Hiền Lương ở vùng giáp giói hai tỉnh
Phú Thọ và Yên Bái, chiến khu Đông Triều (Quảng Yên), chiến khu Hoà-Ninh-Thanh (ở
phía Tây ba tỉnh Hòa Đình, Ninh Bình, Thanh Hóa), chiến khu Vĩnh Tuy và Đầu Rái
(Quảng Ngãi)...
Trong các đô thị, nhất là những thành phố lớn, các đội danh dự Việt Minh đẩy mạnh
hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian, tạo điều kiện phát triển các tổ chức cứu
quốc trong các tầng lớp nhân dân thành thị và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc.
Ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”
đã “thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và phát dộng quần chúng vùng
dậy với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền” 1. Tại
nhiều địa phương, quần chúng tự vũ trang, xung đột với binh lính và chính quyền Nhật,
biến thành những cuộc khởi nghĩa từng phần, giành quyền làm chủ.
Báo chí cách mạng của Đảng và mặt trận Việt Minh đều ra công khai, gây ảnh
hưởng chính trị vang dội.
Từ nhiều lao tù thực dân, những chiến sĩ cộng sản vưọt ngục ra ngoài hoạt động, bố
sung thêm đội ngũ cán bộ lãnh đạo phong trào cách mạng.
Cao trào kháng Nhật cứu nước không những động viên được đông đảo quần chúng
công nhân, nông dân, tiểu thưong, tiểu chủ, học sinh, viên chức... mà còn lôi kéo cả tư sản
dân tộc và một số địa chủ nhỏ tham gia hoạt động cách mạng. Binh lính, cảnh sát của
chính quyền thân Nhật dao dộng, một số ngả theo cách mạng. Nhiều lý trưởng, chánh,
phó tổng, tri phủ, tri huyện và cả một số tỉnh trưởng cũng tìm cách liên lạc với Việt
Minh... Bộ máy chính quyền Nhật nhiều nơi tê liệt. Không khí sửa soạn khởi nghĩa sục sôi
trong cả nước.
Thực chất của cao trào kháng Nhật cứu nước là một cuộc khởi nghĩa từng phần và
chiến tranh du kích cục bộ, giành chính quyền ở những nơi có điều kiện. Đó là một cuộc
chiến đấu vĩ đại, làm cho trận địa cách mạng được mở rộng, lực lượng cách mạng được
tăng cường, làm cho toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng, chủ động, tiến lên chớp thời cơ tống
khởi nghĩa.
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền:
Giữa tháng 8-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Sau khi phát xít Đức đầu
hàng Liên Xô và Đồng minh (9-5-1945) và sau đó Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan
đạo quân Quan Đông của Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc). Mỹ ném hai quả bom nguyên
tử xuống các thành phố Hirôsima (6-8-1945) và Nagazaki (9-8-1945). Chính phủ Nhật
tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện ngày 15-8-1945. Quân Nhật ở Đông
Dương mất hết tinh thần. Chính quyền do Nhật dựng lên hoang mang cực độ. Thời cơ
cách mạng xuất hiện.
Một nguy cơ mới đang dần đến. Theo quyết định của Hội nghị Posdam, (Pốtxđam,
7-1945), quân đội Trung Hoa dân quốc vào Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân
đội của Liên hiệp Anh từ vĩ tuyến 16 trở vào để giải giáp quân đội Nhật. Pháp toan tính,
với sự trợ giúp của Anh, sẽ trở lại xâm lược Việt Nam, trước mát là phục hồi bộ máy cai
trị cũ ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trung Hoa dân quốc muốn có một chính quyền người
Việt Nam từ Trung Quốc kéo về ở miền Bắc.
Trong khi đó, những thế lực chống cách mạng ở trong nước cũng tìm cách đối phó.
Một số người trong Chính phủ Bảo Đại-Trần Trọng Kim quay sang tìm kiếm sự trợ giúp
của một số cường quốc, vói hy vọng giữ chế độ quân chủ.

51
Từ chỗ hợp tác với Việt Minh chống quân phiệt Nhật trong Chiến tranh thế giới thứ hai,
Chính phủ Mỹ không ngần ngại quay lưng lại phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam. Tại Hội nghị Ianta (2-1945), Tổng thống Mỹ Rooseveld hoàn toàn “nhất trí với đề nghị chỉ để
các thuộc địa dưới quyền uỷ trị néu “mẫu quốc” đồng ý” “Mau quốc” của Đông Dương không ai
khác là nước Pháp. Từ đó, Mỹ ngày càng nghiêng về phía Pháp, ủng hộ Pháp trở lại xâm lược
Đông Dương, nhất là sau khi Rooseveld qua đời (12-4-1945) và Harry s Truman buớc vảo Nhà
Trắng. Mùa hè năm 1945, Mỹ cam kết với Charles De Gaulle rằng sẽ không cản trở việc Pháp phục
hồi chủ quyền ở Đông Dương. Cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam sẽ bị xếp
vào “hoạt động phiến loạn do cộng sản cầm đầu”. Trong tình hình ấy, “ai biết dòng chảy của lịch
sử sẽ đi về đâu, với tốc độ nào?”58.
Thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại trong thời gian từ khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng
minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương, vào khoảng nửa cuối tháng Tám năm 1945.
Trong tình hình trên, vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút
với quân Đồng minh mà Đảng và nhân dân Việt Nam không thể chậm trễ, không chỉ để tranh thủ
thời cơ, mà còn phải khắc phục nguy cơ, đưa cách mạng đến thành công.
Ngày 12-8-1945, ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khỏi nghĩa trong khu. Ngày 13-8-1945,
Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập ủybanKhởinghĩatoànquốc. 23 giờ cùng ngày, ủy ban
Khỏi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.
Ngày 14 và 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, do lãnh tụ Hồ Chí Minh và
Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì, tập trung phân tích tình hình và dự đoán: “Quân Đồng minh sắp
vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương” 59. PIỘi nghị quyết định
phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân
Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính
quyền nhân dânỉ Hội nghị xác định ba nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời.
Phương hướng hành động trong tổng khởi nghĩa: phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng,
không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối họp; phải làm tan rã tinh thần
quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các đô thị)
trước khi quân Đồng minh vào, thành lập ủybannhândân ở những nơi

58 Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân-Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1995,
trang 18.
đã giành được quyền làm chủ... Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về
chính sách đối nội và đối ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền.
Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân
Trào, về dự đại hội có khoảng 60 đại biếu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn
thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước
ngoài. Đại hội tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách
lớn của Việt Minh, lập ủybangiảiphóngdântộcViệtNam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết
định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta... Chúng ta không thế chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt
Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”60.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước nhất tề vùng dậy ở cả thành thị và
nông thôn, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
kiên quyết giành cho được độc lập.
Từ ngày 14 đến ngày 18-8-1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng
do nắm vững tinh thần các nghị quyết, chỉ thị trước đó của Đảng, căn cứ vào tình hình
thực tiễn, đảng bộ nhiều địa phương đã kịp thời, chủ động, lãnh đạo nhân dân nổi dậy
khởi nghĩa. Bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất là Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh,
Quảng Nam.
Từ ngày 14-8-1945 trở đi, các đon vị Giải phóng quân lần lượt tiến công các đồn
binh Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái v.v... hỗ
trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 16-8-1945, một đơn vị Giải
phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái
Nguyên. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung
và miền Nam, quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và huyện.
Tại Hà Nội, ngày 17-8, Tổng hội viên chức tổ chức một cuộc mít tinh ủng hộ chính
phủ Trần Trọng Kim. Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần chúng trong cắc tổ chức cứu
quốc ở nội và ngoại thảnh biến cuộc mít tinh đó thành cuộc mít tinh ủng hộ Việt Minh.
Các đội viên tuyên truyền xung phong bất ngờ giương cao cờ đỏ sao vàng, kêu gọi nhân
dân tham gia khởi nghĩa. Hàng vạn quần chúng dự mít tinh nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu
gọi của Việt Minh. Lính bảo an, cảnh sát của chính quyền Nhật có nhiệm vụ bảo vệ cuộc
mít tinh cũng ngả theo Việt Minh. Cuộc mít tinh biến thành một cuộc biểu tình tuần hành,
có cờ đỏ sao vàng dẫn đầu, rầm rộ diễu qua các phố đông người, tiến đến trước phủ toàn

59 Đảng Cộng sản Việt Nain: Vân kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7,
trang 424-427.
quyền cũ, nơi tư lệnh quân Nhật đóng, rồi chia thành từng toán, đi cổ động chương trình
Việt Minh khắp các phố.
Sau cuộc biểu dương lực lượng, Thành ủy Hà Nội nhận định đã có đủ điều kiện để
phát động tổng khởi nghĩa.
Sáng ngày 19-8, Thủ đô Hà Nội tràn ngập cờ dỏ sao vàng. Quần chúng cách mạng
xuống đường tập hợp thành đội ngũ, rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà hát thành phố
trong tiếng hát “Tiến quân ca” và cờ đỏ sao vàng để dự cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt
Minh tổ chức, ủy ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh.
Cuộc mít tinh chuyển thành biểu tình vũ trang. Quần chúng cách mạng chia thành nhiều
đoàn đi chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại Bảo an binh, Sở Cảnh sát và các công
sở của chính quyền thân Nhật. Trước khí thế và sức mạnh áp đảo của quần chúng, hơn
một vạn quân Nhật ở Hà Nội không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân.
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội ảnh hưởng nhanh chóng đến nhiều tỉnh và
thành phố khác, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cả nước, làm cho chính quyền tay sai của
Nhật ở nhiều nơi thêm hoảng hốt, tạo điều kiện thuận lợi lớn cho quá trình tổng khởi
nghĩa.
Ngày 23-8, ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế huy động quần chúng từ các huyện
đã giành được chính quyền ở ngoại thành, kết hợp với nhân dân trong nội thành Huế
xuống đường biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền và quân đội Nhật hoàn toàn tê
liệt. Quần chúng lần lượt chiếm các công sở không vấp phải sức kháng cự nào.
ở Nam Kỳ, được tin Hà Nội và Tân An (tỉnh khởi nghĩa thí điểm của Xứ ủy) đã
giành được chính quyền, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh.
Đêm 24-8, các lực lượng khởi nghĩa với gậy tầm vông, giáo mác, từ các tỉnh xung quanh
rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8, hơn 1 triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân
khởi nghĩa chiếm các công sở. Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh chóng.
Những cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị đập tan các cơ quan
đầu não của kẻ thù có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong cả nước.
Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và úy ban Dân tộc giải
phóng về đến Hà Nội. Sáng ngày 26-8-1945, Hồ Chí Minh chủ trì cuộc hợp của Thường
vụ Trung ương Đảng, thống nhất những chủ trương đối nội và đối ngoại trong tình hình
mới; đề nghị mở rộng hơn nữa thành phần của Chính phủ lâm thời, chuấn bị ra Tuyên
ngôn Độc lập, và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ ra mắt nhân dân, cũng là
ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chế độ dân chủ cộng

60 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, trang 596.
53

54
hoà. Hồ Chí Minh nhấn mạnh những việc cần làm trước khi quân Trung Hoa dân quốc vào
Đông Dương61.
Trong cuộc họp ngày 27-8-1945, ủy ban dân tộc giải phóng cải tổ thành Chính phủ
lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Danh sách
Chính phủ lâm thời được chính thức công bố ngày 28-8-1945 tại Hà Nội. Một số thành
viên là người của mặt trận Việt Minh tự nguyện rút khỏi Chính phủ, trong đó có Tổng Bí
thư Trường Chinh, để mời thêm nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia. “Đó là một cử chỉ vô
tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên
trên lợi ích cá nhân”62.
Ngày 30-8-1945, tại cuộc mít tinh gồm hàng vạn người tham gia ở Ngọ Môn, thành
phố Huế, Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong Tuyên cáo của Hoàng đẻ Việt Nam thoái vị, Bảo Đại nói, “sau
hai mươi năm ngai vàng bệ ngọc đã biết bao ngậm đắng nuốt cay, từ nay... lấy làm vui
được làmdântựdo của một nước độc lập”63.
Trung ương Đảng và Chính phủ lâm thời hoàn toàn ý thức được phải khẩn trương
làm tất cả mọi việc có thể để xác lập vị thế người chủ đất nước của nhân dân Việt Nam
trước khi những người mang danh “Đồng minh” kịp đặt chân đến và kịp thực thi những ý
tưởng riêng của họ.
Trong tình hình hết sức khẩn trương, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng bộ
Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định sớm tổ chức lễ Tuyên bố độc lập của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mọi công việc việc chuẩn bị được tiến hành khấn trương.
Tại một căn phòng trên gác nhà số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội, Hồ Chí Minh đã thực
hiện trách nhiệm lịch sử trọng đại, giữa bộn bề công việc, nhưng đã tập trung trí tuệ và
tình cảm, soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam mới. Đe phát huy trí tuệ tập
thể, ngày 30-8-1945, Hồ Chí Minh mời một số cán bộ trong Ban Thường vụ Trung ương
Đảng và các vị bộ trưởng trong Chính phủ lâm thòi đến trao đổi, góp ý kiến cho bản dự
thảo Tuyên ngôn Độc lập. Hồ Chí Minh nói, trong đời ông “đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ
mới được viết một bản Tuyên ngôn như vậy... Bản Tuyên ngôn Độc lập là hoa, là quả của bao
nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của
Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém,
trên chiến trường.
Bản TuyênngônĐộclập là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng

61 Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường tịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 229-
231.
của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam”64.
Ngày 31-8-1945, Hồ Chí Minh bổ sung một số điểm, hoàn chỉnh bản Tuyên ngôn Độc
65
lập .
Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập đuợc tổ chức trọng thể tại Quảng trường Ba Đình, Hà
Nội. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đọc
Tuyênngôn Độclập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Bản Tuyên ngôn nêu rõ:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã thành một nước tự
do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh
và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”66.
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng lớn và ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc. Đó là thiên anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng, chứa chan sức mạnh và niềm
tin, tràn đầy lòng tự hào và ý chí đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp giành
và giữ nền độc lập, tự do.
Cách mạng Tháng Tám nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực
tiếp của nhân dân Việt Nam là phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật ỏ’
Đông Dương mất hết tinh thần chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận
lợi để nhân dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đó là kết quả và đỉnh cao
của 15 năm đấu tranh của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp
là cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.
Đảng Cộng sản Đông Dương là người tổ chức và lãnh đạo cách mạng. Đảng có
đường lối chính trị đúng đắn, phương pháp cách mạng sáng tạo, dày dạn kinh nghiệm đấu
tranh, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần
chúng khởi nghĩa giành chính quyền.
4. Tính chất, ỷ nghĩa và kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Tỉnh chất
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang
tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân

62 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 6, trang 160.
63 “Tuyên cáo của Hoàng đế Việt Nam thoái vị”, Việt Ncim dân quốc công báo, ngày 29-9-1945.
64 Trần Dân Tiên: Những mấu chuyện về đời hoạt dộng cùa Hồ Chủ tịch, Nxb Văn nghệ, Hà Nội,
1956, trang 119.
dân Việt Nam”67. “Cách mạng Tháng Tám Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc. Mục đích của nó là làm cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đế quốc, làm cho
nước Việt Nam thành một nước độc lập tự do”68.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể
hiện:
Tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đần của cách mạng là giải phóng dân tộc, tập trung giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với đế quốc
xâm lược và tay sai; đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử và ý chí, nguyện vọng
độc lập tự do của quần chúng nhân dân.
Lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ trong mặt trận Việt Minh với
những tổ chức quần chúng mang tên “cứu quốc”, động viên đến mức cao nhất mọi lực
lượng dân tộc lên trận địa cách mạng. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự
vùng dậy của lực lưọng toàn dân tộc.
Thành lập chính quyền nhà nước "của chung toàn dân tộc” theo chủ trương của Đảng, với hình
thức cộng hoà dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và những kẻ phản quốc, “còn ai là
người dân sống trên giải đất Việt Nam đều thảy được một phần tham gia giữ chính quyền,
phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy”69.
Cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân chủ chống phát
xít. “Nó chống lại phát xít Nhật và bọn tay sai phản động, và nó là một bộ phận của cuộc
chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới chống phát xít xâm
lược”70.
Cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng đông đảo nhất
trong dân tộc. Do Cách mạng Tháng Tám, một phần ruộng đất của đế quốc và Việt gian đã
bị tịch thu, địa tô dược tuyên bố giảm 25%, một số nợ lưu cữu được xoá bỏ.
Cuộc cách mạng đã xây dựng chính quyền nhả nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Việt Nam, xóa bỏ chế độ quân chủ phong kiến. Các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền
tự do, dân chủ.
Cách mạng Tháng Tám “chưa làm cách mạng ruộng đất, chưa thực hiện khấu hiệu
người cày có ruộng”, “chưa xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, chưa xoá bỏ
những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến để cho công nghiệp có điều kiện phát triển

65 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Hồ Chỉ Minh-Biên niên tiếu sử, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, tập 2, trang 288.
66 Hồ Chỉ Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, trang 1 và 3.
67 Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội,1987, tập 1, trang 172.
37
68 Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội,1987, tập 1, trang 169.
69 Đàng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000, tập 7, trang 114.
70 Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội,1987, tập 1, trang 170.
mạnh... quan hệ giữa địa chủ và nông dân nói chung vẫn như cũ. Chính vì thế Cách mạng Tháng
Tám có tính chất dân chủ, nhưng tính chất đó chưa được đầy đủ và sâu sắc” 71 72.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng còn mang đậm tính nhân văn,
hoàn thành một bước hết sức cơ bản trong sự nghiệp giải phóng con người ở Việt Nam khỏi mọi
sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.
Ỷ nghĩa
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những
giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị
áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là làn đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các
dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền
toànquốc”1.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong
gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành
công vấn đề C0‘ bản của một cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ bước lên
địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn
lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một đảng cầm quyền. Từ
đây, Đảng và nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng làm công cụ sắc bén phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến trình lịch sử dân tộc,
kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần đầu tiên giành thắng
lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ.

71 Trưòng Chinh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tập 1, trang 172.
72 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 25.

58
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám không chỉ là chiến công của dân tộc Việt Nam
mà còn là là chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh vì độc lập tự do,
vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng
tạo của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng tỏ rằng: một cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hoàn toàn có khả năng tháng lợi
ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp công nhân ở “chính quốc” lên nắm chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.
Kinh nghiệm
Cách mạng Tháng Tám thành công để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều
kinh nghiệm quý báu.
Thứnhất,vềchỉđạochiếnlược, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất. Trong cách
mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ cách
mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực hiện từng bước thích hợp nhầm phục vụ cho
nhiệm vụ chống đế quốc.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng'. Trên CO' sở khối liên minh công nồng, cần khơi dậy tinh thần
dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một điển hình thành công của Đảng về huy dộng lực
lượng toàn dân tộc lên trận địa cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào kháng
Nhật cứu nước, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng từ của
V.I.Lênin trong tác phẩm Tổng kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đó chính là một “/ớ lửa
khởinghĩadântộc”[.
Thứ ba, về phương pháp cách mạng: Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần
chúng, ra sức xây dụng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính
trị với đấu tranh vũ trang, tiến hành chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần,
giành chính quyền bộ phận ở những vùng nông thôn có điều kiện, tiến lên chớp đúng thời
cơ, phát động tổng khởi nghĩa ở cả nông thôn và thành thị, giành chính quyền toàn quốc.
Thứ tư, về xây dựng Đảng: Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt đối trung thành với lợi 73

73 V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tập 30, trang 67.
59
ích giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đề ra đường lối chính trị đúng đắn; xây dựng một đảng vững mạnh về tư tưởng,
chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng và với đội ngũ cán bộ đảng viên kiên
cường được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng.
Chú trọng vai trò lãnh đạo ở cấp chiến lược của Trung ương Đảng, đồng thời phát
huy tính chủ động, sáng tạo của đảng bộ các địa phương.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
đưa lịch sử dân tộc sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình tiến hoá
của dân tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ khi ra đời, dù phải trải qua muôn vàn
khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh thần đoàn kết phấn đấu
của toàn dân, luôn được xây dựng và củng cố, vững bước tiến trên con đường độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Suốt 15 năm đấu tranh cách mạng 1930-1945, Đảng đã lãnh đạo
giai cấp và dân tộc hoàn thành mục tiêu giành độc lập, thiết lập nhà nước dân chủ nhân
dân.
NỘI DƯNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Phân tích những điều kiện cần thiết dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
tháng 2-1930.
2. Nội dung cơ bản và ý nghĩa lịch sử của Cýõng lĩnh chính trị ỗầu tiên ỗýợc Hội
nghị thành lập Đảng (2-1930) thông qua.
3. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc 1930-1945.
4. Đặc điểm, tính chất, kinh nghiệm và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cánh mạng Tháng
Tám năm 1945.

60
61
Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI cuộc KHÁNG CHIẾN,
HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, THÓNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
(1945 - 1975)

MỤC TIÊU
về kiến thức:
Cung cấp cho sinh viên những nội dung lịch sử cơ bản, hệ thống, khách quan về sự
lãnh đạo của Đảng đối với hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ 1945-1975.
về tư tưởng:
Giúp sinh viên có nhận thức đúng đắn thực tiễn lịch sử và những kinh nghiệm rút ra
từ quá trình Đảng lãnh đạo hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời kỳ 1945-1975,
nâng cao niềm tin vào sự lãnh đạo của Đáng và sức mạnh đoàn kết của toàn dân trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc
về kỹ năng:
Trang bị kỹ năng tìm chọn tài liệu nghiên cứu, năng lực phân tích sự kiện, phương
pháp đúc rút kinh nghiệm lịch sử về sự lãnh đạo kháng chiến của Đảng và ý thức phê
phán những nhận thức sai trái về lịch sử của Đảng.
I. Lãnh đạo xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng, kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược 1945-1954
1. Xây (lựng và báo vệ chỉnli quyền cách mạng 1945-1946
Tình hình Việt Nam san Cách mạng Tháng Tám
Sau ngày tuyên bố độc lập, lịch sử nước Việt Nam bước sang một chặng đường mới
với nhiều thuậnlợicănbảnvàkhókhănchồngchất.
Thuận lợi về quốc tế là sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện khu vực và
thế giới có những sự thay đổi lớn có lợi cho cách mạng Việt Nam. Liên Xô trở thành
thành trì của chủ nghĩa xã hội. Nhiều nước ở Đông Trung Âu, được sự ủng hộ và giúp đỡ
của Liên Xô đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội. Phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh dâng cao.
Thuận lợi ở trong nước là Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, tự do; nhân dân Việt
Nam từ thân phận nô lệ, bị áp bức trở thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới. Đảng
61
Cộng sản trở thành Đảng câm quyên lãnh đạo cách mạng trong cả nước. Đặc biệt, việc
hình thành hệ thống chính quyền cách mạng với bộ máy thống nhất từ cấp Trung ương
đến cơ sở, ra sức phục vụ lợi ích của Tổ quốc, nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là trung tâm của
khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Quân đội quốc gia và lực lượng Công an; luật
pháp của chính quyền cách mạng được khẩn trương xây dụng và phát huy vai trò đối với
cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng chế độ mới.
Khó khăn là trên thế giới phe đế quốc chủ nghĩa nuôi dưỡng âm mưu mới “chia lại hệ
thống thuộc địa thế giới’% ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong
đó có cách mạng Việt Nam. Do lợi ích cục bộ của mình, các nước lớn, không có nước nào
ủng hộ lập trường độc lập và công nhận địa vị pháp lý của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, bị bao vây cách biệt
hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Cách mạng ba nước Đông Dương nói chung, cách mạng
Việt Nam nói riêng phải đương đầu với nhiều bất lợi, khó khăn, thử thách hết sức to lớn
và rất nghiêm trọng.
Khó khăn ở trong nước là hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn
rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt; hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng
nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, nạn đói năm 1945 rất nghiêm trọng. Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tiếp quản một nền kinh tế xơ xác, tiêu điều, công nghiệp đình đốn,
nông nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bỏ hoang; nền tài chính, ngân khố kiệt quệ,
kho bạc trống rỗng; các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc
phục, 95% dân số thất học, mù chữ, nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 làm 2 triệu
người dân chết đói. Thách thức lớn nhất, nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu, hành
dộng quay trở lại thống trị Việt Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Ngày 2-9-1945,
quân Pháp đã trắng trợn gây hấn, bắn vào cuộc mít tinh mừng ngày độc lập của nhân dân
ta ở Sài Gòn-Chợ Lớn.
Từ tháng 9-1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh- Ấn đổ
bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt Nam.
Quân đội Anh đã trực tiếp bảo trợ, sử dụng đội quân Nhật giúp sức quân Pháp ngang
nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ) vào rạng sáng ngày 23-9-
1945, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Ở Bắc vĩ tuyến 16, theo thỏa thuận Hiệp ước Potsdam (Đức), từ cuối tháng 8-1945,
hơn 20 vạn quân đội của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa dân quốc) tràn qua biên giới kéo
vào Việt Nam dưới sự bảo trợ và ủng hộ của Mỹ với danh nghĩa quân đội Đồng minh vào
giải giáp quân đội Nhật, kéo theo là lực lượng tay sai Việt Quốc, Việt Cách với âm mưu

62
thâm độc “diệt Cộng, cầm Hồ”, phá Việt Minh. Trong khi đó, trên đất nước Việt Nam vẫn
còn 6 vạn quân đội Nhật Hoàng thua trận chưa được giải giáp.
Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam
trước tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với nạn đói, nạn dốt
và bọn thù trong, giặc ngoài.
Xây dựng chế độ mới và chính quyền cách mạng
Ngày 3-9-1945, Chính phủ lâm thòi họp phiên đầu tiên dưới sự chủ trì của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xác định ngay nhiệm vụ lớn trước mắt, là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và
diệt giặc ngoại xâm. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng
chiến kiến quốc, nhận định tỉnh hình và định hưcmg con đưò'ng đi lên của cách mạng Việt
Nam sau khi giành được chính quyền. Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình
thế giới và trong nước, nhất là tình hình Nam Bộ và xác định rõ: “kẻ thù chính của ta lúc
này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng” 1; nêu rõ mục
tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là “dân tộc giải phóng” và đề ra khẩu
hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”; mọi hành động phải tập trung vào nhiệm vụ chủ
yếu, trước mắt “là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản,
cải thiện đời sống cho nhân dân”2.
Chỉ thị cũng đề ra nhiều biện pháp cụ thể giải quyết những khó khăn, phức tạp hiện
thời của cách mạng Việt Nam, trong đó nêu rõ cần nhanh chóng xúc tiến bầu cử Quốc hội
để đi đến thảnh lập Chính phủ chính thức, lập ra Hiến pháp, động viên lực lượng toàn dân,
kiên trì kháng chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài; kiên định nguyên tắc độc lập về
chính trị; về ngoại giao phải đặc biệt chú ý “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn
đồng minh hơn hết”; đối với Tàu Tưởng nêu chủ trương “Hoa-Việt thân thiện”, đối với
Pháp “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế”, về tuyên truyền, hết sức kêu gọi đoàn
kết chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược; “đặc biệt chống mọi mưu mô phá hoại chia
rẽ của bọn Trốtxkit, Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng ”74 v.v.
Những quan điểm và chủ trương, biện pháp lớn được Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị
kháng chiến, kiến quốc đã giải đáp trúng, đáp ứng đúng yêu cầu cấp bách của cách mạng
Việt Nam lúc bấy giờ; có tác dụng định hướng tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ; xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng trong
giai đoạn đầy khó khăn, phức tạp này.
Chốnggiặcđói,đẩylủinạnđói là một nhiệm vụ lớn, quan trọng, cấp bách lúc bấy
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, trang 26.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đủng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, trang 26-

27.

74 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8,
trang 27.
63
giờ. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ đạo, động viên mọi tầng lớp nhân
dân tham gia các phong trào lớn, các cuộc vận động, như: tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm
với khẩu hiệu tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa; lập hũ gạo tiết kiệm, tổ chức Tuần lễ
vàng, gây Quỹ độc lập, Quỹ đảm phụ quốc phòng, Quỹ Nam Bộ kháng chiến v.v. Chính phủ bãi
bỏ thuế thân và nhiều thứ thuế vô lý của chế độ cũ, thực hiện chính sách giảm tô 25%. Ngay năm
đầu, sản xuất nông nghiệp có bước khởi sắc rõ rệt, việc sửa chữa đê điều được khuyến khích, tổ
chức khuyến nông, tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đất hoang hóa chia cho nông dân
nghèo. Sản xuất lương thực tăng lên rõ rệt, cả về diện tích và sản lượng hoa màu. Một số nhà máy,
công xưcmg, hầm mỏ được khuyến khích đầu tư khôi phục hoạt động trở lại. Ngân khố quốc gia
được xây dựng lại, phát hành đồng giấy bạc Việt Nam. Đầu năm 1946, nạn đói cơ bản được đẩy
lùi, đời sống nhân dân được ổn định, tinh thần dân tộc được phát huy cao độ, góp phần động viên
kháng chiến ở Nam Bộ.
Chống giặc dốt, xóa nạn mu chữ được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng, thể hiện tính ưu việt
của chế độ mới, góp phần tích cực xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng, phát huy quyền dân
chủ của nhân dân. Đảng và Hồ Chí Minh chủ trương phát động phong trào “Bình dân học vụ”,
toàn dân học chữ quốc ngữ để từng bước xóa bỏ nạn dốt; vận động toàn dân xây dựng nếp sống
mới, đời sống văn hóa mới để đẩy lùi các tệ nạn, hủ tục, thói quen cũ, lạc hậu cản trở tiến bộ. Các
trường học từ cấp tiểu học trở lên lần lượt khai giảng năm học mới; thành lập Trường Đại học Văn
khoa Hà Nội. Đen cuối năm 1946, cả nước đã có hơn 2,5 triệu người dân biết đọc, biết viết chữ
Quốc ngữ. Đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhân dân tin tưởng
vào chế độ mới, nêu cao quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.
Khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng'. Đẻ khẳng định địa vị pháp lý của Nhà nuớc Việt
Nam, Đảng và Hồ Chí Minh đã chủ trương sớm tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc theo hình thức
phổ thông đầu phiếu để bầu ra Quốc hội và thành lập Chính phủ chính thức. Ngày 6-1-1946, cả
nước tham gia cuộc bầu cử và có hơn 89% số cử tri đã đi bỏ phiếu dân chủ lần đầu tiên, đồng bào
Nam Bộ và một số nơi đi bỏ phiếu dưới làn đạn của giặc Pháp, nhưng tất cả đều thể hiện rõ tinh
thần “mỗi lá phiếu là một viên đạn bắn vào quân thù”, làm thất bại âm mưu chia rẽ, lật đổ của các
kẻ thù. Bầu cử thành công dã bầu ra 333 dại biểu Quốc hội đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Quốc hội khóa I đã họp phiên đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà Nội vào ngày 2-3- 1946
và lập ra Chính phủ chính thức, gồm 10 bộ và kiện toàn nhân sự bộ máy Chính phủ do Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch. Quốc hội đã nhất trí bầu Ban Thường trực Quốc hội do cụ Nguyễn Văn Tố
làm Chủ tịch.
Các địa phương cũng tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và kiện toàn ủy

64
ban hành chính các cấp. Ban soạn thảo bản Hiến pháp mới được thành lập do Hồ Chí Minh
làm trưởng ban và tới kỳ họp thứ 2 (9-11-1946), Qưốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu
tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946). Xây dựng đi đôi
với bảo vệ và làm cho bộ máy chính quyền thực sự dân chủ, trong sạch, trong thư gửi cho
các ủy ban nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến
các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải đè
đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” 1. Và yêu cầu chính quyền
các cấp phải khắc phục và bỏ ngay những thói hư, tật xấu, như: tư túng, cậy thế, hủ hóa, tư
túng, chia rẽ, kiêu ngạo2...
Mặt trận dân tộc thống nhất tiếp tục được mở rộng nhằm tăng cường thực lực cách
mạng, tập trung chống Pháp ở Nam Bộ. Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được
thành lập do Huỳnh Thúc Kháng làm hội trưởng, Tôn Đức Thắng làm hội phó; thành lập
Hội đồng cố vấn Chính phủ do Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại) đứng đầu; thành lập
thêm một số đoàn thể xã hội mới, tiếp tục củng cố các tố chức đoàn thể của Mặt trận Việt
Minh; tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội và Hội nghị đại biểu
các dân tộc thiểu số Việt Nam ở Tây Nguyên... Lực lượng vũ trang cách mạng được củng
cố và tổ chức lại; tích cực mua sắm vũ khí, tích trữ lương thực, thuốc men, củng cố các cơ
sở và căn cứ địa cách mạng cả ở miền Bắc, miền Nam. Cuối năm 1946, Việt Nam có hơn 8
vạn bộ đội chính quy, lực lượng công an được tổ chức đến cấp huyện, hàng vạn dân quân,
tự vệ được tổ chức ở cơ sở từ Bắc chí Nam...
Tổ chức cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm ỉuợc ở Nam Bộ, đấu tranh bảo
vệ chính quyền cách mạng non trẻ
Sau vụ khiêu khích trắng trợn ngày 2-9-1945 ở Sài Gòn, thực dân Pháp ráo riết thực
hiện mưu đồ xâm lược Việt Nam. Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, quân đội Pháp đã nổ súng
gây hấn đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Nam Bộ). Cuộc kháng chiến chống xâm lược của
nhân dân Nam Bộ bắt đầu. Sáng 23-9-1945, Hội nghị liên tịch giữa Xứ ủy, ủy ban nhân
dân, ủy ban kháng chiến và đại diện Tổng bộ Việt Minh đã nhanh chóng thống nhất, đề ra
chủ trương hiệu triệu quân, dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến chống xâm lược Pháp. Trên
địa bàn thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn các đơn vị bảo vệ Trụ sở ủy ban nhân dân, Sở tự vệ,
nhà Bưu điện thành phố đã kiên quyết chiến đấu anh dũng. Ngày 25- 10-1945, Hội nghị
cán bộ Đảng bộ Nam Bộ đã họp tại Thiên Hộ, Cái Bè (Mỹ Tho) quyết định những biện
pháp cấp bách củng cố lực lượng vũ trang, xây dựng cơ sở chính trị và vũ trang bí mật
trong nội đô; tổ chức và phát động toàn dân kháng chiến, kiên quyết đẩy lùi cuộc tấn quân
của quân Pháp, ngăn chặn bưó‘c tiến của chúng...

1
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, trang 64-65.
2
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, trang 65-66.
65
A-
Nhân dân các tỉnh Nam Bộ đã nêu cao tinh thần chiến đấu “thà chết tự do còn hon
sống nô lệ” nhất loạt dứng lên dùng các loại vũ khí thô sơ, tự tạo, gậy tầm vông, giáo mác
chống trả hành động xâm lược của thực dân Pháp, kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do và
chính quyền cách mạng. Tổ chức công tác diệt ác, trừ gian, phát động chiến tranh nhân
dân trong lòng thành phố, đốt phá kho tàng, chặn đánh các đoàn xe vận tải của địch, củng
cố, xây dựng căn cứ địa. Nhân dân Sài Gòn-Chợ Lớn đi tiên phong ngăn cản bước tiến,
kìm hãm, bao vây địch trong thành phố bằng các chiến lũy chướng ngại vật, ổ chiến đấu
trên đường phố chính, phá hủy các cơ sở hạ tầng điện, nước; lùng bắt, trừng trị bọn Việt
gian tay sai của Pháp. Nhiều trận đánh tiêu biểu diễn ra ở cầu Thị Nghè (17-10-1945),
Khánh Hội, Phú Lâm, An Nhơn, cầu Tham Luông...
Chính phủ, Hồ Chí Minh và nhân dân miền Bắc nhanh chóng hưởng ứng và kịp thời
chi viện, chia lửa với đồng bào Nam Bộ kháng chiến. Ngày 26-9-1945, những chi đội đầu
tiên ưu tú nhất của quân đội, được trang bị vũ khí tốt nhất đã lên đường Nam tiến chi viện
cho Nam Bộ; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khích lệ, động viên đồng bào Nam Bộ
kháng chiến, tuyên dương và tặng nhân dân Nam Bộ danh hiệu “Thành đồng Tồ quốc”. Ở
khu vực miền Trung, cuộc chiến đấu của quân và dân Nha Trang đã mở đầu cho cuộc
chiến đấu oanh liệt, dũng cảm, kiên cường của quân và dân mặt trận Nam Trung Bộ và
Tây Nguyên trong những ngày đầu kháng chiến...
Trong những ngày đầu, so sánh lực lượng giữa ta và địch quá chênh lệch, nhưng với
lòng yêu nước sâu sắc, quyết tâm sắt đá bảo vệ nền độc lập, tự do, của Tổ quốc, có sự
lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Xứ ủy Nam Bộ, của Chính phủ Trung ương, quân và dân
Nam Bộ, các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên đã tổ chức lại lực lượng, củng cố các khu
căn cứ và lực lượng vũ trang, động viên nhân tài, vật lực của toàn dân đứng lên ngăn chặn
bước tiến của thực dân Pháp; tích cực chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài sau
này
Để làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ, phá Việt Minh” của quân Tưởng và
tay sai, Đảng, Chính phủ Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện sách lược “triệt để lợi dụng
mâu thuẫn kẻ thù, hòa hoãn, nhân nhượng có nguyên tắc” với quân Tưởng; đề ra nhiều
đối sách khôn khéo đối phó có hiệu quả với các hoạt động khiêu khích, gây xung đột vũ
trang của quân Tưởng; thực hiện giao thiệp thân thiện, ứng xử mềm dẻo, linh hoạt với các
yêu sách của quân Tưởng và các tổ chức đảng phái chính trị tay sai thân Tưởng, nhất là số
cầm đầu Việt Quốc, Việt Cách. Để tránh mũi nhọn tấn công của các kẻ thù, Đảng chủ
trương rút vào hoạt động bí mật bằng việc ra “Thông cáo Đảng Cộng sản Đông Dương tự
ý tự giải tán, ngày 11-11-1945”, chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai vói danh
nghĩa “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương”75; Chính phủ Việt Nam đồng ý

75 Đảng Cộng sán Việt Nam: Văn kiện Đủng Toàn lập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, trang 19.
66 n
việc đảm bảo cung cấp lương thực, thực phẩm cần thiết cho 20 vạn quân đội Tưởng khi ở
Việt Nam và nhân nhượng cho quân Tưởng được sử dụng đồng tiền Quan kim, Quốc tệ
song hành cùng đồng bạc Đông Dương. Sau khi bầu cử thành công, Hồ Chí Minh chấp
nhận mở rộng thành phần đại biểu Quốc hội, đồng ý bổ sung thêm 70 ghế Quốc hội không
qua bầu cử cho một số đảng viên của Việt Cách, Việt Quốc; cải tổ, mở rộng thành phần
Chính phủ liên hiệp với sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí thức, người không đảng phái và
cả một số phần tử cầm đầu tổ chức phản động tay sai của quân Tưởng, trong đó có nhiều
ghế Bộ trưởng quan trọng,...
Đầu năm 1946, phe đế quốc đã dàn xếp, thỏa thuận ỗể Chính phủ Pháp và Chính phủ
Trung Hoa dân quốc ký kết bản Hiệp ước Trùng Khánh (còn gợi là Hiệp ước Lloa- Pháp,
ngày 28-2-1946), trong đó có nội dung thỏa thuận để Pháp đưa quân đội ra Bắc vĩ tuyến 16
làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thay thế 20 vạn quân Tưởng rút về nước, hạn cuối
cùng là ngày 31-3-1946. Và đổi lại Pháp sẽ nhượng lại cho Tưởng nhiều quyền lợi quan
trọng ở Trung Quốc và Việt Nam. Đây thực chất là một bản hiệp ước bán rẻ lợi ích dân
tộc, chà đạp lên nền độc lập của Việt Nam, hợp pháp hóa hành động xâm lược của thực
dân Pháp ra miền Bắc. Chính phủ và nhân dân Việt Nam đứng trước một tình thế vô cùng
nguy hiểm, phải cùng lúc đối mặt trực tiếp với hai kẻ thù xâm lược to lớn là Pháp và
Tưởng, trong khi thực lực cách mạng vẫn còn non kém.
Trước sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình, Thường vụ Trung ương
Đảng, Hồ Chí Minh đã nhận định, đánh giá âm mưu, ý đồ chính trị của Pháp và Tưởng và
ra bản Chỉ thị Tình hình và chủ trương, ngày 3-3-1946. Trong đó nêu rõ: “Vấn đề lúc này, không
phải là muốn hay không muốn đánh, vấn đề là biết mình, biết người, nhận một cách khách
quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng” 1 và chủ
trương tạm thời “dàn hòa với Pháp”, nhân nhượng về lợi ích kinh tế, nhưng đòi Pháp phải
thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam, “lợi dụng thời gian hòa hoãn với Pháp để
diệt bọn phản động bên trong, tay sai Tàu trắng, trừ những hành động khiêu khích ly gián
ta với Pháp”2, thúc đấy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm. Ngày 6-
3-1946, tại Hà Nội Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ký với đại diện Chính phủ Cộng hòa Pháp tại Hà Nội là Jean Sainteny (LXanhtony)
bản Hiệp định sơ bộ. Hiệp định sơ bộ nêu rõ: Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một
quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, tài chính và quân đội riêng nằm trong Liên bang
Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp; về phía Việt Nam đồng ý đế 15.000 quân đội
Pháp ra miền Bắc thay thế 20 vạn quân đội Tưởng rút về nước

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tập 8, trang 44-
45.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đủng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tập 8, trang 45-

46.
67
và sẽ rút dần trong thời hạn 5 năm; hai bên sẽ tiếp tục tiến hành đàm phán chính thức để
giải quyết mối quan hệ Việt-Pháp...
Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ, ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng đã
ra ngay bản Chỉ thị Hòa để tiến phân tích, đánh giá chủ trương hòa hoãn và khả năng phát
triển của tình hình. Chỉ thị nêu rõ: cần phải tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và
nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân
tộc ta, nhất là đối với dồng bào Nam Bộ và các chiến sĩ ngoài mặt trận; cần đẩy mạnh
công tác xây dựng đảng, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ chính trị và quân sự, gây dựng cơ
sở đảng, củng cố phong trào quần chúng... Đến tháng 12-1946, Đảng đã có sự phát triển
thêm về chất lượng, số lượng đảng viên tăng lên tới hơn 20.000 người.
Đe giữ vững nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Đảng, Chính phủ tiếp tục
cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì, kiên quyết, đầy khó khăn, phức tạp trong suốt năm
1946 ở cả mặt trận trong nước và ngoài nước. Từ ngày 19-4 đến ngày 10-5-1946, đại diện
Chính phủ Việt Nam và Pháp gặp nhau tại Hội nghị trù bị ở Đà Lạt. Từ ngày 31-5-1946,
theo lời mời của Quốc hội và Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn của
Chính phủ Việt Nam thăm chính thức nước Cộng hòa Pháp, chuyến thăm kéo dài hơn 4
tháng và đã thu được nhiều thành công về mặt đối ngoại, làm cho dư luận Pháp, nhân dân
Pháp và giới chính trị Pháp tiến bộ hiểu thêm cuộc đấu tranh chính nghĩa, vì nền độc lập
thực sự của Việt Nam. Cũng trong thời gian này, phái đoàn Quốc hội Việt Nam do ông
Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm thân thiện và tham dự đàm phán chính thức giữa hai bên
Việt-Pháp tại Hội nghị Pontainebleau, (Phôngtenơblô, Paris-Pháp) từ ngày 6-7 đến ngày
10-9-1946, song không thành công vì vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm lược
của thực dân Pháp. Với thiện chí hữu nghị, hòa bình, nhân nhượng và để đảm bảo an toàn
cho phái đoàn đại biểu Việt Nam rời Pháp, ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
với Marius Moutet (M.Mutê) đại diện Chính phủ Pháp một bản Tạm ước 14-9 tại Marseill
(Mácxây, Pháp), đồng ý nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế, văn hóa ở
Việt Nam; hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ và tiếp tục đàm phán...
Trong khi đó ở Việt Nam, thời hạn quân đội Tưởng phải rút về nước đã hết (trước ngày 31-
3-1946), nhưng quân Tưởng vẫn trì hoãn kéo dài; các thế lực thực dân hiếu chiến Pháp ở Hà Nội
móc nối, câu kết với tay sai phản động Đại Việt-Quốc dân đảng, ráo riết chuẩn bị một âm mưu
thâm độc đảo chính lật đổ Chính phủ Việt Nam, dự dịnh vào ngày 14-7-1946. Dưới sự lãnh đạo,
chỉ đạo kiên quyết, sáng suốt của Đảng và Chính phủ do cụ Huỳnh Thúc Kháng quyền Chủ tịch
Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ lãnh đạo, rạng sáng ngày 12-7-1946, lực lượng Công an đã
khôn khéo, mưu trí, sáng tạo, quyết đoán tổ chức một cuộc đột nhập, tấn công bất ngờ vào trụ sở
của bọn Đại Việt- Quốc dân đảng ở số nhà
132 Duvigneau (Đuyvinhô nay là phố Bùi Thị Xuân -Hà Nội), nhanh chóng khống chế
bọn phản động có vũ trang, tổ chức khám xét và tịch thu được nhiều tài liệu phản động,
trong đó có bản Kế hoạch tổ chức làm đảo chính lật đố chính phủ Hồ Chí Minh do
Trương Tử Anh soạn thảo, lập thời kết thúc Vụ án ở số 7 phố Ôn Như Hầu, (nay Nguyễn
Gia Thiều, Hà Nội). Với thắng lợi quan trọng này ta đã đập tan hoàn toàn mưu đồ thâm
độc lật đổ chính quyền cách mạng của bọn tay sai phản động câu kết với thực dân Pháp,
giữ vững chính quyền cách mạng.
Ngày 20-10-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam về đến cảng Hải
Phòng an toàn trong không khí đón chào nồng nhiệt của nhân dân, của đồng bào, đồng
chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài: Công việc khẩn cấp bây giờ, nêu rõ thêm những
nhiệm vụ cụ thể và cấp thiết phải làm về mặt quân sự, chính trị và khẳng định vai lãnh
đạo của Đảng, của đảng viên cán bộ đối với cuộc kháng chiến kiến quốc và dự đoán đúng
về khả năng một cuộc đối đầu quân sự giữa Việt Nam và Pháp. Kịp thời chỉ đạo từng
bước chuyển sang tình trạng chiến tranh và chuẩn bị kháng chiến lâu dài; tiếp tục cuộc
chiến đấu giam chân địch ở Nam Bộ và trong các thành phố, thị xã ở miền Bắc, khẩn
trương tiến hành cuộc tổng di chuyến các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc
hội và các ban, bộ, ngành, quân đội, công an và các cơ quan lãnh đạo kháng chiến địa
phương ra khỏi thành phố, thị xã; củng cố, xây dựng căn cứ địa, các chiến khu, các ATK
(an toàn khu)... Hàng ngàn tấn máy móc, nguyên nhiên vật liệu đã được di chuyển, mua
sắm, cất giữ trên các chiến khu, căn cứ địa kháng chiến, nhất là ở các ATK Thái Nguyên,
Tuyên Quang, Chiến khu D, Đồng Tháp Mười; hàng vạn nhân dân được động viên,
hướng dẫn tản cư khỏi vùng chiến sự. Ở các nơi quân Pháp có thể chiếm đóng, nhân dân
thực hiện tiêu thổ kháng chiến với khẩu hiệu “vườn không nhà trống”, “phá hoại để kháng
chiến” nhằm ngăn cản bước tiến của địch, hạn chế tiềm năng kinh tế địch, phá kinh tế
địch...
Những chủ trương, biện pháp, sách lược và đối sách đúng đắn của Đảng, tinh thần
quyết đoán, sáng tạo của Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh chống
giặc ngoài, thù trong những năm đầu chính quyền cách mạng non trẻ đã đem lại thắng lợi
có ý nghĩa hết sức quan trọng: ngăn chặn bước tiến của đội quân xâm lược Pháp ở Nam
Bộ, vạch trần và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các kẻ thù; củng cố,
giữ vững và bảo vệ bộ máy chính quyền cách mạng từ Trung ương đến cơ sở và những
thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám; tạo thêm thời gian hòa bình, hòa hoãn, tranh
thủ xây dựng thực lực, chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Nêu cao ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ nền tự do, độc lập. Triệt để lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ địch, thực hành nhân nhượng có nguyên tắc “Dĩ bất biến,
ứng vạn biến”. Tăng cường đại đoàn kết dân tộc, dựa vào sự ủng hộ vật chất là chính trị,
tinh thần của toàn dân. Phát triển thực lực cách mạng. Đó là những thành công và kinh
nghiệm nổi bật của Đảng trong lãnh đạo cách mạng, giai đoạn 1945-1946.
2. Đường lối kháng chiến loàn quốc và quả trình tổ chức thực hiện từ năm 1946
đến năm 1950
Cuộc khảng chiến toàn quốc bừng nổ và đường lối kháng chiến của Đảng
Từ cuối tháng 10-1946, tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng thẳng do,
nguy cơ một cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp tăng dần. Đảng, Chính phủ, quân
đội và nhân dân Việt Nam tiếp tục kìm chế, kiên trì thực hiện chủ trương hòa hoãn và bầy
tỏ thiện chí hòa bình, nhân nhượng nhằm tìm kiếm con đường hòa bình bảo vệ, giữ gìn
toàn vẹn nền độc lập, tự do của Việt Nam, đồng thời cố gắng cứu vãn mối quan hệ Việt-
Pháp đang ngày càng xấu đi và ngăn chặn một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm và không
cân sức với Pháp. Nhiều lần, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Việt Nam, đã
gửi điện văn, thư từ cho Chính phủ Pháp, cho Thủ tướng Pháp song đều không được hồi
đáp; con đường ngoại giao với đại diện Pháp tại Hà Nội cũng đều không đưa đến kết quả
tích cực vì phía Pháp chỉ muốn “dùng biện pháp quân sự để giải quyết mối quan hệ Việt-
Pháp”76. Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Việt Nam đã bộc lộ rõ thái độ bội ước, tiếp tục đẩy
mạnh tăng cường bình định ở các tỉnh Nam Bộ, xúc tiến tái lập Nam Kỳ tự trị; gây hấn,
khiêu khích, gây xung đột quân sự, lấn chiếm nhiều vị trí ở nơi đóng quân ở Bắc Bộ Việt
Nam; đặt lại nền thống trị ở Campuchia và Lào, chia rẽ ba nước Đông Dương.
Cuối tháng 11-1946, thực dân Pháp mở cuộc tấn công vũ trang đánh chiếm Hải
Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó chiếm đóng trái phép ở Đà Nang, Hải Dương, tấn công vào các
vùng tự do của ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hậu thuẫn cho lực lượng phản động xúc
tiến thành lập cái gọi là “Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ” và triệu tập Hội nghị Liên bang
Đông Dương. Trong các ngày 16 và 17-12-1946, quân đội Pháp ở Hà Nội ngang nhiên tấn
công đánh chiếm trụ sỏ' Bộ Tài chính, Bộ Giao thông công chính của ta; bắn đại bác gây
ra vụ thảm sát đồng bào Hà Nội ở phố Yên Ninh và Hàng Bún. Ngày 18-12, đại diện Pháp
ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ với Chính phủ Việt Nam, đưa liên tiếp
ba tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải giải giáp; giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi
độc quyền thực thi nhiệm vụ kiểm soát, gìn giữ an ninh, trật tự của thành phố... Đến ngày
19-12-1946, thiện chí hòa bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã bị thực dân Pháp
thẳng thừng cự tuyệt. Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn một sự lựa chọn duy
nhất là cầm súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm lược đế bảo vệ nền độc lập và
chính quyền cách mạng; bảo vệ những thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám vừa
giành được.

76 Nghị quyết cùa ủy ban Liên bộ Đông Dương (Comindo), ngày 23-11-1946.
70
Ngày 12-12-1946, Trung ương ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Ngày 18-12-1946, Hội
nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (mở rộng) họp tại làng Vạn Phúc, Hà Đông (nay
thuộc quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) đã đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình hình,
kịp thời đề ra chủ trương đối phó và quyết định phát động toàn dân, toàn quốc tiến hành
cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ”. Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lờikêngọitoàn
quốc kháng chiến, khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng để
bảo vệ nền độc lập, tự do: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một
lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!...”77.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện mệnh lệnh của Chính phủ, bắt đầu từ 20 giờ ngày 19-12-
1946, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, quân và dân Hà Nội và ở các đô thị từ Bắc vĩ
tuyến 16 trở ra đã đồng loạt nổ súng, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nố.
Tại Hà Nội, vào lúc 20 giờ 3 phút, pháo đài Láng bắn loạt đại bác đầu tiên vào thành
Hà Nội, báo hiệu cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu. Đèn điện trong thành phố vụt tắt,
các lực lượng vũ trang Vệ quốc đoàn, Tự vệ chiến đấu, Công an xung phong nhất loạt tấn
công các vị trí đóng quân của Pháp trong thành phố. Cuộc chiến đấu diễn ra trên từng góc
phố, căn nhà vô cùng ác liệt, không cân sức giữa ta và địch. Cuộc chiến đấu ở mặt trận Hà
Nội là quyết liệt nhất, diễn ra liên tục trong suốt 60 ngày đêm khói lửa. Nhiều trận đánh ác
liệt, giằng co, quyết tử, một mất một còn giữa ta và Pháp ở nhà Bắc Bộ phủ, nhà Bưu điện
Bờ Hồ, chợ Đồng Xuân, ga Hàng cỏ, sân bay Bạch Mai, Ô cầu Dền... là tiêu biểu cho tinh
thần chiến đấu bất khuất, kiên cường “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của quân dân cả
nước. Quân ta đã chống trả quyết liệt, đánh tiêu hao nhiều sinh lực địch, bảo vệ an toàn các
cơ quan đầu não, lãnh đạo của Trung ương và nhân dân rút ra ngoại thành; hoàn thành
nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố, bước đầu làm thất bại kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh của thực dân Pháp; bảo toàn lực lượng, phát triển lực lượng chiến đấu thành
một Trung đoàn chính quy mang tên “Trung đoàn Thủ đô”. Đen ngày 17- 2-1947, Trung
đoàn Thủ đô và các lực lượng quân sự đã chủ động rút lui ra ngoài thành phố, lên chiến
khu an toàn để củng cố, bảo toàn và phát triển lực lượng kháng chiến lâu dài...
Ở các địa phương khác, như Đà Nang, Huế, Vinh, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang
quân và dân ta cũng đồng loạt nổ súng tấn công vào các vị trí đóng quân của địch trong
các đô thị, ngăn chặn địch trên các tuyến giao thông, đánh phá các cơ sở hạ tầng chiến
tranh của địch; kìm giữ chân địch không cho chúng mở rộng địa bàn chiếm đóng xung
77 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, trang 534.
71
quanh thành phố, thị xã, thị trấn; tiếp tục di chuyển nhân tài, vật lực lên các khu căn cứ
địa và ATK...
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta được hình thành, bổ sung, phát
triển qua thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ
bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào
sức mình là chính. Đường lối đó được thể hiện trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời
kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Tổng Bí thư Trường
Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc (25-11-1945), Chỉ thị
Tình hình và chủ trương (3-3-1946), Chỉ thị Hòa dể tiến (9-3-1946), Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-
12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), tác phẩm
Khángchiếnnhấtđịnhthắnglợi của đồng chí Trường Chinh (8-1947),...
Mụctiêucủacuộckhảngchiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do,
thống nhất hoàn toàn; vì nền tự do dân chủ và góp phần bảo vệ hòa bình thế giới...
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân tích
cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự dồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi
nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố
là một mặt trận”. Trong đó Quân đội nhân dân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không chỉ bằng quân
sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao, trong đó mặt trận quân sự,
đấu tranh vũ trang giữ vai trò mũi nhọn, mang tính quyết định. Động viên và phát huy cho
được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân
dân phục vụ kháng chiến thắng lợi.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ kháng chiến là
một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta,
từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến trường có lợi cho ta; lấy thời
gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng
không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc
kháng chiến có bước nhảy vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.
Khángchiếndựavàosứcmìnhlàchính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ
đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của
trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân.
Trên cơ sở đó, đế tìm kiếm, phát huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần
và vật chất của quốc tế khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan
trọng hàng đầu.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là hoàn toàn
đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân
ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưcmg ứng trong suốt quá trình kháng
chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc kháng
chiến chống Pháp.
Tổ chức, chỉ đạo cuộc kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1950
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Trung ương Đảng quyết định chia cả nước thành
các khu và sau này thành các chiến khu quân sự để phục vụ yêu cầu chỉ đạo cuộc kháng
chiến. Các ủy ban kháng chiến hành chính được thành lập; các tổ chức chính trị, xã hội
được củng cố nhằm tăng cường đoàn kết, tập hợp đông đảo nhất mọi tầng lớp nhân dân
tham gia kháng chiến.
Ngày 6-4-1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ Trung
ương, nhấn mạnh việc mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp, củng cố
chính quyền nhân dân ở vùng địch tạm chiếm, phát động chiến tranh du kích, đẩy mạnh
công tác ngoại giao và tăng cường công tác xây dựng Đảng vó'i việc mở đợt phát triển
đảng viên mới “Lóp tháng Tám”. Nhiều quần chúng ưu tú công, nông, trí đã gia nhập
Đảng. Cuối năm 1947, tổng số đảng viên toàn Đảng tăng lên đến hơn 70.000 người. Bộ
đội chính quy phát triển lên hơn 12 vạn quân được biên chế thành 57 trung đoàn và 20
tiểu đoàn độc lập, bên cạnh đó lực lượng dân quân tự vệ đã phát triển lên hơn 1 triệu
người. Trang bị vũ khí được cải thiện có khoảng 3 vạn khẩu súng, toàn quân có hơn 20
công xưởng sửa chữa, sản xuất vũ khí thô sơ. Lực lượng công an được thống nhất tố chức
trong toàn quốc và hoạt động cả trong vùng địch hậu và vùng tự do. Tổ chức của Nha
Công an Việt Nam được thiết lập theo hệ thống dọc đến cấp Khu, Ty, Quận, huyện, có sự
phát triển mới cả về biên chế, tổ chức bộ máy, lý luận nghiệp vụ. Công an nhân dân đã lập
nên nhiều chiến công lớn có tiếng vang trong cả nước, điến hình là chiến công của Tổ điệp
báo AI3, đánh đắm Thông báo hạm Amyot danvill (Amiôđanhvin) của Pháp ở ngoài khơi
vùng biển sầm Sơn, Thanh Hóa (9-1950), góp phần đập tan âm mưu của thực dân Pháp
hòng mua chuộc, lôi kéo những người kháng chiến ly khai để xây dựng “chiến khu
quốc gia”, đánh chiếm vùng tự do Thanh-Nghệ-Tĩnh của ta ...
Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng tiếp tục chủ trương đẩy mạnh phong
trào tăng gia sản xuất, tự cấp, tự túc lương thực, dảm bảo đời sống cho bộ đội và nhân
dân. Duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học của các trường phố thông các cấp.
Tìm hướng đi tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của lực lượng tiến bộ và nhân dân thế giới
đối với cuộc kháng chiến, đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan, Miến Điện (nay là Myanmar),
cử các đoàn đại biểu đi dự hội nghị quốc tế...
về quân sự, Thu Đông 1947, Pháp đã huy động khoảng 15.000 quân, gồm cả ba lực
lượng chủ lực lục quân, hải quân và không quân, hình thành ba mũi tiến công chính tiến
lên vùng ATK Việt Bắc, trong đó có mũi thọc sâu, đột kích nhảy dù xuống trung tâm thị
xã Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn, hòng bắt gọn Chính phủ Hồ Chí Minh. Các mũi khác
tiến theo đường số 4 từ Lạng Sơn lên Cao Bằng; một mũi tiến theo đường sông Hồng lên
sông Lô, sông Gâm tiến công vào ATK Tuyên Quang, thọc sâu vào vùng ATK hàng trăm
cây số, trải rộng trên địa bàn khắp 12 tỉnh Việt Bắc. Để đối phó với cuộc tấn công của
địch lên Việt Bắc, ngày 15-10-1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị phải
phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp, trong đó nêu rồ quyết tâm của quân và
dân ta, vạch ra thế yếu của địch và đề ra các nhiệm vụ quân sự cho các chiến trường là
phải ra sức phát động mạnh mẽ cuộc chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ và Trung
Bộ; chặt đứt giao thông, bao vây không để địch tiếp tế, liên lạc tiếp ứng cho nhau; tổ chức
cuộc chiến tranh nhân dân, đồng loạt tấn công đánh địch trên tất cả các hướng tiến công
của chúng cả đường bộ và đường sông. Sau 75 ngày đêm chiến đấu liên tục, oanh liệt, đến
ngày 21-12-1947, quân và dân ta đã lần lượt bẻ gãy tất cả các mũi tiến công nguy hiểm
của giặc Pháp, loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn tên địch, phá hủy hàng trăm xe cơ
giới, bắn chìm nhiều tàu xuồng và nhiều phương tiện chiến tranh khác. Ta đã bảo toàn
được cơ quan đầu não và căn cứ địa kháng chiến, đánh bại âm mưu, kế hoạch đánh
nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp.
Phối hợp với mặt trận chính, Đảng đã chỉ đạo quân dân vùng tạm bị chiểm đẩy
mạnh kháng chiến, ra sức đánh phá chính quyền địch, diệt tề, trừ gian, trừng trị nhiều tên
Việt gian tay sai đầu sỏ ngay trong sào huyệt của chúng2. Đầu năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Đại tướng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp cùng Trung
tướng Nguyễn Bình và 9 Thiếu tướng. Sự kiện đó là bước phát triển mới của cuộc kháng
chiến.

1
Bộ Nội vụ: Công an nhân dân Việt Nam-LỊch sử biên niên (1945-1954), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
1994, trang 235.
2
Bộ Nội vụ: Công an nhân dân Việt Nam-Lịch sử biên niên (1945-1954), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
1994, trang 134.

74
Từ năm 1948, tình hình quốc tế có những chuyển biến có lợi cho các lực lượng cách
mạng và tác động tích cực đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Đặc biệt, ngày 1-10-
1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền, Nhà nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa ra đời. Nưóc Pháp liên tục phải dối mặt với nhiều khó khăn, mâu thuẫn phức
tạp nảy sinh, thế chiến lược quân sự của Pháp ở Đông Dương bị đảo lộn...
Phát huy thắng lợi, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn diện để
làm thất bại âm mưu kéo dài, mở rộng chiến tranh “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng
người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội,
việc xây dựng thực lực kháng chiến được tăng cường. Các ngành, các giới, các đoàn thể
phát động rộng rãi, mạnh mẽ và tổ chức sâu rộng nhiều cuộc vận động thi đua ái quốc theo
Lời kêu gọi Thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra ngày 11-6-1948. Nhiều loại hàng
hóa cần thiết cho đời sống của bộ đội và nhân dân được sản xuất và tự cấp, tự túc kịp thời,
như: vải vóc, giấy, thuốc chữa bệnh, nông cụ... Hội nghị Văn hóa toàn quốc được tổ chức
(7-1948) đã nhất trí thông qua đường lối, phương châm xây dựng nền văn hóa mới mang
tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng. Tàn tích văn hóa thực dân, phong kiến từng bước
được xóa bỏ, hình thành các giá trị văn hóa mới; công tác cải cách nền giáo dục quốc gia
cũng thu được những kết quả tích cực.
Trên mặt trận ngoại giao, Đảng và Chính phủ chủ trương tích cực tranh thủ mở rộng
quan hệ ngoại giao với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đi thăm Trung Quốc, Liên Xô và sau đó lần lượt Chính phủ Trung Quốc (18-1-
1950), Liên Xô (30-1-1950) và các nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu, Triều Tiên (2-
1950) công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
ủng hộ, giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Với Lào và Campuchia, Đảng
chủ trương “mở rộng mặt trận Lào-Miên”, thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu Việt-Miên-
Lào đế giúp bạn và cùng bạn chiến đấu. Từ cuối năm 1947, Đảng và Chính phủ Việt Nam
đã cử một số cán bộ chiến sĩ sang giúp lực lượng kháng chiến Lào, xây dựng các khu căn
cứ kháng chiến ở vùng Hạ, Trung và Thượng Lào. Cán bộ Việt kiều ở Thái Lan đã giúp
lực lượng yêu nước Campuchia thành lập ủy ban dân tộc giải phóng Khơrne; xây dựng
vùng căn cứ ở Tây Bắc Campuchia.
Tháng 11-1949, Hồ Chí Minh ký ban hành sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Trong quân
đội có cuộc vận động “luyện quân lập công” và tiếp theo là phong trào thi đua “rèn cán,
chỉnh quân”. Lực lượng ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích)
được phát triển nhanh chóng và trưởng thành về mọi mặt, số lượng bộ đội tăng lên 23 vạn
người, trong đó có 40.000 đảng viên; số dân quân tự vệ và du kích lên đến 3 triệu
người. Đầu năm 1950, lực lượng cơ động của ta đã hơn hẳn địch 78, viện trợ quân sự của
Trung Quốc cũng góp một phần tăng cường, cải thiện trang bị cho bộ đội. Lực lượng
Công an Việt Nam được Đảng quan tâm chỉ đạo xây dựng theo đường lối Công an nhân
dân và 6 lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tư cách người Công an cách mạng 79. Công
tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh và phát triển nhanh trong 2 năm 1948, 1949, kết nạp
được hơn 50.000 đảng viên mới. Cuộc vận động “xây dựng chi bộ tự động công tác” đã
góp phần phát triển rộng khắp và tôi luyện các cơ sở đảng. Tháng 2-1950, Đảng và Hồ
Chí Minh chủ trương tổng động viên, ra sắc lệnh huy động nhân lực, vật lực, tài lực của
toàn dân để phục vụ đẩy mạnh công cuộc kháng chiến tiến lên giành thắng lợi lớn hơn. Từ
cuối năm 1950, Đảng quyết định tạm ngừng phát triển Đảng để củng cố vì phát hiện ở
nhiều nơi việc phát triển Đảng “quá nóng”, mắc sai lầm về tiêu chuẩn dảng viên. Trung
ương Đảng đã ra chỉ thị uốn nắn, sửa chữa khắc phục một số khuyết điểm, sai lầm chủ
quan nóng vội, muốn chuyển nhanh, chuyển mạnh sang tổng phản công; nhận thức lệch
lạc trong động viên sức người, sức của vượt quá sức dân.
Trong vùng tạm bị chiếm, Đảng chỉ đạo tiếp tục phát triển mạnh chiến tranh du kích
để “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”. Nhân dân cùng lực lượng vũ
trang đã tiến hành chiến dịch tổng phá tề, trừ gian ở vùng sau lưng địch, phá hệ thống kìm
kẹp của địch, đánh phá bộ máy chính quyền bù nhìn cơ sở của địch ở nhiều vùng rộng
lớn, lập chính quyền của ta; tổ chức chống càn quét, chống đi phu, bắt lính, chống nộp
thuế cho địch. Tại nhiều địa phương quân và dân đã phối họp hiệp đồng chiến đấu, tổ
chức đánh phục kích tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch và giành được thắng lợi giòn giã,
điển hình như: trận La Ngà (3-1948), Tầm Vu (4-1948); trận Đồng Dương (4-1948), trận
Nghĩa Lộ (3-1948).
Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương đế tìm cơ
hội thay thế Pháp. Ngày 9-1-1950, 3.000 sinh viên Sài Gòn biểu tình, Trần Văn ơn hy
sinh. Ngày 19-3-1950, hơn 500.000 người dân Sài Gòn biểu tình chống Mỹ khi Mỹ đưa
tàu chiến tới Cảng Sài Gòn. Xứ ủy Nam Bộ có vai trò quan trọng trong chỉ đạo đấu tranh,
luật sư Nguyễn Hữu Thọ tham gia lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh.
Địa bàn Nam Bộ, vốn là nơi địch thực hiện “chiến thuật mạng nhện”, xây dựng hệ
thống tháp canh dầy đặc và đã gây cho ta nhiều khó khăn. Nhận thức được điều đó, Xứ ủy
Nam Bộ đã kịp thời chỉ đạo khắc phục, đưa phong trào chiến tranh du kích ngày càng phát
triển. Mặt trận Khu VIII, ta mở chiến dịch cầu Kè-Trà Vinh (4-1949), đánh vây đồn, diệt
viện và thu được thắng lợi to lớn. Ở Khu VII bộ đội thử nghiệm cách đánh đặc biệt

78 Quân đội ta có 2 Đại đoàn (304 và 308), 2 Trung đoàn chủ lực và 12 Trung đoàn chủ lực cùa Liên
khu. Quân đội Pháp ở Việt Nam lúc này chỉ có 12 Tiểu đoàn cơ động chiến lược.
79 Thư gửi Giám đốc Công an Khu XII, ngày 11-3-1948.
(sau gọi là đặc công) dùng mìn đánh tháp canh và các mục tiêu câu, công, kho tàng của
địch với trận đánh đầu tiên ở cầu Bà Kiên đêm 18-4-1950.
Từ cuối năm 1948 đầu năm 1949, Trung ương Đảng chủ trương tăng cường phối
hợp chiến đấu với quân, dân Lào, Campuchia và Trung Quốc. Trực tiếp đưa bộ đội tham
gia hỗ trợ quân giải phóng Trung Quốc trong chiến dịch Thập Vạn Đại Sơn ở khu vực
biên giới Việt-Trung...
Từ giữa năm 1949, tướng Revers (Rơve) - Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp đề
ra kế hoạch mở rộng chiếm đóng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, phong tỏa, khóa chặt biên
giói Việt-Trung. Ngày 8-3-1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol ký với Bảo Đại Hiệp
định về quan hệ Pháp-Việt. Ngày 13-6-1949, Bảo Đại được Pháp đưa về Sài Gòn làm
Quốc trưởng và ngày 1-7, Bảo Đại tuyên bố thành lập “Quốc gia Việt Nam”. Đó là chính
quyền bất hợp pháp, giả hiệu do Pháp dựng lên (ngụy quyền), xây dựng quân đội (ngụy
quân). Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định 1Ĩ1Ở một chiến dịch
quân sự lớn tiến công địch dọc tuyến biên giới Việt-Trung thuộc 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng
Son (Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh
lực địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, tạo hành lang rộng mở quan hệ thông thương với
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thúc đấy cuộc kháng chiến phát
triển lên giai doạn mới. Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 trải dọc theo tuyến biên giới
Việt-Trung từ thị xã Cao Bằng đến Đình Lập (giáp Móng Cái). Đây là chiến dịch quân sự
lớn, quan trọng đầu tiên do quân ta chủ động mở; đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thị
sát và trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Cuộc chiến đấu anh dũng và quyết liệt của quân và dân
ta diễn ra không nghỉ trong suốt 30 ngày đêm liên tục, từ ngày 16-9 đến 17- 10-1950 và
đã giành được thắng lợi to lớn, “đạt được mục tiêu diệt địch, kết thúc thời kỳ chiến đấu
trong vòng vây”. Chiến thắng này đã mở ra cục diện mới, đưa cuộc kháng chiến chuyển
sang giai đoạn phát triển cao hơn.
3. Đầy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi 1951-1954
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II và Chính cương của Đảng (2-1951)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951,
tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tham dự
Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 766.000 đảng
viên toàn Đảng. Đại hội lần thứ hai của Đảng được tiến hành trong bối cảnh Liên Xô lớn
mạnh vượt bậc về mọi mặt, các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bước vào công cuộc xây
dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Lloa ra đời
làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho hòa bình và phong trào cách mạng. Mỹ trở
thành tên sen đầm quốc tế, tăng cường giups đỡ Pháp can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến
tranh Đông Dương. Ở trong nước, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã giành được nhiều
thắng lợi quan trọng. Cách mạng Lào và Campuchia cũng có những chuyển biến tích cực.
Điều kiện lịch sử đó đặt ra cho Đảng Cộng sản Đông Dương các yêu cầu bổ sung và hoàn
chính đường lối cách mạng phù hợp với mỗi nước ở Đông Dương để đưa kháng chiến đi
đến thắng lợi.
Theo sáng kiến của những người cộng sản Việt Nam, được những người cộng sản
Lào và Campuchia nhất trí tán thành, Đại hội quyết định: Do nhu cầu kháng chiến, giai
cấp công nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một đảng riêng.
Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam 80..
Sau Diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu và thảo luận Báo
cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân
dân,tiếntớichủnghĩaxãhội của Trường Chinh, BáocáovềtochứcvàĐiềulệĐảng của Lê Văn Lương...
Báo cáo chính trị đã tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam
trong nửa đầu thế kỷ XX, dự báo những triển vọng tốt đẹp của nửa thế kỷ sau; rút ra bài
học trong 21 năm hoạt động của Đảng. Báo cáo vạch rõ nhiệm vụ nhiệm vụ chủ yếu trước
mắt là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập
hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Đẻ hoàn thành nhiệm vụ đó, Đảng phải đề ra những
chính sách và biện pháp tích cực tăng cường lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể
quần chúng, dẩy mạnh thi dua ái quốc, 111Ở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường
đoàn kết quốc tế; đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng Lao động Việt Nam thành “một
Đảng to lớn, mạnh mẽ, chẳc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để” để lãnh đạo đưa kháng
chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối cách mạng
Việt Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nội dung cơ bản của của báo cáo được phản ánh trong Chính cương của Đảng Lao dộng Việt Nam
được Đại hội thông qua, gồm các nội dung quan trọng sau đây:
- Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có 3 tính chất: “dân chủ nhân dân, một phàn
thuộc địa và nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giũa chế độ dân
chủ nhân dân với các thế lực phản động chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Đối tượng
đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp và can thiệp
Mỹ, và phong kiến phản động.

80 Ngày 28-6-1951, Đảng bộ Campuchia đã họp Đại hội, quyết định thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng
Campuchia và bầu Ban Lãnh đạo của Đảng do Sơn Ngọc Minh đứng đầu. Đảng bộ Lào cũng tích cực chuẩn bị và
đến ngày 22-3-1955 đã họp Đại hội, quyết định thành lập Đảng Nhân dân Lào (sau đổi là Đảng Nhân dân Cách mane
Lào), do Cayxỏn Phômvihản làm Tổng Bí thư.
- Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành
độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong
kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ
nghĩa xã hội”. Nhưng nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng nhiệm vụ
chính lúc này là tập trung đấu tranh chống xâm lược, hoàn thành công cuộc giải phóng dân
tộc.
- Động lực của cách mạng Việt Nam được xác gồm có bốn giai cấp là: giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có những thân sĩ
(thân hào, địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Trong đó lấy nền tảng là giai cấp công, giai cấp
nông và lao động trí óc; giai cấp công nhân đóng vai trò là lực lýợng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam.
- Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của cách mạng Việt Nam nhất định sẽ tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo nên nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình
lâu dài, có các giai đoạn phát triển tương ứng với những nhiệm vụ trung tâm, đó là: hoàn
thành giải phóng dân tộc; xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để
người cầy có ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; tiến tới xây dựng cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Nội dung của Chính cương còn nêu ra 15 chính sách lớn của Đảng trong giai đoạn
hiện ta nhằm tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia,
thực hiện chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam, làm tiền đề tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Điều lệ mới của Đảng được Đại hội thông qua có 13 chương, 71 điều, trong đó xác
định rõ mục đích, tôn chỉ của Đảng là phấn đấu “đế phát triến chế độ dân chủ nhân dân,
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số Việt Nam” 81. Điều lệ Đảng
cũng nêu ra những quy định về đảng viên, về nền tảng tư tưởng của Đảng, nguyên tắc hoạt
động của Đảng Lao động Việt Nam và nhấn mạnh: “trong giai đoạn này quyền lợi của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt
Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam”82.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên
dự khuyết. Ban Chấp hành đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự
khuyết và Ban Bí thư. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh được

81 Đảng Cộng sàn Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 12, trang
438.
82 Đàng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đàng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 12, trang
439.
bầu lại làm Tổng Bí thư.
Đại hội II thành công là một bước tiến mới của Đảng về mọi mặt, là “Đại hội kháng
chiến kiến quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao
động Việt Nam” Tuy nhiên, Đại hội cũng có hạn chế, khuyết điểm về nhận thức là mắc
vào tư tưởng “tả” khuynh, giáo điều, rập khuôn máy móc, đưa cả lý luận Xtalin, tưởng
Mao Trạch Đông vào làm “nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của
Đảng”83.
Đấy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt
Nhằm làm thất bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi (Jean de Lattre de Tassigny), từ
đầu năm 1951, Đảng chủ trương mở các chiến dịch tiến công quân sự có quy mô tương
đối lớn đánh vào các vùng chiếm đóng của địch ở địa bàn trung du và đồng bàng Bắc Bộ,
tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau
lưng địch. Tiếp đó ta mở Chiến dịch Hòa Bình (12-1951) và Chiến dịch Tây Bắc Thu
Đông 1952, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực dịch, giải phóng một phần vùng Tây
Bắc, phá âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp. Trên chiến trường Liên khu V,
phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh ở địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Bắc
Quảng Nam, Khánh Hòa, Nam Bình Thuận... Trên địa bàn Nam Bộ, theo chỉ đạo của Xứ
ủy, lực lượng vũ trang được tổ chức và sắp xếp lại cho phù hợp với nhiệm vụ phát triển
chiến tranh du kích. Quân và dân Nam Bộ tích cực tiến công địch bằng các hình thức tập
kích, phục kích, đánh đặc công, tiêu biểu là trận đánh vào khu hậu cần của Pháp ở Phú
Thọ (Sài Gòn), ngày 8-5-1952, đốt cháy hơn 5 triệu lít xăng, phá hủy hơn 1.000 quả bom
và diệt gọn một đại đội quân Pháp... Phát huy thắng lợi của các chiến dịch quân sự trong
nước, Đảng quyết định phối hợp với cách mạng Lào 1Ĩ1Ở chiến dịch Thượng Lào (gồm
tỉnh Hủa Phăn và Xiêng Khoảng), giúp Chính phủ kháng chiến Lào giải phóng thêm đất
đai và mở rộng khu căn cứ địa, phá thế bố trí chiến lược của thực dân Pháp ở Bắc Đông
Dương.
Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ chỉ đạo đẩy
mạnh việc chăm lo phát triển thực lực, củng cố và tăng cường sức mạnh hậu phương
kháng chiến. Tháng 4-1952, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba của Đảng đề
ra những quyết sách lớn về công tác “chỉnh Đảng, chỉnh quân”, xác định đó là nhiệm vụ
trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội giai đoạn này. Cuộc vận động
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, khác phục khó khăn, hăng hái lao động, tăng gia
sản xuất đã tự túc một phần lương thực, thực phẩm; bảo đảm đạn dược, thuốc men, quân
trang, quân dụng cung cấp đủ cho bộ đội. Chấn chỉnh lại chế độ thuế khóa, tài chính, xây

83 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 12, trang 437.
80 /
dựng ngành thương nghiệp, ngân hàng; thực hiện từng bước chính sách ruộng đất, chính
sách thuế nông nghiệp, chính sách địa tô. Các mặt văn hóa, y tế, giáo dục, xây dựng nếp
sống mới, củng cố mặt trận dân tộc thống nhất cũng được phát triến và đạt được nhiều
thành tựu mới...
Từ đầu năm 1953, Đảng chủ trương đẩy mạnh thực hiện các cải cách dân chủ, phát
động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, giảm tức tiến tới cải cách ruộng đất nhằm góp
phần thúc đẩy kháng chiến mau thắng lợi, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng. Nông
dân đã được tạm cấp gần 180.000 héc ta ruộng đất vốn là của thực dân, địa chủ Việt gian,
ruộng công, ruộng hoang hóa, vắng chủ. Tháng 1-1953, Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ tư đã họp kiểm điểm về thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và
quyết định tiến tới cải cách ruộng đất ở một số vùng nông thôn Việt Nam. Tháng 11- 1953,
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm và Hội nghị toàn quốc của Đảng
lần thứ nhất quyết nghị thông qua Cương lĩnh ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam với
23 điều và nêu chủ trương: “phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và
tiến hành cải cách ruộng đất”, thực hiện người cầy có ruộng, nâng cao quyền lợi kinh tế và
chính trị của người nông dân. Chủ trương, chính sách về ruộng đất và cải cách ruộng đất
của Đảng và Nhà nước ta được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, như: hiến ruộng
đất, tịch thu, trưng thu, trưng mua và đem ruộng đất đó chia cho cố nông, bần nông và
trung nông lớp dưới là những người không có hoặc thiếu ruộng cày cấy. Chủ trương đó đã
tạo ra chuyển biến lớn về kinh tế, chính trị ở nông thôn, thúc đẩy sức sản xuất phát triển,
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân Việt Nam.
Ngày 4-12-1953, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa I đã thông qua Luật cải cách ruộng
đất và ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh Luật cải cách
ruộng đất. Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ hàng ngàn hécta ruộng đất và các
loại nông cụ, trâu bò, tư liệu sản xuất nông nghiệp đã được chia cho nông dân nghèo, nhất
là bần, cố nông. Thắng lợi này đã làm nức lòng bộ đội nơi tiền tuyến, tăng thêm quyết tâm
giết giặc, lập công, góp phần tích cực động viên sức người, sức của cho Chiến dịch Điện
Biên Phủ... Song, do còn hạn chế trong nhận thức, việc tiếp thu kinh nghiệm đấu tranh giai
cấp của nước ngoài đã mắc vảo giáo điều chủ nghĩa, vi phạm khuyết điểm nghiêm trọng là
độc đoán, chuyên quyền, định kiến chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, nhất là ở phương pháp,
cách làm, ở việc chỉ đạo xử lý không đúng một số trường hợp oan sai trong cải cách ruộng
đất, càng về sau càng nặng hơn...1.
Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
1
về vấn đề này, đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ mười (mở rộng) tháng 10-1956, Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã phân tích sâu sắc, nhận thức đầy đủ, chỉ rõ khuyết điểm, sai lâm, nguyên nhân sai lâm và đã tự
phê bình rất nghiêm khắc, có hình thức kỷ luật thích đáng những cá nhân gây ra sai phạm; đề ra nhiều chủ trương,
biện pháp khắc phục hậu quà, lấy lại niềm tin của nhân dân.
81
Bước vào năm 1953, quân đội Pháp ở Đông Dương bị mắc kẹt trong mâu thuẫn giữa
tập trung binh lực và chiếm giữ, giữa tiến công và phòng ngự, giữa bảo vệ đồng bằng Bắc
Bộ và bảo vệ vùng Tây Bắc, Thượng Lào. Nước Pháp lệ thuộc ngày càng sâu vào viện trợ
quân sự Mỹ và đang dốc mọi cố gắng hòng tìm một lối thoát trong danh dự.
Tháng 5-1953, Pháp cử Đại tướng H. Navarre (Hăngri Nava) đang đảm nhiệm chức
vụ Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối NATO sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn
chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7-1953, Nava đã vạch ra kế hoạch chính trị-quân sự
mới lấy tên là “Ke hoạch Nava”. Ke hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng 18 tháng
nhằm “chuyển bại thành thắng”. Nava chủ trương tăng cường tập trung binh lực, hình
thành những “quả đấm thép” để quyết chiến với chủ lực của Việt Minh. Chi phí vật chất
của kế hoạch Nava phần lớn do Mỹ thực hiện. Trong quá trình triển khai kế hoạch, Nava
đã từng bước biến Điện Biên Phủ-một địa danh vùng Tây Bắc Việt Nam trở thành một
căn cứ quân sự khổng lồ và là trung tâm điểm của kế hoạch. Đến đầu năm 1954, Điện
Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một “pháo đài khổng lồ
không thể công phá”, được giới quân sự, chính trị Pháp-Mỹ đánh giá là “một cỗ máy để
nghiền Việt Minh”.
Đe đánh bại âm mưu và kế hoạch Nava, Đảng chủ trương mở cuộc tiến công chiến
lược Đông Xuân 1953-1954. Từ đầu tháng 9-1953, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy chỉ đạo
Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nghiên cứu, đánh giá toàn diện tình
hình quân sự trên chiến trường và vạch ra kế hoạch tác chiến mới. Cuối tháng 9-1953, Bộ
Chính trị họp bàn và thông qua chủ trương tác chiến chiến luợc Đông Xuân 1953-1954,
nhằm tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng của ta, giữ vững thế chủ động, buộc
địch phải phân tán lực lượng để đối phó. Nghị quyết quan trọng này của Bộ Chính trị đã
mở đường đi tới những thắng lợi lịch sử trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân
1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tháng 12-1953, Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng xong các kế hoạch tác chiến cụ thể
cho các chiến trường và được Bộ Chính trị phê chuẩn. Trên cơ sở báo cáo quyết tâm của
Tổng Quân ủy, cuộc họp của Bộ Chính trị ngày 6-12-1953 đã quyết định mở Chiến dịch
Điện Biên Phủ và giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp -Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư
lệnh quân đội trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Phối hợp với mặt
trận Điện Biên Phủ và tạo điều kiện cho trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ, lực
lượng quân sự tổ chức nghi binh, kéo dãn lực lượng địch trên toàn chiến trường Đông
Dương, mở nhiều cuộc tấn công địch đồng loạt trên các hướng chiến lược quan trọng,
như: Lai Châu (12-1953); Trung Lào (12-1953), Hạ Lào và Đông Bắc Campuchia (12-
1953); mặt trận Tây Nguyên (1-1954); Thượng Lào (1-1954). Tại mặt trận Bình Trị
Thiên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ ta tố chức đồng loạt tấn công địch, kết hợp phát động phá

82
tề, trừ gian, mở các chiến dịch địch vận, ngụy vận, phá hủy giao thông, đầy mạnh hoạt
động chiến tranh du kích...
Nhằm phát huy sức mạnh của hậu phương, chi viện tiền tuyến, nhất là lực lượng
nông dân, cho cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên
Phủ, Trung ương Đảng, Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động phong
trào quần chúng đấu tranh triệt đế giảm tô, giảm tức và tiến hành cải cách ruộng đất, Bộ
Chính trị quyết định thành lập ủy ban chi viện tiền tuyến; Hội đồng cung cấp mặt trận
Trung ương và các địa phương cũng được thành lập. Mọi nguồn nhân tài, vật lực, dân
công tiếp tế, chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ được tăng cường với hàng vạn ngày
công, hàng vạn tấn lương thực, đạn dược, vũ khí, phương tiện trang bị,... Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng, không những về quân sự
mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân,
toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”84.
Thực hiện quyết tâm chiến lược đó, ta đã tập trung khoảng 5 vạn quân với mọi nỗ
lực và quyết tâm cao nhất bao vây chặt quân địch ở Điện Biên Phủ. Với phương châm
“đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc thắng”, ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tấn công địch
ở phân khu phía Bẳc trung tâm Mường Thanh, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trải
qua 56 ngày đêm, với 3 đợt tiến công lớn, vào hồi 17 giờ 30 phút chiều 7-5-1954, Quân
đội nhân dân Việt Nam đã đánh chiếm hầm chỉ huy, bắt sống tướng Chiristian de Castries
(Đờ Cátơri) chỉ huy trưởng và Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Toàn bộ lực
lượng địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt sống. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc
đã đưa cuộc Tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và cuộc kháng chiến của dân tộc
Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi vẻ vang..
Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ là thắng lợi của ý chí và khát vọng độc lập, tự
do của nhân dân Việt Nam mà nòng cốt là lực lượng Quân đội nhân dân anh hùng. Với
nước Pháp “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là một trong
những thảm bại lớn nhất của phương Tây...” 85. Thắng lợi ỏ' Điện Biên Phủ là “thiên sử
vàng của dân tộc Việt Nam”, được ghi nhận là một chiến công vĩ đại của dân tộc Việt
Nam trong thế kỷ XX và “đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu
sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân” 86.
Cùng với thắng lợi quân sự to lớn, vang dội ở Điện Biên Phủ, trên toàn chiến trường
Đông Dương quân và dân ta cũng giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trên các mặt trận kinh

84 Chi thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp (12-1953).
85 Jules Roy: Trận Điện Biên Phú dưới con mắt của người Pháp, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994,
tế, chính trị, quân sự ở cả vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ, mặt trận Bình Trị Thiên,
Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Những thắng lợi này đã góp phần cổ vũ, tác động tích cực đối
với mặt trận Điện Biên Phủ.
Từ cuối năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố về lập trường của Việt Nam là:
“Chính phủ Pháp phải thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”, phải
đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược và phải thương lượng trực tiếp và chủ yếu với Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 87. Tuyên bố này mở đường cho đấu tranh ngoại giao tại
Hội nghị Geneve (Giơnevơ ,Thụy Sỹ).
Chính phủ Pháp không còn sự lựa chọn nào khác, buộc phải đàm phán tại Hội nghị
Giơnevơ bàn về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương. Ngày 8-5-1954,
phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu
đến Hội nghị với tư thế một dân tộc chiến thắng. Trong 75 ngày đàm phán căng thẳng,
gay go, phức tạp, trải qua 8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp cấp trưởng đoàn và nhiều
cuộc gặp gỡ riêng với nhiều áp lực, tác động tiêu cực của diễn biến tình hình quốc tế phức
tạp và sức ép của các nước lớn. cần nhấn mạnh rừng Hội nghị Geneve là hội nghị của các
nước lớn bàn về chiến tranh Đông Dương. Đoàn Mỹ do John Foster Dules (J. Đalét) Bộ
trưởng Ngoại giao dẫn đầu, đoàn Vương quốc Anh do Bộ trưởng Ngoại giao Anthony
Eden là trưởng đoàn, đoàn Pháp do Georges Bidault (Bi đôn), sau đó làm Thủ tướng
Mendes France Thủ tướng dẫn đầu, đoàn Liên Xô do Bộ trưởng Ngoại giao Viacheslav
Molotov làm trưởng đoàn, đoàn Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai (Zhou En Rai).
Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Các đoàn
Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia và Quốc gia Việt Nam (chính quyền Bảo Đại)
cũng tham gia hội nghị. Phía Việt Nam luôn kiên trì đấu tranh, giữ vững nguyên tắc, nhân
nhượng có điều kiện và cũng tích cực đấu tranh để bảo vệ quyền lợi chính trị của lực
lượng kháng chiến Lào và Campuchia. Song so sánh lực lượng không thuận lợi cho cách
mạng ba nước Đông Dương, nên ta đồng ý chấp nhận ký kết với Pháp bản Hiệp định đình
chỉ chiến sự ỏ' Việt Nam vào ngày 21-7-1954. Trong quá trình diễn ra Hội nghị Mỹ đã
gây sức ép buộc Pháp chấp nhận đưa Ngô Đình Diệm về nước làm Thủ tướng trong chính
quyền Bảo Đại nhằm xây dựng một chính quyền thân Mỹ thay thế chính quyền thân Pháp.
Tổng thống Mỹ Dwight D Eisenhower (Ai xen hao) quyết tâm thúc đẩy quá trình Mỹ thay
thế Pháp ở Việt Nam và Đông Dương.
Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố cuối cùng về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông
Dương có chữ ký của các bên (riêng phía đại biểu Mỹ không ký, nhưng tuyên bố cam kết
tôn trọng Hiệp định). Bản Tuyên bố nêu rõ: Pháp và các nước tham dụ’ Hội nghị long
trọng cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia là độc
trang
579.
86 Lê Duẩn: Dưới lả cờ vẻ vang của Đủng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những
thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, trang 90.
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
các nước đó; cam kết chấm dứt cuộc chiến tranh và lập lại hòa bình trên bán dảo Đông
Dương... Kết quả Hội nghị phản ánh xu thế chung và cục diện tình hình quốc tế lúc bấy
giờ. Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân
dân Việt Nam, Lào và Campuchia; đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược; mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam và mở đường cho
cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho nhân dân ba nước Đông Dương sau
này.
4. Ý nghĩa lịch sử vờ kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo kháng chiến chống
Pháp và can thiệp Mỹ.
Ỷ nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân ta
đã bảo vệ và phát triến tốt nhất các thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám; củng cố,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội; mang đến niềm tin vào sức sống và thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến. Thắng lợi
của cuộc kháng chiến đưa đến việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề về chính trị-
xã hội quan trọng để Đảng quyết định đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng, bảo vệ vững chắc miền Bắc thành hậu phương lớn, chi viện cho tiền tuyến lớn miền
Nam.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi to lớn, có ý nghĩa
lịch sử quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của dân tộc Việt Nam; có tính lan tỏa rộng lớn trong khu vực và mang tầm vóc thời đại
sâu sắc. Đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn của quân đội nhà nghề có
tiềm lực quân sự và kinh tế hùng mạnh với các trang bị vũ khí, công nghệ khoa học kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại; được điều hành bởi các nhà chính trị lão luyện, các tướng tá quân
sự tài ba của Pháp-Mỹ. Lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, một nước
thuộc địa nhỏ bé đã đánh thắng một cường quốc thực dân, nó có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ
phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ ở các châu lục Á, Phi, Mỹ Latinh.
Kỉnh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến
Tháng lợi của cuộc kháng chiến, ghi nhận sự phát triển và thành công trong lãnh đạo,
chỉ đạo chiến tranh giải phóng dân tộc của Đảng Lao động Việt Nam và để lại nhiều bài
học, kinh nghiệm quý báu.
Một là, đề ra đường lối đủng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử của cuộc
kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Đường lối cơ bản là “kháng chiến và kiến quốc”;

87 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 8, trang 340-341.
84
85
kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh là chính. Tinh thần, khí phách đó đã
khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và mọi nguồn lực sáng
tạo của các tầng lớp nhân dân tập trung vào nhiệm vụ chống thù trong giặc ngoài, thực
hiện mục tiêu độc lập, dân chủ, tiến bộ trong suốt thời kỳ kháng chiến. Kết hợp sức mạnh
nội lực của nhân dân Việt Nam với việc tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi của
quốc tế, phát huy có hiệu quả cao nhất sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng dân chủ, tiến
bộ đối với cuộc kháng chiến.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến
quốc, chống đế quốc và chống phong kiến. Kháng chiến toàn diện trên các mặt trận, các lĩnh vực cả
kinh tế, văn hóa, xã hội, cải thiện đòi sống nhân dân, đồng thời ưu tiên đẩy mạnh hoạt
động quân sự đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi quyết định. Ket hợp nhuần nhuyễn hình
các thức đấu tranh trên các mặt trận, lấy quân sự làm nòng cốt, lấy xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân làm chỗ dựa, nền tảng để củng cố phát triển cơ sở hạ tầng chính trị-xã hội
vững chắc, phát huy hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo và tổ chức cuộc kháng chiến của
Đảng, Chính phủ trên thực tế. Kháng chiến đi đôi với kiến quốc, chống đế quốc và chống
phong kiến, xây dựng hậu phương-căn cứ địa vững chắc luôn là những nhiệm vụ cơ bản,
cùng đồng hành và là nội dung chủ yếu, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cuộc
kháng chiến của Đảng Lao động Việt Nam.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạo, tố chức điều hành cuộc kháng chiến phù hợp với đặc thù của
từng giai đoạn. Phát triển các loại hình chiến tranh đúng đắn, sáng tạo phù họp với đặc điểm
của cuộc kháng chiến và so sánh lực lượng ta địch, đó là loại hình chiến tranh nhân dân,
toàn dân, toàn diện. Ket hợp chiến tranh chính qui với chiến tranh du kích ở cả mặt trận
chính diện và vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm. Phát huy sở trường của ta và cách
đánh địch sáng tạo, linh hoạt kết hợp với chỉ đạo chiến thuật tác chiến linh hoạt, cơ động,
“đánh chắc, tiến chắc, chắc thẳng”, thắng từng bước tiến lên giành thắng lợi quyết định.
Bốn là,xâydựng và pháttriểnlựclượng vũtrangbathứ quân:Bộđộichủlực, bộđộiđịaphương, dânquândukích
một cách thích họp, đáp ứng kịp thời yêu cầu của nhiệm vụ chính trị-quân sự của cuộc kháng chiến. Xây dựng mô
hình tổ chức bộ máy lượng vũ trang, nhất là Quân đội nhân dân, Công an nhân dân một
cách đúng đắn, thích hợp. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trước hết và quan trọng
nhất là về tư tưởng - chính trị, trở thành công cụ chuyên chính sắc bén, tin cậy, làm mũi
nhọn, nòng cốt cho kháng chiến, làm chỗ dựa cho toàn dân đánh giặc. Đảng và quân đội
đã xây dựng thành cồng hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến; xây dựng Công an
nhân dân, mang bản chất giai cấp và tính nhân dân sâu sắc, công an là “bạn dân” theo tư
tưởng thân dân của Hồ Chí Minh.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với cuộc
kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực, mặt trận. Xây dựng, bồi đắp hình ảnh, uy tín của Đảng và Chính
phủ phải bằng hành động thực tế, bằng sự nêu gương và vai trò tiên phong của các tổ
chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình tổ chức cuộc kháng chiến ở cả căn
cứ địa-hậu phương và vùng bị địch tạm chiếm. Hết sức chú trọng công tác tuyên truyền,
giáo dục, động viên cao nhất, nhiều nhất mọi nguồn lực vật chất trong nhân dân, phát huy
cao độ tinh thần, nghị lực của nhân dân; củng cố lòng tin vững chắc của nhân dân đối với
thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.
Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải luôn nâng cao nhận thức chính trị-tư
tưởng, chú ý khắc phục những khuynh hướng tư tưởng giáo điều “tả” khuynh, hữu
khuynh, chủ quan, duy ý chí trong chỉ đạo, tổ chức cuộc kháng chiến, nhất là: tư tưởng
chủ quan, nóng vội, coi thường sức mạnh của địch; tập trung cao độ vào nhiệm vụ quân
sự, nhưng ít chú ý đúng mức đến nhiệm vụ xây dựng và kiến quốc; giải quyết hài hòa,
thồa đáng mối quan hệ giữa huy động sức dân với bồi dưỡng, nâng cao sức dân; học hỏi,
tiếp thu, vận dụng kinh nghiệm của nước ngoài phải sáng tạo phù hợp với đặc điểm của
Việt Nam. Trong công tác chỉnh đảng, chỉnh quân mắc vào chủ nghĩa phần, đố kỵ trong
công tác cán bộ... Những khuyết điểm này đã gây ra tác hại đối với đội ngũ cán bộ, đảng
viên, làm giảm sút lòng tin trong nhân dân đối với Đảng và Chính phủ.
II. Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ử miền Bắc và kháng chiến chống đế
quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975)
1. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng hai miền Nam-Bắc 1954-1965
Khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chuyển cách mạng miền
Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công 1954-1960
Ớ miền Bắc: Sau ngày Hiệp định Giơnevơ (7-1954) dược ký kết, cách mạng có những
đặc điểm và thuận lợi, khó khăn mới.
Đặc điểm chưa có tiền lệ lịch sử là đất nước bị chia làm hai miền, có chế độ chính
trị, xã hội khác nhau: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng phát triển theo con đường xã
hội chủ nghĩa, miền Nam do chính quyền đối phương quản lý, trở thành thuộc địa kiểu
mới của đế quốc Mỹ.
Trên trường quốc tế, thuận lợi của cách mạng Việt Nam là hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp
tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, nhất là sự lớn mạnh của Liên Xô.
Phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển. Phong trào hòa bình, dân chủ lên cao ở
các nước tư bản. Bất lợi là: xuất hiện đế quốc Mỹ hùng mạnh có âm mưu làm bá chủ thế
giói, với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng được các đời tổng thống nối
tiếp nhau xây dựng và thực hiện. Thế giói đi vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ
trang. Xuất hiện sự bất đồng, chia rẽ trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên
Xô và Trung Quốc.
Ở trong nước, thuận lợi là đã có miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa
hậu phương cho cả nước. Thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn trước sau 9 năm
kháng chiến. Có ý chí độc lập thống nhất của nhân dân cả nước. Khó khăn là: đất nước
chia làm hai miền, có chế độ chính trị khác nhau, miền Nam do đế quốc, tay sai kiểm
soát, không chịu thực hiện hòa bình thống nhất đất nước. Kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc
hậu. Đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam.
Tình hình phức tạp nêu trên đã đặt Đảng ta trước một yêu cầu bức thiết là phải vạch
ra đường lối chiến lược đúng đắn đế đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình
hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Trải qua nhiều
hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng từng bước hình thành.
về chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sau khi miền Bắc đưọ‘c giải phóng,
Trung ương Đảng đã chủ trương chuyển miền Bắc sang giai đoạn mới với nhận thức: sự
kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự mở đầu của cách mạng xã hội
chủ nghĩa như các cương lĩnh của Đảng đã xác định.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn
gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển
sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định, đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng
hoạt động quan hệ quốc tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau 9 năm chiến
tranh.
Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập
nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng. Muốn
chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập
và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh
cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Thực hiện Hiệp định Giơnevơ, ngay sau khi hoà bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân miền Bắc đấu tranh đòi đối phương phải rút quân khỏi miền Bắc theo đúng lịch
trình quy định. Cuộc đấu tranh này đã diễn ra hết sức khó khăn, phức tạp bởi Pháp và tay
sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã hội và mất trật tự an
ninh trước khi chúng rút quân, như kích động, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên chúa di c-
ư vào Nam, phá hoại, di chuyển máy móc nguyên vật liệu trái phép...
Để chống lại âm mưu, thủ đoạn của địch và ổn định tình hình, Đảng và Nhà nước đã
ban hành kịp thời nhiều chính sách chỉ đạo các địa phương thực hiện, như: chính sách đối
với tôn giáo; chính sách đối với công chức, trí thức trước đây làm việc cho địch; chính sách
đối với ngụy quân. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn huy động hàng vạn cán bộ, bộ đội đến
giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống địch cưỡng ép
di cư nhằm ổn định tình hình.
Trước tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, địch đã phải rút quân theo đúng Hiệp định.
Ngày 10-10-1954, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hà Nội, ngày 16-5-1955, toàn bộ
quân đội viễn chinh Pháp và tay sai đã phải rút khỏi miền Bắc.
Nhận rõ kinh tế miền Bắc cơ bản là nông nghiệp, Đảng đã chỉ đạo lấy khôi phục và
phát triển sản xuất nông nghiệp làm trọng tâm. Việc khôi phục sản xuất nông nghiệp được
kết hợp với cải cách ruộng đất và vận động đối công, giúp nhau sán xuất, đồng thời, chăm
lo xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp. Đến năm 1957, cơ bản nông nghiệp miền Bắc
đã đạt được năng suất và sản lượng của năm 1939, năm cao nhất dưới thời Pháp thuộc.
Nhờ đó nạn đói bị đẩy lùi, tạo điều kiện giải quyết những vấn đề cơ bản trong nền kinh tế
quốc dân, góp phần ổn định chính trị, trật tự an ninh xã hội.
Cùng với khôi phục sản xuất nông nghiệp, việc khôi phục công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và giao thông vận tải cũng hoàn thành. Hầu hết các xí nghiệp quan trọng đã được
phục hồi sản xuất và tăng thêm thiết bị, một số nhà máy mới được xây dựng. Các lĩnh vực
văn hóa, giáo dục, y tế được phát triển nhanh.
Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh. Đe đảm
bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương dựa hẳn vào bần cố
nông, đoàn kết với trung nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tịch thu ruộng đất của họ để chia
đều cho dân cày nghèo. Đến tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành ở
dồng bằng, trung du và miền núi. Chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến ở miền Bắc đến
đây bị xóa bỏ hoàn toàn. Hơn 9 triệu người trong hơn 2 triệu hộ nông dân lao động được
chia hơn 810.000 ha ruộng đất.
Trong quá trình cải cách ruộng đất, bên cạnh những kết quả đạt được, ta đã phạm phải
một số sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo thực hiện. Nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến sai lầm là chủ quan, giáo điều, không xuất phát từ tình hình thực tiễn, nhất
là những thay đổi quan trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở nông thôn miền Bắc sau ngày
được hoàn toàn giải phóng. Do đó, trong chỉ đạo, thực hiện cải cách ruộng đất, đã cường
điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng quá mức đối tượng đấu tranh; sử
dụng hình thức, phưong pháp không phù hợp với đối tượng là địa chủ ở nông thôn Việt
Nam; trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tình hình tổ chức cơ sở
Đảng ở nông thôn, cho rằng về cơ bản đã bị địch lũng đoạn, từ đó dẫn đến xử lý oan nhiều cán bộ,
đảng viên tốt. Sai lầm này dã gây ra một số tổn thất đối với Đảng và quan hệ giũa Đảng với nhân
dân.
Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II), tháng 9-1956, đã nghiêm
khắc kiểm điểm những sai lầm, trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, công khai tự phê
bình trước nhân dân, thi hành kỷ luật đối với một số ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên Trung ương
Đảng. Công tác sửa sai trong năm 1956 đã được Đảng chỉ đạo, tiến hành một cách thành khẩn,
kiên quyết, khẩn trương, thận trọng và có kế hoạch chặt chẽ, nên từng bước đã khắc phục được
những sai lầm đã xảy ra. Năm 1956 cũng đã phê phán, uốn nắn, chấn chỉnh kịp thời vấn đề Nhân
văn Giai phẩm88.
Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá thắng lợi
về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn mới. Đen
tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 đề ra kế hoạch ba năm
phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư
doanh (1958-1960). Cũng như tư duy, nhận thức chung của các nước xã hội chủ nghĩa anh em lúc
đó, coi nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội là có 2 thành phần (quốc doanh và tập thể), Hội nghị đã
xác định phải cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và buôn bán nhỏ, tư bản tư doanh,
khuyến khích chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất thành sỏ' hữu tập thể xã hội chủ nghĩa dưới
hai hình thức toàn dân và tập thế. Mục tiêu trước mắt là xây dựng, củng cố miền Bắc thành cơ sở
vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết
về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp, xác định hình thức và bước đi của hợp tác xã là: hợp tác hóa đi
trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa và tố chức lại lao động, đề phát
huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị chỉ rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong
suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ. về vấn đề cải tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hòa bình đối với giai cấp tư sản.
về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về kinh tế không tịch thu tư
liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh, sắp
xếp công việc cho người tư sản trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao động.
Kết quả của ba năm phát triển kinh tế-văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958- 1960) đã
tạo nên những chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc
được củng cố, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu
phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Ở miền Nam, từ năm 1954, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào
thay chân Pháp thống trị miền Nam Việt Nam. Âm mưu xâm lược của Mỹ đối với miền Nam là

88 Nhân văn Giai phẩm: một số văn nghệ sĩ đã đăng những bài không đúng quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước trên Báo văn và Giai phẩm mùa xuân A
90
biến noi đây thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài Việt Nam; xây dựng miền Nam thành một
căn cứ quân sự để tiến công miền Bắc và hệ thống xã hội chủ nghĩa từ phía Đông Nam khi có điều
kiện; biến miền Nam thành một mắt xích trong hệ thống căn cứ quân sự ở Đông Nam Á nhằm
ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội xuống vùng này.
Đẻ thực hiện những âm mưu đó, Mỹ đã sử dụng nhiều thủ đoạn về chính trị, kinh tế, văn hóa,
quân sự, nhất là nhanh chóng thiết lập bộ máy chính quyền tay sai Việt Nam Cộng hòa do Ngô
Đình Diệm làm Tổng thống1, đó là chính quyền dựa vào Mỹ, bất hợp pháp, giả hiệu (ngụy quyền),
xây dựng lực lượng quân đội (ngụy quân) gần nửa triệu người cùng hàng vạn cảnh sát, công an,
mật vụ được trang bị, vũ khí phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ. Bộ máy chính quyền, lực
lượng quân đội, cảnh sát đã trở thành công cụ đắc lực nhằm thi hành chính sách thực dân mới của
Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Địch vừa dụ dỗ lừa bịp vừa đàn áp, khủng bố với nhiều thủ đoạn thâm
độc, dã man, ráo riết thi hành quốc sách “tố cộng, diệt cộng”, lập “khu trù mật”, “khu dinh điền”
nhằm mục đích bắt bớ, trả thù tất cả những người yêu nước kháng chiến cũ, thẳng tay đàn áp
phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ của các tầng lớp nhân dân; gây ra nhiều vụ
thảm sát đẫm máu ở Bến Tre, Quảng Nam, Phú Yên. Theo số liệu thống kê của địch trong vòng 10
tháng (từ tháng 7-1955 đến tháng 5-1956) địch đã bắt và giết 108.835 người. Mỹ và chính quyền
Ngô Đình Diệm dã xé bỏ Hiệp định Geneve, cự tuyệt tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngày 13-
5-1957, Ngô Đình Diệm thăm Mỹ và tuyên bố: “Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”, đó là
lập trường và hành động bán nước trắng trợn.
Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch, từ tháng 7-1954, Đảng quyết định thay đổi
phương thức đấu tranh quân sự sang đấu tranh chính trị, lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi đối
phương phải thi hành Hiệp định, tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam, trong tình hình mới. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, (từ ngày 15 đến
ngày 17-7-1954), đã chỉ rõ: “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, và nó
đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều
nhằm chống đế quốc Mỹ”.
Ngày 22-7-1954, Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến sĩ cả nước:

1
Trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng
Chính phủ Quốc gia Việt Nam thay Bửư Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố
không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là “trưng cầu dân ý” để phế truất
Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tống thống Việt Nam Cộng hòa.
91 (L-- - -
^0
“Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước
nhất định được giải phóng”.
Nghị quyết Bộ Chính trị, tháng 9-1954, nêu rõ 3 nhiệm vụ cụ thể trước mắt của cách
mạng miền Nam là: đấu tranh đòi thi hành Hiệp định; chuyển hướng công tác cho phù
hợp điều kiện mới; tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ, hòa bình, thống nhất, độc lập,
đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền bù nhìn thân Mỹ, hoàn thành thống nhất Tổ quốc.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và công tác của các đảng bộ miền
Nam, tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do đồng chí Lê Duần, ủy viên Bộ
Chính trị làm Bí thư. Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam,
tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo ĐềcươngđườnglốicáchmạngViệtNamởmiềnNam, nêu
rõ chế độ thống trị của Mỹ Diệm ở miền Nam là một chế độ độc tài, phát xít, hiếu chiến.
Để chống đế quốc Mỹ và tay sai, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự
cứu mình là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có một con đường
khác89... Bản Đề cuông là một trong những văn kiện quan trọng, góp phần hình thành
đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam của Đảng.
Theo chủ trương chuyển hướng của Đảng, hàng trăm tổ chức quần chúng công khai,
trong đó có các ủy ban đấu tranh đòi hòa bình được thành lập ở miền Nam. Phong trào
đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống bầu cử lừa bịp, chống cướp đất, đuổi nhà,
dồn dân, đòi công ăn việc làm, chống khủng bố, chống sa thải, chống bắt lính... được phát
triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị với hàng triệu lượt người tham gia.
Đẻ giữ gìn lực lượng và duy trì hoạt động trong điều kiện quân thù khủng bố dã
man, các đảng bộ ở miền Nam đã sắp xếp lại tổ chức và rút vào hoạt động bí mật. Nhiều
địa phương đã chủ trương “điều” và “lắng”90 cán bộ để bám dân, bám đất lãnh đạo phong
trào. Nhiều nơi quần chúng đã lấy vũ khí chôn giấu khi có Hiệp định đình chiến, cướp
súng địch, dùng vũ khí tự tạo để tự vệ, chống lại khủng bố, tiêu diệt những tên phản động
chỉ điểm, ác ôn. Nhiều khu căn cứ được củng cố lại, nhiều đội vũ trang được thành lập.
Từ năm 1958, kẻ địch càng dẩy mạnh khủng bố dã man, liên tiếp mở các cuộc hành
quân càn quét, dồn dân quy mô lớn vào các trại tập trung. Tháng 3-1959, chính quyền
Ngô Đình Diệm tuyên bố “đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh”. Với luật 10/59,
địch dùng Tòa án quân sự đặc biệt để đưa những người bị bắt ra xét xử và bắn giết tại
chỗ. Địch khủng bố những người yêu nước và cách mạng bằng cả súng đạn và máy chém.
Chính sách khủng bố và chiến tranh đó đã làm cho mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và

89 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 17,
trang 785, 787.
90 Điều là đưa cán bộ đi hoạt động ở địa phương khác khi đã bị lộ, “lắng” là tạm thòi rút vào hoạt động bí mật
để bảo toàn lực lượng. /

92
tay sai với nhân dân miền Nam Việt Nam thêm gay gắt, làm cho tình thế cách mạng chín
muồi, dẫn đến bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của quần chúng. Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 1-
1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 đã ra nghị quyết về cách mạng miền Nam với tinh
thần cơ bản là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sử dụng bạo lực cách
mạng với hai lực lượng chính trị và vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân
sự, tiến tới khởi nghĩa vũ tranh giành chính quyền về tay nhân dân... Nghị quyết 15 đã
vạch rõ phương hướng tiến lên cho cách mạng miền Nam, tạo đà cho cuộc khởi nghĩa từng
phần nố ra ngày càng rộng lớn.
Thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền
Bẳc đã mở đường chi viện cách mạng miền Nam. Đường vận tải trên bộ mang tên đường
559, trên biển mang tên đường 759. Đường vận tải Hồ Chí Minh trên bộ hình thành từ
ngày 19-5-1959, đường Hồ Chí Minh trên biển từ ngày 23-10-1961 và kéo dài hàng ngàn
km từ Bắc vào Nam cả trên bộ và trên biển. Các tỉnh miền Bắc đã chủ động kết nghĩa với
các tỉnh miền Nam để phối hợp đấu tranh cách mạng vì mục tiêu giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc.
Từ giữa năm 1959, một số cuộc khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh vũ trang đã bùng nổ
ở Tà Lốc, Tà Léc (Bình Định), Bác Ái (Ninh Thuận); Trà Bồng (Quảng Ngãi) và ở Gò
Quảng Cung (Đồng Tháp)... Ngày 17-1-1960, ở Bến Tre, hình thức khởi nghĩa đồng loạt
(đồng khởi) bắt đầu bùng nổ do đồng chí Nguyễn Thị Định lãnh đạo ở huyện Mỏ Cày, sau
đó lan ra các huyện Minh Tân, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú, rồi nhanh
chóng mở rộng ra khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và một số nơi
thuộc các tỉnh Trung Bộ. Hệ thống kìm kẹp của địch ở xã, ấp bị tê liệt và tan vỡ từng mảng
lớn.
Đến cuối năm 1960, phong trào Đồng khởi đã làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sỏ'
địch ở nhiều vùng nông thôn, có 1.383 xã/2.627 xã nhân dân lập chính quyền tự quản.
Vùng giải phóng ra đời trên phạm vi rộng lớn, nối liền từ Tây Nguyên đến miền Tây Nam
Bộ và đồng bằng Liên khu V. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi ở nông thôn đã thúc
đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh ở đô thị và các đồn điền, nhà máy.
Từ thắng lợi của phong trào Đồng khởi, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập (Tây Ninh),
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, do Luật sư Nguyễn Plữu Thọ làm
Chủ tịch. Từ đây cách mạng miền Nam đã có một tổ chức chính trị để tập hợp rộng rãi
quần chúng, nhân dân đoàn kết đấu tranh theo chương trình hành động 10 điểm, hướng tới
mục tiêu đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô
Đình Diệm, xây dụng một miền Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà
bình thống nhất nước nhà.
Thắng lợi của phong trào Đồng khởi là bước nhảy vọt có ý nghĩa lịch sử của cách
mạng miền Nam, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
công, từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng chống chủ nghĩa thực dân mới
của Mỹ.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phát triển thế tiến công của cách mạng
miền Nam 1961-1965
Tháng 9-1960, Đại hội đại biển toàn quốc lần thứ Hỉ của Đảng họp tại Thủ đô Hả Nội. Trong
diễn văn khai mạc, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”91 92.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ưong
Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới,
thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,..}.
về đường lối chung của cách mạng Việt Nam, trên cơ sở phân tích tình hình và đặc điểm nước
ta, Đại hội xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là phải thực
hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: Một là, đẩy mạnh cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả
nước.
về mục tiêu chiến lược chung, Đại hội cho rằng, cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở
miền Nam thuộc hai chiến lược khác nhau, có mục tiêu cụ thể riêng, song trước mắt đều
hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, hòa bình, thống nhất đất nước.
về vị trí, vai trỏ, nhiệm vụ cụ thể của từng chiến lược cách mạng ở mỗi miền, Đại hội nêu rõ:
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ
địa của cả nước, hậu thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách
mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Còn cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

91 Hồ Chi Mình Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 673.
92 Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 ủy viên chính thức, 31 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị
gồm 11 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đẳng, Lê Duẩn được bầu
làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
về hòa bình thống nhất Tổ quốc, Đại hội chủ trương (hay phương châm) kiên quyết giữ vững
đường lối hòa bình để thống nhất nước nhà, vì chủ trương đó phù hợp với nguyện vọng và
lợi ích của nhân dân cả nước ta cũng như của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Song
ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế
quốc Mỹ và bọn tay sai liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân
cả nước ta sẽ kiên quyết đứng lên đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ
quốc.
về triển vọng của cách mạng, Đại hội nhận định cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất
nước nhà là nhiệm vụ thiêng liêng của nhân dân cả nước ta. Đó là một quá trình đấu tranh
cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của
chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất
định sum họp một nhà.
về xây dựng chủ nghĩa xã hội, xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn
nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thắng lên chủ nghĩa xã hội không trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu
tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ
nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật nhằm đưa
miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ
lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem là hai
mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai mặt này có quan hệ mật
thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm xây dụng
cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về
kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời
sống tư tưởng, tinh thần và văn hóa của toàn xã hội phù hợp với chế độ xã hội mới xã hội
chủ nghĩa.
Từ những luận điểm đó, Đại hội đã đề ra đirờng loi chung trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước,
lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh
phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Để thực hiện mục tiêu nói trên, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư
doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa bằng cách ưu tiến phát triển công nghiệp nặng một cách họp lý, đồng thời ra sức
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư
tưởng, văn hóa và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp
hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.
Tuy vẫn còn một số hạn chế trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhận
thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn giản đơn, chưa có dự kiến về chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; song thành công cơ bản, to lớn nhất
của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường loi chiến lược chung của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đường loi tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ
hcù chiến lược cách mạng khác nhan ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu
chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Ncun, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờdộc lậpdântộc và chủnghĩaxãhội, vừa phù hợp với miền
Bắc vừa phù họp với miền Nam, vừa phù họp với cả nước Việt Nam vừa phù họp với tình
hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến,
sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được
sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xô và Trung Quốc, do đó tạo ra được sức mạnh tổng
họp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước.
Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế, đường lối chung của Đảng còn là sự thể
hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề
không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam vừa phù hợp với lợi ích của
nhân loại và xu thế thời đại.
Trên cơ sở miền Bắc đã hoàn thành kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-
1960), Đại hội lần thứ III của Đảng đã đề ra và chỉ đạo thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất
(1961-1965) nhàm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực
hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội. Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là tiếp tục hoàn thiện
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; xây dựng một bước cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã
hội; cải thiện đời sống nhân dân; bảo đảm an ninh quốc phòng, làm hậu thuẫn cho cuộc
đấu tranh thống nhất nước nhà. A/
Đế thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã 1Ĩ1Ở
nhiều hội nghị chuyên đề nhàm cụ thể hóa đường lối, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc
sống1.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961-1965), nhiều cuộc
vận động và phong trào thi đua được triển khai sôi nổi ở các ngành, các giới và các địa
phương. Trong nông nghiệp có phong trào thi đua theo gương của Hợp tác xã Đại Phong
(Quảng Bình), trong công nghiệp có phong trào thi đua với Nhà máy cơ khí Duyên Hải
(Hải Phòng), trong tiểu thủ công nghiệp có phong trào thi đua với Hợp tác xã thủ công
nghiệp Thành Công (Thanh Hóa), trong ngành giáo dục có phong trào thi đua học tập
Trường cấp II Bắc Lý (Hà Nam), trong quân đội có phong trào thi đua “Ba nhất”. Đặc
biệt, phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam
ruột thịt” theo Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị đặc biệt tháng 3-1964,
khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ở miền Nam, đã làm tăng thêm không khí phấn khởi,
hăng hái vươn lên hoàn thành Ke hoạch năm năm lần thứ nhất.
Kế hoạch này mới thực hiện được hơn bốn năm (tính đến ngày 5-8-1964) thì được
chuyển hướng do phải đối phó với chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, song
những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đã cơ bản hoàn thành.
Trong những năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), miền Bắc xã
hội chủ nghĩa đã không ngừng tăng cường chi viện cách mạng miền Nam. Tuy đường
hành quân và vận tải theo dăy Trường Sơn còn nhiều khó khăn do địch đánh phá và địa
hình hiểm trở, nhưng đã trở thành tuyến đường chiến lược huyết mạch nối hậu phương
với chiến trường, liên tục có các đoàn cán bộ, chiến sĩ cùng vũ khí đạn dược bí mật đi “B”
vào chi viện cách mạng miền Nam. Đường vận tải trên biển đã bất chấp sự ngăn chặn của
quân thù và thời tiết hiểm nguy, đã có những chiếc “tàu không số” chỏ' hàng chục tấn vũ
khí từ miền Bắc vào tận các căn cứ ven biến Phú Yên, Bà Rịa, Cà Mau,.. .cung cấp cho bộ
đội, du kích chiến đấu. Tính chung, năm 1965 số bộ đội từ miền Bắc được đưa vào miền
Nam tăng 9 lần, số vật chất tăng 10 lần so với năm 1961. Đây là một thành công lớn, có ý
nghĩa chiến lược của hậu phương miền Bắc với nhiều sự hy sinh anh dũng của cán bộ
chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trên biển Đông và dãy Trường Sơn huyền thoại,
góp phần vào chiến thắng của quân dân miền Nam đánh bại chiến tranh xâm lược thức
dân mói của đề quốc Mỹ và tay sai giai đoạn 1961-1965....
Trải qua 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng chế độ mới, “miền Bắc nước ta đã
tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều

1
Như về xây dựng Đảng (Hội nghị lần thứ tư, tháng 4-1961); về phát triển nông nghiệp (Hội nghị lần thứ
năm, tháng 7-1961); về phát triển công nghiệp (Hội nghị lần thứ bảy, tháng 6-1962); về kế hoạch nhà nước (Hội
nghị tháng 4-1963); về lưu thông phân phối, giá cả (Hội nghị lần thứ tám tháng 12-1964),...

*7
đổi mới”93. Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước với chế
độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh.
Ở miền Nam, từ năm 1961, do thất bại trong thực hiện hình thức điển hình của chủ
nghĩa thực dân mới, đế quốc Mỹ đã chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” (Special War Strategy), một bộ phận trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh
hoạt”, với vai trò của Tổng thống Mỹ John F Kennedy (J. Ken nơ dy). Với công thức “cố
vấn, vũ khí Mỹ và quân chủ lực Việt Nam Cộng hòa”, Mỹ và ngụy quyền Ngô Đình Diệm
triển khai thực hiện kế hoạch bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, dự định lập
17.000 ấp chiến lược là “quốc sách”. Chúng đã có hai kế hoạch quân sự-chính trị để thực
hiện mục tiêu của chiến tranh đặc biệt là kế hoạch Stalay-Taylo (1961-1963) và L.
Johnson - Robert s McNamara (Giôn Xơn-Mắc Namara 1964-1965). Chiến thuật quân sự
được chúng áp dụng là “trực thăng vận” và “thiết xa vận”... Âm mưu, thủ đoạn “chiến
tranh đặc biệt” của Mỹ đã gây cho cách mạng miền Nam nhiều khó khăn, nhất là những
năm 1961-1962. Từ ngày 10-8-1961, Mỹ bắt đầu rải chất độc Dieoxin (chất đọc màu da
cam) xuống miền Nam Việt Nam
Tháng 1-1961 và tháng 2-1962, các cuộc Hội nghị của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã phân tích, đánh giá tình hình giữa ta và địch ở miền Nam kể từ sau
ngày Đồng khởi. Từ sự phân tích, đánh giá đúng tình hình, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị về
“Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt củcicáchmạngmiền Nam”. Tinh thần của chỉ thị là giữ vững
thế chiến lược tiến công của cách mạng miền Nam đã giành được từ sau phong trào Đằng khởi, đưa đấu tranh vũ
trang phát triển lên song song với đấu tranh chính trị, tiến công địch trên cả ba vùng chiến
lược: đô thị, nông thôn đồng bằng và nông thôn rùng núi, bằng ba mũi giáp công: quân sự,
chính trị và binh vận. Trên thực tế, đây là quyết định chuyển cuộc đấu tranh của nhân dân
miền Nam từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng và chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể cho
cách mạng miền Nam là phải tiêu hao, tiêu diệt lực lượng quân ngụy Sài Gòn và lảm phá
sản quốc sách “ấp chiến lược” của địch.
Bộ Chính trị nhấn mạnh, do đặc điểm phát triển không đều của cách mạng miền
Nam, tương quan lực lượng ở mỗi vùng khác nhau, địa hình hoạt động và tác chiến khác
nhau, nên phương châm dấu tranh của ta phải linh hoạt, thích hợp với từng nơi, từng lúc
cụ thể:
Vùng rùng núi: Lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu.
Vùng nông thôn đồng bằng: Kết hợp hai hình thức đấu tranh vũ trang và chính trị.
Vùng đô thị: Lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu.

93 Hồ Chỉ Mình Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 14, trang 275.
98
Đế tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cách mạng miền Nam, tháng
10-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, do Nguyễn Văn Linh làm Bí thư.
Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống tổ chức thống nhất, tập trung từ Trung
ương Cục đến các chi bộ94. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam còn làm chức
năng của chính quyền cách mạng. Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam
được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Vượt qua khó khăn, cách mạng miền Nam tiếp tục có bước phát triển mới, tiêu biểu
là chiến thắng vang dội ở Ấp Bắc (Mỹ Tho). Chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963) đã thể hiện
sức mạnh và hiệu quả của đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và binh vận,
chống địch càn quét và nối dậy giành quyền làm chủ.
Từ đầu năm 1963, sau chiến thắng Ấp Bắc, phong trào đấu tranh phá “ấp chiến lược”
phát triển mạnh mẽ, với phương châm “bám đất, bám làne”. “một tấc không đi, một ly
không rời”95. Phong trào đấu tranh quân sự và phong trào phá “ấp chiến lược” phát triển đã
thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị lên cao, lôi cuốn đông đảo các tầng lóp
nhân dân lao động, trí thức, học sinh, sinh viên và các giáo phái tham gia, đặc biệt là phong
trào đấu tranh của đồng bào Phật giáo năm 1963.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, nội bộ kẻ địch ngày càng khủng hoảng
trầm trọng. Ngày 1-11-1963, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, lực lượng quân đảo chính đã giết
chết Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Ngô Đình Diệm, và cố vấn Ngô Đình Nhu. Từ tháng
1 1-1963 đến tháng 6-1965 đã diễn ra 10 cuộc đảo chính quân sự nhằm lật đổ lẫn nhau
trong nội bộ ngụy quyền Sài Gòn.
Tháng 12-1963, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 9, xác định những vấn đề
quan trọng về đường lối cách mạng miền Nam và đường lối đoàn kết quốc tế của Đảng.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 đã xác định “đấu tranh vũ trang đóng vai trò quyết định
trực tiếp” thắng lợi trên chiến trường.
Được sự chi viện tích cực của miền Bắc, quân và dân miền Nam đã mở nhiều chiến
dịch vói hàng trăm trận đánh lớn nhỏ trên khắp các chiến trường, như ở An Lão, Đèo
Nhông-Dương Liễu, Việt An, Ba Gia (Khu V và khu vực Tây Nguyên, Trị Thiên), Bình
Giã, Đồng Xoài (Nam Bộ). Chiến thắng Bình Giã (12-1964), Ba Gia (5-1965), Đồng Xoài
(7-1965) đã sáng tạo một hình thức tiến công, phưo'ng châm tác chiến độc đáo ở miền
Nam là: 2 chân (quân sự, chính trị), 3 mũi (quân sự, chính trị, binh vận), 3 vùng (đô thị,
nông thôn đồng bằng, miền núi). Phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị cũng phát triển
sôi động, mạnh mẽ từ giữa năm 1963 trở đi. Các chiến dịch quân sự và phong trào

94 Đảng bộ miền Nam của Đảng có danh nghĩa công khai là Đảng Nhân dân cách mạng miền Nam Việt
Nam.
99
đấu tranh chính trị dồn dập, có hiệu quả của quân và dân miền Nam đã làm cho ba chỗ
dựa chủ yếu của Mỹ lầ quân đội chính quyền Sài Gòn, hệ thống “ấp chiến lược” và các đô
thị bị lung lay tận gốc.
Với tinh thần chủ động, sáng tạo, sau hơn 4 năm (từ đầu năm 1961 đến giữa năm
1965), lực lượng cách mạng ở miền Nam đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Ba trụ cột của chiến lược này là xây dựng chính
quyền Sài Gòn từ trung ương đến cơ sở mạnh, xây dựng quân đội mạnh và bình định
nông thôn miền Nam đều không thực hiện được. Chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ
(1-11-1963) đã gây nên tình hình rối loạn kéo dải trên chính trường miền Nam thời gian
sau đó.
Phong trào học sinh, sinh viên, trí thức ở đô thị, bãi công của công nhân, lực lượng
biệt động đã đóng góp xứng đáng cho kháng chiến.
Tháng 9-1964, Bộ Chính trị họp và chủ trương giành thắng lợi quyết định ở miền
Nam trong một vài năm tới, tăng cường sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Đại
tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ Chính trị được cử vào miền Nam trực tiếp phụ
trách, chỉ đạo cuộc kháng chiến với cương vị Bí thư Trung ương Cục, Chính ủy Quân
Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Đến đầu năm 1965, các công cụ, chỗ dựa của “chiến tranh đặc biệt” là ngụy quân
ngụy quyền, ấp chiến lược, đô thị đều bị lung lay tận gốc. Chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã hoàn toàn bị phá sản. Đánh bại
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ là một thắng lợi to lớn nữa có ý nghĩa
chiến lược của quân và dân ta ở miền Nam. Thắng lợi này tạo cơ sở vững chắc để đưa
cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên.
2. Lãnh đạo cách mạng cả nước 1965-1975
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng
Trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn
cơ đồ chủ nghĩa thực dân mới, ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và quân đội Sài Gòn,
chính quyền của Tổng thống Mỹ Lyndon B. Jonhson (L.Giôn xơn) quyết định tiến hành
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. “Chiến tranh cục bộ” (Local War Strategy)
là một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của đế quốc
Mỹ, biểu hiện là đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ vào trực
tiếp tham chiến, đóng vai trò chủ yếu trên chiến trường miền Nam; quân đội Sài Gòn
đóng vai trò hỗ trợ quân Mỹ và thực hiện bình định. Ngày 8-3-1965 quân Mỹ đổ bộ vào
Đà Nang trực tiếp tham chiến ở miền Nam, Việt Nam. Đồng thời, đế quốc Mỹ mở cuộc
chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam nhàm

95 Tính từ năm 1961 đến năm 1963, chúng ta đã phá hoàn toàn 2.895/6.161 ấp chiến lược của địch,
giành quyền làm chủ 12.000/17.000 thôn, giải phóng 5/14 triệu dân.
100 ỵ
làm suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam.
Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước những thách
thức nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3-1965) và Hội nghị lần thứ
12 (12-1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc và hạ quyết tâm chiến lược: “Động viên lực lượng
của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ
tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bnh thống nhất nước nhà” 1.
Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong giai đoạn mới là sự kế
thừa và phát triển sáng tạo đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam đã được
Đảng đề ra tại Đại hội lần thứ III (1960), gồm các nội dung lớn là:
Quyết tâm chiến lược: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn
chinh, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đối lớn, cuộc chiến tranh
trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ dộng
trên chiến trường; cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là
một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới. Cuộc chiến tranh đó được đề ra trong thế
thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược; Mỹ
không thể nào cứu vãn được tình thế nguy khốn, bế tắc của chúng ở miền Nam. Từ sự
phân tích và nhận định trên, Trung ương khẳng định chúng ta có đủ điều kiện và sức
mạnh để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Với tinh thần “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”,
Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc, coi
chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ
trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà.
Phương châm chiến lược: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh;
cần phải cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc
tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn
trên chiến trường miền Nam.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến
công và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh

1
Đáng Cộng sản Việt Nam: Van kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tập 26, trang

634.
101
quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng
chiến lược. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ
một vị trí ngày càng quan trọng.
Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền
Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến
tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội
chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải
phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng
liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước.
về mối qnan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả
nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa
nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì
miền Bắc xã hội chủ nghĩa là thành quả chung rất to lớn của nhân dân cả nước ta, là hậu phương
vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, nhất là về kinh tế và quốc
phòng, nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam, đồng thời, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa
xã hội nhằm phát huy vai trò đắc lực của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Hai nhiệm vụ trên
đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, thì bất kỳ
chúng đặt chân ở đâu trên đất nước Việt Nam, mọi người Việt Nam đều có nghĩa vụ tiêu diệt
chúng. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là ‘Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược”.
Nghị quyết Trung ương lần thứ 11 và lần thứ 12 năm 1965 với nội dung như trên thể hiện tư
tưởng nắm vững, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành
đồng thời hai chiến lược cách mạng của Đảng và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của dân tộc ta. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn
dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính trong hoàn cảnh mới, cơ sở để Đảng lãnh đạo
đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi tới thắng lợi vẻ va
Xây dựng hận phương, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc; giữ vững
thế chiến lược tiến công, đánh bại chiến lược Chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ 1965-1968
Ở miền Bắc: Từ ngày 5-8-1964, Mỹ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” nhằm lấy cớ dùng không
quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá
hoại (The War Destruction) của đế quốc Mỹ. Với ý đồ của Tổng thống Mỹ Jonhson đưa miền
Bắc trở về thời kỳ đồ đá; phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bẳc; ngăn
chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam; đè bẹp ý chí quyết tâm chống Mỹ, cứu
nước của cả dân tộc Việt Nam, buộc chúng ta phải kết thúc chiến tranh theo điều kiện do
Mỹ đặt ra.
Trên thực tế, đế quốc Mỹ đã huy động lực lượng lớn không quân và hải quân, trút
hàng triệu tấn bom đạn, tàn phá, hủy hoại nhiều thảnh phố, thị xã, thị trấn, xóm làng,
nhiều công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi, nhiều bệnh viện, trường học, nhà ở,
giết hại nhiều dân thường, gây nên nhũng tội ác tày trời với nhân dân ta.
Trước tình hình đó, theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và lần thứ 12,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời xác định chủ trương chuyển hướng và
nhiệm vụ cụ thể của miền Bắc cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới trong hoàn cảnh cả
nước có chiến tranh: Một là, kịp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế cho phù hợp với tình hình có
chiến tranh phá hoại; Hai là, tăng cường lực lượngquốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình cả
nước có chiến tranh; Ba là, ra sức chi viện cho miền Nam với mức cao nhất để đánh bại địch ở chiến
trường chính miền Nam; Bốnlà,phảikịpthờichuyếnhướngtưtưởngvàtochứcchophùhợpvớitìnhhìnhmới.
Chủ trương chuyển hướng và những nhiệm vụ của miền Bắc phản ánh quyết tâm của
Đảng và nhân dân ta trong việc kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, tiếp tục tăng cường
sức mạnh của miền Bắc làm chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp chống Mỹ xâm lược, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quyết tâm đó đã được thể hiện trong Lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 17-7-1966: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm,
20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn
phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Khôngcógìquýhơnđộclập,tựdo”\
Thực hiện những nghị quyết của Đảng và theo Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, quân
và dân miền Bắc đã dấy lên cao trào chống Mỹ, cứu nước, vừa sản xuất, vừa chiến đấu,
với niềm tin tưởng và quyết tâm cao độ. Thanh niên có phong trào “Ba sẵn sàng”, phụ nữ
có phong trào “Ba đảm đang”, nông dân có phong trào “Tay cày tay súng”, công nhân có
phong trào “Tay búa, tay súng”, trong chiến đấu có “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, trong
chi viện tiền tuyến có “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, trong
bảo đảm giao thông vận tải có “Xe chưa qua, nhà không tiếc”,... Đó thực sự là một cuộc
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại hào hùng, sáng tạo với tinh thần “Quyết
tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”.
Do bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam-Bắc, tháng 3-1968, đế quốc Mỹ tuyên bố

(l)
Hồ Chí Mình Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, trang 131.
103
hạn chế ném bom miền Bắc, và ngày 1-11-1968, Mỹ buộc phải chấm dứt không điều kiện
đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Sau bốn năm thực hiện chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế, hậu phương
lớn miền Bắc đã đạt được những thành tích đáng tự hào trên các mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, chi viện tiền tuyến lớn miền Nam.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục, làm cho miền Bắc ngày càng
thêm vững mạnh. Chế độ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng ở miền Bắc lúc đó đã
vượt qua được nhiều thử thách nghiêm trọng và ngày càng phát huy tính ưu việt trong
chiến tranh. Chuyển hướng kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh
có chiến tranh là nét đặc biệt chưa có tiền lệ. Sản xuất nông nghiệp không những không
giảm sút mà còn có bước phát triển tiến bộ. Cơ sở vật chất-kỹ thuật trong nông nghiệp
được tăng cường so với trước chiến tranh; có 4.655 hợp tác xã đưọ'c trang bị cơ khí nhỏ.
Phong trào thâm canh tăng vụ được đảy mạnh ỏ' nhiều địa phương. Nhu cầu thiết yếu về
lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội vẫn bảo đảm.
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn dược duy trì mặc dù gặp nhiều
khó khăn gay gắt. Nhiều nhà máy và xí nghiệp lớn phải sơ tán hoặc phân nhỏ để tiế tục
sản xuất trong điều kiện có chiến tranh. Công nghiệp địa phương phát triển mạnh.
Đời sống nhân dân căn bản dược ổn định. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, ý tế, đào tạo
cán bộ chẳng những không ngừng trệ mà còn phát triển mạnh mẽ trong thòi chiến và đạt
nhiều kết quả tốt. Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, thăm dò tài nguyên
được đẩy mạnh, vừa phục vụ sự nghiệp xây dựng kinh tế trước mắt, vừa chuẩn bị cho
nhiệm vụ lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong chiến đấu, quân dân miền Bcắc đã bắn rơi hon 3.200 máy bay, bẳn cháy 140
tàu chiến của địch. Nhiệm vụ chi viện tiền tuyến được hoàn thành xuất sắc, góp phần
cùng quân dân miền Nam đánh bại cuộc “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Chỉ tính
riêng trong năm 1967, đã có hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ (tăng 1,5 lần so với năm 1966)
được tổ chức biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật bổ
sung cho các chiến trường Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số quân
giải phóng miền Nam lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương, không kể lực
lượng dân quân, du kích, tự vệ. Năm 1968, hơn 14 vạn cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc hành
quân vào Nam nhanh chóng tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968.
Ở miền Nam: Cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ tiến hành là cuộc chiến tranh có quy
mô lớn nhất, mạnh nhất, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai với sự tham gia của
quân đội Mỹ và nhiều nước chư hầu.
Vào đầu mùa khô 1965-1966, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đã huy động 70 vạn quân,
trong đó có gần 20 vạn quân Mỹ, mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất vào ba
hướng chính: Tây Nguyên, đồng bằng Khu V và miền Đông Nam Bộ bao gồm cả vùng
ngoại thành Sài Gòn. Mục tiêu của cuộc phản công này là “tìm diệt” quân giải phóng,
giành lại quyền chủ động chiến trường, “bình định” các vùng nông thôn đồng bằng quan
trọng ở những địa bàn nói trên.
Theo đường lối kháng chiến của Đảng và được hậu phương miền Bắc ra sức chi
viện, quân dân miền Nam đã anh dũng chiến đấu chống lại cuộc “chiến tranh cục bộ” của
Mỹ và tay sai. Năm 1965, quân dân ta tập trung tìm hiểu đối phương, tìm cách đánh Mỹ.
Quân và dân miền Nam đã đánh tháng quân chiến đấu Mỹ ở Núi Thành (5-1965), Vạn
Tường (8-1965), Plâyme (11-1965)..., bẻ gẫy cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-
1966, làm thất bại kế hoạch tìm và diệt, bình định nhằm giành quyền chủ động trên chiến
trường của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn. Miền Bắc bước đầu đánh thắng chiến tranh phá
hoại, đảm bảo giao thông thông suốt, chi viện cho chiến trường ngày càng nhiều và hiệu
quả.
Sau chiến thắng Vạn Tường, một cao trào đánh Mỹ, diệt ngụy được dấy lên mạnh
mẽ khắp chiến trường miền Nam. Với thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng và
phát triển trên ba vùng chiến lược, quân và dân miền Nam đã giữ vững quyền chủ động
trên khắp chiến trường, vừa phản công tiêu diệt địch trong các cuộc hành quân của Mỹ,
vừa chủ động tiến công, thọc sâu vào các vùng quân địch kiểm soát, các căn cứ đóng
quân, các kho hậu cần và ngay ở cả sào huyệt chính của chúng tại Sài Gòn. Cùng với
thắng lợi về quân sự, quân và dân ta còn giành đuực nhiều thắng lợi trên mặt trận chống
phá “bình định” của Mỹ-ngụy. Toàn bộ kế hoạch lập 900 ấp chiến lược mới và củng cố
hàng chục ngàn ấp chiến lược cũ của địch trong năm 1966 bị thất bại.
Đến mùa khô 1966-1967, với lực lượng hùng hậu, gồm 39 vạn quân Mỹ, hơn 5 vạn
chư hầu và 54 vạn quân ngụy cùng với 4.000 máy bay, 2.500 xe tăng và xe bọc thép, Mỹ
đã mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhằm vào hướng từ Tây Nguyên đến Sài
Gòn. Thế nhưng, tất cả các cuộc hành quân quy mô lớn của địch đều bị bẻ gãy và bị tốn
thất nặng nề.
Trên mặt trận chống phá “bình định”, quân và dân các vùng nông thôn kiên trì
phưoìig châm “bốn bám”1 và đẩy mạnh “ba mũi giáp công” đã chặn đánh quyết liệt các
cuộc hành quân càn quét và bình định của Mỹ - ngụy. Kế hoạch lấn chiếm lại 50% nông
thôn trong năm 1967 của chúng không thực hiện được, trái lại, 80% đất đai miền Nam
nằm dưới quyền kiếm soát của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
Phong trào đấu tranh chính trị vẫn tiếp tục phát triển, mức độ ngày càng quyết liệt ở

1
“Bốn bám”: cấp trên bám cấp dưới, Đảng bám dân, dân bám đất, bộ đội du kích bám địch, đánh định.
105
hầu khắp các thành thị miền Nam, nhất là ở Huế và Đà Nang, với các khẩu hiệu đòi lật đổ
chính phủ bù nhìn tay sai Mỹ, đòi Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Đến cuối năm 1967, cuộc “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ đã được đẩy đến đỉnh cao,
số quân viễn chinh đố vào miền Nam đã lên 48 vạn, mọi thủ đoạn và biện pháp chiến
tranh đã được sử dụng, thế nhưng, đế quốc Mỹ vẫn không sao thực hiện được các mục
tiêu chính trị và quân sự đã đề ra. Mặt khác, thất bại ở Việt Nam làm cho tình hình nước
Mỹ ngày càng bất ổn, phong trào phản đối chiến tranh, đòi rút quân Mỹ về nước ngày
càng lan rộng trong các tầng lóp nhân dân. Kết họp với những thắng lợi về quân sự và
chính trị, ngày 28-1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
III) đã quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, bè bạn,
mở ra cục diện vừa đánh, vừa đàm, phát huy sức mạnh tống họp để đánh Mỹ.
Những thất bại và khó khăn của địch cùng với những thắng lợi to lớn của ta vừa
giành được đã mở ra cho cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam những triển vọng to lớn.
Tháng 7-1967, đồng chí Phạm Hùng, Ưỷ viên Bộ Chính trị được cử giữ chức Bí thư
Trung ương cục miền Nam thay đồng chí Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vừa qua đời.
Đồng chí Trần Văn Trà làm Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, dồng chí Nguyễn Thị
Định làm Phó Tư lệnh. Tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã ra một nghị quyết lịch sử, chuyển
cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới, thời kỳ tiến lên giành thắng lợi
quyết định bằng phương pháp tổng công kích-tổng khởi nghĩa vào tất cả các đô thị, dinh
lũy của Mỹ-ngụy trên toàn miền Nam. Nghị quyết này của Bộ Chính trị đã được Hội nghị
lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) họp tháng 1-1968 thông qua.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, Quân giải phóng mở chiến dịch đường 9
Khe Sanh từ 24-1 đến 15-7-1968 như là cuộc nghi binh chiến lược. Đêm 30 rạng ngày 31-
1-1968, đúng vào dịp giao thừa Tet Mậu Thân, thừa lúc địch sơ hở, cuộc tổng tiến công
và nổi dậy đợt I đã được phát động trên toàn miền Nam. Quân và dân ta đồng loạt tiến
công địch ở 4/6 thành phố, 37/42 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự,
kho tàng, hầu hết các cơ quan đầu não địch ở trung ương và địa phương, căn cứ quân sự
của Mỹ, từ Đường 9-Khe Sanh đến đồng bằng sông Cửu Lơng, đặc biệt mạnh mẽ là ở Sài
Gòn-Gia Định, Huế. Trong cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân, lực lượng biệt
động nhất là biệt động Sài Gòn có rất vai trò quan trọng. Anh hùng biệt động Sài Gòn
Trần Văn Lai với 3 ngôi nhà giấu vũ khí ở nội đô Sài Gòn. Quân giải phóng đã làm chủ
thành phố Huế 25 ngày, chiến công của 11 nữ dân quân đã được Bác Hồ gửi thư khen.
Cùng với cuộc tiến công của chủ lực quân giải phóng có lực lượng địa phương, dân quân
du kích và sự phối hợp nổi dậy của quần chúng nhân dân ở các đô thị. Ở Sài Gòn có sự
đóng góp của lực lượng thanh niên xung phong dân quân hỏa tuyến ở xã Vĩnh Lộc, huyên
Bình Chánh. Trên tuyến đường vận chuyển vào Namcỏsựhysinhanhdũngcủalực

106
lượng thành niên xung phong, ở ngà ba Đồng Lộc ngày 24-7-1968, ở Truông Bồn ngày
31-10-1968 vv...
Trong các đợt tiến công tiếp theo vào tháng 5 và tháng 8-1968, quân và dân ta đã
tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục vạn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện
chiến tranh, giải phóng thêm hàng triệu đồng bào. Hàng triệu quần chúng đã nổi dậy diệt
ác, phá kìm, giành quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau. Hầu hết các cơ quan đầu
não của địch từ Trung ương đến địa phương đều bị quân ta tiến công. Trong cuộc đấu
tranh dó, xuất hiện một hình thức mặt trận mới đó là Liên minh các lực lượng dân tộc, dân
chủ và hòa bình Việt Nam do luật sư Trịnh Đình Thảo đứng đầu...
Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một chủ trương táo bạo và sáng tạo
của Đảng, đánh thẳng vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Mỹ. Cuộc tổng tiến công và
nổi dậy Mậu Thân 1968 là một đòn tiến công chiến lược đánh vào tận hang 0 kẻ thù. Đây
là thất bại chiến lược có tính chất bước ngoặt, khởi đầu quá trình đi đến thất bại hoàn toàn
của Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ phá
sản. Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán với Việt Nam tại Hội nghị Paris (Pháp) từ ngày
13-5-1968. Phái đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ
trưởng Xuân Thủy làm Trưởng đoàn và đồng chí Lê Đức Thọ ủy viên Bộ Chính trị làm cố
vấn. Tháng 1-1969, Mỹ phải chấp nhận cuộc đàm phán với Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa tại Paris, có sự tham gia của đoàn đại biếu Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được
thành lập ngày 6-6-1969 do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch và cử đoàn đại
biểu tham gia đàm phán ở Paris do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thị Bình làm
Trưởng đoàn.
Trong quá trình lãnh dạo, chỉ đạo các hoạt động quân sự năm 1968 đã có biểu hiện
chủ quan trong việc đánh giá tình hình, đề ra yêu cầu chưa sát với thực tế. Đặc biệt là sau
đợt tấn công trong Tết Mậu Thân, ta đã không kiếm điểm, rút kinh nghiệm kịp thời,
không đánh giá đúng tương quan lực lượng giữa ta và địch cũng như âm mưu đối phó của
chúng, chủ trương tiếp tục mở các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện và
yếu tố bất ngò' “là sai lầm về chỉ đạo chiến lược” 96. Địch đã phản kích quyết liệt, đẩy chủ
lực ta ra xa khỏi các thành thị, các vùng ven, vùng đồng bàng, tiến hành bình định trên
quy mô lớn, đồng thời triển khai hàng loạt biện pháp nhằm triệt phá cơ sở cách mạng
miền Nam. Cách mạng miền Nam lâm vào thời kỳ khó khăn nghiêm trọng do bị tổn thất
lớn về lực lượng và thế trận. “Tết Mậu Thân thắng rất lớn, mà nhất là đánh bại được ý chí
xâm lược của Mỹ, tạo nên bưó'c ngoặt quyết định của chiến tranh. Nhưng sau đó ta

96 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết luận về Tống kết cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cừu nước (ngày 25-5-1994).
chuyển chậm, chủ trương tiếp tục các đọt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện là
sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất” 1.
Khôi phục kinh tế, bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến đẩu giải phóng miền
Nam, thống nhất. Tổ quốc 1969-1975
Tranh thủ những thuận lợi mới do Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, từ
tháng 11-1968, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc thực hiện các kế hoạch ngắn hạn
nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục cuộc xây dựng miền Bắc và tăng cường lực
lượng cho miền Nam.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, hưởng thọ 79 tuổi. Vĩnh biệt chúng
ta, Người đã để lại một bản Di chúc lịch sử, chứa đựng những tư tưởng lớn về những vấn
đề căn bản và bức thiết của cách mạng Việt Nam. Với lòng tưởng nhớ và biết ơn sâu sắc
vị lãnh tụ tối cao của Đảng và dân tộc, trong buổi lễ truy điệu trọng thể tại Quảng trường
Ba Đình, trước anh linh của Người, đồng chí Lê Duấn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã đọc Điếu văn truy điệu bày tỏ quyết tâm thực hiện đầy đủ những
điều căn dặn trong Di chúc với những lời thề sắt son trước anh linh Người. Ngày 23-9-
1969, Quốc hội khóa III tại kỳ họp đặc biệt đã bầu đồng chí Tôn Đức Tháng làm Chủ tịch
Nưó'c Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Phó Chủ tịch
Nước.
Nhân dân miền Bắc đã khẩn trương bắt tay khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh và đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chấp hành các nghị quyết
của Đảng, sau ba năm phấn đấu gian khổ, từ năm 1969 đến năm 1972, tình hình khôi
phục kinh tế và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội có nhiều chuyển biến tốt đẹp trên
nhiều mặt. Trong nông nghiệp, năm 1969 diện tích các loại cây trồng đều vượt năm 1968,
riêng diện tích và sản lượng lúa tăng khá nhanh, lúa xuân tăng hai lần so với năm 1968,
chăn nuôi cũng phát triển mạnh. Trong công nghiệp, hầu hết các xí nghiệp bị địch đánh
phá được khôi phục, sửa chữa. Hệ thống giai thông, cầu phà, bến bãi được khẩn trương
khôi phục và xây dựng thêm. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế có buúc phát triển tốt so với
trước, nhất là hệ thông giáo dục đại học, tăng lên 36 trường và phân hiệu với hon 8 vạn
sinh viên.
Những kết quả đạt được đã làm cho tiêm lực mọi mặt của hậu phương lớn miền Bắc
được tăng cường, cải thiện đời sống nhân dân, hồi sinh một bước cuộc sống bình thường,
cho phép miền Bắc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến ngày càng cao, góp phần
quyết định tạo nên chiến thắng to lớn trên chiến trương miền Nam, nhất là trong cuộc tập
1
Kết luận của Bộ Chính trị họp ngày 23-4-1994. Xem Ban chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính
trị: Chiến tranh cách mạng Việt Nam 19-15-1975 Thang lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, trang

160.
108
kích chiến lược xuân hè 1972, với các chiến thắng vang dội ở Quảng Trị, Tây Nguyên,
Đông Nam Bộ. Đặc biệt là cuộc chiến đấu oanh liệt của Quân giải phóng ở Thành cổ
Quảng Trị trong suốt 81 ngày đêm từ ngày 28-6 đến ngày 16-9-1972.
Từ tháng 4-1972, để ngăn chặn cuộc tiến công chiến lược của quân dân ta ở miền
Nam, đế quốc Mỹ đã cho máy bay, tàu chiến tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc lần thứ hai hết sức ác liệt, nhất là cuộc rải thảm bom bằng pháo đài bay B.52 trong 12
ngày đêm ở Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác (Mỹ gọi là cuộc hành quân
Lainerbacker II). Trước hành động chiến tranh điên cuồng của địch, Trung ưong Đảng đã
phát động quân dân miền Bắc nhanh chóng phát triển cuộc chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại đến đỉnh cao, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, tiếp tục chi viện miền
Nam, giữ vững lập trường dàm phán. Trong 9 tháng chống chiến tranh phá hoại lần thứ
hai của đế quốc Mỹ, quân dân miền Bắc đã bình tĩnh, sáng tạo vừa sản xuất vừa chiến
đấu, nhất là trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”,
đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ. Riêng trong 12 ngày đếm (từ 18
đến 30-12-1972) đánh trả cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 của Mỹ vào Hà
Nội và Hải Phòng, quân và dân miền Bắc đã bắn rói 84 máy bay, trong đó có 34 máy bay
B52 và 5 máy bay F.l 11A (cánh cụp, cánh xòe), bát sống 43 giặc lái. Ngày 15-1-1973,
Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại miền Bắc và trở lại bàn đàm
phán ở Pais.
Sau ngày Hiệp định Paris được ký kết, miền Bắc có hòa bình, Trung ương Đảng đã
đề ra kế hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế 1974-1975. Với khí thế chiến
thắng, nhân dân miền Bắc đã lao động hăng hái, khan trương, thực hiện có hiệu quả kế
hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế. Đen năm 1975, hầu hết các cơ sở kinh tế
đã trở lại hoạt động bình thường. Năng lực sản xuất nhiều ngành kinh tế như công nghiệp,
nông nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải được tăng cường thêm một bước. Nhìn
chung, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp trên một số mặt quan trọng đã đạt và vượt
mức năm 1965. Đời sống nhân dân dược ổn định và cải thiện. Sự nghiệp giáo dục, văn
hóa, y tế tiếp tục phát triển với tốc độ cao. Hàng chục vạn thanh niên đã nô nức tòng
quân, lên đường ra mặt trận. Hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ và nhân viên
chuyên môn kỹ thuật cũng hăng hái vào Nam làm nhiệm vụ chống Mỹ.
Với tiềm lực kinh tế và quốc phòng được xây dựng, cùng với việc tiếp thu và sử
dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế, miền Bắc chang những đứng vững trong chiến
tranh, mà còn đánh thắng oanh liệt hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng kỹ thuật và phương
tiện hiện đại nhất của đế quốc Mỹ. Qua hai lần chống chiến tranh phá hoại, quân dân
miền Bắc đã bắn rơi 4.181 máy bay trong đó có nhiều B.52, bắn cháy 271 tầu chiến của
Mỹ, bắt và tiêu diệt hàng ngàn giặc lái Mỹ.
Miền Bắc còn hoàn thành nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền
Nam và hoàn thành nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia. Tính tổng
thể, hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã bảo đảm 80% bộ đội chủ lực, 70% vũ khí
và lương thực, 65% thực phẩm chơ chiến trường miền Nam, nhất là ở giai đoạn cuối.
ỞmiềnNam, sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, từ đầu năm 1969, Tổng
thống Mỹ Richard Nixon (R.Níchxơn) đã đề ra chiến lược toàn cầu mới mang tên “Học
thuyết Níchxơn” với ba nguyên tắc trụ cột là: “cùng chia sẻ”; “sức mạnh của Mỹ” và “sẵn
sàng thương lượng”. R. Níchxơn chủ trương thay chiến lược “chiến tranh cục bộ” bằng
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (The Strategy Vietnamsation of the War), một
chính sách rất thâm độc nhằm “dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam” để tiếp tục
cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ ở miền Nam.
Quá trình triển khai chiến lược mới, Mỹ đã áp dụng một loạt biện pháp như: ra sức
củng cố ngụy quyền, xây dựng ngụy quân đông và hiện đại; ráo riết thực hiện chương
trình bình định; tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm chặn đứng sự chi viện cho
miền Nam; tìm mọi cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô hòng cắt giảm
nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam. Trong hai năm 1969-1970, sự phản kích ác liệt của
Mỹ-ngụy trong các chiến dịch bình định cấp tốc, xây dựng lại cơ sở hạ tầng của chủ
nghĩa thực dân mới ở nông thôn đã gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất.
Trước âm mưu, thủ đoạn chiến tranh xảo quyệt của địch, Đảng ta đã đề ra quyết tâm
và chủ trương chiến lược hai bước, thể hiện trong Thư chúc mừng năm mới (1-1-1969)
của Hồ Chí Minh: “Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” 97.
Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1970) và Hội nghị Bộ
Chính trị (6-1970) đã đề ra chủ trương mới nhằm chống lại chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh", lấy nông thôn làm hướng tiến công chính, tập trung ngăn chặn và đấy lùi
chương trình “bình định” của địch, về mặt tác chiến, lưu ý trong khi đẩy mạnh tác chiến
chính quy của bộ đội chủ lực, phải kiên quyết thực hiện cho kỳ được một chuyển biến
mạnh mẽ trong phong trào chiến tranh nhân dân địa phương, phát triển mạnh mẽ ba thứ
quân, tăng cường lực lượng vũ trang tại chỗ.
Trong những năm 1970-1971, cách mạng miền Nam từng bước vượt qua khó khăn
gian khổ, kiên trì xây dựng và phát triền lực lượng, tiến công dịch trên cả ba vùng chiến
lược, gây tổn thất to lớn cho địch trong “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa
chiến tranh”.
Tại chiến trường Lào, đầu năm 1970, Mỹ và quân ngụy Lào (Vàng Pao) mở cuộc
hành quân lấn chiếm khu vực chiến lược Cánh Đồng Chum (Xiêng Khoảng). Thực hiện

97 Hồ Chí Mình Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, trang 532.
110 '
chủ trương của lãnh đạo Đảng hai nước, liên quân Lào-Việt Nam đã phối hợp mở chiến
dịch phản công quy mô lớn, đánh bại cuộc hành quân của địch, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu
của Lào, phá thế uy hiếp sườn phía Tây miền Bắc nước ta và tuyến vận tải Tây Trường
Sơn.
Tháng 3-1970, Mỹ tiến hành cuộc đảo chính ở Campuchia, lật đổ Chính phủ Vương
quốc trung lập do Hoàng thân Nôrôđôm Xihanúc đứng đầu, dựng lên chính quyền tay sai
Lon Non. Đây là một nấc thang chiến tranh nguy hiểm của Mỹ nhằm biến Campuchia
thành thuộc địa kiểu mới, xóa bỏ căn cứ và bàn đạp chiến lược của ta, cắt đứt tuyến đường
tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam, qua đất Campuchia. Cuộc hành quân xâm lược của Mỹ-
ngụy đã thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân Campuchia. Trong thời gian ngắn,
các lực lượng vũ trang của ta đã phối họp với quân và dân bạn kịp thời phản công dịch,
đánh bại cuộc hành quân của chúng, giải phóng được vùng Đông-Bắc Campuchia và kiểm
soát được nhiều vùng nông thôn rộng lớn khác buộc đế quốc Mỹ phải tuyên bố rút quân ra
khỏi Campuchia (6-1970).
Năm 1971, quân và dân Việt Nam phối hợp với quân và dân Lào chủ động đánh bại
cuộc hành quân quy mô lớn “Lam Sơn 719” của Mỹ-ngụy đánh vào Đưò'ng 9-Nam Lào
nhằm cắt đút đường mòn Hồ Chí Minh, cắt đứt con đường tiếp tế quan trọng của miền Bắc
đối với miền Nam và phong trào kháng chiến Campuchia. Cũng vào thời gian này, quân và
dân ta cùng với quân dân Campuchia đập tan cuộc hành quân “Toàn thắng 1- 1971” của
Mỹ-ngụy đánh vào các hậu cứ kháng chiến tại Đông-Bắc Campuchia.
Những thắng lợi quân sự nói trên, cùng với những tháng lợi của nhân dân miền Nam
trong việc đánh phá kế hoạch “bình định” của địch đã mở ra khả năng thực tế đánh bại
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Quân ngụy Sài Gòn, cái “xương
sống” của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đã bị suy yếu nghiêm trọng.
Vào mùa Xuân-Hè năm 1972, nhằm giành thắng lợi quyết định trong năm bầu cử tống
thống Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng ở thế thua, quân
ta đã mở cuộc tiến công chiến lược với quy 1UÔ lớn, cường độ mạnh. Cuộc tiến công chiến
lược được bắt đầu từ hướng chủ yếu là Trị-Thiên, đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của
địch ở Đường 9, tiếp theo là các hướng Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, rồi đến đồng
bằng Khu V và đồng bằng sông Cửu Long.
Chỉ trong thời gian ngắn, quân và dân ta đã phá vỡ ba tuyến phòng ngự mạnh nhất của
địch tại các địa bàn xung yếu Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch, hỗ trợ dắc lực cho nhân dân các địa phương nổi dậy giành quyền làm chủ. Đế
quốc Mỹ điên cuồng đối phó bằng cách vội vã “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh ở miền
Nam, đánh phá trở lại miền Bắt lần thứ hai từ đầu tháng 4-1972 bằng những thủ
đoạn chiến tranh hủy diệt tàn bạo, song không cứu vãn được tình thế.
Cuộc đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị Paris đã kéo dài 4 năm 8 tháng 14 ngày, với 202
phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao giữ cố vấn Lê Đức Thọ với cố vấn H. Kissinggers,
500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và kết thúc vào ngày 27- 1-1973 với việc ký kết “Hiệp
định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”.
Với việc ký kết Hiệp định Paris, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam đã giành thêm thắng lợi hết sức to lớn và có tính chất quyết định. Nhân dân ta đã đạt được
mục tiêu quan trọng hàng đầu là đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải chấm dứt
chiến tranh, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Đây là cơ hội
lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi tới thắng lợi hoàn toàn, từ “đánh cho Mỹ cút” tiến
lên “đánh cho ngụy nhào”. Điều 1 của Hiệp định về chấm chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam
ghi rõ: “Hoa Kỳ và các nước khác khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve năm một nghìn chín trăm năm mươi tư đã công nhận” 98
Mặc đù phải ký Hiệp định Paris, chấp nhận rút quân khỏi Việt Nam, nhưng đế quốc Mỹ vẫn
ngoan cố, không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, mà âm mưu tiếp tục tiến hành chiến tranh
để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới và chia cát lâu dài đất nước ta. Một trong những mục tiêu chiến
tranh mà Mỹ-ngụy đề ra trong kế hoạch 3 năm (1973-1976) là chiếm lại toàn bộ vùng giải phóng
của ta, xóa bỏ hình thái “da báo” ở miền Nam, nhằm biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt,
lệ thuộc vào Mỹ.
Theo âm mưu đó, ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu đã ngang ngược phá hoại hiệp định, liên tiếp mở các cuộc hành quân lấn
chiếm vùng giải phóng của ta. Riêng năm 1973, chúng đã chiếm lại hầu hết các vùng giải phóng
mới của ta, trong đó có cảng Cửa Việt (Quảng Trị) bị chiếm ngay đêm 27-1-1973.
Trong vùng chúng kiếm soát, cũng đã diễn ra liên tiếp các cuộc hành quân càn quét và bình
định nhằm khủng bố đàn áp, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, chống lại nguyện vọng hòa bình,
hòa họp dân tộc của nhân dân miền Nam, gây thêm nhiều tội ác đối với đồng bào ta.
Trước tình hình nghiêm trọng nói trên, tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa III) đã nêu rõ con đường cách mạng của nhân dân miền Nam là con
đường bạo lực cách mạng và nhấn mạnh: bất kể trong tình huống nào cũng phải nắm vững thời cơ,
giữ vững đường lối chiến lược tiến công. Nhiệm vụ giành dân,

98 Bộ Ngoại giao. Mặt trận Ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004,
trang 481

112
giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ
bản trong giai đoạn mới. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng là tích cực phản công,
chuẩn bị tiến lên hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, từ cuối năm 1973 và cả năm 1974, quân và dân ta ở
miền Nam đã liên tiếp giành được thắng lợi to lớn trên khắp các chiến trường, từ Trị-
Thiên đến Tây Nam Bộ và vùng ven Sài Gòn, phá vỡ từng mảng lớn kế hoạch “bình định”
của địch, mở rộng thêm nhiều vùng giải phóng, tiêu diệt nhiều cụm cứ điếm, chi khu, quận
lỵ, bức rút nhiều đồn bốt, dồn địch vào thế đối phó lúng túng, bị động. Đặc biệt, cuối năm
1974 đầu năm 1975, quân ta đánh chiếm thị xã Phước Long (ngày 6-1- 1975), giải phóng
hoàn toàn tỉnh Phước Long, địch không có khả năng đánh chiếm trở lại. Tình thế này
chứng tỏ quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn hắn quân chủ lực cơ động của địch,
khả năng giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi.
Trước yêu cầu phát triển của cuộc chiến tranh cách mạng vào giai đoạn cuối, từ
tháng 10-1973 trở đi, Trung ương Đảng đã chỉ đạo thành lập các quân đoàn chủ lực có đủ
các thành phần binh chủng kỹ thuật, hợp thành những quả đấm mạnh, có khả năng cơ động
cao, hoạt động trên những hướng chủ yếu, nhằm tiêu diệt quân chủ lực của địch. Tuyến
đường chiến lược phía Đông Trường Sơn nối liền từ Đường 9 (Quảng Trị) vào đến miền
Đông Nam Bộ đã được thông suốt. Một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh
như xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo tầm xa, pháo cao xạ cùng hàng chục vạn tấn vật
chất các loại đã được chuyến tới các chiến trường. Hệ thống đường ống dẫn xăng dầu được
nối liền từ miền Bắc vào đến chiến trường Đông Nam Bộ.
IIỘi nghị Bộ Chính trị họp đọt 1 (từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974) và đợt 2 (từ
ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975) đã bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền
Nam. Trong khi Bộ Chính trị đang hợp thì quân ta giải phóng Phước Long (6-1-1975),
cách Sài Gòn chỉ hơn 100 cây số mà quân ngụy không chiếm lại được, quân Mỹ không thể
trở lại miền Nam. Sau này những ngày cuối tháng 4-1975, Tổng thống Mỹ Gerald R Ford
đã từ chối việc viện trợ tiếp tục cho chính quyền Sài Gòn. Chiến thắng Phước Long có ý
nghĩa như một đòn thăm dò chiến lược, tạo thêm cơ sở đế Hội nghị Bộ Chính trị đi tới
nhận định: Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị, có thời cơ chiến lược
to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến
tới hòa bình thống nhất Tố quốc.
Bộ Chính trị đề ra quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam với kế hoạch hai năm
1975-1976 theo tinh thần là: năm 1975 tranh thủ bất ngờ tấn công lớn và rộng khắp, tạo
điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn
miền Nam. Bộ Chính trị còn dự kiến một phương hướng hành động linh hoạt là nếu thời
cơ đến, vào đầư hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam ngay trong năm
113
1975. Bộ Chính trị Trung ương Đảng do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn lãnh đạo và Quân ủy
Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có những quyết
sách chiến lược kịp thời, đúng đắn.
Chấp hành quyết định chiến lược nói trên, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa
Xuân năm 1975 đã diễn ra trên toàn miền Nam, trong đó quyết định là các đòn tiến công
chiến lược lớn. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 bắt đầu bằng Chiến dịch
Tây Nguyên, mở tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột ngày 10-3-1975 đã giành được
thắng lợi. Trước tình hình quân ta thắng lớn ở Tây Nguyên, cuộc họp Bộ Chính trị ngày
18-3-1975 đã quyết định: giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Sau khi làm chủ Buôn Ma Thuột và toàn bộ Tây Nguyên, tiêu diệt và làm tan rã toàn
bộ lực lượng Quân đoàn II và hệ thống chính quyền Việt Nam Cộng hòa ỏ' Quân khu II,
quân ta nhanh chóng phát triển cuộc tiến công xuống các tỉnh ven biển miền Trung.
Phối hợp với chiến trường Tây Nguyên, ngày 21-3-1975, chiến dịch tiến công giải
phóng Huế bắt đầu. Ngày 26-3, thành phố Huế được giải phóng. Ngày 26-3, chiến dịch
tiến công giải phóng thành phố Đà Nằng bắt đầu. Ngày 29-3, Đà Nang đuợc giải phóng.
Trên đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên và Huế, Đà Nằng, ngày 25-3-1975, Bộ Chính
trị bổ sung quyết tâm chiến lược: giải phóng miền Nam trước mùa mưa. Ngày 6-4 -1975,
Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh: Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo
bạo, táo bạo hơn nữa, sốc tới chiến trường giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn
thắng.
Trên cơ sở thế và lực đã có, ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng
Sài Gòn-Gia Định bắt đầu. Bộ Tư lệnh chiến dịch được thành lập do Đại tướng Văn Tiến
Dũng làm Tư lệnh, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy, đồng chí Trần Văn Trà làm Phó
Tư lệnh. Sau 4 ngày đêm tiến công dũng mãnh, vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá
cờ chiến thắng đã được cắm trên dinh Độc Lập. Toàn bộ lực lượng quân sự và bộ máy
chính quyền địch ở Quân khu III, Quân đoàn III bị tiêu diệt. Sài Gòn được giải phóng.
Ngày 2-5-1975, cuộc chiến đấu giải phóng các địa phương còn lại ở Đồng bằng sông Cửu
Long và các đảo, quần đảo ở Biển Đông đã kết thúc thắng lợi. Đã giải phóng quần đảo
Trường Sa (Stratley) và các đảo khác. Riêng quần đảo Hoàng Sa (Pracsel) bị quân Trung
Quốc đánh chiếm từ ngày 20-1-1974, khi đó Hoàng Sa do chính quyền Sài Gòn quản lý.
Cuộc tổng tiến công và nồi dậy đã diễn ra trong 55 ngày đêm từ ngày 10-3 đến ngày
30-4-1975. Vào 11 giờ 30 phút, ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng được cắm trên nóc dinh
Độc lập. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 dã toàn thắng, đánh dấu kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc.
3. Ỷ nghĩa ỉ ịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1954 -1975

114
Y nghĩa
Thẳng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết thúc 21
năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, 30 năm chiến tranh cách mạng, 117 năm
chống đế quốc xâm lược, quét sạch quân xâm lược, giành lại nền độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ cho đất nước.
Đã kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả
nước, mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng
chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội; làm tăng thêm sức mạnh vật chất
tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, nâng cao uy tín của Đảng và dân
tộc trên trường quốc tế; nâng cao khí phách, niềm tự hào và để những kinh nghiệm quý cho
sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc tiến công vào chủ nghĩa xã
hội và cách mạng thế giới; đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy 111Ô lớn nhất, dài ngày
nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến
lược chiến tranh thực dân kiểu mới của dế quốc Mỹ và tác động đến nội tình nước Mỹ; làm
suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở
khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc
lập dân tộc, dân chủ và hòa bình thế giới.
Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đã khắng định: “Năm tháng sẽ trôi
qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biếu
tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người,
và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế l<ỷ XX, một sự kiện có tầm
quan trọng quốc tế to lớn và cỏ tính thời dại sâu sắc ” .
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước như Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng
định: là sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam.
Kỉnh nghiệm
Một là, giương cao ngọn cờ dộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức
mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ.
Hailà, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân
và chiến tranh nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng họp.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 37, trang
Ba là, phải có công tác tổ chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ Đảng và các cấp chi ủy
quân đội, thực hiện giành thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn.
Bon là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách mạng ở
miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước, tranh thủ tối đa sự
đồng tình, ủng hộ của quốc tế.
Hạn chế của Đảng trong chỉ thực tiễn: có thời điểm đánh giá so sánh lực lượng giũa
ta và địch chưa thật đầy đủ và còn có những biểu hiện nóng vội, chủ quan, duy ý chí trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN


1. Đường lối và sự chỉ đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược và can thiệp Mỹ 1945-1954
2. Ý nghĩa lịch sử và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng
chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ 1945-1954
3. Sự phát triển đường lối và khái quát quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
4. Đặc điểm, ý nghĩa thắng lợi và những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975.
5. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và những thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc 1954-1975.

116
117
Chương 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ Độ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN HÀNH CÔNG cuộc ĐỎI MỚI
(1975 - 2018)

MỤC TIÊU
về kiến thức:
Giúp sinh viên nắm được đường lối, Cương lĩnh, những tri thức có hệ thống về quá
trình phát triển đường lối và lãnh đạo của Đảng đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và tiến hành công cuộc đổi mới từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 đến nay.
về tư tưởng:
Củng cố niềm tin của sinh viên về những tháng lợi của Đảng trong lãnh đạo đưa cả
nước quá độ xây dưng chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc đối mới (1975-2018),
củng cố niềm tin và lòng tự hào vào sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng
hiện nay.
về kỹ năng:
Rèn luyện cho học viên phong cách tư duy lý luận gắn liền với thực tiễn, phát huy
tính năng động, sáng tạo của người học; vận dụng những tri thức về sự lãnh đạo của Đảng
vào thực tiễn cuộc sống.
I. Lãnh đạo cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc (1975-1986)
1. Xây (lựng chủ nghĩa xã hội và báo vệ Tố quốc 1975-1981
Hoàn cảnh lịch sử của thời kỳ sau năm 1975 là đất nước đã hòa bình, độc lập, thống
nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước có nhiều thuận lợi với sức mạnh tổng
họp, đồng thời cũng phải khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Điểm xuất
phát của Việt Nam về kinh tế- xã hội còn ở trình độ thấp. Điều kiện quốc tế có thuận lợi
dồng thời có xuất hiện những khó khăn thách thức mới. Các nước xã hội chủ nghĩa bộc lộ
những khó khăn về kinh tế - xã hội và sự phát triển; các thế lực thù địch bao vây cấm vận
và phá hoại sự phát triển của Việt Nam.
Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới: Tổ
quốc hoàn toàn độc lập, thống nhất, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đe thực hiện bước
quá độ này, rất nhiều nhiệm vụ được Đảng đặt ra nhưng nhiệm vụ đầu tiên, bức thiết nhất là lãnh
đạo thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Cụ thể là thống nhất hai chính quyền khác nhau ở hai
miền là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam ở miền Nam.
Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (8-1975) chủ trương: Hoàn
thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội; miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dụng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Thống nhất dất nước vừa là nguyện vọng thiết tha của nhân dân cả nước,
vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam.
cần xúc tiến việc thống nhất nước nhà một cách tích cực và khấn trương. Thống nhất càng sớm thì
càng mau chóng phát huy sức mạnh mới của đất nước, kịp thời ngăn ngừa và phá tan âm mưu chia
rẽ của các thế lực phản động trong nước và trên thế giới.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 27-10-1975, ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên đặc biệt để bàn chủ trương, biện pháp thống nhất nước nhà về mặt
nhà nước. Hội nghị cử đoàn đại biểu miền Bắc gồm 25 thảnh viên do đồng chí Trường Chinh làm
trưởng đoàn đế hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam.
Ngày 5 và 6-11-1975, tại Sài Gòn, ửy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam, ủy ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt
Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hội đồng cố vấn Chính phủ
và dại biếu các nhân sĩ, trí thức dã họp hội nghị liên tịch và cử đoàn đại biểu miền Nam gồm 25
thành viên do đồng chí Phạm Hùng dẫn đầu để hiệp thương với đoàn đại biểu miền Bắc.
Từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị của hai đoàn dại biểu Bắc,
Nam đã họp tại Sài Gòn. Hội nghị khẳng định: Nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một, nước
nhà cần được sớm thống nhất về mặt nhà nước. Tổ chức tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam
bầu ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa đầu năm 1976 theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Ngày 3-1-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 228-CT/TW nêu rõ tầm quan
trọng của cuộc Tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp ủy lãnh đạo cuộc bầu
cứ.
Thực hiện chủ trương đó, dưới sự chỉ dạo của Đảng, ngày 25-4-1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc
hội chung của nước Việt Nam thống nhất được tiến hành. Hơn 23 triệu cử tri, đạt tỉ lệ 98,77% tổng số cử tri đi

bầu, đã bầu ra 492 đại biểu gồm đủ các thành phần


công nhân, nông dân, trí thức, các lực lượng vũ trang, các đại biếu tầng lớp thanh niên,
phụ nữ, đại biếu các dân tộc ít ngưò’i và các tôn giáo... trên cả nước. Thắng lợi của công
việc bầu cử thể hiện ý chí đoàn kết toàn dân tộc quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng
của Chú tịch Hồ Chí Minh: “Dù khó khăn gian khổ dến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ
hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ
thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”99.
Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam
thống nhất đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Quốc hội quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ sao vàng 5 cánh, Thủ đô là Hà Nội,

Nam,
Quốc Thành phố
ca là bài Sài
Tiến Gòn
quân ca, đọLtệp^là
Quốc huy Thành phố Hồ
mang dòng chữChí Minh.
Cộng hòaQuốc
Xã hộihội
chủđãnghĩa
bầu Việt
'Ôn Đức
nrUnnnr 1 T í /"*ta 1 1'Q'Q ^ ^ 11’A'n rr D onrr Xĩmix/Ần Uíi»n r
I 'ta r\ 1 6 m TDta r\

hjf\ cr
TL\r»j
Yĩễri *

Thăng làm Chủ tịch nước^Nguyên Lương B|mg^Nguyên Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch nươ£ỳTrường
Chinh làm Chủ tịch^Quốc hội vàỹphạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Quốc hội đã và thành lập ủy ban dự thảo . JJnQ Hiến pháp mới.
Theo chu trương của Đảng, các tổ chức chính trị-xã hội đều được thống nhất cả nước
với tên gọi mới: Mặt trận Tố quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh,
Tồng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam,...
Hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước là một trong những thành tựu nổi
bật, có ý nghĩa to lớn; là cơ sở để thống nhất nước nhà trên các lĩnh vực khác, nhanh
chóng tạo ra sức mạnh toàn diện của đất nưó’c; là điều kiện tiên quyết đế đưa cả nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều đó còn thể hiện tư duy chính trị nhạy bén của Đảng trong
thực hiện bước chuyến giai đoạn cách mạng ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ỈV của Đảng vò quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc ỉ976-1981

99 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 15, trang 623.
119
Đại hội lần thứ IV của Đảng họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976, tại Hà Nội. Dự
Đại hội có 1.008 đại biểu, thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trên cả nước, có 29 đoàn
đại biểu của các Đảng và tổ chức quốc tế tham dự.
Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục
tiêu kế hoạch 5 năm (1976-1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng; quyết định
dối tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và sửa đổi Điều lệ Đáng,
bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết, bầu
đồng chí Lê Duần làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội đã tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nýớc, khẳng ỗịnh thắng lợi của
nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nýớc mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta
như một trong nhũng trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giói như một chiến công vĩ
đại của thế kỷ XX, một sự kiện có ý nghĩa quốc tế quan trọng, có tính thời đại sâu sắc.
Đại hội đã phân tích tình hình thế giới, trong nước vả nêu lên ba đặc điểm lớn của
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: “Mợ/ là, nước ta đang ở trong quá trình từ một
xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hai ỉà, Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống
nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi rất lớn, song cũng còn nhiều
khó khăn do hậu quả của chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới gây ra 1. Ba là,
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nưó‘c ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song
cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế
giới còn gay go, quyết liệt”2.
Ba đặc điểm chỉ ra, Việt Nam có dủ điều kiện đi lên và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, nhưng dó là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi Đảng và nhân
dân ta phải phát huy cao độ tính chủ động, tự giác, sáng tạo trong quá trình cách mạng.
Trong ba đặc điểm trên, đặc điếm đầu tiên là lớn nhất, quy định nội dung, hình thức, bước
đi của cách mạng xã hội chủ rmhĩa ở nước ta.
Đại hội xác định đưòng lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
mới của nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học-kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng
khoa học-kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới,
xây dựng con ngưòi mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ
nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng,
giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tố quốc Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của

1
Qua hàng chục năm chiến tranh, đế quốc Mỹ ném xuống nước ta 7.850.000 tấn bom đạn, trong đó có
451.260 tấn chất độc hoá học, 338 tấn bom napan làm gần 2 triệu người bị chết, hon 2 triệu người bị tàn tật, 2 triệu
người, trong đó có khoảng 5 vạn trẻ em dị dạng do bị nhiễm chất độc màu da cam. Miền Nam dưới chế độ thực dân
kiểu mới của Mỹ với hậu quả về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội rất nặng nề. Ở miền Bắc hầu hết các
thành phố, thị xã đều bị bom Mỹ tàn phá.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 37, trang

988.
120
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội” 100. Trong
đường lối chung thể hiện nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở nước ta gồm 4
đặc trưng cơ bản là xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn,
nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa; coi chuyên chính vô sản, phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định đường lối xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó nổi bật là: Đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bang ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng cơ cấu kinh
tế công-nông nghiệp; kết họp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, kết hợp phát
triển lực lượng sản xuất; tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh
em đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác.
Phưong hướng, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá (1976-1980)
nhằm hai mục tiêu cơ bản và cấp bách là bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích luỹ
để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; dẩy mạnh cách mạng tư tưởng
và văn hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới; tăng cường Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể; coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh
chính trị và trật tự xã hội; coi trọng nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng,
củng cố quan hệ đặc biệt với Lào và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác với Liên Xô; nâng cao
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thẳng của sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Đại hội đã cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức lao động sáng tạo để “xây
dựng lại đất nưó’c ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Dichúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội lần thứ IV của Đảng còn bộc lộ một số hạn chế như: Chưa tổng kết kinh
nghiệm 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong điều kiện thời chiến, vừa là
hậu phưong, vừa là tiền tuyến, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chống chiến tranh phá
hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, vừa làm nhiệm vụ chi viện cho chiến
trường miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Trong điều kiện đó không thể áp dụng đầu đủ
các quy luật kinh tế, không thể hạch toán kinh tế mà tất yếu phải thực hành chính sách bao
cấp để đáp ứng yêu cầu tất cả đế đánh tháng giặc Mỹ xâm lược. Trong điều kiện đó, chưa
phát hiện những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ rõ sau chiến tranh.
Việc dự kiến thời gian hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế của đất nước từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm đế kết thúc thời kỳ

100 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 37, trang
quá độ; việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, việc đề ra các chỉ tiêu
kinh tế nông nghiệp và công nghiệp vượt quá khả năng thực tế... là những chủ trương
nóng vội, thực tế đã không thực hiện được.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, Ban Chấp hành Trung ương đã họp
nhiều lần, tập trung chủ yếu vào chỉ đạo phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp và phân
phối lưu thông.
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng
với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra”. Theo đó, Hội đồng
Chính phủ ra quyết định (10-1979) về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang,
phục hoá được miễn thuế, trả thù lao vả được sử dụng toàn bộ sản phẩm; quyết định xóa
bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do dưa sản phẩm ra trao đổi
ngoài thị trường.
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa phương,
sau khi tổ chức thí điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW (1-1981) về
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo Chỉ
thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích và tự mình làm các khâu, cấy, chăm sóc
và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Thu hoạch vượt mức khoán
sẽ được hưởng và tự do mua bán. Chủ trương đó được nông dân cả nước ủng hộ, nhanh
chóng thành phong trào quần chúng sâu rộng. Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4
triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980 tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện
tượng tiêu cực, lãng phí trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể.
Trong lĩnh vực công nghiệp, trước các hiện tượng “xé rào” bù giá vào lương ở
Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-
1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí
nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán,
lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh
của Nhà nước. Những chủ trương trên đã tạo nên động lực mới, góp phần thúc đẩy sản
xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%.
Tháng 9-1980, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ đạo thảo luận Dự thảo Hiến
pháp mới của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyết định những biện pháp
bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp sau khi được Quốc hội thông qua.
Sau 30 năm chiến đấu liên tục để giành độc lập, tự do cho Tồ quốc, nguyện vọng
thiết tha của nhân dân Việt Nam là hoà bình, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ để xây dựng
đất nước. Song chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã cấu kết vói nhau ra sức

122
chống phá, buộc Việt Nam phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và
biên giới phía Bắc của Tổ quốc.
Việt Nam, Lào và Campuchia là ba nước láng giềng cùng trên bán đảo Đông
Dương, cùng dòng sông Mê Công, cùng kẻ thù chung là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược từ cuối thế kỷ XIX cho đến năm 1975. Đoàn kết ba nước Đông Dương đã trở
thành truyền thống tốt đẹp, là quy luật phát triển của từng nước và của cả ba nước.
Từ tháng 4-1975, tập đoàn Pôn Pốt đã thi hành chính sách diệt chủng ở Campuchia
và tăng cường chống Việt Nam. Ngày 3-5-1975, chúng cho quân đổ bộ chiếm Thổ Chu,
Phú Quốc, sau đó tiến hành hàng ngàn vụ tấn công lấn chiếm đất đai, giết hại nhân dân
Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Tây Nam bằng những hình thức vô cùng dã man.
Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần đề nghị đàm phán ở bất cứ cấp nào, thời gian
nào, ở mọi nơi đế giải quyết xung đột nhưng tập đoàn Pôn Pốt đều từ chối. Cuối tháng 12-
1978, chính quyền Pôn Pốt huy động tổng lực tiến công xâm lược quy mô lớn trên toàn
tuyến biên giới Tây Nam với mục tiêu nhanh chóng tiến sâu vào nội địa Việt Nam.
Để bảo vệ độc lập và chủ quyền Tổ quốc, quân và dân Việt Nam đã đánh trả, tiến
công đánh đuổi bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi. Thế theo yêu cầu của Mặt trận đoàn kết dân
tộc cứu nước Campuchia, từ ngày 26-12-1978, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp và
giúp đỡ Campuchia tổng tiến công, đến ngày 7-1-1979 giải phóng Phnôm Pênh, đánh đố
chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Ngày 18-2-1979, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hòa
bình, hữu nghị và hợp tác. Theo Hiệp ước, quân đội Việt Nam có mặt ở Campuchia đế
giúp bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và hồi sinh đất nước. Hành động đó
của Việt Nam là chính nghĩa và cũng xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng được ghi
nhận trong Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc và đã được nhân dân Campuchia và thế
giới ghi nhận.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng về chính
trị, kinh tế, văn hóa, có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Trong lịch sử cách mạng,
hai Đảng và nhân dân hai nước đã đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Trong kháng
chiến chống Pháp xâm lược và chống Mỹ, cứu nước (1945-1975), nhân dân Trung Quốc
và các nước xã hội chủ nghĩa khác dã dành cho nhân dân Việt Nam sự ủng hộ, giúp đỡ
toàn diện, to lớn và quý báu. Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam luôn biết ơn về sự
giúp đỡ quý báu đó.
Năm 1978, Trung Quốc tuyên bố rút chuyên gia, cắt viện trợ cho Việt Nam, liên tiếp
lấn chiếm dẫn đến xung đột trên tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam từ năm 1978 đã làm
cho quan hệ Trung Quốc-Việt Nam xấu di rõ rệt. Ngày 17-2-1979, Trung Quốc huy động
hơn 60 vạn quân đồng loạt tấn công toàn tuyến biên giói nước ta từ Lai Châu đến Quảng
Ninh, gây ra những thiệt hại rất nặng nề. Ngày 5-3-1979, Chủ tịch Tôn Đức Thắng ra lệnh
Tổng động viện toàn quốc. Quân dân Việt Nam, nhất là quân dân các tỉnh biên giới phía
Bắc, được nhân dân thế giới ủng hộ đã kiên cường chiến đấu bảo vệ dất nước. Ngày 5-3-
1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân, nhưng chưa từ bỏ hoạt động chống phá trên tuyến
biên giới, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của quân, dân ta vẫn diễn ra trong
nhiều năm sau đó, đặc biệt là trên mặt trận VỊ Xuyên, Hà Giang ngày 12-7-1984. Từ ngày
18-4-1979 về sau, Việt Nam và Trung Quốc đã đàm phán, từng bước giải quyết những
tranh chấp về biên giới lãnh thổ và các vấn đề khác, khôi phục hoà bình, quan hệ hữu
nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước.
Đồng thời, quân dân cả nước cũng đấu tranh thắng lợi lảm thất bại âm mưu, hoạt
động phá hoại của lực lượng phản động FULRO vũ trang ở Tây Nguyên, lực lượng lưu
vong vũ trang xâm nhập về nước, bảo vệ vững chắc mọi thành quả của cách mạng.
Sau 5 năm 1975-1981, quân dân cả nước đã giành được thành tựu thống nhất nước
nhà về mặt nhà nước, chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh biên giới và đã khắc phục
một phần hậu quả chiến tranh và thiên tai liên tiếp gây ra. Các tỉnh phía Nam đã cơ bản
việc xóa bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc, phong kiến. Ở miền Bắc, bước đầu
có sự cải tiến dưa nông nghiệp từng bước lên sản xuất lớn với các đội chuyên, làm khoán.
Tuy nhiên, kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại hội IV đề ra: lưu thông, phân
phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4-5 lần xuất khẩu. Đời sống của nhân
dân, cán bộ, công nhân viên, lực lượng vũ trang rất khó khăn. Từ cuối năm 1979, ở một
số địa phương miền Bắc đã xuất hiện hiện tượng “xé rào”, ”khoán chui”. Ở miền Nam,
việc thí điểm hợp tác xã diễn ra phức tạp, lúng túng...
Những khó khăn trên có nguồn gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên tai nặng nề
liên tiếp xảy ra, chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao vây, cô lập của Mỹ và
các thế lực thù địch. Tuy nhiên về chủ quan, do những khuyết điểm, sai lầm của Đảng,
Nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế, xã hội làm trầm trọng thêm những khó khăn
trên. Ban Chấp hành Trung ưong Đảng đã tự phê bình về những khuyết điểm và sai lầm
của đó trước Đại hội V của Đảng.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc ỉần thứ V của Đáng và các bước đột phả tiếp tục
đổi mới kinh tế 1982-1986
Đại hội V của Đảng và quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đại hội Đảng lần thứ V họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 trong bối cảnh tình hình
và thế giới trong nước có một số mặt thuận lợi, nhưng nhiều khó khăn, thách thức mới.
Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện chính sách bao vây cấm vận và “kế hoạch hậu chiến”. Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế ra sức tuyên truyền xuyên tạc việc quân
tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, gây sức ép với Việt Nam, chia
rẽ ba nước Đông Dương. Trong nước, tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội ở nước ta
ngày càng trầm trọng.
Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên cả nước, có 47
đoàn đại biểu của các đảng vả tố chức quốc tế. Đại hội đã thông qua các văn kiện quan
trọng, bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 116 ủy viên chính thức, Bộ Chính trị gồm 13
ủy viên chính thức. Đồng chí Lê Duấn được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội đã kiểm điếm, đánh giá thành tựu, khuyết điểm sai lầm của Đảng, phân tích
nguyên nhân thắng lợi và khó khăn của đất nước, những biến động của tình hình thế giới;
khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội lần thứ IV
đề ra. Ngoài thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa xã hội, tăng cường Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại, xây dựng Đảng... Đại hội V đã bố sung đường lối
chung do Đại hội IV đề ra những quan điểm mới:
Khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội với với những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Đó là thời kỳ khó
khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Hiện nay nước ta đang ở chặng
đường đầu tiên với nội dung kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội rất nặng nề. Chặng đường
trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến những năm 1990 là khoảng
thời gian có tầm quan trọng đặc biệt. Nhiệm vụ của chặng đường trước mắt là ổn định tiến
lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Tiếp tục xây dựng cơ
sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp,
hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng
cố quốc phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội. “Kinh nghiệm của 5 năm 1976-1980 cho
thấy phải cụ thể hoá đưòng lối của Đảng-đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
và đưòng lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vạch ra chiến lược kinh tế,
xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa” 1. Chặng
đường trước mắt trong những năm 80 là ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất,
văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu; đáp ứng nhu cầu của quốc
phòng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội.
Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược
có quan hệ mật thiết với nhau. “Trong khi không một phút lơi lỏng nhiệm vụ củng cố

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc lần thử V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, trang

53.
125
quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xă hội”1.
Nội dung, bước đi, cách làm thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng dường
đầu tiên là: tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa
nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng
và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công
nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công-nông nghiệp hợp lý. Nhận thức đó
phù hợp với thực tiễn nước ta, khai thác và phát huy thế mạnh, tiềm năng của đất nước về lao
động, đất đai, ngành nghề..., làm cơ sở để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu của chặng đường đầu tiên,
tạo ra những tiền đề cần thiết cho chặng đường tiếp theo.
Đại hội V đã thông qua những nhiệm vụ kinh tế, văn hóa và xã hội, tăng cường Nhà nước xã
hội chủ nghĩa, chính sách đối ngoại. Tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của
Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho Đảng luồn giữ vững
bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thực sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt
chẽ với quần chúng.
Đại hội V đã có những bước phát triển nhận thức mới, tìm tòi đối mới trong bước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, trước hết là về mặt kinh tế. Đường lối chung là hoàn toàn đúng đắn; khuyết điểm
là trong khâu tổ chức thực hiện, nên đã không có được những sửa chữa đúng mức và cần thiết. Đại
hội chưa thấy hết sự cần thiết duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, chưa xác định những quan
điểm kết hợp kế hoạch với thị trường, về công tác quản lý lưu thông, phân phối; vẫn tiếp tục chủ
trương hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam trong vòng 5 năm; vẫn tiếp tục
đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật cho việc phát triển công nghiệp nặng một cách tràn lan; không dứt
khoát dành thêm vốn và vật tư cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng...
Các birớc đột phả tiếp tục đỗi mới kỉnh tế
Sau Đại hội V, Trung ương Đảng có nhiều Hội nghị cụ thể hoá, thực hiện Nghị quyết Đại
hội. Nổi bật là Hội nghị Trung ương 6 (7-1984) chủ trương tập trung giải quyết một số vấn đề cấp
bách về phân phối lưu thông với hai loại công việc cần làm ngay: Một là, phải đẩy mạnh thu mua
nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do; Hai là, thực hiện điều chỉnh giá cả, tiền lương,
tài chính cho phù hợp với thực tế. Hội nghị Trung ương 7 (12-1984) xác định kế hoạch năm 1985
phải tiếp tục coi mặt trận sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là sản xuất lương
thực, thực phẩm. Nổi bật nhất là

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đọi hội đại hiểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, trang
Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) được coi là bước đột phủ thứ hai trong quá trình tìm
tòi, đối mới kinh tế của Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ trương xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá lương tiền là khâu đột phá để chuyến sang cơ
chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Nội dung xoá bỏ cơ chế quan liêu, baơ cấp trong giá và lương là tính đủ chi phí hợp
lý trong giá thành sản phẩm; giá cả bảo đảm bù đắp chi phí thực tế hợp lý, người sản xuất
có lợi nhuận thoả đáng và Nhà nước từng bước có tích luỹ; xoá bỏ tình trạng Nhà nước
mua thấp, bán thấp và bù lỗ; thực hiện cơ chế một giá trong toàn bộ hệ thống, khắc phục
tình trạng thả nổi trong việc định giá và quản lý giá. Thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế
độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang
hoạch toán kinh doạnh xã hội chủ nghĩa. Giá, lương, tiền coi là khâu đột phá để chuyển
đổi cơ chế. Thực hiện trả lương bàng tiền có hàng hoá bảo đảm, xoá bỏ chế độ cung cấp
hiện vật theo giá thấp, thoát ly giá trị hàng hoá. Xoá bỏ các khoản chi của ngân sách trung
ương, địa phương mang tính chất bao cấp tràn lan. Nhanh chóng chuyển hẳn công tác
ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Thực chất, các chủ trương của Hội nghị Trung ương 8 đã thừa nhận sản xuất hàng
hoá và những quy luật sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình tố
chức thực hiện lại mắc những sai lầm như vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương
trong tình hình chưa chuẩn bị đủ mọi mặt. Cuộc điều chỉnh giá, tiền, lương đã làm cho
cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng sâu sắc hơn.
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-1986) đưa ra “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc
về quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới lành tế, đồng thời cũng là bước quyết
định cho sự ra đòi của đường lối đổi mới của Đảng. Nội dung đổi mới có tính đột phá là:
về cơ cấu sản xuất, Hội nghị cho rằng, chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chủ
trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất.
Đây là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm gần đây như dẫm
chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình
hình kinh tế-xã hội ngày càng không ổn định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp của tình
trạng chậm giải quyết căn bản các vấn đề về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết
yếu và tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, cần tiến hành một cuộc diều chỉnh lớn về cơ cấu
sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức
phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triến công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy
mô và nhịp độ, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhàm phục vụ đắc
lực yêu cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu, cần tập trung lực
lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện cho đưọ'c ba chương trình quan trọng nhất về
.27 ■
lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu.
về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng, do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải
tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bởi
vậy, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích họp trên quy mô cả nước cũng như
từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ
quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
phần, đó là sự cần thiết khách quan đế phát triển lực lượng sản xuất, tận dụng các tiềm
năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh
tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu, mà còn thay đổi cả
chế độ quản lý, chế độ phân phối, đó là một quá trình gắn liền với mỗi bước phát triển của
lực lượng sản xuất, vì vậy không thể làm một lần hay trong một thời gian ngán là xong.
về cơ chế quản lý kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi dôi với đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc
đầy sản xuất phát triển. Nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa
là: Đổi mới kể hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh
tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá- tiền
tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; phân biệt chức
năng quản lý hành chính của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của
các đơn vị kinh tế; phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của
Trung ương trong những khâu then chốt, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn
lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở.
Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm,
đấu tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những
quan điểm mới được trình bày trong bản kết luận đã định hướng cho việc soạn thảo Báo
cáo chính trị đế trình ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, thay cho bản Dụ
thảo Báo cáo chính trị được chuẩn bị trước đó vẫn còn giữ lại nhiều quan điểm cũ không
phù hợp với yêu cầu trước mắt là khắc phục cho đưọ’c khủng hoảng kinh tế-xã hội.
Tổng kết 10 năm 1975-1986, Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật: Thực hiện
thắng lợi chủ trương thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước; đạt được những thành tựu
quan trọng trong xây dựng chu nghĩa xà hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Những thành tựu trên đã tạo cho cách mạng nước ta
những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên. Sai lầm, khuyết điểm nổi bật là không hoàn thành
các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra. Đất nước lâm
128 ũ/"
vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài; sản xuất tăng chậm và không ốn định; nền kinh
tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích luỹ; lạm phát tăng cao và kéo dài. Đất
nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, lòng tin đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ giảm sút nghiêm trọng.
Nguyên nhân khách quan dẫn đến khủng hoảng kinh tế-xã hội do xây dựng đất nước
từ nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ là phố biến, bị bao vây, cấm vận nhiều
năm, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm mạnh; hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh
chưa kịp hàn gắn thì chiến tranh ở biên giới ở hai đầu đất nước làm nảy sinh những khó
khăn mới. về chủ quan là do những sai lầm của Đảng trong đánh giá tình hình, xác định
mục tiêu, bước đi, sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế; sai lầm trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, trong lĩnh vực phân phối, lưu thông; duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu, bao
cấp; buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và trong đấu
tranh chống âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều mặt của địch.
Ngày 10-7-1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng họp Hội nghị bất thường bầu đồng chí Trường Chinh giữ chức Tổng Bí
thư của Đảng và chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội VI của Đảng
Các bước đột phá tháng 8-1979, tháng 6-1985 và tháng 8-1986 phản ánh sự phát
triển nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tống kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng
lợi ích của nhân dân để hình thành đường lối đổi mới.
II. Lãnh đạo công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế (1986-2018)
1. Đoi mới toàn diện, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kình tế - xã hội 1986-
1996
Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ VI và thực hiện đường lối đồi mới toàn diện.
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, trong bối
cảnh cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế
giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Đối mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tố sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Việt Nam đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận và ở tình trạng khủng
hoảng kinh té- xã hội. Lương thực, thục phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát
tăng 300% năm 1985 lên 774% năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật,
vượt biên trái phép diễn ra khá phố biến. Đổi mới dã trở thảnh đòi hỏi bức thiết của tình
hình đất nước.
Dự Đại hội có 1.129 đại biếu thay mặt cho gần 2 triệu đảng viên cả nước và có 32

129
đoàn đại biểu quốc tế đến dự. Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng,
khởi xướng đường lối toàn diện, bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 124 ủy viên chính
thức, bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức; bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh làm
Tổng Bí thư của Đảng.
Đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI đề ra thể hiện trên các lĩnh vực nổi bật:
Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá
thành tựu, nghiêm túc kiểm điểm, chỉ rõ những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời
kỳ 1975-1986. Đó là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách
lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu
của những sai lầm, khuyết điểm đó, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy
ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đon, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó
là tư tưởng tiểu tư sản, vừa “tả” khuynh vừa hữu khuynh. Nguyên nhân của mọi nguyên
nhân bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán
bộ của Đảng. Đại hội rút ra bốn bài học quý báu: Mộtlà, trong toàn bộ hoạt dộng của mình,
Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ
thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết họp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bổn là, chăm lo xây dựng Đảng
ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế
quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán,
kinh doanh, kết họp kế hoạch với thị trường. Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát
trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích
lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương
trình kinh tế lớn là lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự
cụ thể hóa nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Thục
hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho
quan hệ sản xuất phù họp và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế, giải quyết cho được những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ
chức thực hiện một cách thiết thực, có hiệu quả các chính sách xã hội. Bảo đảm nhu cầu
củng cố quốc phòng và an ninh. Năm phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ
cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dụng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đỏi mới cơ chế quản lý kinh
tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế
đối ngoại. Đại hội VI nhấn mạnh: “Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh
tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất
nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi
đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa”101.
Đại hội khẳng định, chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người,
cần có chính sách cơ bản, lâu dài, xác định được những nhiệm vụ, phù hợp với yêu cầu,
khả năng trong chặng đường đầu tiên. Bốn nhóm chính sách xã hội là: Ke hoạch hóa dân
số, giải quyết việc làm cho người lao động. Thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn
xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trơng mọi lĩnh vực xã hội. Chăm lơ đáp ứng các nhu
cầu giáo dục, văn hóa, bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân. Xây dựng chính sách
bảo trợ xã hội.
Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết
dánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi
tình huống để bảo vệ Tổ quốc.
Đối ngoại góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác
toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Ket
họp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông
Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông
Dương, quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng
xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cần phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế,
đổi mới công tác tư tưởng; đổi mới công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đảng cần
phát huy quyền làm chủ tập thế của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiếm tra”; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nưó‘c là điều kiện tất yếu để huy
dộng lực lượng của quần chúng.
Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xưÓTLg đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu
ngoặt phát triển mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các Văn kiện của Đại hội
mang tính chất khoa học và cách mạng, tạo bước ngoặt cho sự phát triển của cách mạng
Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế của Đại hội VI là chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả
tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối lưu thông.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, inh hnh thế giới biến chuyển
nhanh chóng. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng
rơi vào khủng hoảng toàn diện và sụp đổ hoàn toàn (12-1991). Sự sụp đổ đó gây tác động

101 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội 2006, Tập 47, tr380
131
bất lợi nhiều mặt đối với thế giói và Việt Nam. Viện trợ và quan hệ kinh tế giữa Liên Xô
và các nước Đông Âu với nước ta bị thu hẹp nhanh. Trên diễn đàn quốc tế, Mỹ và các thế
lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút khỏi Campuchia, tiếp tục bao
vây, cấm vận, cô lập, tuyên truyền chống Việt Nam. Họ còn dung dưỡng các tổ chức phản
động người Việt từ nước ngoài trở về Việt Nam gây bạo loạn, lật đổ 102. Từ sau năm 1979,
quân đội Trung Quốc vẫn còn bắn pháo, gây hấn trên một số vùng biên giới phía Bắc,
nhất là mặt trận Vị Xuyên (ITà Giang). Cao điểm nhất, tháng 3-1988, Trung Quốc cho
quân đội chiếm đảo Gạc Ma và các bãi cạn Châu Viên, Chữ Thập, Tư Nghĩa, ... trên quần
đảo Trường Sa của Việt Nam. Trên thực tế cuộc chiến tranh chống xâm lược bảo vệ Tổ
quốc ở biên giới phía Bắc kéo dài 10 năm từ 1979 đến 1989.
Ớ trong nước, những năm 1987-1988, khủng hoảng kinh tế-xã hội vẫn diễn ra
nghiêm trọng. Lương thực, thực phẩm thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi, lạm phát cao, đời
sống nhân dân rất khó khăn. Sự dao động về tư tưởng chính trị, giảm sút niềm tin vào con
đường xã hội chủ nghĩa ngày càng lan rộng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng,
Trung ương Đảng đã họp nhiều lần, chỉ đạo đổi mới toàn diện, trong đó nồi bật là ở các
lĩnh vực sau:
Những năm 1987-1988, đất nước vẫn đang khủng hoảng kinh tế-xã hội nghiêm
trọng. Phân phối, lưu thông rối ren, lạm phát ở mức cao. Do thiên tai, mất mùa nên kỳ
giáp hạt năm 1988, nhiều nơi từ miền Trung trở ra rất thiếu đói. Hội nghị Trung ương 2
(4-1987) chủ trương về một số biện pháp cấp bách về phân phối lưu thông. Trọng tâm là
thực hiện bốn giảm: Giảm bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm
khó khăn về đời sống của nhân dân; mở rộng giao lưu hàng hoá, giải thể các trạm kiểm
soát hàng hóa trên các đường giao thông; thực hiện cơ chế một giá và chế dộ lương thống
nhất cả nước; giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt, tiết kiệm chi tiêu, chống
tiêu cực; chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh
xã hội chủ nghĩa; đối mới quản lý nhà nước về kinh tế. Quyết định số 217-HĐBT của Hội
đồng Bộ trưởng (14-11-1987) trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp.
Trong nông nghiệp nổi bật là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4-1988) về khoán sản
phẩm cuối cùng đến nhóm hộ và hộ xã viên (gọi tắt là Khoán 10). Theo đó, người nông
dân được nhận khoán và canh tác trên diện tích ổn định trong 15 năm; bảo đảm có thu
nhập từ 40% sản lượng khoán trở lên. Lần đầu tiên Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội
khóa VIII thông qua, có hiệu lực từ ngày 1-1-1988.
Trong công nghiệp, xoá bỏ chế độ tập trung, bao cấp, chuyển hoạt động của các đơn
vị kinh tế quốc doanh sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ,

102 Cuộc hành quân “Đông tiến 1” năm 1986 do Hoàng Cơ Minh cầm đầu bị nhân dân Lào phối họp với Việt
Nam đập tan: 65 tên bị tiêu diệt, 67 tên bị bắt sống, chỉ còn ỉ5 tên chạy thoát về Thái Lan.
132
giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học-kỹ thuật, phát triển kinh tế
hàng hoá theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày
càng cao. Nhà máy thủy điện Hòa Bình phát điện tổ máy số 1. Liên doanh dầu khí Việt-
Xô khai thác những thùng dầu thô đầu tiên.
Hội nghị Trung ương 2 (4-1987) đề ra những chủ trương, biện pháp cấp bách về
phân phối lưu thông, thực hiện bốn giảm: Giảm bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá,
giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân. Mở rộng giao lưu hàng hoá, giải
thể các trạm kiểm soát hàng hóa trên các đường giao thông. Thực hiện cơ chế một giá;
thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước; giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và bội chi
tiền mặt bằng cách tăng thu, tiết kiệm chi tiêu, chống tiêu cực. Chuyển hoạt động của các
đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý
nhà nước về kinh tế.
về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của nhiều thành
phần kinh tế. Nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh, phát huy khả năng
tích cực của các thành phần kinh tế khác. Các thành phần kinh tế bình đẳng về quyền lợi,
nghĩa vụ trước pháp luật.
Các chủ trương trên thể hiện tư duy đổi mới quan trọng về kinh tế của Đảng và đã
có kết quả nhanh chóng. Đến năm 1991 lạm phát từ 774,7% năm 1986 giảm còn 67,1%.
Cuối năm 1988, chế độ phân phối theo tem phiếu đã được xóa bỏ. Lương thực, từ chỗ
thiếu triền miên, năm 1988 phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo, đến năm 1989 đã đáp ứng được
nhu cầu, có dự trữ và xuất khẩu. Hàng tiêu dùng đa dạng, lưu thông tương đối thuận lợi.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nưó'c bước dầu hình thành. Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh hơn trước.
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công cuộc cải tổ ở Liên Xô, các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày càng rơi vào khủng hoảng toàn diện, gây tác động
bất lợi nhiều mặt đối với thế giới và Việt Nam. Hội nghị Trung ương 6 (3-1989) chính
thức dùng khái niệm hệ thống chính trị, đề ra những chủ trương cụ thể và xác định sáu nguyên
tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới1:
Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu ở nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của
Bác Hồ, là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi
mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà làm cho mục tiêu đó được thực hiện tốt hơn bằng quan
niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp và bước đi thích họp.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đàng Toàn lập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 49, trang
cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa
rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của các tổ chức trong hệ
thống chính trị1.
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp xây
dựng xã hội chủ nghĩa. Song dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo phải trên cơ sở dân chủ;
dân chủ với nhân dân, nhưng phải chuyên chính với kẻ dịch.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết họp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đe chỉ đạo công tác tư tưởng trong bối cảnh tác dộng xấu từ sự khủng hoảng ở Liên
xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu 2; kịp thời ngăn chặn các hoạt động chống phá
quyết liệt của các thế lực thù địch hòng xoá bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội nghị Trung
ương 8 (3-1990) đã kịp thời phân tích tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại
của chủ nghĩa đế quốc, đề ra nhiệm vụ của Đảng ta. Trung ương chỉ rõ cần nhận rõ
nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu là do việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội còn một số nhược điểm và khuyết
điểm: cải tạo xã hội chủ nghĩa nóng vội, hình thức sở hữu thiếu đa dạng; CO’ chế quản lý
tập trung nặng về hành chính mệnh lệnh và bao cấp; phủ nhận hoặc coi nhẹ kinh tế hàng
hoá; hệ thống chính trị tập trung quan liêu làm suy yếu nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và
mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân...; Những nhược điểm và khuyết điếm của mô hình
nói trên kéo dài quá lâu và ngày càng nặng nề, cộng với nhiều sai lầm khác ở nước này
hay nước khác tích tụ dẫn đến khủng hoảng nói trên. Hai nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
khủng hoảng: Một là, những quan điểm, khuynh hướng sai lầm, hữu khuynh của một số
ngưòi lãnh đạo Liên Xô trong quá trình cải tố. Haỉ là, các thế lực đế quốc và phản động
quốc triệt để khai thác nhũng sai lầm, khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa để tăng
cường can thiệp, phá hoại, thực hiện diễn biến hoà bình. Cuộc khủng hoảng của các nước
xã hội chủ nghĩa đã và đang tác động tiêu cực đến cách mạng nước ta, làm một số người
hoài nghi đối với chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước. Một số ít
phần tử cơ hội, bất mãn đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa
nguyên chính
1
Từ Hội nghị này, trong các văn kiện Đảng dùng khái niệm hệ Ihống chỉnh trị thay việc dùng khái niệm hệ
thong chuyên chính vô sản trước đây.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 50, trang 58.
™ }K
trị, đa đảng, gây mất ổn định tình hình. Những người cộng sản Việt Nam cần rút ra những
bài học cần thiết từ sự khủng hoảng đó, đối mới nhận thức về 1Ĩ1Ô hình và con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội; Đảng phải tích cực đối mới, nâng cao trình độ lãnh đạo và sức
chiến đấu của mình; cần cảnh giác và kiên quyết chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà
bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Bắt đầu từ năm 1990, Đảng và Nhà nước có những chủ trương đổi mới về quan hệ
đối ngoại. Đó là việc ưu tiên giữ vững hòa bình và phát triến kinh tế; kiên quyết thực hiện
chính sách “thêm bạn, bót thù”; mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước
trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, vì hoà bình và phát triển ở khu vực và trên thế
giới1. Trước hết là bình thường hoá quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam-Hoa Kỳ;
từng bước xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước Đông Nam Á, thiết lập quan
hệ ngoại giao Việt Nam và các nước Châu Âu. Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam
là sớm tiến hành những bước đầu tiên giải quyết bất đồng với các nước nhưng luôn kiên
trì giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đe thực hiện chủ
trương đó, từ tháng 5-1988, Việt Nam tuyên bố rút 5 vạn quân và Bộ tư lệnh quân tình
nguyện ở Campuchia về nước và rút hết quân tình nguyện về nước vào tháng 9-1989, sớm
hơn một năm theo kế hoạch đã định.
Nhằm thực hiện đổi mới tư duy của Đảng, Hội ne;hị Trung ương 6 (3-1989) và Hội
nghị Trung ương 8 (3-1990) tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách trong công tác
xây dựng Đảng2. Điểm nổi bật yêu cầu Đảng phải đối mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế;
tăng cường công tác nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm nhằm phục vụ
thiết thực việc đổi mới tư duy, cụ thể hoá kịp thời, đúng đắn các nghị quyết của Đảng trên
mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế-xã hội. Đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng; tăng cường công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đối mới. Nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Đối mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng, giữ vững mối
liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi
mới và toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Đại hội đại biển toàn quốc lần thứ VII và Cuơng lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đất nước sau hon 4 năm đổi mới cơ bản ổn định nhưng chưa ra khỏi khủng hoảng
kinh tế-xã hội. Công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề kinh tế-xã hội

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 50, trang
77- 78.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 49, trang

261.
135
nóng bỏng chưa được giải quyết.
Đại hội lần thứ VII của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991. Dự
Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho trên hai triệu đảng viên cả nước. Ngoài các văn
kiện chính của một Đại hội Đảng, điểm mới nổi bật của Đại hội VII là thông qua hai văn
kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và Chiến lược, ổn định và phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000. Đại hội đã bầu 146 ủy
viên Trung ương, Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, bầu đồng chí Đỗ Mười làm Tổng Bí thư
của Đảng.
Đại hội VII khẳng định nền kinh tế bước đầu chuyến biến tích cực, hình thành nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế chị trường, có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xà hội chủ nghĩa. Lạm phát năm 1988: 393,3%, năm 1990
còn 67,4%.
Cương lĩnh xây dựngđất nướctrong thời kỳqnáđộlênchủnghĩaxãhộiđược Đại hội VII thông qua (gọi
tắt là Cương lĩnh năm 1991) đã tổng kết hon 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam;
chỉ ra những thành công, khuyết điểm, sai lầm và nêu ra năm bài học lớn. Một là, nám
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hailà, sự nghiệp cách mạng là của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết
toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốnlà, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại. Năm.là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh nêu rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng là một xã hội có 6 đặc trưng cơ bản là: “Do nhân dân lao động làm chủ. Có
một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Con người
được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân
tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”1.
Cương lĩnh nêu ra 7 phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội là: Xây dựng Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm. Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 51, trang
dạng về hình thức sở hữu; phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
huớng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo co chế thị trường có sự quản lý của Nhà nuớc.
Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tu tuởng, văn hóa làm cho thế giới
quan Mác-Lênin, tu tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội. Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến
luợc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cương lĩnh chỉ rõ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải
qua nhiều chặng đường với những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc
phòng-an ninh, đối ngoại. “Mục tiêu tổng quát phải đạt tới, khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây
dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng
về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh”1.
Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân. Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là một
bộ phận và là tổ chức lãnh đạo hệ thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức.
Cương lĩnh năm 1991 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất giữa tư
tưởng với hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát
triển.
Đại hội VII lần đầu tiên thông qua Chiến lược ổn định và phát trỉến kinh tế-xã hội đến năm 2000,
trong đó xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là ra khỏi khủng hoảng, ốn định tình
hình kinh tế-xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển. GDP
năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Quan điểm chỉ đạo của Chiến lược là: Phát triển
kinh tế-xã hội theo con đưò'ng củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội
nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều
kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, với nhiều dạng sở hữu và hình thức tố chức kinh doanh, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mục tiêu và động lực chính của sự phát
triển là vì con người, do con người, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 51, trang
năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc, động viên và
tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Mọi người được tự do kinh
doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.
Tổng kết bài học bước đầu qua 5 năm đổi mới: Một là, phải giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược
cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Hai là, dổi mới
toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Ba
là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của
Nhà nước về kinh tế, xã hội. Bon là, tiếp tục phát huy sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nhưng phải được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc phù hợp. Năm là, trong quá
trình đổi mới phải quan tâm dự báo tình hình, kết hợp phát hiện và giải quyết đúng dắn
những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới.
Tại Đại hội VII, lần đầu tiên Đảng giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh và
khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân
tộc và nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương
lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của
nhân dân”1.
Đại hội VII của Đảng là “Đại hội của trí tuệ-đổỉ mới, dân chủ-kỷ cương-đoàn kết” hoạch định con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù họp với đặc điểm của Việt Nam. Theo chỉ đạo của
Đảng, sau Đại hội toàn Đảng, toàn dân đã sôi nổi thảo luận và kỳ họp thứ 11 (4-1992),
Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1992
Đại hội VII tiếp tục thực hiện đường lối đối mới toàn diện và bước đầu triển khai
thực hiện Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vưọ‘t qua khó khăn thử thách, ổn định và phát
triển kinh tế-xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa
nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, trong những năm 1991-1996, Ban Chấp hành
Trung ương đã họp nhiều lần, chỉ đạo tiếp tục đổi mới toàn diện, trong đó nổi bật trên
những lĩnh vực chủ yếu.
Để coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và có cách nhìn toàn diện, trên cơ sở phân
tích, đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta qua những năm đầu đổi mới,
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 51, trang

208.
138
Hội nghị Trung ương 5 (6-1993), đưa ra các chính sách đối với nông dân, nông nghiệp và
nông thôn1. Trung ương xác định ba mục tiêu chủ yếu là: với ba mục tiêu chủ yếu: Xây
dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hóa phong phú, lành mạnh có cơ
sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của nông dân; có hệ
thống chính trị vững mạnh; phát huy dân chủ, bảo đảm công bàng xã hội; tăng cường
đoàn kết và ổn định chính trị, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng, an
ninh. Điểm mói trong chủ trương này của Đảng là đề ra các quan điểm, nhiệm vụ xây
dựng, phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện, khơi dậy mọi tiềm năng, nội lực của
nông dân. Trung ương dã đưa ra quan điểm, những phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp
tiếp tục đối mới, xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn toàn diện.
Trên cơ sở phân tích tình hình công nghiệp, công nghệ và giai cấp công nhân những
năm qua, tình hình thuận lợi và khó khăn trước mắt, Hội nghị Trung ương 7 (7-1994) chủ
trương phát triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn
mới. Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù họp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và
tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh. Cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững
vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và
sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm
tròn sứ mệnh lịch sử của mình. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước, phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thế nhân dân trong sự nghiệp phát triển
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trung ương đã chỉ ra các nhiệm vụ và giải pháp
tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn
mới.
Kết quả, sau 5 năm 1991-1995, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm đã hoàn
thành vượt mức, GDP đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5-6,5%). Đã bắt đầu có tích lũy từ nội bộ
nền kinh tế. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991 giảm xuống còn 12,7% năm 1995. Nen
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng.
Sau Đại hội VII, tình hình thế giói diễn biến phức tạp; đất nước đứng trước những
thuận lợi mới và những thách thức mới. Hội nghị Trung ương 3 (6-1992) đã thảo luận và
đưa ra ba quyết sách quan trọng, đúng đắn về củng cố quốc phòng an ninh, mở rộng quan
hệ đối ngoại, đối mới và chỉnh đốn Đảng.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đàng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 52, trang
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ chung của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân, trong đó các lực lượng vũ trang gồm quân đội nhân dân và công an
nhân dân là lực lượng nòng cốt. Trong tình hình mới phải phát huy cao độ chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống cách mạng, đề cao cảnh giác, kiên quyết chống lại những âm mưu, thủ
đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, xây dụng vững chắc thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, xây dựng các lực lượng vũ trang trong sạch
vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước.
Đảng, Nhà nước chủ trương mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối
ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật, cả về Đảng, Nhà nước và các
đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và
cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, gìn giữ và phát huy những truyền thống và bản
sắc tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc.
Những chủ trương trên đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền
và môi trường hòa bình của đất nước, củng cố quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối
ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.
Từ tháng 11-1991, Việt Nam và Trung Quốc bình thuừng hóa quan hệ và từng bước khôi
phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, họp tác nhiều mặt; tăng cường quan hệ hữu nghị,
đoàn kết đặc biệt với Lào; xây dựng quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ với
các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á ngày 28-7-1995 (ASEAN) và thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ
ngày 11-7-1995. Đến cuối năm 1995, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 160 nước,
quan hệ buôn bán với trên 100 nước... Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã
đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho Việt Nam
viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay để phát triển. Ngày 28-7-1994, Việt Nam phê chuẩn
tham gia Công ước về Luật biển 1982 của Liên hiệp quốc.
Hội nghị Trung ương 3 (6-1992), lần đầu tiên đưa ra chủ trương tự đổi mới, tự chỉnh
đốn Đảng103. Mục tiêu đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng nước ta trong
tình hình mới, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả
các nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII đề ra, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, làm
cho dân giàu nước mạnh giữ vững ổn định chính trị. Nguyên tắc đổi mói và chỉnh đốn
Đảng là quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,

103 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vấn kiện Đảng Toàn tạp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 52, trang
kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, củng cố mối liên hệ
mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Yêu cầu và phương châm đổi mới, chỉnh đốn Đảng:
xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng; chỉnh đốn Đảng về tổ chức, tạo bước chuyển
biến quan trọng về công tác cán bộ; đối mới và tăng cường công tác dân vận; tiếp tục đối
mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường củng cố Mặt trận
Dân tộc thống nhất. Ngày 17-11-1993, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 07 về đại
đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhấn mạnh đại đoàn kết
lấy mục tiêu chung làm diêm tương đồng, vì lợi ích chung của dân tộc; cùng nhau xóa
bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng
Trước sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giói và trong nước, lần đầu tiên
Đảng tổ chức Hội nghị giữa nhiệm kỳ (1-1994). Hội nghị khẳng định, đổi mới là sự
nghiệp khó khăn, chưa có tiền lệ, song Đảng đã mạnh dạn tìm tòi và giành thắng lợi quan
trọng. Điều cơ bản có tính chất quyết định nhất là Đảng ta đã giữ vững vai trò lãnh đạo
duy nhất, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo, có đường lối, chính sách phù hợp
với quy luật và thực tiễn Việt Nam, phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn
kết toàn dân, mở rộng họp tác quốc tế.
Ngoài việc cụ thể hóa việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và bầu bổ sung 20 ủy
viên Trung ương Đảng mới để thay thế cho số ủy viên Trung ương sức khoẻ yếu hoặc bị
kỷ luật, nhận thức mới của Hội nghị giữa nhiệm kỳ là chỉ rõ trước mắt, nhân dân ta trước
mắt nhân dân ta là những thách thức lớn và những cơ hội lớn.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên
trong môi trường cạnh tranh gay gẳt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không
khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thực hiện; nguy
cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù
địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết với nhau, tác dộng lẫn nhau.
Đảng ta có đường lối đúng đắn, đoàn kết nhất trí, nhân dân ta cần cù, thông minh,
giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh và ý chí cách mạng kiên cường, tin tưởng ở sự lãnh đạo
của Đảng, các lực lượng vũ trang tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân, những thành tựu của công cuộc đối mới đang tạo ra thế và lực mới, sự
phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, xu thế mở rộng quan hệ họp tác phát triền
trên thế giới và khu vực mang đến cho chúng ta thêm những nguồn lực quan trọng.

141
Lần đầu tiên trong Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng khẳng định xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hội nghị Trung
ương 8 (1-1995) đã cụ thể hóa một bước chủ trương dó và chủ trương tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền
hành chính nhà nước1. Nhận thức mới của Đảng là: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối họp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng
giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội, kết họp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng,
nâng cao dân trí, kết họp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần chúng.
Thực hiện và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VII, với quan điểm coi con người là
nhân tố quyết dịnh, là dộng lực to lớn nhất, là chủ thể sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất
và tinh thần của xã hội; coi hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn dấu cao nhất của
Đảng, Hội nghị Trung ương 4 đă ban hành 5 Nghị quyết liên quan đến chăm sóc, bồi
dưỡng, phát huy nguồn lực con người: về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo;
về một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt; về những vấn đề cấp bách
của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; về chính sách dân số và kế hoạch
hoá gia đình, về công tác thanh niên trong thời kỳ mói. Các nghị quyết trên cho thấy quan
điểm cách mạng và nhân văn của Đảng: Tất cả là do con người, tất cả vì hạnh phúc con
người, chúng ta coi con người là nhân tố quyết định, là động lực to lớn nhất, là chủ thể
sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội; đồng thời, coi hạnh phúc của
con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất.
2. Tiếp tục công cuộc đổi mới, đay mạnh công nghiệp hoả, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế 1996-2018
Đại hội đại biêu toàn quốc lân thứ VIII và bước đầu thực hiện công cuộc đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1996-2001
Đại hội VIII họp tại Hà Nội, từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996, trong bối cảnh cách
mạng khoa học và công nghệ phát triển với trình độ cao hơn. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
lâm vào thoái trào. Sau 10 năm đổi mới, nhân dân Việt Nam đã giành được những thắng
lợi bước đầu về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, phá được thế bị
bao vây, cô lập nhưng vẫn là nước nghèo, kém phát triển, xã hội còn nhiều tiêu cực và
nhiều vấn đề phải giải quyết. Lạm phát từ 67,1% năm 1991 giảm còn 12,7% năm 1995.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đcmg Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 54, trang
Dự Đại hội có 1.198 đại biểu thay mặt cho hơn 2,1 triệu đảng viên trong cả nước.
Đại đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng và bầu đồng chí Đỗ Mười tiếp tục làm
rống Bí thư. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội VIII đã bổ sung
đặc trưng tổng quát về mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: Dân giàu, nước
mạnh,xãhộicôngbằng,vănminh và nối bật những vấn đề trọng tâm sau:
Tổng kết 10 năm đổi mới (1986-1996) đất nưó’c thu được những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa rất quan trọng. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nhưng một số
mặt còn chưa vững chắc. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định rõ
hơn. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công
nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyến sang thời kỳ mới đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. “Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường
lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy
trong quá trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc và kéo dài, dẫn đến chệch
hướng ở lĩnh vực này, hay lĩnh vực khác, ở mức độ này, hay mức độ khác” 1. Đại hội nêu
ra sáu bài học chủ yếu qua 10 năm đổi mới: Một là, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới. Hailà, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị; lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đối mới
chính trị. Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Bốn là, mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân phát huy sức mạnh của cả
dân tộc. Năm là, mỏ1 rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của
nhân dân thế giới, kết họp sức mạnh của dân tộc vói sức mạnh thời đại. Sáu là, tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Quan điểm về công nghiệp hoá trong thời kỳ mới gồm: 1) Giữ vững độc lập, tự chủ,
đi đôi với mở rộng quan hệ quốc té, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa
vào nguồn lực trong nước chính là đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. 2)
Cỗng nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 3) Lấy việc phát huy nguồn lực con ngưòi
là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. 4) Khoa học và công nghệ là động
lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ
hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. 5) Lấy hiệu quả kinh tế
làm chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.
6) Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tập 55, trang
Xây dựng Đảng ngang tầm dòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước là vấn đề có ý nghĩa quyết định hàng đầu. Đảng phải tiếp tục sự đổi mới, tự
chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, khắc phục cho
được các biểu hiện tiêu cực và yếu kém. cần phải giữ vững và tăng cường bản chất giai
cấp công nhân của Đảng; nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng
viên; củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ; nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng; tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh ỗạo của Đảng và ỗổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng.
Đại hội VIII đánh dấu birác ngoặt của Đảng, đưa đất nước sang thời kỳ mới đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu
mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau Đại hội VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp nhiều lần, chỉ đạo thực hiện
những nhiệm vụ trọng tâm, nổi bật là:
Quan điểm của Đảng: coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm; phát huy tối đa
nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm, nâng cao hiệu quả sức cạnh
tranh của nền kinh tế. cần kiệm để công nghiệp hoá, khắc phục xu hướng chạy theo “xã
hội tiêu dùng”. Tập trung xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng
thời quan tâm xây dựng quan hệ sản xuất, từng bu'0'c quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hướng
mạnh về xuất khấu, nhưng không được coi nhẹ sản xuất trong nước và thị trường trong
nước. Thực hiện cơ chế thị trường, nhưng Nhà nước phải quản lý và điều tiết theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội.
Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều
chỉnh cơ cấu đầu tư. Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và họp tác hoá, dân chủ hoá. Đẩy mạnh đối mới, phát triển và quản lý có
hiệu quả các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh hoá hệ thống tài
chính-tiền tệ; thực hành triệt để tiết kiệm. Tích cực giải quyết việc làm và xoá đói giảm
nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế- xã hội.
Vượt qua khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực từ tháng 7-1997, với các chủ
trương trên về kinh tế, cho đến năm 2000, kinh tế đất nước tăng trưởng khá, tổng sản
phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân hằng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục,
đặc biệt là sản xuất lương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng
13,5%. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000, các chỉ tiêu
chủ yếu đều đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra.

144
Công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã có những tiến bộ quan trọng, nhưng còn nhiều khuyết điếm, yếu kém; Hội nghị Trung
ương 3 (6-1997) đã thông qua Nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp
tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh 1.
Trưng ương nhấn mạnh ba yêu cầu lớn: Một là, tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn
quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp đế
nhân dân. Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; cán bộ, công chức nhà
nước thật sự là công bộc, tận tuy, phục vụ nhân dân. Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước. Nhiệm vụ và giải pháp lớn là: mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phát hưy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước; nâng cao chất
lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức Quốc hội; tiếp tục cải cách nền hành chính nhà
nước; cải cách tư pháp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các biện
pháp tố chức thực hiện. Tăng cường xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước 2. Chủ
trương của Đảng là xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất và năng lực, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu. Tiêu chuẩn chủ yếu của cán
bộ là: Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, Không tham nhũng
và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, không
cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Có trình độ hiểu biết về lý
luận chính trị, quan điểm, đường lối, của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có
trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ. Các tiêu chuẩn đó quan hệ mật
thiết với nhau, coi trọng cả đức và tài, lấy đức là gốc. Hội nghị Trung ương 4 khóa VIII
(12-1997) bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư.
Thực hiện tự phê bình và phê bình kỷ niệm 30 năm thực hiện Dichúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh (2-9-1969 - 2-9-1999) và kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng (3-2-1930 - 3-2-
2000), Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (2-1999) đã ra Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và
cấp bách trong công tác xây dựng Đảng 3. Trong đó yêu cầu tăng cường sự thống nhất
trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động, kiên trì đấu tranh đẩy lùi 4 nguy cơ; đảng

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Tocm tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tập 56, trang
306.
2
Đàng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tập 56, trang
332.
3
Đảng Cộng Scản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tập 56, trang
viên phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp
luật Nhà nước. Kiên định những quan điểm có tính nguyên tắc sau: Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng Cộng
sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; không chấp nhận “đa nguyên,
đa đảng”. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của Đảng. Kết họp chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng của
giai cấp công nhân.
Tiếp tục xây dựng và củng cố tố chức bộ máy của hệ thống chính trị của Đảng từ
Trung ương đến cơ sở, Hội nghị Trung ương 7 khóa VIII (8-1999) đã xác định rõ hơn
chức năng, nhiệm vụ và tổ chức các ban của Đảng ở các cấp; cải tiến cách làm của các cơ
quan của Quốc hội, của Chính phủ và chính quyền địa phương; chỉ đạo và sắp xếp tổ
chức của hai ngành kiểm sát và toà án; xây dựng quy chế làm việc, đổi mới phương thức
hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị-xã hội.
Trước tình hình mất dân chủ xảy ra nghiêm trọng ở một số địa phương vào năm
1997, tháng 2-1998, Bộ Chính trị đã kịp thời ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về Quy chế
dân chủ. Sau đó, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vả các tổ chức trong hệ thống
chính trị đã phối họp ban hành Quy chế dân chủ ờ các loại hình tổ chức cơ sở, ở xã, phường,
thị trấn, ở các cơ quan, dơn vị và trên các lĩnh vực trên cả nước.
Đẻ đáp ứng yêu cầu tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) đã ban hành hai
nghị quyết quan trọng, nhấn mạnh coi giáo dục-đào tạo cùng với khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000 1 đã xác định quan điểm: Xây dựng
con người những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục-đào tạo. Coi giáo dục-đào
tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học, học
thường xuyên, học suốt đời. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục
xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng công đồng, từng tập
thể. Phát triển giáo dục-đào tạo gan với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, những tiến bộ
khoa học-công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công

1
Đàng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đàng Tocm tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tập 55, trang
nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1 là: Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của
dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, đi sâu nghiên cứu, tổng kết quá trình đổi
mới đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong
tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng-an ninh. Nâng cao
năng lực nội sinh, xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của nước nhà,
từng bước hình thành nền khoa học và công nghệ hiện đại của Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên
cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu
và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới. Văn hóa Việt Nam tiếp tục được
phát huy, đã góp phần quyết định vào những tháng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự
nghiệp dối mới. Theo chương trình toàn khóa VIII, Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII (7-
1998) đã ban hành Nghị quyết xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
dậm đà bẳn sắc dân tộc. Trung ương nhấn mạnh quan điểm: Văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Xây
dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, văn minh,
con người phát triển toàn diện. Nen văn hóa mà chúng ta xẩy dựng là nền văn hóa tiên
tiến, dậm đà bản sắc dân tộc. Nen văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nưó'c và tiến bộ mả nội dung cốt lõi là lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và
tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong
các phương tiện chuyển tải nội dung. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,
nhũng tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun dấp nên qua lịch sử hàng
ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ
quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong
lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc
còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Bảo vệ bản sắc
dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái
tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc
hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tập 55, trang

741.
147
Nen văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam. 54 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn
hóa riêng nhưng bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam. Xây dựng và
phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức
giữ vai trò quan trọng. Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự
nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Kiên
trì cuộc đấu tranh bài trừ thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi sự lợi dụng
văn hóa dế thực hiện “diễn biến hòa bình”.
Mười nhiệm vụ cụ thể xây dựng và phát triển văn hóa là: Xây dụng con người Việt
Nam; xây dựng môi trường văn hóa; phát triển sự nghiệp văn học-nghệ thuật; bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo và khoa học-công
nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn, phát huy và
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; chính sách văn hóa đối với tôn giáo; củng cố, xây
dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa; mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa;
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII được ví như Tuyên ngôn văn hóa của Đảng
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó, phong trào thi đua yêu
nước “Toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa” được phát động rộng rãi trên cả
nước, trên nhiều lĩnh vực góp phần làm chuyển biến phong phú thêm đời sống tinh thần
toàn xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tiếp tục đấy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoả đất nước 2001-2006
Đại hội IX của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, là Đại hội mở
đầu thế kỷ XXI, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá diễn ra
mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ, một nước lớn lợi dụng chống khủng bố, tăng
cường can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều nước. Khu vực Đông Nam Á, châu Á-
Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhưng tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định. Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, tạo thế và lực mới nhưng nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức
cạnh tranh thấp. Chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hội VIII đề ra
là 9-10% đã không đạt. Các nguy cơ mà Hội nghị giữ nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã nêu
ra vẫn là những thách thức lớn của cách mạng nước ta.
Dự Đại hội IX có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2,2 triệu đảng viên trong cả
nước. Đại hội đã thông qua các văn kiện chính trị quan trọng, trong đó có Chiếnlượcpháttriển
kinh tế-xã hội 2001-2010; xác định rõ những nội dung cơ bản Tư tưởng Hồ Chí Minh và đã bầu ra Ban Chấp
hành Trung ương mới gồm 150 ủy viên, Bộ Chính trị có 15
đồng chí; đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tống Bí thư của Đảng.
Ngoài những nội dung tiếp tục đổi mới toàn diện, các văn kiện của Đại hội IX nổi
bật với những nhận thức mới về con đường xã hội ỏ’ nước ta:
Thế kỷ XX ghi đậm trong lịch sử loài nguời ba dấu ấn cực kỳ sâu sắc: Khoa học và
công nghệ tiến nhanh chưa từng thấy; diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu; đầu
thế kỷ phong trào cách mạng phát triển rộng toàn thế giới, cuối thế kỷ, chủ nghĩa xã hội
hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào. Đối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những
biến đổi to lớn, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại:
Đảng Cộng sản Việt Nam ra dời mở ra bước ngoặt của cách mạng Việt Nam; thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà; thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt đế giải phóng dân tộc, bảo vệ Tố
quốc; thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Kết quả thực hiện Chiến lược ổn định phát triển kinh tế-xã hội 1991-2000 đã đưa
GDP của nước ta từ 15, 5 tỷ USD năm 1991 tăng vượt hơn gấp đôi vào năm 2000, đạt
trên 35 tỷ USD. Đại hội đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm tiếp theo
(2001-2010) với mục tiêu tổng quát là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại; tiếp tục đưa GDP năm 2010 lên gấp đôi so với năm 2000.
Đại hội khẳng định những bài học đối mới do các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng
nêu lên vẫn còn có giá trị lớn, nhất là những bài học: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với
thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại. Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi
mới.
Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội
chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. “Tư tưởng Hồ
Chí Minh lả một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại” 104. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường
cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và

104 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc lần thử IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001, trang 83. .
dân tộc ta. Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành dộng là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư
duy lý luận của Đảng ta.
Con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kể thừa những thành tựu mà nhân loại đã
dạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, dặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế.
Quan hệ các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội
bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước
nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh
ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc,
xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên C0’ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết họp hài hòa các lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần
kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng, Nhà nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; coi đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức phân phối, chủ yếu
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đòng thời phân phối theo mức đóng
góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi
xã hội.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội;
làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần của nhân dân; góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về
chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, về năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng,
lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong
gia đình, cộng đồng và xã hội.
Mỏ' rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế. Việt Nom sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì ho à bình, độc
lậpvàpháttriển.
Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục đấy mạnh công cuộc đổi mới, đánh dấu bước
trưởng thành về nhận thức vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phát triển và cụ thể hoá Cương lĩnh chính trị năm 1991 của Đảng trong những năm
đầu của thế kỷ XXI.
Trong toàn khóa IX, Trung ương Đảng đã họp nhiều lần, chỉ đạo đổi mới toàn diện,
nổi bật nhất là những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Đến năm 2001, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích
cực đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước và đã đạt nhiều kết quả làm
tăng thế và lực của đất nước. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn
chế, yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng. Hội nghị Trung ương 3 (9-2001) đã chỉ đạo sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước 1, tạo bước phát triển
mới, tạo thế và lực cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua 5 năm 1996-2001, kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới dưới
nhiều hình thức, trinh độ khác nhau trong các ngành, lĩnh vực, nhất là trong nông nghiệp,
nông thôn đã có đổi mới, đóng góp quan trọng vào phát triến kinh tế xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế tập thể hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, năng lực nội tại hạn chế; hiệu
quả ít; kinh tế tập thế chiếm tỷ trọng thấp trong GDP, chưa dủ sức đảm nhiệm tốt vai trò
của mình. Hội nghị Trung ương 5 (3-2002) đã thống nhất nhận thức về sự cần thiết phát
triển kinh tế tập thể2 và chủ trương xác lập môi trường thế chế và tâm lý xã hội thuận lợi,
sửa đổi, bố sung các cơ chế, chính sách; nâng cao vai trò quản lý của nhà nước; tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Liên minh họp tác xã Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc và các doàn thể nhân dân đổi với phát triển kinh tế tập thể.
Qua 10 năm 1991-2001, kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư

1
Đàng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tập 60, trang
599.
2
Đàng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đủng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tập 61, trang

218.
151
bản tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế.
Tuy vậy, kinh tế tư nhân nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém: quy mô nhỏ, vốn ít, công
nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu và gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc về cơ chế hoạt động. Hội nghị Trung ương 5 (3- 2002) đã thảo luận, thống nhất
nhận thức coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển
kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa. Trung ương quyết định tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích
và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.
Kẻ từ Luật đất đai sửa đổi năm 1988, những đổi mới trong chính sách, pháp luật về đất đai
hơn 15 năm qua đã đưa đến những kết quả tích cực, thúc đấy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, công
tác quản lý và sử dụng đất đai hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém và nhiều vấn đề bức xúc. Đất
đai chưa được chuyển dịch họp lý, hiệu quả sử dụng còn thấp. Tình trạng người sử dụng đất vi
phạm pháp luật về đất đai và tình hình khiếu kiện về đất đai diễn ra nghiêm trọng và phổ biến; việc
thu hồi đất, đền bù giải toả mặt bằng thực hiện hết sức khó khăn. Hội nghị Trung ương 7 (3-2003) 1
đã thống nhất nhận thức coi đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Trung
ương chủ trương tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn theo pháp luật. Nhà nước không thừa
nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho cá nhân.
Qua 15 năm đổi mới, tình hình tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân nhìn chung có nhiều
mặt tích cực và tiêu cực đan xen nhau, trong đó mặt tích cực là cơ bản. Tuy vậy, mặt tiêu cực có
lúc, có nơi cũng rất nghiêm trọng, thực sự là nguy cơ tiềm ẩn, liên quan đến sự mất còn của Đảng,
của chế độ. LIỘi nghị Trung ương 5 (3-2002) đã đưa ra nhũng nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng, lý luận của Đảng trong tình hình mới2. Trung ương nhấn mạnh cần đầy mạnh tổng kết thực
tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục lý
luận chính trị; chủ động tiến công, làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu bạo loạn
lật đổ của các thế lực thù địch.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tập 62, trang 68.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Van kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tập 61, trang
Qua 10 năm công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả
quan trọng. Tuy vậy, việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh còn một số hạn
chế, yếu kém. Nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh chưa thống nhất và chưa đạt
được chiều sâu tư tưởng, lý luận. Chậm đưa tư tưởng Hồ Chí Minh thảnh môn học trong
các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Nội dung, hình thức, phương pháp tuyên
truyền tư tưởng Hồ Chí Minh thiếu sinh động; chưa gắn với giải quyết những vấn đề thực
tiễn; việc đấu tranh bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh chưa chủ dộng, kịp thời và sắc bén.
Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới nhằm làm cho toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc nguồn gốc, nội dung, giá trị, vai trò của tư tưởng
Hồ Chí Minh, kiên định và làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày
càng giữ vai trò chủ đạo trong đòi sống tinh thần của xã hội ta.
Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về tăng cường mối quan hệ giữa Đảng
và nhân dân, về dại đoàn kết toàn dân tộc, về dân tộc, tôn giáo, về Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân. Nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan
trọng thúc đấy sự phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững ốn định chính trị-xã hội của đất
nước. Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa thật bền chặt và đứng trước những
thách thức mới. Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa
vững chắc, phần vì đời sống còn khó khăn, vì bất bình trước những bất công xã hội và
tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí còn khá phố biến và nghiêm trọng, kỷ cương
phép nước nhiều lúc, nhiều nơi không nghiêm, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an
toàn xã hội còn phức tạp. Các vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, có lúc, có nơi rất
gay gắt. Việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, các tổ chức xã hội còn nhiều
hạn chế. Hội nghị Trung ương 7 (3-2003) đã ban hành ba Nghị quyết quan trọng.
Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” 1. Trung ương khẳng định: Đại đoàn kết toàn
dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực
chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm phát triển bền vững đất nước. Đại
đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bàng, dân chủ, văn minh làm điếm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt dối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở,
tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Nghị quyết đề cập toàn diện và tống thê vấn đề
dân tộc ở nước ta, tập trung vào những nội dung chủ yếu và cấp bách của công tác dân tộc

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đáng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tập 62, trang 26.
153

trong thời kỳ mới, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực,
chính đáng, họp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ gắn liền
với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không ngừng bồi dưỡng,
nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực,
tự cường xây dựng đất nước.
Nghị quyết về công tác dân tộc khẳng định, trải qua các thời kỳ cách mạng, công tác
dân tộc đã đạt được nhũng thành tựu to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách
mạng chung của đất nước. Tuy nhiên do tác động của tình hình thế giới và hoạt động của
các thế lực thù dịch cả trong và ngoài nước, tình hình dân tộc ở nước ta có những diễn
biến phức tạp hơn. cần nhận thức rõ vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến
lược cơ bản, lâu dài, đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các
dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát
triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trung ương đã đã đưa ra
các nhiệm vụ, giải pháp thực hiên công tác dân tộc trong thời kỳ mới.
Nghị quyết về công tác tôn giáo khắng định, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định
công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng. Tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính
sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Giữ gìn và phát huy
những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công
với Tổ quốc. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt
động trái pháp luật vả chính sách của Nhà nước.
Đến năm 2002, có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sống ở gần 90 nước và
vùng lãnh thổ, ngoài ra, còn hàng trăm nghìn người Việt Nam ra nước ngoài lao động,
học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia dinh, hình thành các cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài. Đa số họ có đời sống ổn định, có tiềm lực kinh tế nhất định, có vị trí và quan hệ
nhất định ở nước sở tại, luôn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn
truyền thống văn hóa, hướng về cội nguồn, gia đình, dòng tộc, quê hương; có những đóng
góp nhất định về các mặt cho đất nước. Tuy nhiên, người Việt Nam ở một số nước còn
nhiều khó khăn trong việc ổn định cuộc sống, ở một số nơi còn bị kỳ thị. Một số người
chưa có dịp về thăm đất nước, chưa thấy những thành tựu của công cuộc đổi mới, vẫn còn
thành kiến, mặc cảm, thậm chí chống phá đất nước. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị khóa
IX (3-2004) đã ban hành Nghị quyết số 36 chủ trương coi người Việt Nam ở nước ngoài

154
là bộ phận không tách rời, là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan
trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Nhà
nước có trách nhiệm thoả thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào
ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế.
Sau Đại hội IX, nhất là sau sự kiện ngày 11-9-2001 ở nước Mỹ, tình hình thế giới
diễn biến rất mau lẹ, phức tạp; sự nghiệp đấy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội
nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta đang đặt ra những vấn đề mới rất cấp thiết. Hội
nghị Trung ương 8 (7-2003) đã ra kịp thời thảo luận và ban hành Chiến lược Bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới105. Sau khi chỉ rõ những thành tựu, khuyết điểm, yếu kém của
Đảng trong thực hiện nhiệm vụ Bảo vệ Tổ Quốc, dự báo tình hình quốc tế, khu vực, tình
hình đất nước những năm tới, Chiến lược xác định: Mục tiêu bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhả nước, nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; bảo vệ
lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền
văn hoá; giữ vững an ninh chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quan diêm chỉ đạo của Đảng là: Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp Bảo vệ Tố quốc. Kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc gắn với công nhân xã hội; lấy việc giũ' vững môi trường hòa bình, ổn định
đế phát triển kinh tế-xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ Quốc. Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Xây dựng sức mạnh tổng họp về chính trị, tư tưởng, kinh tế,xã hội, văn hóa, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại...; ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối da và khai
thác mọi thuận lợi ở bên ngoài; Chủ động phòng ngừa và triệt tiêu những nhân tố bên
trong có thể dẫn đến những dột biến bất lợi.
Nhiệm vụ CO' bản về bảo vệ Tổ quốc: Giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Đảng lả nhiệm vụ theo chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững
chắc an ninh chính trị nội bộ. Nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển
kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa;
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa di dôi với việc tăng cường
trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của

105 Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thử tám Ban Chấp hành
Trung ương Đáng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, trang 45.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường
quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công
an nhân dân là lực lượng lòng cốt. Đẩy mạnh hoạt dộng đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc
tế, ưu tiên phát triển hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các
nước và trung tâm lớn. Trên cơ sở đó, Trung ương đã nêu các nhiệm vụ cơ bản và giải
pháp chủ yếu Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đại hội đại biểu toàn CỊUOC lần thứ Xcủa Đảng và quả trình thực hiện 2006-2011
Đại hội X của Đảng họp tại Hà Nội, họp từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, vào thời
điểm đất nước đã trải qua 20 năm đối mới, đạt những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước có sự thay đổi cơ bản, toàn diện, thế và lực, uy tín quốc tế tăng lên nhiều so với
trước. Tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta có những thuận lợi và cơ hội lớn, nhưng cũng gặp
nhiều khó khăn, thách thức không thế xem thường.
Dự Đại hội có 1.176 đại biểu, thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong cả nước.
Đại hội đã thông qua các Văn kiện chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm
160 ủy viên chính thức, 21 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị 14 đồng chí; dồng chí Nông
Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Các văn kiện của Đại hội trình bày toàn diện những nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới, nổi bật với là nhiệm vụ trọng tâm, tổng quát thể hiện trong
chủ đề của Đại hội “NângcaonănglựclãnhđạovàsứcchiếnđấucủaĐảng,pháthuysứcmạnhtoàndântộc,đay
mạnhtoàndiệncôngcuộcđổimới,sớmđưanướctarakhỏitìnhtrạngkémpháttriển
Đại hội X đã tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn của 20 năm đổi mới. Sau khi
đánh giá quá trình đối mới, chỉ rõ những thành tựu, khuyết điểm, yếu kém, Đại hội đã chỉ
ra những bài học cần thiết để tiếp tục hoàn thiện đường lối chỉ đạo đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới trong những năm tiếp theo. Những bài học đó là: Một là, trong quá trình đổi mới
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hailà, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bưóc đi,
hình thức và cách làm phù hợp. Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân
dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén
với cái mới. Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Năm là, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đại hội X có sự tiếp thu, bổ sung hai đặc trưng mới của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây
dựng so với Cưong lĩnh năm 1991 là: Dân giàu, nước mạnh, công bàng, dân chủ, văn minh; có
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, diễn dạt lại các đặc trưng khác. Cụ thể: Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh;
do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triến của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đáng, đoàn kết, tương
trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới.
Đại hội X, lần dầu tiên đặt chú trọng hàng đầu đến nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Đây là thành tố đầu tiên của chủ đề Đại hội. Chính vì, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
cầm quyền duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Mọi thành tựu và khuyết điểm của công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của
Đảng. Trong tình hình cơ hội và thách thức đan xen nhau, xây dựng, chỉnh đốn đảng phải đáp ứng
bằng được yêu cầu vừa kiên định sự lãnh đạo của Đảng vừa phải không ngừng nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng để Đảng ngang tầm với trọng trách của mình. Muốn vậy Đảng
phải nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách; năng lực tố chức chỉ đạo thực hiện, tổng
kết lý luận thực tiễn, phải tạo thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng; lãnh đạo Mặt trận và
các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Nâng cao sức
chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức đảng, nói chung là toàn Đảng
phải có ý chí vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm
chất đạo đức, kiên quyết đấu tranh với tiêu cực, tham nhũng, suy thoái, đáu tranh chống các tư
tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch.
Phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, từ đội ngũ cán bộ
đến phương thức lãnh đạo của Đàng. Cái mới của Đại hội X là làm sáng tỏ bản chát của Đảng:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động và của dân tộc.
Quan điểm mới nổi bật của Đại hội X là đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân, kết cả tư
bản tư nhân nhưng yêu cầu phải tuân thủ Điều lệ Đảng, nghị quyết của Đảng và quy định của pháp
luật Nhà nưó'c đồng thời nêu cao tính tiền phong gưoiig mẫu của người đảng viên. Đây là chủ
trương đúng đắn, vừa phù hợp thực tế, vừa động viên mọi nguồn
lực vào thực hiện mục tiêu của Đảng “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh”.
Nội dung mới trong thành tố thứ hai chủ đề Đại hội X là “phát huy sức mạnh toàn
dân tộc”. Muốn đoàn kết phải phải lấy mục tiêu chung của toàn dân tộc là giữ vững độc
lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lóp
nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Điểm mới từ đây là xoá
bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng
những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đe cao truyền thống nhân
nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và
đồng thuận xã hội. Điểm mới của Đại hội là chỉ ra nhiều biện pháp, hình thức, nhằm phát
huy dân chủ, có chính sách bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, bảo
đảm công bằng xã hội.
Nội dung mới trong thành tố thứ ba chủ để Đại hội X là “đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới”. Tập trung vảo các lĩnh vực chủ yếu: Tiếp tục hoàn thiện thế chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với
phát triển kinh tế tri thức._MỞ rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.
Đại hội X của Đảng là dấu mốc quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Các văn kiện được thông qua tại Đại hội X là kết tinh trí tuệ và ý chí
của toàn Đảng, toàn dân quyết tâm đổi mới toàn diện, phát triển với tốc độ nhanh và bền
vững hơn trong thời kỳ mới.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Trung ương Đảng đã họp nhiều lần, thảo luận và
quyết định nhiều vấn đề quan trọng, nổi bật:
Lần đầu tiên, tại Hội nghị Trung ương 4 (2-2007), Đảng ta ban hành Chiếnlược biểnViệt
Nam đến năm 202ũ\ Trung ương nhận định, thế kỷ XXI được thế giới xem là thế kỷ của đại
dương. Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và xây dựng chiến lược biển. Khu
vực Biển Đông, trong đó vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất
quan trọng. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh rõ vị trí, vai trò
đó. Với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, biển Việt Nam càng có vai trò to lớn
hơn đối với sự nghiệp phát triển dất nước. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, Đảng và
Nhà nước ta đã có một số nghị quyết, chính sách về các lĩnh vực liên quan dến biển.
Trước tình hình mới, phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền
quốc gia đối với biển, đảo và vùng trời của Tổ quốc, đòi hỏi nước ta cần có chiến lược
biển toàn diện nhằm phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của biển đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trung ương đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 kinh tế biển
Việt Nam đóng góp khoảng 53-55% GDP, 55-60% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Việt
Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Bơn Chấp hành Trung ương khỏa X, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2007, trang 70.

158
Quan điểm chỉ dạo của Đảng: Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm
giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành,
nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu
quả cao với tầm nhìn dài hạn. Kết hợp chặt chẽ giũa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm
quốc phòng, an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết họp chặt chẽ giữa phát
triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường
biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa. Phát huy đầy đủ, có hiệu quả các nguồn lực
bên trong, tranh thủ hợp tác quốc tế thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên
tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thố của
đất nước.
Để thực hiện mục tiêu đó, Trung ương xác định các định hướng lớn trên các lĩnh
vực, kết họp chặt chẽ phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh, hợp tác
quốc tế và bảo vệ môi trường các vùng biến, ven biển, hải đảo theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ thế chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi
mới của Đảng đã được thể chế hoá thành Hiến pháp, pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển. Tuy nhiên,
quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm,
chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Mặt trái của
kinh tế thị trường tác động dẫn đến nhiều tiêu cực trong các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhất là các vấn đề kinh tế-xã hội bức xúc. Hội nghị Trung ương 6 (1-2008) đã đưa ra
những chủ trương và giải pháp dế tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa1.
Quan điểm chỉ đạo của Trung ưong: Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng
đán các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều
kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hưÓTig xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Bảo

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Van kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X , Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008, trang 133.

15
9
đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế; giữa các yếu tố thị
trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh té với thể chế chính trị, xã hội; giữa Nhà
nước, thị trường và xã hội. Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội, phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường. Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát
triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước
ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập,
chủ quyền quốc gia, giữ vũng an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả
hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trên cơ sở quan điểm đó Trung ưong đã nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đạt được thành tựu
khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp nông thôn đứng trước nhiều thách thức mới, phát
triển còn kém bền vững, thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội yếu kém. Đời
sống của nông dân còn nhiều khó khăn. Xuất phát từ yêu cầu, Hội nghị Trung ương 7
(2008) dã đánh giá tình hình lần đầu tiên đưa ra những quyết sách mạnh mẽ về chủ
trương, nhiệm vụ, giải pháp, giải quyết đồng thời ba vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn1. Quan điểm chỉ đạo: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng
quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội bền vững, giũ’ vững ổn định chính trị, đảm bảo an
ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải đưọ’c giải quyết
đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển nông nghiệp,
nông thôn và nâng cao đời sống vật chát, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù họp với điều kiện của từng vùng,
từng lĩnh vực; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội,
ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn,
phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải
khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã
hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đàm đà bản
sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng
cao đời

1
Đàng Cộng sản việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bày Ban Chắp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2008, trang 121. /
160
sống nông dân. Ba vấn đề này có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng phát triển kinh tế-
xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Trên cơ sở quan
điểm đó T'rung ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp phát triển nông nghiệp, nông
thôn trong thời kỳ mới.
Những chủ trương nêu trên đã góp phần quan trong vào phát triển kinh 5 năm (2005-
2010): tốc độ tăng GDP bình quân đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với
giai đoạn 2001-2005, đạt 42,9% GDP. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao 106. GDP năm 2010 tính
theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu
người đạt 1.168 USD. Việt Nam năm 2008 đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, đứng vào
nhóm các nước có thu nhập trung bình.
Đảng và Nhà nước đã luôn chú trọng công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí và đã đạt đưọ‘c một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí còn nhiều hạn chế, khuyết điếm, hiệu quả thấp. Tham nhũng,
lãng phí vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi
rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân, là một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Trong
tình hình mới, Hội nghị Trung ương 6 (1-2008) đã chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Điểm nổi bật của
chủ trương này là Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí;
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, thực hiện đồng bộ các biện
pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự; tích cực, chủ động phòng
ngừa là chính, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Gắn phòng, chống tham nhũng,
lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Coi đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài,
phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và có
trọng tâm, trọng điểm. Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực
tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài trong phòng, chống tham nhũng,
lãng phí.
Công tác kiểm tra của Đảng có nhiều đổi mới và đạt được những kết quả quan trọng,
góp phần tích cực vào thực hiện nhiệm vụ chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng. Chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra chưa cao, chưa phát huy
đuực sức mạnh tổng họp của các ngành, các lĩnh vực trong kiểm tra; chưa coi trọng kiếm

106 Trong 5 năm 2006-2010, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch đề ra.
Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 146,8 tỉ USD, gấp 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai
đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hon 1,3 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt
khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 17,5%.
tra phòng ngừa; nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được
phát hiện và khắc phục. Hội nghị Trung ương 5 (7-2007) đã chủ trýõng tăng cường công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng 1. Quan điểm chỉ đạo là: Kiểm tra, giám sát là nội dung rất
quan trọng trong lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng, trước hết
là của cấp ủy và người đứng đầu cáp ủy. Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành
công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo dúng nguyên tắc, phương
pháp công tác đảng. Tố chức đảng, đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng và chịu
sự giám sát của nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát phải gắn chặt với công
tác tư tưởng, công tác tổ chức vả đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; thực hiện toàn
diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả; phải góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Thực hiện đồng
bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát. Giám sát phải mở rộng, kiểm tra phải có
trọng tâm, trọng điểm. Chủ động phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố
mới để phát huy; khắc phục thiếu sót khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc mới manh nha.
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng phải kết họp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy
xây là chính. Khi các VỊ1 việc vi phạm được phát hiện, phải kiên quyết xử lý nghiêm
minh để răn đe và giáo dục. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên; phát
huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và nhân dân trong kiểm
tra, giám sát. Trên cơ sở quan điếm đó Trung ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong thời kỳ mới.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa X (4-2007) đã sắp xếp bộ máy các cơ quan Đảng,
Nhà nước ở Trung ương gọn hơn. Còn 6 ban tham mưu của Trung ương. Chính phủ có 22
bộ và cơ quan ngang bộ.
Đảng đã tập trung chỉ đạo xây dựng cơ sở Đảng vững mạnh. Nhiều tổ chức cơ sở
đảng đã phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở. Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo,
sức chiến đau của tổ chức CO’ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên còn
khuyết điểm, yếu kém. Hội nghi Trung ương 6 (1-2008) đã ra chủ trương nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Trong đó khẳng định tổ chức cơ sỏ' dảng có vị trí rất quan trọng là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với dân. Toàn Đảng phải tập
trung chỉ đạo để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội; tăng
cưcmg mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng,
phát huy sức mạnh tỏng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc tham gia xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền và các tổ chức chính trị-xã hội ở cơ sở vững mạnh, nâng cao
chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở quan điểm đó Trung ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong thời kỳ mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, vì vậy phương thức lãnh đạo
của Đảng tác động trực tiếp thúc đẩy hoặc kìm hãm đến hoạt động của tất cả các tố chức
trong hệ thống chính trị. Sau hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã quan tâm nhiều hơn và có
kết quả trong đổi mới phương thức lãnh đạo của mình. Tuy vậy, trong thực tế, có nơi
Đảng bao biện làm thay, có nơi buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt động của hệ thống chính
trị. Hội nghị Trung ương 5 (7-2007) đã chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị 1. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương
là: Đổi mới phương thức lãnh dạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải
được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đối mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, cụ thế là: Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội; đẩy mạnh phân
cấp, tăng chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hoạt động của của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng. Phải chủ
động, tích cực, có quyết tâm cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa
làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của của hệ thống chính trị ở mỗi cấp mỗi ngành vừa phải quán triệt nguyên tắc
chung, vừa phải phù họp với đặc điểm từng cấp, ngành. Trên cơ sở quan điếm đó Trung
ương đã nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị trong thời kỳ mới.
Trong bối cảnh Việt Nam tiến hành hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền
kinh tế thế giới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách hành chính có vai trò rất quan trọng để bảo đảm sự
phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Kế từ sau Đại hội IX đến nay việc cải cách
hành chính đã đạt những kết quả tích cực. Tuy nhiên, nền hành chính nhà nước vẫn còn
nhiều hạn chế, yếu kém. Hệ thống thể chế, luật pháp, nhất là thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn không ít bất cập, vướng mắc. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng
phí vẫn còn nghiêm trọng. Những yếu kém, hạn chế của cải cách hành chính đã làm cản
trở tiến trình phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Hội nghị Trung ương 6 (8-2007)
chủ trương đấy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Hội nghị lần thừ nơm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2007, trang 91.
máy nhà nước107. Quan điếm chỉ đạo của Trung ương: Cải cách hành chính phải được tiến
hành trên cơ sở các nghị quyết và nguyên tắc của Đảng về xây dụng hệ thống chính trị,
đổi mới phương thức lãnh đạo và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục hoàn thiện
chức năng, nhiệm vụ và quy chế phối họp để nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cơ
quan và cả bộ máy nhà nước. Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, đẩy mạnh cải cách
thủ tục hành chính, phục vụ tốt nhất cho nhân dân và chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân
dân. Các chủ trương, giải pháp cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cải
cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ, vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, phù
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.
Trung ương đã nêu ra yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của bộ máy nhà nước.
Ngày 29-5-2008, với sự chỉ dạo chuẩn bị của Trung ương Đảng, Quốc hội khóa XII
đã ra Nghị quyết về'điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội kể từ ngày 1-8-
2008. Đây là một quyết định đúng đắn, phù hợp với các điều kiện địa lý, lịch sử, văn hoá
truyền thống; phát huy đầy đủ các chức năng và vị thế của một thủ đô hiện đại của đất
nước đang đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trong thời kỳ đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn,
đang phát triển cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên số lượng, cơ cấu, trình độ học
vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp của công
nhân chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập
kinh tế quốc tế; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân còn nhiều khó
khăn, lợi ích của một bộ phận công nhân chưa tương xứng với thành tựu của công cuộc
đổi mới và sự đóng góp của chính họ. Hội nghị Trung ương 6, khóa X (8-2007) dã ban
hành Nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước108. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương: Kiên định quan điểm
giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng
Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phưong thức sản xuất tiên tiến; tiên phong, đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trung ương đã nêu ra các
quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn kết hữu cơ
với đại đoàn kết toàn dân tộc; đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình dộ mọi mặt cho công
nhân; coi đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xă hội. Trung ương đã nêu
ra nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp

107 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, trang 127.
164
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội
nhập quốc tế và sự biến đổi nhanh chóng của tình hình thanh niên, Hội nghị Trung ương
7, khóa X (7-2008) đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1. Quan
điểm chỉ đạo của Trung ương là: Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương
lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tố quốc, một trong
những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung
tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát
triển, thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển
vững bền của đất nước. Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên thành lớp người “vừa
hồng, vừa chuyên” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quan trọng của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, gia đình, nhà trường và xã hội. Đảng lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh
đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Xây dựng Đoàn vững mạnh là nội dung
quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, là xây dựng Đảng trước một bước. Đảng đề ra
đường lối, chủ trương định hướng cho thanh niên hành động, xác định các chuấn mực cho
thanh niên phấn đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu biểu cho thanh niên học tập
và noi theo. Nhà nước quản lý thanh niên và công tác thanh niên; thế chế hoá đường lối,
chủ trương của Đảng về thanh niên và công tác thanh niên thành pháp luật chính sách,
chiến lược, chương trình hành động và cụ thể hoá trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh hằng năm của các cấp, các ngành. Sự
nỗ lực học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng của thanh niên theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây dựng thế hệ thanh niên thời kỳ mới. Mở
rộng mặt trận đoàn kết, tập họp thanh niên là nội dung quan trọng của công tác đoản đế
giáo dục, bồi dưỡng, động viên và phát huy vai trò thanh niên trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tố quốc. Trung ương đã nêu ra nhiệm vụ và giải pháp tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đay mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhận thức sâu sắc “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, trong những năm đổi mới,
Đảng và Nhà nước luôn coi trong, quan tâm và có nhiều chủ trương, chính sách phát triển
đội ngũ trí thức, bước đầu tạo điều kiện thuận lợi đế đội ngũ trí thức phát triển. Tuy nhiên,
đội ngũ trí thức nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém. về số lượng, chất lượng, cơ
cấu, thiếu chuyên gia đầu ngành, chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh, có uy tín ở khu

108 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khỏa X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, trang 43
vực và quốc tế. Hội nghị Trung ương 7, khóa X (7-2008) đã ban hành Nghị quyết về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập kinh tế quốc tế1. Quan điểm của Trung ương: Trí thức Việt Nam là lực lượng lao
động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình dẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm
trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất
lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho
phát triển bền vững. Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của
cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định.
Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu,
sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Trung ương đã nêu ra nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong bối cảnh các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo loạn, đẩy
mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình”, với các chủ trương trên của Đảng, đất nước vẫn giữ
được ổn định chính trị, đạt dược những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, tuy còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục.
Qua hơn 3 năm thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 27-3-2003, của Ban Bí thư
Trung ương Đảng khoá IX, toàn Đảng, toàn dân ta đã thu được nhiều kết quả tốt trong học
tập, quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước yêu cầu của
tình hình mới, Hội nghị Trung ương 12, khoá IX (7-2005) đã chỉ đạo thí điểm cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Tháng 11-2006, Bộ Chính
trị khóa X quyết định tố chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân. Mục đích của cuộc vận động là làm cho toàn Đảng,
toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản, giá trị to lớn của tư tưởng và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện
và làm theo tấm gương đạo đức của Người sâu rộng trong toàn xã hội; đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội. Nội dung cuộc vận động tập
trung chủ yếu vào học tập và làm theo tư tưởng đạo đức trong tác phẩm “Nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, “Di chúc”; tập trung vào các phẩm chất
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, ý thức tổ chức kỷ luật, có trách nhiệm, ý thức
phục vụ nhân dân, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Qua học tập mỗi người liên hệ tự phê bình; quần chúng ở cơ sở góp ý xây dựng thêm.
Từng cơ quan, đơn vị xây dựng tiêu chuẩn đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên, công chức. Theo Chỉ thị số 03, từ năm 2008 đến năm 2010, với các chủ đề
khác nhau hàng năm, cuộc vận động đã nhanh chóng trở thành phong trào sâu rộng trong
toàn xã hội, tạo sự chuyển biến rõ rệt về ý thức tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nưóc qua 20 năm đổi mới làm
cho đa số nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và triển vọng phát triển của
đất nước... Một biểu hiện tiêu cực về tư tưởng diễn biến phức tạp và nghiêm trọng, tiềm
ấn các nguy cơ trực tiếp gây mất ổn định chính trị. Đó là tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân
chưa được khắc phục, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng tin của nhân dân với
Đảng và chế độ. Trong Đảng đã xuất hiện các ý kiến khác nhau về đường lối,của Đảng,
chính sách của Nhà nước. Trong xã hội đã phát sinh tâm trạng bức xúc đáng lo ngại. Các
phần tử cơ hội, bất mãn trong nước kết hợp với thế lực thù địch, phản động ở nước ngoài
tăng cường xuyên tạc, vu cáo, chống phá quyết liệt Đảng, Nhà nước. Trong bối cảnh đó,
Hội nghị Trung ương 5 (7-2007) đã ban hành Nghị quyết về công tác tư tưởng, lý luận,
báo chí trước yêu cầu mới1. Trung ương nhấn mạnh: Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí là
bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là lĩnh vực
trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ. Công tác tư tưởng, lý luận,
báo chí phải đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, làm cho hệ tư tưởng của Đảng,
những giá trị truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hoá thế giới chiếm vị
trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng,
của tất cả đảng viên, trước hết là cấp uỷ các cấp và bí thư cấp ủy, của cả hệ thống chính
trị với sự tham gia của nhân dân, trong đó lực lượng nòng cốt là đội ngũ chuyên trách làm
công tác tư tưởng, lý luận, báo chí của Đảng.
Công tác tư tưởng của Đảng là công tác đối với con người, đòi hỏi phải nắm vững
những quy luật riêng của tư tưcmg, có thái độ, phưong pháp khoa học, kết hợp chặt chẽ
giữa yêu cầu định hướng tư tưởng với sự tự nguyện, giữa lý trí và tình cảm, giữa lời nói
và việc làm, giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” làm chính, lấy tích cực ỗẩy lùi tiêu cực.
Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị-xã hội và là diễn đàn của
nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động báo chí phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật,
tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng. Trung ương đã nêu ra nhiệm vụ và giải
pháp đổi mới công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước tình hình mới

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thừ năm Ban Chắp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2007, trang 7.

168
Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” 109. Quan
điểm chỉ đạo: Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá;
là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong
những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự
phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ mới
phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ.
Chăm lo phát hiện, bồi dưỡng, quý trọng và phát huy các tài năng văn học, nghệ thuật là
trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của Đảng, Nhả nước và của các tổ chức trong hệ
thống chính trị các cấp.
Chủ trương “Cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi
người có công giai đoạn 2008-2012”110 với quan điểm chỉ đạo: Coi việc trả lương dúng
cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực cho phát triển kinh tế-
xã hội, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệư lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước. Trung ương chỉ rõ phải tiến tới bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức sống
được bằng tiền lương ở mức trung bình khá trong xã hội. Cải cách chính sách tiền lưong,
bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công phải gắn với việc kiềm chế tốc độ tăng giá,
bảo đảm tốt hơn dời sống của người nghèo, đồng bào dân tộc, đối tượng chính sách xã
hội nhằm đạt thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển.
Tháng 11-2006, sau hơn 10 năm đàm phán, Việt Nam được chính thức được kết nạp
là thành viên thứ 150 của WTO (Tổ chức thương mại thế giới). Đây là một dấu mốc quan
trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, mở ra nhiều thuận lợi cho đất nước. Để chỉ
rõ những cơ hội lớn và những thách thức lớn về nhiều mặt, Hội nghị Trung ương 4(1-
2007) ra Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế sau khi Việt
Nam trở thành thành viên của WTO. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương khi gia nhập
WTO là: Giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, hội nhập vì lợi ích đất nước,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Coi hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn dân.
Nhân dân là chủ thể của hội nhập và được hưởng thành quả từ hội nhập. Duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao đi liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng. Giữ
vững ổn định chính trị, kinh tế-xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ môi trường
sinh thái. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của
Nhà nước, Mặt trận Tổ qưốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng và phát hưy quyền làm
chủ của nhân dân, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong tiến trình

109 Theo Nghị quyết số 23-NỌ/TW của Bộ Chính trị Khóa X.


hội nhập kinh tê quôc tê.
Trung ương nhấn mạnh, vào WTO phải giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Coi hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn
dân; giữ vững ổn định chính trị, kinh tế-xã hội; giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; bảo vệ
môi trường sinh thái. Gắn khai thác với sử dụng có hiệu quả cao nội lực và các nguồn lực
bên ngoài. Đẩy nhanh nhịp độ cải cách thể chế, cơ chế, chính sách kinh tế. Giữ vững, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức khác trong hệ thống chính
trị khi hội nhập quốc tế.
về đối ngoại, thành tựu nổi bật sau 5 năm (2006-2010) là đã mở rộng và ngày càng
đi vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại, góp phần tạo ra thế và lực mới, giữ vững ốn định
chính trị và tạo được một môi trường quốc tế thuận lợi chưa từng có đế giữ vững hoà
bình, an ninh và mở rộng hợp tác, tranh thủ, vốn, kỹ thuật, trí thức, kinh nghiệm để phát
triển đất nước. Việt Nam đã trở thành thành viên 150 của tổ chức WTO'; đăng cai và tổ
chức thành công tuần lễ cao cấp APEC (Diễn đàn kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương) lần
thứ 14 (11-2006). Đen năm 2010, Việt Nam có quan hệ thương mại đầu tư với 230 nước
và vùng lãnh thổ, trong đó các đối tác lớn nhất là Trung Quốc với 25 tỉ USD thương mại
hai chiều, với Mỹ là 16 tỉ USD.
Iioàn thành phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền với Trung Quốc 2; bước đầu
đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc. Phát triển quan
hệ dặc biệt với Lào, tăng dày hệ thống mốc biên giới với Lào; hợp tác toàn diện và hoàn
thành một bước phân giới cắm mốc trên đất liền vói Campuchia. Ngoại giao văn hoá có
nhiều khởi sắc, nhiều công trình văn hóa được công nhận là di sản văn hoá thế giới 3.
Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quả tích cực; lượng kiều hồi gửi về
nước tăng tới 8 tỷ USD năm 2010. Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại;
sự phối hợp đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân về chính
trị, kinh tế và văn hoá đối ngoại chưa đồng bộ, có mặt còn hạn chế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Xỉ của Đảng bố sung, phát trỉến Cuơng lĩnh
1991
Đại hội XI của Đảng họp tại Hà Nội hợp từ ngày 12 đến ngày 19-1-2011, trong bối

1
WTO thành lập ngày 1-1-1995. Hiện nay WTO chiếm trên 95% thương mại toàn cầu, bao gồm tất cả các
nước phát triển trên thế giới. Sau một năm gia nhập WTO (2007), GDP của Việt Nam tăng 8,48%, xuât khẩu đạt
21,5%, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 20,3 tỉ USD.
2
Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc được ký kết năm 1999. Sau 8 năm thực hiện theo
phương châm “dễ trước, khó sau”, đến ngày 31-12-2008 đã hoàn thành. Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam-Trung
Quốc hoạch định đuửng biên giới trên đất liền rõ ràng và hiện dại, đặt nền tảng vũng chắc cho việc xây dụng đường
biên giới hòa bỉnh, hữu nghị, ổn định lâu dài, hợp tác và phát triển giữa hai nước.
3
Kinh đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn, Hocàng thành Thăng Long, Vịnh Hạ Long, cồng chiêng Tây Nguyên,
nhã nhạc cung đình Huế, hát quan họ Bắc Ninh,...

110 Theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (1-2008).


cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biển phức tạp. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là
xu the lớn, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ
diễn biến phức tạp. Thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng, suy thoái kinh tế toàn cầu, ô
nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu xảy ra nghiêm trọng trên toàn thế giới. Cả nước vừa
kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội với những thành tựu quan trọng nhưng còn nhiều
yếu kém cần được khắc phục. Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, kích động bạo
loạn, đẩy mạnh hoạt động “diễn biến hoà bình”.
Dự Đại hội có 1.377 đại biểu thay mặt cho 3,6 triệu đảng viên cả nước. Nội dung
nổi bật của Đại hội XI là thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược, phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020. Đại hội đã bầu
ra Ban chấp hành Trung ương gồm 60 ủy viên Trung ương chính thức, Bộ Chính trị gồm
14 người, đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội XI
thể hiện trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta, tiếp tục khẳng định, hoàn
thiện và phát triển đường lối đổi mới trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời /ọ) quả độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), gọi
tắt là Cương lĩnh năm 2011 có kết cấu bốn phần cơ bản giữ như Cương lĩnh năm 1991 có bổ
sung, phát triển nhận thức mới ở tiêu đề và nội dung từng phần.
Quá trình cách mạng Việt Nam và những bài học kinh nghiệm. Cương lĩnh năm 2011 có
diễn đạt mới về những thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó
là thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, bảo vệ Tổ quốc, lảm tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới.
Cách diễn đạt mới đảm bảo vừa trung thực với lịch sử, vừa cổ vũ niềm tự hào dân tộc và
phù họp với quan hệ đối ngoại trong tình hình mới. Ngoài ra còn bố sung ý nghĩa của
những thành quả do các thắng lợi trên mang lại và đánh giá tổng quát sai lầm, khuyết
điểm và nguyên nhân, thái độ của Đảng trước những sai lầm đó.
Cương lĩnh khẳng định những bài học kinh nghiệm lớn: Một là, nắm vững ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân
dân và V/ nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết, doàn kết toàn
Đảng, đoàn kết toàn dân, doàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh năm 2011 có sửa đổi hai từ bảo đảm bằng từ quyết định ở bài học thứ 5; bổ sung
vào nội dung phân tích ở bài học thứ hai: “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân
170 ^
dân, sẽ dẫn dến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội
chủ nghĩa và của Đảng”.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh mới diễn biến phức tạp.
về đặc điểm, xu thế chung: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá
trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Các mâu thuẫn co bản trên thế giới biếu hiện dưới
những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp,
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ biển đảo, tài nguyên, cạnh tranh
quyết liệt về kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Đông
Nam Á phát triển năng động những vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định.
Đánhgiávềchủnghĩaxãhội: Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã dạt những thành tựu
to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và cách mạng thế giói, góp
phần quan trọng vào cuộc đấu tranh hoả bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
“Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào
cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có
Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành đuợc
những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có
những bước hồi phục”111.
Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một
chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy
ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao
động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Các nước đang phát triển, kém phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn,
phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược dế bảo vệ
độc lập, chủ quyền dân tộc.
Những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là gìn giữ
hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự bùng no về dân
số, phòng ngừa và đẩy lùi bệnh tật hiểm nghèo. Ớ đây bổ sung hai vấn đề là chống khủng
bố và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
Đặc điểm nổi bật hiện nay của thời đại là: các nước có chế độ chính trị và trình độ
phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích

171 d—
111 Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc lơn thửXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, trang 68.
quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những
bước tiến mới. “Theoquyluậttiếnhoácủalịchsử,loàingườinhấtđịnhsẽtiếntớichủnghĩaxãhội”112.
về mô hình, mục tiêu, phương hướng cơ bản
Cương lĩnh năm 2011 nêu rõ “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm dà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo; có quan hệ hữu nghị và họp tác với các nuức trên thế giới”113.
Trong các đặc trưng, ngoài đặc trưng “Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” không đổi, Cương lĩnh năm 2011 có bổ sung hai đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Các đặc trưng
khác diễn đạt mới rõ hơn, không chỉ là thay đổi từ ngữ mà chứa đựng những nội dung
mới, với ý nghĩa phù hợp hon với mục tiêu khi nước ta đã xây dựng xong chủ nghĩa xã
hội.
Cương lĩnh năm 2011 nhấn mạnh, quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là quá
trình cách mạng sâu sắc, triệt để, dấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự
biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen.
Sau khi chỉ rõ những thuận lợi cơ bản, Cương lĩnh năm 2011 xác định mục tiêu tổng
quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế
của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù họp,
tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc. Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI là xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp
hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

112 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứXI, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, trang 69.
113 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biếu toàn quốc lần thửXI, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, trang 70.
Cương lĩnh năm 2011 chỉ rõ tám phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội
ỏ’ nước ta: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gẳn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hailà, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Balà, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn
là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực
hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Támlà, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Cưo'ng lĩnh năm 2011 bổ sung cần nắm vững và giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn:
Quan hệ giữa đổi mới, ốn định và phát triển; giữa đối mới kinh tế và đổi mới chính trị;
giữa kinh tế thị trường và định hưcmg xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất
và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc
tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Những định hướng lớn về phát triển lành tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng', an ninh,
đoi ngoại
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phàn kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận họp thành quan trọng của nền
kinh tế, bình đang trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố
và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền
kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”114.
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu
kinh tế họp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có
tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày
càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây

114 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đụi biểu toàn quổc lần thử XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, trang 73.
dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa các vùng, miền. Xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, trở thành
nền tảng tinh thần vững chắc. Kê thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây
dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con
người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thầm mỹ ngày càng cao.
Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, là chủ thể phát triển. Xây dựng
con ngưừi Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri
thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân
chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã
hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách.
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con
người Việt Nam. Coi phát triển giáo dục và đào tạo cùng vó'i phát triển khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất
lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế,
phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dụng xã hội học
tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân học tập suốt đời.
Nghiên cứu và ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại
trên thế giới. Hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng
nhân tài đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ.
Bcảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội
và của mọi công dân. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với
khôi phục và bảo vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất và tiêu
dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo, thực hiện các giải pháp ứng phó với biến đối
khí hậu và thảm hoạ thiên nhiên.
Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ; khuyến khích tăng thu nhập và làm giàu
dựa vào lao động; thiết lập hệ thống đồng bộ, đa dạng về bảo hiểm và trợ cấp xã hội; hạn
chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội. Bảo đảm quy mô hợp lý,
cân bằng giới tính và chất lượng dân số.
Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân
cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh
174 n/
cả về số lượng và chất lượng. Xây dựng, phát huy vai trò chủ thể của giai cấp nông dân
trong qưá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đào tạo, bồi dưỡng, phát huy mọi tiềm
năng và sức sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo nguồn trí tuệ và nhân tài cho đất nước.
Xây dựng đội ngũ những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi, có trách nhiệm
xã hội, tâm huyết với đất nước và dân tộc. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ kế tục
xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thực hiện bình đẳng giới và hành
dộng vì sự tiến bộ của phụ nữ. Quan tâm thích đáng lợi ích và phát huy khả năng của các
tầng lớp dân cư khác. Hỗ trợ đồng bào định cư ở nước ngoài ốn định cuộc sống, giữ gìn
bản sắc dân tộc, chấp hành tốt pháp luật các nước sở tại, hướng về quê hương, tích cực
góp phần xây dựng đất nước. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
đỡ nhau giữa các dân tộc, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc
Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sác văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các
dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số. Tôn trọng
và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân
theo quy định của pháp luật.
Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tố quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo dảm an ninh quốc gia
và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Phát
triển đường lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh
nhân dân. Chủ dộng, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Tăng cường sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của
Nhà nước đối với Quân đội, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh.
Thực hiện nhất quán đưcmg lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; da phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng
cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, dộc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các
lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật,
được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì

175
ár—
nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối họp và kiểm soát giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban
hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong
sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã
hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt
động theo nguyên tắc tự nguyên, hiệp thương dân chủ, phối họp và thống nhất hành động
giữa các thành viên.
về Đảng Cộng sản Việt Nam, bổ sung cách diễn đạt bản chất của Đảng: Đảng Cộng
sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Cương lĩnh năm 2011 tiếp tục khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi
soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Cương lĩnh năm 2011 bổ sung, làm rõ phương thức lãnh đạo của Đảng: Đảng Cộng
sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo bàng cương lĩnh, chiến
lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bàng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tả chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những
đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo
của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động
trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế dộ trách nhiệm cá nhân, nhất là
176 f\
người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo,
đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tố
chức khác trong hệ thống chính trị.
Làm rõ quan hệ Đảng với nhân dân: Đảng gan bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự
giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
về xây dựng Đảng: Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tố chức; thường
xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo dức và năng lực lãnh đạo.
Cương lĩnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về lý luận và thực tiễn, là sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; thế hiện nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con
dường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh là cơ sở đoàn kết, thống nhất giữa tư
tưởng với hành động của toàn Đảng, toàn dân, là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, định hướng
cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong những thập kỷ tới. Thực
hiện thẳng lợi Cưong lĩnh nảy, Việt Nam nhất định trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
phồn vinh, hạnh phúc.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Đại hội nhấn mạnh:
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến
lược. Đổi mới đồng bộ, phù họp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cồng bằng, văn minh”. Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố
con người. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất
với nền kinh tế thị trưòng định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế dộc lập, tự
chủ ngày càng cao.
Ba đột phá chiến lược: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đắng và cải cách hành chính. Phát triển
nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đối mới
căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị
lớn.
Định hướng phát triển kinh tế-xã hội: Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế;
thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước
với thị trường; hoàn thiện bộ máy nhà nước, chuyến mạnh về cải cách hành chính;

177
4—
đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng bộ mcáy nhà nước.
Đại hội XI đã kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết đại hội X; nhìn lại 10 năm
thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, 20 năm thực hiện Cương lĩnh
năm 1991 và nêu ra những kinh nghiệm mới: Một là, trong bất kỳ điều kiện, tình huống
nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng
và phát triển bền vững. Ba là, phải coi trọng việc kết họp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nămlà, trong công tác lãnh đạo và chỉ dạo phải rất nhạy bén,
kiên quyết, sáng tạo.
về đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; về hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, kinh tế tri thức, coi trọng bảo vệ môi môi trường, chủ động phòng, chống
thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu; củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn
hoá lành mạnh, phong phú, đa dạng; thực hiện có hiệu quả tiến bộ, công bằng xã hội, bảo
đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng cường quốc
phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; thực hiện nhất
quán là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc; đẩy mạnh việc xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, nâng cao năng lực lãnh dạo và sức chiến đấu của Đảng.
Trong 5 năm 2011-2016, Trung ương Đảng đã tập trung chỉ đạo thực hiện những
vấn đề quan trọng, nổi bật:
Trước thực trạng hệ thống kết cấu hạ tầng ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc
hậu, thiếu đồng bộ, kém tính kết nối, hiện đang lả điểm nghẽn của quá trình phát triển;
thực hiện một trong những đột phá của Chiếnlượcpháttriểnkinhtế-xãhội2011-2020, Hội nghị Trung
ương 4 (1-2012) chủ trương xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhàm đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 \ Trung ương nhấn
mạnh quan điểm: Quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phải hiện
đại, đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng và từng địa phương, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực của
xã hội, bảo đảm lợi ích hợp lý để thu hút các nhà đầu tư, kể cả các nhà 115

115 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chắp hành Trung ương khỏa XI, Nxb Chính
jrị quốc gia, Hà Nội, 2012, trang 57.
đầu tư nước ngoải vào phát triến kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội. Phát triển kết cấu hạ tầng
là sự nghiệp chung, vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của toàn xã hội, mọi người dân đều
có trách nhiệm tham gia đóng góp, trước hết là trong thực hiện chính sách đền bù, giải
phóng mặt bằng; bảo đảm lợi ích hài hoà giữa Nhà nước, người dân và nhà đầu tư. Phát
triển hệ thống kết cấu hạ tầng phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh; thu
hẹp khoảng cách vùng, miền; gắn với tiết kiệm đất canh tác, bảo vệ môi trường, tăng
trưởng xanh và ứng phó với biến đối khí hậu.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7, khóa IX (3-2003), việc thực hiện chính sách,
pháp luật về dất dai đã thu được nhiều kết quả tích cực. Tuy vậy, công tác quản lý nhà
nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi
thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư, các thủ tục hành chính về đất đai.
Việc sử dụng đất nhiều nơi còn lãng phí, hiệu quả thấp; tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh
vực này còn lớn; tình hình khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai còn diễn biến phức tạp.
Hội nghị Trung ương 5, khóa X (5- 2012)1 đã khẳng định: Đất đai là tài nguyên quốc gia
vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản, nguồn lực to lớn của đất nước, là
nguồn sống của nhân dân ta; quyền sử dụng đất là hàng hoá đặc biệt. Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Người sử dụng đất
được Nhà nước giao dất, cho thuê đất để sử dụng ốn định lâu dài hoặc có thời hạn. Nhà
nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng
trong quá trình thực hiện các chính sách đất dai; không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông
nghiệp đã giao cho hộ gia đình, cá nhân. Đất đai được phân bổ hợp lý, sử dụng đúng mục
đích, tiết kiệm và có hiệu quả cao; bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài, bảo vệ môi
trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước, nâng cao chất lượng
và bảo vệ đất canh tác nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Chính sách,
pháp luật về đất đai phải bảo đảm sự quản lý nhà nước chặt chẽ, thống nhất của Trung
ương; dồng thời phân cấp phù hợp cho địa phương, có chế tài xử lý nghiêm minh các
hành vi vi phạm; chính sách, pháp luật về đất đai góp phần bảo đảm ốn định chính trị-xã
hội, phát triển kinh tế-xã hội bền vững, củng cố quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế.
Trung ương Đảng nhất trí ban hành Kết luận về tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung
ương 7 (khoá IX) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các doanh nghiệp nhà nưcýc đã được sắp xếp lại một bước, góp phần để kinh tế nhà
nước thực hiện vai tr chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội và nhu cầu của quốc
phòng, an ninh. Tuy nhiên, việc sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vân kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2012, trang 79.
179 ^—
chậm, chưa chặt chẽ; trình độ công nghệ lạc hậu, quản trị doanh nghiệp còn nhiều yếu
kém, hiệu quả thấp. Cơ cấu ngành, lĩnh vực chưa hợp lý, dàn trải, đầu tư ra ngoài ngành
kém hiệu quả. Một số doanh nghiệp vi phạm pháp luật nghiêm trọng, gây thất thoát, lãng
phí lớn vốn và tài sản nhà nước. Hội nghị Trung ương 6, khóa X (5-2012) ban hành Kết
luận về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước 1. Quan điểm
của Trung ương là: Doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, là
lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ hỗ trợ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn
định kinh tế vĩ mô. Doanh nghiệp nhà nước phải tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao
hiệu quả. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhả nước, tập trung vảo các ngành, lĩnh vực then chốt,
địa bàn quan trọng. Chấm dứt tình trạng dầu tư dàn trải ngoài ngành. Khẩn trương bổ
sung, hoàn thiện thể chế quản lý, mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh
nghiệp nhà nước. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo
đức, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các doanh nghiệp.
Tiềm lực kinh tế tăng lên, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, kiểm soát được lạm phát.
GDP tăng bình quân 5,9%, bình quân thu nhập 2.109 USD....
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Bộ Chính đã Ban hành Chỉ thị số 03 (5-
2011) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Mục đích là phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, tiếp tục làm cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn
của tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh; tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng
hơn nữa về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống và các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực; góp phần thực hiện tháng lợi Nghị quyết Đại hội
XI của Đảng. Liên tục từ năm 2011 đến năm 2015,, Trung ương đã tổ chức học tập theo
các chủ đề khác nhau về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tập trung vào việc phấn đấu
rèn luyện đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy,
trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị; học tập và làm theo
phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương; nêu cao trách nhiệm gương mẫu của cán bộ,
đảng viên; nêu cao tinh thần trách nhiệm chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm,
trung thực, trách nhiệm; gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh.
Đảng đã có nhiều chủ trương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đã đạt được nhiều kết
quả tích cực. Công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thử sáu Ban Chấp hành Trung ương khỏa XI, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà NỘI, 2012, trang 125.

180
những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm
sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với
vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Hội nghị Trung ương 4, khóa XI (1-
2012) đã ban hành Nghị quyết: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay 1.
Nghị quyết chỉ rõ tập trung cao độ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng: 1) Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đấy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết
là cán bộ lãnh dạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng. 2) Xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 3) xác định rõ thẩm quyền,
trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ
quan, đơn vị; tiếp tục đối mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong ba vấn đề trên, vấn
đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.
Đảng đã có nhiều chủ trương phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Dù có những
chuyến biến tích cực cả về nhận thức, hành động và đạt được những kết quả bước đầu
nhưng công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt yêu cầu và mục tiêu đề
ra. Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng với những biểu hiện tinh vi, phức tạp,
xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, nhất là trong các lĩnh vực..., gây bức
xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước. Hội nghị Trung ương 4, khóa XI (1- 2012) đã đưa ra kết luận tiếp tục tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trung ương xác
định phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, phải thực hiện
thường xuyên, có hiệu quả. Trung ương chỉ rõ cần tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách: 1) Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh dạo, quản lý các cấp dế nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.
2), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 3) Xác định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập
thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong ba vấn dề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.
Trung ương quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thử tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2012, trang 20.

181 Â
trực thuộc Bộ Chính trị do Tổng Bí thư làm Trưởng ban; lập lại Ban Nội chính Trung
ương là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng.
Sau một năm kiểm điểm, tự phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4, Hội nghị
Trung ương 6 (10-2012) đã đánh giá kết quả kiểm điếm tự phê bình, phê bình khẳng định
những thành tựu, ưu điểm, khuyết điểm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Mặc dù nhiều
khuyết điểm, hạn chế có từ các khoá trước, nhưng với trách nhiệm chính trị của cơ quan
lãnh đạo hiện nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nghiêm túc tự phô bình và thành thật nhận
lỗi trước Ban Chấp hành Trung ương đã không ngăn chặn, đẩy lùi được tình trạng tham
nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong dó có những cán bộ cấp cao
của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương đánh giá rất cao sự nghiêm túc, gương mẫu và cầu
thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Kinh nghiệm lịch sử Đảng ta cho thấy, một khi Đảng tự
nhận ra sai lầm, khuyết điểm và tự nghiêm khắc, quyết tâm khác phục, sửa chữa thì sức
mạnh của Đảng càng được nâng lên; nhân dân càng tin yêu và ủng hộ Đảng, càng phấn
đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đã đề ra.
Trung ương đã quyết định tái lập Ban Kinh tế Trung ương và Ban Nội chính Trung
ương; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Trung
ương Đảng có ý kiến chỉ đạo về sửa đổi Hiến pháp năm 1992; kết luận những vấn đề cơ
bản cần đảm bảo là kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc về bản chất của chế độ chính
trị và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, và trong thời kỳ đổi mới, Đảng luôn quan tâm,
có nhiều chủ trương lãnh đạo công tác dân vận. Trên thực tế, công công tác dân vận đã
đạt được những kết quả quan trọng, tuy nhiên nhưng còn nhiều khuyết điểm, yếu kém.
Hội nghị Trung ương 7 (5- 2013) chủ trương tăng cường và đổi mới sự lãnh dạo của Đảng
đối với công tác dân vận trong tình hình mới 1. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là:
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân là chủ, nhân
dân làm chủ. Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng
lợi ích thiết thực của nhân dân; kết họp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi dôi với nghĩa
vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với
bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì
hết sức tránh. Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác
xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bày Ban Chấp hành Trung ương khóa Xỉ, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2013, trang 59.

18
2
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thử sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2012, trang 74.

183
theo. Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các doàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực
lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn
thể làm tham mưu và nòng cốt. Nhà nước tiếp tục thế chế hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành quy chế, quy định đế các tổ chức trong hệ
thống chính trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ
trang thực hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân phải phong phú, dạ
dạng, khoa học, hiệu quả.
Trung ương đã kết luận về việc tiếp thu ý kiến nhân dân, hoàn thiện bản Dự thảo sửa
đổi Hiến pháp năm 1992 với tinh thần nghiêm túc, chân thành, tiếp thu tối đa những ý
kiến hợp lý của nhân dân; kiên trì những vấn dề có tính nguyên tắc về bản chất của chế độ
chính trị và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Ban hành Hiến pháp năm 2013.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (năm 1996) và các chủ trương của
Đảng, Nhà nước, khoa học và công nghệ nước ta đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, đóng
góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, hoạt động khoa học
và công nghệ nhìn chung còn những yếu kém, bất cập, chưa thực sự trở thành động lực
phát triển kinh tế-xã hội. Trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, toàn
cầu hoá và kinh tế tri thức đã và đang đặt ra những yêu cầu mới. Hội nghị Trung ương 6
(10-2012) ra Nghị quyết về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế1. Chỉ tiêu phấn đấu: đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam
đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á); đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới; tiềm lực khoa
học và công nghệ đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Quan điếm chỉ đạo: Phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất đế phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ
Tổ quốc; là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt
động của các ngành, các cấp. Sự lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, tài
năng, tâm huyết của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đóng vai trò quyết định thành
công của sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ.
Tiếp tục đối mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động,
công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ; phương thức
đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và
công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đầu tư cho nhân
lực khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và
sức mạnh của dân tộc. Đảng và Nhà nước có chính sách phát triển, phát huy và trọng
dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ. Ư’u tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc
gia cho phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích
các thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học
xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng
dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới
ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là nguồn cầu quan trọng nhất của thị trường khoa
học và công nghệ. Quan tâm đúng mức đến nghiên cứu cơ bản, tiếp thu và làm chủ công
nghệ tiên tiến của thế giới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế để cập nhật tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn
lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia
các dự án khoa học và công nghệ của Việt Nam. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
để sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước
làm việc.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà
nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tố quốc. Giáo dục và đào tạo đã
bộc lộ những hạn chế, yếu kém, chất lượng, hiệu quả còn thấp so với yêu cầu, có những
vấn đề gây bức xúc xã hội kéo dài. Nhiều chính sách, cơ chế, giải pháp về giáo dục có
hiệu quả trong giai đoạn vừa qua, nay đã không còn phù hợp, cần được điều chỉnh.
Hội nghị Trung ương 8 (11- 2013) đã ra Nghị quyết “về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Cái mới của Nghị quyết
này không chỉ ở nhận thức mà cả trong chỉ đạo thực tiễn phải coi giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan
điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều
kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh dạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến
hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng
đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trung ương
đã nêu ra các nhiệm vụ và giải pháp nhằm chuyến mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ. Đổi
mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình dộ và
giữa các phương thức giáo dục, dào tạo. Thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa,
xã hội hóa giáo dục và đào tạo. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục
và đào tạo đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và
bản sắc dân tộc.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về văn hoá, đất nước đã đạt những
thành tựu rất nổi bật về phát triển văn hóa. Những kết quả đạt được trong xây dựng và
phát triển văn hoá chưa tương xứng với yêu cầu và chưa vững chắc; thiếu sự gắn bó chặt
chẽ giữa văn hoá với kinh tế, chính trị; giữa các lĩnh vực của văn hoá; chua tác động mạnh
mẽ đến phát triển kinh tế-xã hội, đến xây dựng con người. Trong bối cảnh tình hình trong
nước, quốc tế; sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin, truyền thông; quá trình toàn cầu hoá, trong đó có toàn cầu hoá về văn hoá đã và
đang đặt ra những yêu cầu mới.
Hội nghị Trung ưong 9, khóa XI (5-2014) nêu chủ trương tiếp tục xây dựng và phát
triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước 1. Quan
điểm chỉ dạo của Trung ương: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động
lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị,
xã hội.Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất
trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây
dựng con người dể phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây
dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa,
chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng; phát triển hài hòa giữa kinh tế, văn hóa và xây
dựng con người mới. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan
trọng. Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan
trọng.
Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách
xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực dế phát triển bền vững, ổn định chính trị-
xã hội, thế hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Kết quả là các lĩnh vực xã hội đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, nước ta được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc
gia đi đầu trong việc thục hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ. Lĩnh vực xã hội vẫn còn
nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém kéo dài, chậm được khắc phục. Hội nghị Trung ương
5 (5-2012) đã chủ trương giải quyết một số vấn dề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-

1
Đàng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính
trị quốc gia, Hcà Nội, 2014, trang 574.

187
20201 với quan điểm chỉ đạo là: Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của người có công và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Chính sách ưu đãi
người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội và khả
năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có
công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số.
Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và
người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững,
công bằng. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai trò
chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội; dẩy mạnh xã hội hóa,
khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia; tạo điều kiện dể người
dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm
nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Trong những năm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công tác ứng phó với
biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã được
quan tâm, có bước chuyển biến và dạt được một số kết quả bước đầu quan trọng. Việc
ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày cảng bất thường, gây
nhiều thiệt hại về người và tài sản; tài nguyên chưa được quản lý, khai thác, sử dụng có
hiệu quả và bền vững, một số loại tài nguyên bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn
kiệt; ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, có noi nghiêm trọng.
Hội nghị Trung ương 7 (6-2016) đã ra Nghị quyết về chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đây lả những vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết
định sự phát triển bền vững của đất nước. Trung ương đã nêu ra các quan điểm, mục tiêu
chung, mục tiêu cụ thể, nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp để chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường từ nay đến năm
2000 và nhấn mạnh phải trên cơ sở phương thức quản lý tổng họp và thống nhất, liên
ngành, liên vùng; được đặt trong mối quan hệ toàn cầu; không chỉ là thách thức mà còn
tạo cơ hội thúc đẩy chuyển đổi 1Ĩ1Ô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Tài
nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt quan trọng để phát
triển đất nước phải được đánh giá đầy đủ các giá trị, định giá, hạch toán trong nền kinh tế,
được quản lý, bảo vệ chặt chẽ; khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững, gắn
với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
Trên cơ sở phân tích bối cảnh hiện nay, dự báo xu hướng phát triển của tình hình

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khỏa XI, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2012, trang 103.

188
quốc tế, khu vực và trong nước nhưng những năm tới; chỉ rõ thành tựu, hạn chế, nguyên
nhân chủ quan của những hạn chế, thiếu sót trong 10 năm thực hiện thực hiện Nghị quyết
Trung ưong 8 khóa IX về Chiến lược báovệ Tổ quốc, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (10-2013)
đã ra Nghị quyết “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” với những quan điểm
mới: Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tố quốc; xây dựng
sức mạnh tổng hợp; phát huy nội lực kết hợp với ngoại lực. Ket hợp chặt chẽ giữa chiến
lược vả sách lược tạo sự đồng thuận cao của nhân dân ta ở trong nước và nước ngoài;
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ cao nhất của dư luận quốc tế. Đặc biệt coi trọng mối quan
hệ giữa yếu tố bên trong với bên ngoài, đoàn kết toàn dân tộc. Trên cơ sở mục tiêu, quan
điểm đó đó Trung ương đã nêu ra phương châm chỉ đạo và một số giải pháp chủ yêu mục
tiêu chung, mục tiêu cụ thể, nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp đế thực hiên Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian qua, hoạt động
đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Môi
trường hòa bình thuận lợi cho phát triển, dộc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ tiếp tục được giữ vững. Quan hệ dối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều
sâu. Quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN được củng cố. Đen năm
2015, nước Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước 1; đối tác toàn
diện với 10 nước; đối tác chiến lược lĩnh vực với Vương quốc Hà Lan.
Ngoại giao kinh tế đã góp phần tích cực thúc đấy quan hệ kinh tế-thương mại-đầu tư
với các đối tác, thu hút các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế của đất nước.
Đến năm 2012 có 36 nước công nhận qưy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Nhóm các
nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2011 dã cam kết tài trợ 7,39 tỷ USD. Năm 2012, số lượng
doàn lãnh dạo cấp cao Việt Nam di thăm các nước, lãnh dạo cấp cao của các nước vào
thăm Việt Nam tăng mạnh với 31 đoàn, gấp 4-5 lần so với các năm.
Hoạt động ngoại giao của Việt Nam trên các diễn đàn đa phương như là APEC,
ASEM, đặc biệt là trong ASEAN được triển khai một cách tích cực, thể hiện vị thế, vai
trò ngày càng tăng của Việt Nam. Ngoại giao văn hoá tiếp tục được triển khai mạnh mẽ 2.
Trong năm 2012, ASEAN và Trung Quốc đã xây dựng được Tuyên bố chung kỷ
niệm 10 năm Tuyên bố về úng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và ASEAN đã ra
1
Đối tác chiến lược với 15 nước: Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Ẩn Độ, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Anh, Đức.
Italia, Inđônêxia, Thái Lan, Xingapo, Pháp, Malaixia, Philíppin. Đối tác toàn diện với 10 nước: Nam Phi, Chilê,
Brãin, Venêxuêla, Ôxtrâylia, Niu Di lân, Áchentina, Ucraina, Mỹ, Đan Mạch.
2
Năm 2011, UNESCO đã công nhận các di sản Thành Nhà Hồ, Thanh Hoá, Khu Dự trữ sinh quyển Đồng
Nai, hát xoan Phú Thọ... Năm 2012, nổi bật là việc UNESCO công nhận tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Hát xoan
(Phú Thọ) là Di sản văn hoá phi vật thế đại diện cùa nhân loại và mộc bản kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư
liệu thế giới.
được tuyên bố 6 điểm về vấn đề Biển Đông. Đó là cơ sở pháp lý duy trì môi trưò‘ng hoà
bình, ổn định ở Biển Đông và giải quyết vấn dề Biển Đông trên cơ sỏ’ luật pháp quốc tế.
Đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai
đồng bộ, hiệu quả, có bước phát triển mới. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao.
Đại hội đại biển toàn quốc lần thứ XII, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đằng bộ công
cuộc đổi mới, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
Đại hội XII của Đảng họp từ ngày 21 đến 28-1-2016, trong bối cảnh tình hình thế
giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường. Đất nước đã qua 30 năm đổi mới,
thế và lực tăng lên rõ rệt, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn,
thách thức gay gắt.
Chủ đề của Đại hội là: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn
đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện dại”.
Dự Đại hội có hơn 1.510 đại biểu thay mặt cho 4,6 triệu đảng viên trong toàn Đảng.
Đại hội đã tổng kết 30 năm đổi mới, bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 180 ủy
viên Trung ương chính thức, 20 ủy viên dự khuyết; Bộ Chính trị có 19 đồng chí, đồng chí
Nguyễn Phú Trọng được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội XII của Đảng là Đại hội “Đoàn kết-Dân chủ-Kỷ cương-Đổi mới”, tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ
xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội XII đã kiểm điểm, đánh giá thành quả quan trọng, nhũng hạn chế, yếu kém
trong 5 năm thực hiện Nghị quyết đại hội XI (2011-2015); tồng kết 30 năm đổi mới
(1986-2016) và nêu mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2021.
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Đại hội XII rút ra một số kinh nghiệm
sau: Một là, trước những khó khăn, thách thức trên con đường đổi mới, phải hết sức chú
trọng công tác xây dụng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; phải phát huy dân chủ, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hailà, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật, bám sát thực tiễn của đất nước và thế giới; đồng thời nắm bắt, dự báo
những diễn biến mới để kịp thời xác định, điều chỉnh một số chủ trương, nhiệm vụ, giải
pháp cho phù hợp. Balà, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm
188
vụ phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa-
nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên. Bốn là, kiên trì thực hiện các mục tiêu lâu dài, các nhiệm vụ cơ bản, đồng
thời tập trung các nguồn lực thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, giải
qưyết dứt điểm những yếu kém, ách tắc, tạo đột phá để giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ
phát triển; phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu phát triến đất
nước. Năm là, chủ động, tích cực hội nhập qưốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, lấy
lợi ích quốc gia-dân tộc làm mục tiêu cao nhất, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Đại hội, nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020,
các nhiệm vụ chủ yếu trên các lĩnh vực: Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh
tế, đấy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hoàn thiện thể chế, phát triền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực. Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Xây dựng,
phát triển văn hoá, con người. Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội. Quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu. Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng và hoàn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội XII nhấn mạnh trong nhiệm kỳ XII, cần đầy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền
vững; đặc biệt chú trọng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có kết quả sáu nhiệm vụ
trọng tâm:
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm
chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Chú trọng xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và dạo đức.
Xây dựng tố chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao
động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến

189
lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản
và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ
nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với
xây dựng nông thôn mới. Chú trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước, cơ cấu lại ngân sách nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giũ’ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều
sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội
nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên
trường quốc tế.
Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường
quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã
hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Phát huy nhân tố con ngưò'i trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây
dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh.
Sau Đại hội XII, Trung ương đã tiếp tục chỉ đạo đôi mới những lĩnh vực trọng yếu:
Trong thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới
1Ĩ1Ô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đã thực hiện và đạt được kết quả bưó’c đầu.
Mô hình tăng trưởng về cơ bản vẫn theo mô hình cũ, chậm được đổi mới; tăng trưởng vẫn
chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và số lượng lao động, chưa dựa nhiều vào tăng năng suất
lao động, ứng dụng khoa học-công nghệ. Hội nghị Trung ương 4, khóa XII (10-2016) đã
ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng,
năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế1.
Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là: Nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển nhanh và bền vững toàn diện về cả
kinh tế, xã hội và môi trường. Chú trọng và ngày càng dựa nhiều hơn vào các nhân tố
thúc đẩy tăng năng suất lao động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là phát huy
tinh
thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, trí sáng tạo của con người Việt Nam và thành
tựu khoa học-công nghệ của nhân loại, mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các
địa phương và cả nước. Gắn kết chặt chẽ với thực hiện ba đột phá chiến lược, CO' cấu lại
nền kinh tế với trọng tâm ưu tiên là: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế; cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, thuận lợi cho khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo,
nghiên cứu và triển khai ứng dụng khoa học-công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, trọng dụng nhân tài. Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới; cơ cấu
lại đầu tư công; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; cơ cấu lại hệ thống các tố chức tín
dụng; cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công; cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công.
Nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế là
nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, có ý nghĩa quyết định đối với thực hiện mục tiêu phát triến
nhanh và bền vững dất nước. Trung ương đã đưa ra những định hướng lớn, những nhiệm
vụ và giải pháp để tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế trong thời kỳ
mới.
Việc thực hiện đường lối của Đảng về hội nhập quốc tế đã dem lại những thành tựu
quan trọng trong tất cả các lĩnh vực nhưng trong thực hiện các cam kết quốc tế mới với
quốc tế sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cả về kinh tế, cả về chính trị, xã hội; sức ép
cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhiều ngành, doanh nghiệp và sản phẩm của nước ta sẽ gặp
khó khăn hơn. Hội nghị Trung ương 4, khóa XII (10-2016) đã chủ trương ‘Thực hiện hiệu
quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị-xã hội trong bối cảnh
nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” 1. Quan điểm chỉ đạo của
Trung ương là: Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương
hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích quốc gia-dân
tộc là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập kinh tế quốc
tế là trọng tâm của hội nhập quốc tế; hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi
cho hội nhập kinh tế quốc té. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; doanh
nhân, doanh nghiệp, đội ngũ trí thức là lực lượng đi đầu. Bảo đảm đồng bộ giữa dổi mới
và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách; chủ động xử lý các vấn đề nảy sinh; giám sát chặt chẽ và quản lý hiệu
quả quá trình thực hiện cam kết trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhất là
trong những lĩnh vực, vấn đề liên quan đến ổn định chính trị-xã hội. Bảo đảm sự lãnh đạo
tuyệt đối của Đảng đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ốn định chính trị-
xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng
cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và

' Đẳng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thử tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2016, trang 79.
các tổ chức chính trị-xã hội; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc
tế.Trung ương đã xác định mục tiêu, chủ trương, chính sách chung, chính sách cụ thể để
thực hiện hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện đường lối đổi mới sau hoìi 30 năm đổi mới, Đảng luôn chú trọng công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, rút ra các kinh nghiệm và bài học, tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan
trọng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập trung
bình, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ
chế, chính sách còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; còn có biểu hiện lợi
ích cục bộ. Bất bình đẳng xã hội, phân hoá giàu-nghèo có xu hướng gia tăng.
Hội nghị Trung ương 5 (5-2017) chủ trương tiếp tục hoàn thiện thế chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa1. Quan điểm chỉ đạo của Trung ương là: Xây dụng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến
lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực đế phát triển nhanh và bền vững; đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh
tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù họp
với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Bảo đảm tính đồng bộ giữa các
bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế. Gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc
phòng, an ninh.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình phát
triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và
kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội. Hoàn thiện thể chế kinh tế di dôi với hoàn thiện thể chế chính trị
mà trọng tâm là đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy và
cán bộ. Có bước đi phù hợp, vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm để tiếp tục
hoàn thiện. Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của
Nhà nước, thị trường và xã hội phù họp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Hoàn thiện thể chế kinh
tế

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóaXII, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2017, trang 22.

19
3
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài
của cả hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng,
hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị
và của toàn xã hội trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trung ương đã đề ra mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể đến năm 2020, các nhiệm
vụ, giải pháp dể tiếp hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong tình hình mới.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX (8-2001), các doanh nghiệp nhà nưó‘c
tiếp tục sắp xếp, đối mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động. Vai trò của doanh
nghiệp nhà nước đối với nền kinh tế còn hạn chế; hiệu quả sản xuất kinh doanh và đóng
góp cho nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư; nợ nần,
thua lỗ, thất thoát lớn. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 5 (5-2017) chủ trương
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Quan
điểm chỉ đạo: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối ở những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa
bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà
nước; hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ
yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng và có vai trò nòng cốt, dẫn dắt phát
triển các với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Trung ương đã xác định
mục tiêu tống quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2020 và năm 2030 và đưa ra những nhiệm
vụ và giải pháp để tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước.
Trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX
“Ve tiếp tục đổi mới CO’ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế
tư nhân”, kinh tế tư nhân ở nước ta đã không ngừng phát triển, đóng góp ngày càng lớn
hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Việc triển khai thực
hiện các chủ trương, chính sách về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân còn hạn chế,
yếu kém. Hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát
triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Kinh tế tư nhân chưa đáp ứng được vai trò là một
động lực quan trọng của nền kinh tế. Vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh
trong kinh tế tư nhân còn khá phổ biến.
Nhằm tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân, Hội nghị Trung ương 5, khóa XII (5-2017)
chủ trương phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1. Quan điểm chỉ đạo của Trưng ương là: Phát
triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa
cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là một phương sách quan trọng đế giải phóng sức
sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể
cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ. Khuyến
khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với
tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỉ trọng đóng góp trong
GDP. Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư
nhân lành mạnh và đúng định hướng.
Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân, dồng thời tăng cường
kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn
chế mặt tiêu cực. Kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp
luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các
hộ kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức họp tác hoặc hoạt động
theo mô hình doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở
hữu và tư nhân góp vốn vào các tập doàn kinh tế nhà nước, có đủ khả năng tham gia
mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia
góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hoá hoặc Nhà nước
thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng
hoá, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiếp nhận,
chuyển giao, tạo sự lan toả rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao
giá trị gia tăng và 1TLỞ rộng thị trường tiêu thụ.
Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lục, tự
cường, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gan bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh nghiệp. Phát triển đội ngũ doanh nhân Việt
Nam ngày càng vững mạnh, có ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm với xã hội và kỹ
năng lãnh đạo, quản trị cao; chú trọng xây dựng văn hoá doanh nghiệp, đạo đức doanh
nhân.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020, đã có nhiều chuyển mới cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn về thực hiện Chiến

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ nơm Bơn Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2017, trang 88.
lược biển. Kinh tế biển, các vùng biển, ven biển đang trở thành động lực phát triển đất
nước.Việc thực hiện Chiến lược biển còn nhiều hạn chế, yếu kém và khó khăn, thách
thức; chưa gắn kết hài hoà với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Công tác bảo vệ an
ninh, an toàn, phối hợp tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, ứng phó với sự cố môi trường trên biển
còn nhiều bất cập.... Hội nghị Trung ương 8 (10-2018) để ra Chiến lược phát triển bền
vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng là: Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và
tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tố quốc. Biến là
bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ
giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam
phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biến, phát triển bền vững, thịnh vượng, an
ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an
ninh, giữ vững dộc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thố, tăng cường đối ngoại, hợp tác
quốc tế về biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Phát triển
bền vững kinh tế biển Việt Nam là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, là quyền và
nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và mọi người dân Việt Nam. Trung ương đã xác
định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và năm 204, một số chủ trương
lớn và khâu đột phá, các giải pháp để thực hiện Chiến lược biển tiếp tục phát triển phát
triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong nhiều năm tới
Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khoá XI về ‘Tiếp tục đẩy mạnh
học tập và làm theo tấm gưo'ng đạo đức Hồ Chí Minh” đã đạt được kết quả bước đầu, góp
phần quan trọng vảo việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng và công tác xây dựng Đảng. Việc học tập và làm theo tấm gương dạo
đức Hồ Chí Minh còn có những hạn chế, chưa trở thành việc làm thường xuyên, chưa
thành ý thức tự giác của không ít tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị và một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biếu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng, Bộ Chính trị khoá XII ban hành Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (5-2016) tiếp
tục dấy mạnh “Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, coi đây là nội dung
quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là
đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ.
Công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm về công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, về sinh hoạt đảng về năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng... Hội nghị Trung ương 4 (10-2016) ra Nghị quyết về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đấy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biếu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Trung ương đã chỉ rõ 27 biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ và đưa ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và
giải pháp thực hiện Nghị quyết, trong đó nhấn mạnh tinh thần kiên quyết, kiên trì thực
hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ dộng, sáng tạo và sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý,
người đứng đầu các cấp là nòng cốt. Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất
trong Đảng, trước hết là Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban
thường vụ cấp ủy các cấp.
Đảng đã ban hành và thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ
trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Tổ chức
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội từng bước được sắp
xếp, kiện toàn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ
thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn; bảo đảm vai trò lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân và đã đạt được những kết
quả quan trọng, góp phần vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới.
Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, kém hiệu lực,
hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức còn chồng chéo; cơ cấu bên trong chưa
họp lý; tổ chức bộ máy của khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, các don vị
sự nghiệp công lập chậm được đổi mới; tổ chức và biên chế ngày càng phình to; cơ cấu,
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn chưa họp lý. số người hưởng lương,
phụ cấp từ ngân sách nhà nước ở các đơn vị sự nghiệp công và người hoạt động không
chuyên trách cấp xã ngày càng nhiều...
Đảng đã có nhiều quyết sách đúng đắn về cán bộ và công tác cán bộ; kiên trì, kiên
quyết lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp, đạt được những
kết quả quan trọng. Nhờ đó, đội ngũ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều
mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề,
lĩnh vực công tác có sự cân đối, họp lý hơn. Đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ còn bộc lộ
không ít những hạn chế, yếu kém. Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị đông nhưng
chưa mạnh, tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi. Cơ cấu giữa các
ngành, nghề, lĩnh vực chưa thật sự hợp lý, thiếu sự liên thông giữa các cấp, các ngành;
thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành. Một số
cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược uy tín thấp, năng lực,
phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ; thiếu gương mẫu, chưa thật sự gắn bó mật thiết với
nhân dân; vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Tình trạng chạy chức,
chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội...
chậm được ngăn chặn và đẩy lùi.
Hội nghị Trung ương 7 khoá XII (5-2018) đã ban hành Nghị quyết tập trung xây
cỉựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ. Trung ương đã đưa ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp
thực hiện Nghị quyết, trong đó coi xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành
thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán
bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững. Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc
Đảng thống nhất lãnh dạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tố chức đảng, trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham
mưu của Đảng, CO’ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt.
Tháng 10-2018, Hội nghị Trung ương 8 của Đảng đã ban hành Quy định trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí
thư, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ngày 23-10-2018, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV đã bầu Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng giữ cương vị Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ
2016-2021.
Đảng, Nhà nước xác định sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân và của toàn
xã hội; chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân là công tác đặc biệt quan trọng,
liên quan đến mọi người, mọi nhà và dược cả xã hội quan tâm, có ý nghĩa chính trị, xã hội
và nhân văn sâu sắc, thể hiện bản chất ưu việt, tốt đẹp của chế độ ta. Trước yêu cầu mới
trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ nhân dân cũng bộc lộ không ít yếu kém, khuyết điểm, để xảy ra một số sự việc, sự
cố gây bức xúc xã hội.
Ngày 14-1-1993, Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã ban hành Nghị quyết
chuyên đề về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân. Năm
2005, Bộ Chính trị khóa IX cũng ra Nghị quyết về vấn đề này. Việt Nam được Tổ chức Y
tế thế giới đánh giá lả điểm sáng về thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ trong lĩnh vực
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe.
Hội nghị Trung ương 6 khoá XII (10-2017) đã ban hành Nghị quyết tăng cường
công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới và Nghị
quyết về công tác dân số trong tình hình mới1. Trung ương đã đưa ra mục tiêu, quan điểm,
nhiệm vụ và giải pháp thực hiện hai Nghị quyết này, trong đó nhấn mạnh việc bảo vệ,

1
Đảng Cộng sán Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thừ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2017, trang 130.

198 Â
chăm sóc và nâng cao sức khoẻ là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội, trong đó ngành y tế là nòng cốt. Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân là đầu tư cho phát triển.
Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội là một bộ phận rất quan trọng, có quan hệ
chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế-xã hội. Trong thời kỳ
đổi mới, Đảng, nhà nước ta đã có nhiều lần cải cách và từng bước hoàn thiện vấn đề này,
song vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Hội nghị Trung ương 7 ldioá XII (5-2018) đã ban
hành Nghị quyết cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực
lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp và Nghị quyết cải cách chính sách
bảo hiểm xã hội1.
Trung ương đã đưa ra mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp, trong đó nhấn
mạnh: Cải cách chính sách tiền lương phải bảo đảm tính tống thể, hệ thống, đồng bộ, kế
thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục có hiệu quả nhũng hạn chế; tuân thủ nguyên
tắc phân phối theo lao động và quy luật của kinh tế thị trường. Bảo hiểm xã hội là một trụ
cột chính của hệ thống an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là
trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị-xã hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.
3. Thành tựu, kinh nghiệm của công cuộc đổi mới
Công cuộc đối mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu
sắc, toàn diện, triệt để; là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Việt Nam đã đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử . Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp,
nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để dưa đất nước phát
triển nhanh và bền vững.
Thành tựu của sự nghiệp đối mới
Kinh tế tăng trưởng khá, thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn
định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh giá
là thuộc nhóm nước có mức tăng trưởng khá cao trên thế giới. Đất nước đã ra khỏi tình
trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Môi
trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Thời kỳ 2001-2005 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7,5% và hai năm 2006-

1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vãn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa Xỉ/, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2018, trang 101.
2010 tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 7%/năm; trong 10 năm 2001-2010 tăng trưởng
7,26% /năm, đạt mục tiêu chiến lược đã đề ra; GDP 5 năm 2011-2015 bình quân 5,9%;
năm 2018 đạt 6,7%. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh so với các nước trong khu vực và thế giới, trở thành nước đang phát triển có thu
nhập trung bình trên thế giới.
Năm 2010, GDP) đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (31,2 tỷ USD).
Năm 2008, GDP bình quân đầu người theo giá trị thực tế đã đạt 1.047 USD, năm 2010 đạt
1.168 USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2000. Chỉ số phát triển con người (HDI) của
Việt Nam năm 2007-2008 đạt 0,733, xếp hạng 100/177 quốc gia và lãnh thổ, thuộc nhóm
trung bình cao của thế giới. Năm 2018, GDP tăng trưởng đạt 7,08%, thu nhập bình quân
đầu người đạt hơn 2.500 USD.
Nen kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước hình thành và phát
triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được quan tâm xây dựng và
từng bước hoàn thiện. Tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã từng bước được thể chế hoá thành pháp luật, cơ chế, chính sách 116. Các hình
thức sỏ' hữu, thành phần kinh tế và chế độ phân phối đã phát triển đa dạng, từng bước
tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường và phù hợp với điều kiện của đất nước. Các
chủ thể kinh tế tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật, ngày càng
phát huy vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân. Các yếu tố thị trường và các loại thị
trường đang hình thành, phát triển, cơ bản đã có sự liên thông, gắn kết thị trường trong
nước với thị trường khu vực vả thị trường quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường thế giới.
Cơ sở vật chất, kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, đô thị được đầu tư xây dựng tăng lên đáng
kể, nhất là đường bộ, sân bay, bến cảng, cầu. Xây dựng các ngành công nghiệp hiện đại,
dầu khí, điện với các nhà máy thủy điện lớn Hòa Bình, Sơn La, Trị An, Tuyên Quang, Lai
Châu và nhiều nhà máy nhiệt điện.
Văn hóa-xã hội có bưó‘c phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có
nhiều thay đối. Trong 30 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành 29 nghị quyết, kết luận, chỉ
thị về văn hóa nói chung; về giáo dục, đào tạo; khoa học, công nghệ; báo chí, xuất bản,
văn học, nghệ thuật,... nói riêng. Những văn kiện đó đã thể hiện bước tiến về nhận thức lý
luận của Đảng về vẫn hóa. Bầu không khí xã hội dân chủ, cởi mở hơn; dân trí được nâng
cao; tính tích cực cá nhân và xã hội được phát huy. Những nhân tố mới, giá trị mới của
văn hóa, con người Việt Nam từng bước được định hình trong đời sống. Quyền tự do sáng

116 Trong 30 năm đổi mới, Quốc hội đã ba làn sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150
bộ luật và luật; Úy ban Thường vụ Quốc hội ban hành trên 70 pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển đổi và vận
tạo, quảng bá văn hóa, văn học, nghệ thuật được tôn trọng; quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và sinh hoạt tâm linh của nhân dân được quan tâm thực hiện. Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đòi sông văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới” và các phong trào xóa
đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa,... đạt được những kết quả tích cực. Nguồn lực của Nhà
nước, của xã hội đầu tư cho văn hóa được nâng lên; hệ thống thiết chế văn hóa từ Trung
ương đến cơ sở được xây dựng, từng bước hoàn thiện và phát huy tác dụng 117. Giao lưu,
họp tác và hội nhập quốc tế về văn hóa đưọ'c mở rộng. Sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn
hóa có tiến bộ; các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách về văn hóa, con người từng bước
được đổi mới, hoàn thiện; đội ngũ làm công tác văn hóa có bước trưởng thành.
Việc giải quyết các vấn đề xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng: Các chính
sách về lao động và việc làm của Nhà nước đã chuyển biến theo hướng ngày càng phù
hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mỗi năm bình quân tạo
ra 1,5-1,6 triệu việc làm mới. Đã tiến hành điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng thời kỳ phù
họp với điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước. Chỉ số phát triển con người tăng lên, từ
0,683 năm 2000 lên 0,733 năm 2008, xếp thứ 100/177 nước tham gia xếp hạng. Thu nhập
thực tế sau 10 năm gấp 3,5 lần so với năm 2000. Chênh lệch thu nhập giữa thảnh thị và
nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần năm 2008.
Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ. Đã hoàn thành phần lớn mục tiêu Thiên niên
kỷ do Liên hợp quốc đề ra cho năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 1,5-
2%/năm. Tỷ lệ nghèo của cả nước năm 1993 là 58% đến năm 2018 còn khoảng 6%. Đến
năm 2018, hơn 40% số xã đạt chuẩn nông thôn mới theo 19 tiêu chí Chính phủ đề ra. Việt
Nam đã đạt phổ cập trung học cơ sở. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam đã được
Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế công nhận, đánh giá cao. Chăm sóc sức khỏe nhân
dân đã có nhiều tiến bộ, coi trọng cả về xây dựng thể chế, y tế dự phòng, y học cổ truyền,
quản lý thuốc, khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính
sách ưu đãi người có công đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Cả nước hiện
có khoảng 8,8 triệu người có công, chiếm khoảng 10% dân số, có khoảng 1,4 triệu nguời
được hưởng trợ cấp thưcmg xuyên. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn
diện và đa dạng, ngày càng mỏ’ rộng và hiệu quả.
Giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Phát triển và ngày càng
hoàn thiện. Nhận thức ngày càng rõ hơn bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
một trong hai nhiệm vụ chiến lược, có mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời; trong
khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, phải đồng thời coi trọng nhiệm vụ bảo

hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
117 Đến 2016, cả nước có 7.484 di tích văn hóa cấp tỉnh, 3.202 di tích văn hóa cấp quốc gia; 48 di tích văn
hóa quốc gia đặc biệt, 8 di sàn văn hóa và thiên nhiên được UNESCO vinh danh là di sản thế giới; có gần 19.000 thư
viện các cấp; 154 bản làng văn hóa; 5.429 nhà văn hóa các cấp; 786 cơ quan báo chí với 1.016 ấn phẩm, 4 đài truyền
hình trung ương, 67 đài phát thanh - truyền hình tỉnh, thành phố.
vệ Tố quốc. Có xây dựng tốt mới tạo được sức mạnh cho bảo vệ Tố quốc, có bảo vệ tốt
mới tạo được điều kiện thuận lợi cho xây dụng đất nước. Nhận thức về kết hợp chặt chẽ
nhiệm vụ kinh tế với quốc phòng; quốc phòng với an ninh và đối ngoại ngày càng đầy dủ,
toàn diện hơn. Đảng khẳng định: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là
nhiệm vụ trọng yếu, thưòng xuyên. Nhận thức về vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về
mọi mặt của Đảng và quản lý của Nhà nước đôi với lực lượng vũ trang, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc ngày càng hoàn thiện. Nhận thức về đối ngoại quốc
phòng và hội nhập quốc tế về quốc phòng có sự phát triển.
Việc kết hợp hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kinh tế với quốc phòng, an
ninh, đối ngoại; xây dựng khu kinh tế-quốc phòng có chuyển biến quan trọng; nhất là kết
quả về hoàn thành phân giới, cắm mốc đường biên giới trên bộ, phân định ở Vịnh Bắc Bộ
với Trung Quốc; từng bước hoàn thiện việc phân giới, cắm mốc đường biên giới trên bộ
với Lào, Campuchia. Những kết quả nói trên góp phần nâng cao thê và lực của đất nước,
tăng cường sức mạnh tổng họp bảo vệ Tổ quốc.
Đối ngoại đạt nhiều thành tựu mới. Nhận thức chung của Đảng ta về thời đại, về thế
giới và khu vực ngày càng rõ và đầy đủ hơn. Từ định hướng coi “đoàn kết và hợp tác toàn
diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại” từng bước chuyển
sang đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại. Từ chủ trương “muốn là bạn”
đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy”, là “thành viên có trách nhiệm” của cộng
đồng quốc tế. Đổi mới nhận thức về họp tác và đấu tranh, từ quan niệm về địch, ta,
chuyển sang cách nhìn nhận có tính biện chứng về đối tác và đối tượng trên cơ sở lợi ích
quốc gia-dân tộc trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nhận thức thực tế hơn quan hệ với các
nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè truyền thông và quan hệ với các nước láng giềng, khu
vực, các nước lớn; đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu. Từ “phá thế bị bao vây, cấm
vận” tiến đến “hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới”, và tiếp theo là “chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện.
Đen năm 2018, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 188 nước trong tổng số 193
nước thành viên Liên hợp quốc. Đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, quan
hệ đối tác toàn diện với 11 nước. Nâng cao hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế, đóng góp ngày càng tích cực, có trách nhiệm vào đời sống chính trị khu vực và
thế giới, phát huy vai trò tích cực trong cộng đồng ASEAN. Việt Nam là ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên họp quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Ngày 7-6-2019, Đại
hội đồng Liên hiệp quốc bầu Việt Nam làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu cao 192/193. Năm 1996, Việt Nam tham gia Diễn đàn
kinh tế Á-Âu (ASEM). Ngày 14-11-1998, Việt Nam gia nhập tổ chức Hợp tác kinh tế
Châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC năm
2006 và năm 2017.
Cùng với việc tăng cường ngoại giao nhà nước, quan hệ đối ngoại đảng và ngoại giao nhân
dân được mở rộng, đã nâng cao vị thế, uy tín của nước ta tại các diễn đàn đa phương. Quan hệ
đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa Việt Nam và Lào tiếp tục được củng cố và có những bước phát
triển, ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu. Quan hệ Việt Nam- Campuchia được củng cố và
tăng cường về nhiều mặt. Quan hệ với Trung Quốc có những bước tiến triển, nhất là trong lĩnh vực
kinh tế, thương mại. Đã ký Hiệp định biên giới trên bộ Việt Nam-Trung Quốc 1999, phân giải cắm
mốc xong trên thực địa toàn tuyến biên giới; phê chuấn Hiệp định phân định và Hiệp định hợp tác
nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ.
Nhận thức về xây dựng và phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ. về xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa:
Đảng đã nhận thức ngày càng sâu sắc hơn tầm quan trọng và vai trò của xây dựng và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu vừa là động lực
của công cuộc đổi mới. Đảng đã nhận thức rõ hơn cơ chế vận hành của hệ thống chính trị ỏ’ nước
ta là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, chú trọng phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh, tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, tăng cường mối quan hệ gán bó mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước;
thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội.
Đã nhận thức được tính tất yếu khách quan, cấp thiết của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xác định đây là một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dụng, vừa tiếp thu thành tựu của nhân loại về nhà nước pháp quyền, vừa
thể hiện bản sắc, đặc điểm riêng của Việt Nam.
Đảng đã xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng. Quy định rõ hơn vai trò, thẩm
quyển và trách nhiệm của Đảng. Đã xác định ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn nền tảng tư tưởng của
Đảng. Tại Đại hội VII, Đảng khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Qua các Đại hội, Đảng nhận thức rõ hơn
khái niệm, nguồn gốc, nội dung, vị trí, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh; nhận thức rõ về vị trí,
nội dung, nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn trong toàn
bộ sự nghiệp cách mạng; Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật tồn
tại và phát triển của Đảng. Nhận thức rõ yêu cầu đối với Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền. Mọi
đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải
phòng và chống những nguy cơ lớn: sai làm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến
chất
202 h/
của cán bộ, đẳng viên. Xác định đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vị trí, nội dung, nhiệm vụ công tác xây
dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Thấy rõ hơn tính đồng bộ của công tác cán bộ: từ
phát hiện, quy hoạch đến đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng, luân chuyển cán bộ,... Phương
thức lãnh đạo của Đảng ngày càng được nhận thức rõ hơn qua các nhiệm kỳ đại hội. Xác định dân
chủ trong Đảng là điều kiện, tiền đề để phát huy dân chủ trong xã hội, từ đó, đã xác định cần thật
sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, từ sinh hoạt chi bộ, sinh hoạt cấp ủy cơ sở đến sinh hoạt
của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; đồng thời giữ nghiêm kỷ luật đảng.
Những thành tựu chủ yếu nêu trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát
triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Những thành tựu trên đây là do Đảng
có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được
nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng đã nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thông dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng
tạo, kịp thời đưa ra những chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình
hình thế giói và trong nưó’c thay đổi. Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lóp nhân dân đã nỗ
lực phấn đấu, tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đường lối đổi
mới. Sự nghiệp đổi mới được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ.
Một.sốhạnchế'. Thực tiễn phát triển công cuộc đổi mới cũng bộc lộ những hạn chế cần phải khắc
phục. Công tác tống kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số ván đề đặt ra
trong quá trình dổi mói để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đưòng đi lên chủ nghĩa xã hội còn có một số vấn dề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm
rõ.
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tưoìig xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn
lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ 1Ĩ1Ô thiếu ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế
suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh
quốc gia của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi
trường.
Nhiều vấn đề tiêu cực nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận
thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội.
Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng
thành quả của công cuộc đồi mới. Năng lực và hiệu quả


hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Việc tạo nền tảng để cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt
được mục tiêu đề ra.
Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994)
nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyến hóa” trong nội bộ. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ
có mặt bị giảm sút.
Những hạn chế, khuyết, điếm trên đây có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ
quan, trong đố nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
về khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp,
chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận
lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị.
về chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa được quan tâm đúng mức,
đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn chế so với chuyển biến
nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình chậm và thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng các
quyết sách, chủ trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết tám mối quan hệ lớn còn hạn
chế. Đổi mồi thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số lĩnh vực.
Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ
trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm của người đứng dầu không được quy định rõ ràng;
thiếu cơ chế để kiểm soát quyền lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không đưọyc tích cực
triển khai thực hiện, kết quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp với thực tiễn, chậm được
sửa đổi, bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu
quả thấp, chưa dáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được sự thông nhất cao về nhận thức tư tưởng, ý
chí và hành động trong Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử dụng, bô"
trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa quan tâm đến việc xây dựng cơ chế, chính sách để trọng dụng
người có đức, có tài.
Một số kỉnh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo công cuộc đoi mới
Một là, trong quả trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở

204
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênỉn, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm CỊUOC tế phù họp với Việt Nam.
Đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sông
còn. Quá trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện những vấn đề mới, những
khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng, Nhả nước và nhân dân phải chủ động, không
ngừng sáng tạo.
Đổi mới không phải lả từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa
xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất
nước theo con dường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là một sự nghiệp vô cùng
khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường họp quy luật để có một nước Việt
Nam dân giàu, nưó'c mạnh, dân chủ, công bàng, văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi
hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là
nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy
dó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương
pháp luận quan trọng nhất đế phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi
mới. Kế thừa, phát huy truyền thông dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận
dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc ”, vì lợi ích của
nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng
tạo VCI mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn hết toàn dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì
lợi ích của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một
nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những
thành tựu của đổi mới. Đối mới phải dựa vào nhân dân. Vì thế, đổi mới phải luôn luôn
quán triệt quan điểm “dân là gốc”, phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triến đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất
cả quyền lực thuộc về nhân dân để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ
hưởng thành quả đổi mới. Đối mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cần phải phát huy
quyền làm chủ, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc. Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
205 X?
tộc, cần phòng, chống đặc quyển, đặc lợi, chống suy thoái, biến chất.
Ba là, đối mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phủ hợp; phải tôn trọng quy luật
khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vcm đề do thực tiễn đật ra.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, dồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đòi
sống xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ
hoạt động của cấp trung ương đến hoạt dộng của địa phương và cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức,
cách làm phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp tấp sẽ gây mất
ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi
mới; đồng thời phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tnh trạng bảo
thủ, tí trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ
sở để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn.
Phải bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ
sung, phát triển đường lối đổi mới.
Đẻ dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đuủng lối dổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà
nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều
chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không còn phù họp, cản trở sự
phát triển; thực hiện nói đi đôi với làm.
Bon là, phải đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết; kiên định dộc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đắng, củng có lợi; kết
hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đế xây dựng và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Luôn luôn coi lợi ích quốc gia-dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng cần kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết
hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát
huy sức mạnh dân tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh thòi đại, làm cho sức mạnh dân tộc
mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

206
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng; xây cỉựng đội ngữ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Nhà nước, Mặt trận Tổ CỊUOC, các to chức chỉnh trị-xã hội và của cả hệ thong
chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Tăng cường sự lãnh đạo và năng lực cầm
quyền của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải
thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
mình.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh dạo thành công sự nghiệp đối mới.
Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà
nước. Phát huy vai trò Mặt trận Tố quốc và các đoàn thế nhân dân trong việc tập hợp các
tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện
thành công sự nghiệp đối mới.
Sức mạnh của cá hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng đưcrc bắt nguồn và
nhân lên từ sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ
chức trong hệ thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân,
là vấn đề trọng đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.
Với thành công của công cuộc đối mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng rõ hơn. Rõ hơn về mục tiêu mô hình chủ
nghĩa xã hội; rõ hơn về những hình thức tổ chức kinh tế, xã hội, chặng đường, bước đi của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; rõ hơn về nội dung bỏ qua chủ nghĩa tư bản (bỏ qua
việc thiết lập kiến trúc thượng tầng và quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản) nhưng có
thể kế thừa những thành quả mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất là
kinh nghiệm tố chức, quản lý và sự phát triến của khoa học-công nghệ, đặc biệt cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Đối mới đã tạo thế và lực mới của đất nước. Khẳng định đó
của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (10-2016) cho thấy cơ sở vững chắc đế Việt Nam có
thể phát triển nhanh, bền vững, xứng đáng với lịch sử anh hùng, vẻ vang của Đảng và dân
tộc.
NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN
1. Khái quát quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước và quá trình tìm
con đường đổi mới đất nước.
2. Nội dung Đường lối toàn diện của Đại hội VI (12-1986) và quá trình thực hiện.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
991 và năm 2011).
4. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sựu nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
5. Thành tựu, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi
mới.
KÉT LUẬN

Lịch sử Đẳng Cộng sản Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã trải qua những thời
kỳ, giai đoạn lịch sử quan trọng, ghi nhũng dấu mốc lịch sử của Đảng, của cách mạng và
dân tộc Việt Nam. Đó là thời kỳ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đi tìm con đường
cứu nước (1911-1920) và khẳng định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, xã hội và con người. Thời kỳ 1920-1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc truyền
bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
cùng với các chiến sĩ cách mạng tiền bối chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưởng
và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2-1930, công bố Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng. Từ năm 1930 đến năm 1945, Đảng lãnh đạo các phong trào
cách mạng rộng lớn (1930-1931); khôi phục tổ chức (1932-1935); phong trào đòi dân
sinh, dân chủ (1936-1939); hoàn chỉnh đường lối giải phóng dân tộc, lãnh đạo phong trào
đấu tranh giành độc lập, giành chính quyền (1939-1945) dẫn tới thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Tám năm 1945.
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Đảng lãnh đạo Nhà nước và trở
thành Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo xây dựng, củng cố, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân
dân và mọi thành quả của cách mạng, xây dựng chế độ mới, cải thiện đời sống của nhân
dân, xây dựng đời sống mới, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ
chống sự xâm lược của thực dân Pháp (1945-1946). Đảng đề ra đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính và chỉ dạo cuộc kháng chiến toàn
quốc toàn quốc từ tháng 12-1946, đánh bại các kế hoạch chiến tranh lớn của thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ dẫn đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954), buộc Pháp
ký Hiệp định Geneve (21-7-1954), các nước cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản,
dộc lập, thống nhất, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thố của Việt Nam, Lào và Campuchia.
Thực dân Pháp rút hết quân về nước, đế quốc Mỹ thay thế thực dân Pháp, chiếm
miền Nam Việt Nam (từ vĩ tuyến 17 về phía Nam) xây dựng chế độ thực dân kiểu mới,
thông qua chính quyền tay sai, hòng chia cắt lâu dài nước Việt Nam, vi phạm và không
thực hiện những điều khoản của Hiệp định Geneve về thống nhất nước Việt Nam vào năm
1956. Trong hoàn cảnh đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa, quá độ đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời Đảng chủ động
đề ra đường lối lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng ở miền Nam, tiến hành cuộc chống Mỹ, cứu
nước nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Điểm nổi bật của cách mạng Việt
Nam thời kỳ 1954-1975 là Đảng lãnh đạo đồng thời thực hiện 2 chiến lược cách mạng,
cách mạng xã hội chủ nghĩa và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hai chiến lược cách
mạng đó có mối quan hệ mật thiết và quyết định lẫn nhau thực hiện mcụ tiêu độc lập dân
209
tộc và chủ nghĩa xã hội với khát vọng của cả dân tộc là độc lập tự do và thống nhất Tổ
quốc.
Với sự toàn thắng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 mà đỉnh cao là
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30-4-1975), đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và
thống nhất. Đảng đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và lãnh dạo cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng lại đất nước sau 30 năm kháng chiến lâu dài, gian khổ,
đồng thời lại phải tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ỏ' biên giới Tây-Nam và biên giới
phía Bắc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế, cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt
chủng, hồi sinh đất nước, tiếp tục giúp đỡ cách mạng Lào. Những năm 1975-1986, Đảng
từng bước đổi mói tư duy, đổi mới cơ chế, chính sách, khảo nghiệm thực tiễn để tìm con
đường đổi mới đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã hoạch
định đường lối đổi mới toàn diện cả về cơ chế, chính sách kinh tế, hệ thống chính trị, các
chính sách xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đảng lãnh đạo nhân dân vượt
qua khó khăn, thách thức cả ở trong nước và tác động quốc tế, kiên định con đường xã hội
chủ nghĩa, dấy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội bàng đường lối đổi mới. Trên cơ sở đỏi
mới tư duy, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, Đảng dã thông qua Cương
lĩnhxâydựngđấtnướctrongthời kỳquảđộlênchủnghĩaxãhội tại Đại hội VII của Đảng (6-1991). Cương
lĩnh được bổ sung, phát triển năm 201 ĩ tại Đại hội XI của Đảng. Thực hiện công cuộc đổi
mói vừa bổ sung, phát triển đường lối đổi mới và Cương lĩnh vừa chú trọng những chủ
trương, chính sách lớn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dụng, hoàn thiện hệ thống chính trị và Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đề ra và thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, các chính sách xã hội, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng và thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, thế
trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển, đa phương hóa, da dạng hóa các quan hệ, Việt Nam là
bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng dồng thế giới, tích cực, chủ
động hội nhập quốc tế. Thành công của công cuộc đổi mới làm cho thế và lực của đất
nước tăng lên, khẳng định con đường phát triển đúng đắn của dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã lãnh dạo giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành sự nghiệp đấu tranh cách mạng
lâu dài đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác để có được cơ đồ và vị thế như ngày nay.
Thành tựu của cách mạng vô cùng phong phú, toàn diện và vẻ vang phản ánh quy luật vận
động, phát triển của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh
đạo.

210
Những thắng lọi vĩ đại của cách mạng Việt Nam
Một là, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà
nước Việt Nam Dãn chủ Cộng hòa.
Thắng lợi đó đã đánh đổ chế độ thuộc địa của thực dân Pháp và phát xít Nhật gần
một thế kỷ, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng ngàn năm, giành quyền độc lập, tự do cho dân
tộc, xây dựng nền cộng hòa dân chủ, chế độ dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam, tạo
tiền đề để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Một kỷ nguyên mới của
lịch sử dân tộc được mở ra, kỷ nguyên dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, được
làm chủ đất nước và xã hội, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, thực hiện các
quyền cơ bản của con người. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc đánh đổ ách cai trị của thực dân, phát xít, giành độc lập, đồng thời cũng là
cuộc cách mạng dân chủ do nhân dân tiến hành, đánh đổ ché độ quân chủ phong kiến
chuyên chế. Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã kết hợp đúng đắn đấu tranh giai cấp với đấu
tranh dân tộc, thống nhất lợi ích của các giai cấp với lợi ích tối cao của dân tộc, kết hợp
chặt chẽ mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Đây là
kết quả tống họp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày
thành lập Đảng, từ cao trào Xô viết Nghệ-Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến
phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945.
Cách mạng Tháng Tám thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của
khát vọng độc lập, tự do và ý chí tự lực, tự cưòng, quyết đem sức ta mà tự giải phóng cho ta như lời
kêu gọi tổng khởi nghĩa của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nêu rõ. Đó là thắng lợi của đường lối
cứu nước và sự lãnh đạo đúng đắn, kịp thòi của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh và vai trò to
lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng trong cả nước. Có được những cán
bộ, đảng viên trung kiên, hy sinh, chiến đấu vì giải phóng dân tộc, vì cuộc sống của nhân
dân, là thành công lớn trong xây dựng Đảng và thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng. Cách
mạng Tháng Tám thành công là kết quả của quá trình Đảng chủ động nắm bắt thời cơ
cách mạng, phát động và lãnh dạo cao trào cách mạng cứu nước, phát triển tố chức Đảng,
Mặt trận Việt Minh và các đoàn thế cứu quốc tạo ra thực lực cách mạng, phát triển sức
mạnh trong nước để khi nhân tố bên ngoài thuận lợi xuất hiện, Nhật đầu hàng Đồng Minh,
Đảng đã chớp thời cơ phát động Tổng khởi nghĩa. Triệt để tận dụng thời cơ đồng thời chủ
động đẩy lùi nguy cơ: thực dân Pháp quay lại áp đặt sự cai trị như trước gảy 9-3-1945 và
quân Đồng Minh kéo vào giải giáp quân Nhật và có ý đồ phá hoại nền độc lập của Việt
Nam. Chóp đúng thời cơ và đấy lùi nguy cơ là thành công nổi bật của Đảng trơng Cách
mạng Tháng Tám năm 1945. Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã xử lý thành công các mối
quan hệ quốc tế với kẻ thù trực tiếp, với các nước Đồng Minh (Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung
Quốc) vói chiến lược rõ ràng và sách lược phù hợp bảo đảm cho
cách mạng nổ ra và giành thắng lợi. “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có
thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần
này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”1.
Hai là, thắng lợi của các cuộc khảng chiến oanh liệt để giải phóng (lân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ
nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất
Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối
quân sự, độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về chiến tranh
cách mạng, giải phóng và bảo vệ Tổ quác, kế thừa truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc,
Đảng đã phát triển phong phú các hình thức chiến tranh nhân dân, phát triển khoa học, nghệ thuật
quân sự Việt Nam, kết hợp kháng chiến với kiến quốc đã đưa kháng chiến đến thắng lợi với Chiến
dịch Điện Biên Phủ lịch sử và ký kết Hiệp định Geneve.
Trong cuộc chống Mỹ, cứu nước, Đảng lãnh đạo đồng thời thực hiện hai chiến lược cách
mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
giưotig cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Một đảng thống nhất lãnh đạo một
nước tạm chia làm hai miền với hai chiến lược cách mạng khác nhau là đặc điểm nổi bật của cách
mạng Việt Nam 1954-1975. Cùng với đường lối cách mạng, Đảng phải phát triển sáng tạo về
phương pháp cách mạng. Sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng: lực lượng chính trị của
quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ
khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng. Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính
trị và đấu tranh ngoại giao. Kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy
và tiến công, tiến công và nổi dậy. Đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn dồng
bằng và thành thị. Đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận. Kết hợp ba thứ
quân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh
nhỏ. Thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ. Nắm vững phương châm chiến
lược đánh địch lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ mở những cuộc tiến công
chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp

quân địch để giành thắng le’ ■'

Hồ Chỉ Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, trang 25.
212
Đường lối chính trị, quân sự và phương pháp cách mạng do Đảng đề ra và thể hiện phong phú
trong chiến tranh cách mạng “đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn” để đánh thắng thế lực
đế quốc giàu mạnh nhất, hung bạo nhất trong thời đại ngày nay. Thực tiễn chiến tranh cách mạng ở
Việt Nam chứng minh: “một dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ
và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lênin có đường lối và phương pháp
cách mạng đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại được sự đồng
tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến
bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược”1.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đua đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Cần nhận thức rõ, sự nghiệp đổi mới là kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh và trong những năm đầu sau khi đất nước thống
nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm sáng kiến của nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh dạo thực
hiện đưòng lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù họp với thực tiễn Việt
Nam và bối cảnh quốc tế.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đề ra là bước dối mới
quan trọng về tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn những luận điểm của Karl Marx và V.I.Lênin về
những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, hiểu rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về quá độ len chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đối mới cũng là kết quả của quá trình
tống kết, tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, từng bước khắc phục lối tư duy chủ quan, duy ý chí, giáo
điều, nóng vội và thấy rõ sự cần thiết phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Đường lối đổi mới dựa trên cơ sở sáng kiến, nguyện vọng và lợi ích của các tầng lớp nhân dân và
do đó trở thành yêu cầu khách quan, tất yếu của cuộc sống.
Từ thực tiễn sôi động và hiệu quả thiết thực của quá trình đổi mới mà đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước được bổ sung, phát triển. Đường lối đổi mới gắn liền với Đảng
đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội các chặng đường 10 năm, gắn với quá trình cụ thế hóa, thế chế hóa thành
những chính sách và hệ thống pháp luật.
Hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đã
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa, quản lý hành chính, tập trung, bao cấp, nền kinh tế hiện
vật sang nền kinh tế hàng hóa, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế

1
Đàng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đủng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tập 37, trang
489.
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế-xã hội (1996), đảy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ra khỏi tình trạng của nước
nghèo, kém phát triển, trở thành nưó'c có mức thư nhập trung bình (2008), phấn đấu sớm trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện cả về vật
chất và văn hóa tinh thần. Chính trị, xã hội ổn định và hệ thống chính trị vững mạnh với vai trò của
Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Quan hệ đối ngoại mỏ’ rộng, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 188
nước trong tổng số 193 nước thành viên Liên hợp quốc, quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước,
tạo môi trường hòa bình, hợp tác, phát triển, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng
quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khắng định
đường lối đổi mới của Đảng là dúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta
là phùhọpvớithựctiễncủaViệtNamvàxuthếpháttriểncủalịchsử”118.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản Việt Nam (1-2016) tổng kết 30 năm
đổi mới, khẳng định những thành tựu, đồng thời thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm,
nhất là công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa
tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn nhân lực đưọ'c huy động; đổi mới chính trị
chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII (1-1994) nêu ra vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như tham nhũng, lãng phí, “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ.
Nhìn lại 30 năm đoi mới, Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh một so bài học:
Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù họp với Việt Nam.
Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích nhân dân, dựa vào nhân
dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân,
phát huy sức mạnh dại đoàn kết toàn dân tộc.

118 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đợi hội đại biểu toàn quốc lần thừ xu, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội,
2016, trang 66.

214
Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp, tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, tâọ trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Phải đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy
sức mạnh dân tộc vói sức mạnh thời dại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ
năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và của cả hệ thống chính trị;
tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Cũng cần nhấn mạnh, từ thực tiễn đổi mới, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn
mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày
càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu, mô hình của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với
8 đặc trưng mà Cưo'ng lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã đề ra. Sáng tỏ hơn về chế độ
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sáng tỏ hơn về
những nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Ke thừa những thành tựu mà nhân loại đã dạt được
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, dể phát triển nhanh lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Việt Nam đã và đang kế thừa thành tựu
của các cuộc cách mạng công nghiệp, đặc biệt là cách mạng công nghiệp lần thứ 2, lần
thứ 3 và nhất là cách mạng công nghiệp lần thứ t4, cách mạng 4.0.
Lãnh đạo công cuộc dổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam
vừa với tầm nhìn chiến lược, định ra những mục tiêu chiến lược lâu dài khi đất nước kết
thúc thời kỳ quá độ xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với
kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, vừa chú trọng những vấn
đề bức thiết dang đặt ra đế tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững. Đó lả đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những quy luật và yêu cầu cao. Xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã họi. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình,
hữu nghị, họp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường mở rộng mặt trận
215
dân tộc thống nhất. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thực tiễn đổi mới, Đảng đã nhận thức và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn phản
ánh quy luật đổi mới và phát triển ở Việt Nam. “Đó là quan hệ giữa đối mới, ổn định và
phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa nhà nước và thị trường; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa dộc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” 119. Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh những mối quan hệ lớn đó tại Đại hội XII của Đảng.
Những bài học IÓÌ1 về sự lãnh đạo của Đảng
1. Nắm vững ngọn cờ độc lập (lân tộc và chủ nghĩa xã hội
Học thuyết cách mạng, khoa học Mác-Lênin soi sáng sự nghiệp đấu tranh giải
phóng giai cấp công nhân, giải phóng các dân tộc, giải phóng con ngưò’i thoát khỏi áp
bức, bóc lột, bất công để xây dựng một xã hội tốt đẹp vì con người, đó là chủ nghĩa xã
hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm giải phóng dâ tộc và giải phóng giai cấp là hai cuộc
giải phóng vĩ đại, quan hệ mật thiết với nhau như hai cánh chim. Độc lập dân ttộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung hàng đầu trong tư tưỏng Hồ Chí Minh.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930) xác định rõ
mục tiêu: Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập và để đi tới xã hội cộng sản. Suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng luôn luôn nắm vững và kiên định các mục tiêu chiến lược đó. Cách
mạng Tháng Tám 1945 đã giành được độc lập cho dân tộc, nhưng lại phải tiến hành 30
năm chiến tranh cách mạng chống xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ vào ngày
30-4-1975 mới giành được độc lập hoàn toàn, thống nhất đất nước. Nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội được đặt ra trực tiếp ở miền Bắc từ năm 1954 và trên cả nước từ năm
1975. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay đang hiện thực hóa nhũng mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội mà Cương lĩnh của Đảng đã đề ra, vì dân giàu nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dụng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vị chiến lược có quan hệ mật thiết với
nhau. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng
Việt

119 Đảng Cộng sàn Việt Nam: Vàn kiện Đại hội đại biếu (oàn quốc lần (hử xu, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, 2016, trang 17-18. '

216
Nam, cũng là quy luật dựng nước gắn liền với giữ nước, là lý tưởng cao cả và hiện thực
trong thời đại Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam hiện nay là
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tố
quốc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
2. Sự nghiệp cách mạng là cửa nhản (lũn, do nhân (lãn và vì nhãn dãn
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân là người làm nên lịch
sử, là chủ thể của lịch sử, đó là quan điểm cơ bản trong lý luận Mác-Lênin về chủ nghĩa
duy vật lịch sử, về cách mạng xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, cách
mạng muốn thành công thì phải lấy dân chúng làm gốc; có dân thì có tất cả, nghĩa là phải
dựa vào dân, tố chức, vận động đế nhân dân hiểu rằng cách mạng là công việc của chính
nhân dân. Người mong muốn, cách mạng thành công thì quyền giao cho dân chúng số nhiều. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Khi Đảng nắm chính quyền,
thì chính quyền đó là đế gánh việc chung cho dân chứ không phải đế cai trị dân; việc gì
có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì hại đến dân phải hết sức tránh.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, chính nhân dân là người làm nên những
thắng lợi lịch sử từ Cách mạng Tháng Tám 1945, hai cuộc kháng chiến và công cuộc đối
mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích
và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Ngoài lợi ích của dân tộc, giai cấp và nhân dân,
Đảng không có lợi ích nào khác, từ khi thành lập (1930), Đảng đã xác định luôn luôn gắn
bó với nhân dân, từng trải đấu trang mà trưởng thành. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó
mật thiết với nhân dân. Nhân dân là người bảo vệ Đảng, giúp đỡ Đảng về mọi mặt trong
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và chính phong trào cách mạng của nhân dân dã
hiện thực hóa mục tiêu cách mạng do Đảng đề ra.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải phòng ngừa nguy cơ sai lầm về đường lối,
nguy cơ xa rời quần chúng nhân dân và cả nguy cơ suy thoái của một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Cưong lĩnh của Đảng (bổ sung, phát triến năm 2011) đã nêu rõ, quan liêu,
tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất
nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng, ớ mọi thời kỳ cách mạng, nhất là trong
điều kiện hiện nay, Đảng đặc biệt chú trọng công tác vận động quần chúng nhân dân.
Thấm nhuần chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân vận khéo thì việc gì cũng thành công. Trong
công cuộc đối mới, cùng với bài học lấy dân làm gốc, Đảng chú trọng thực hiện phương
châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đảng và các cơ quan nhà nước các cấp
phải thật sự hiểu dân, tin dân, gần dân, bàn bạc với dân và thật sự vì dân.
3. Không ngừng củng cố, táng cường đoàn kết, đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dồn, đoàn kết (lũn tộc, đoàn kết quốc tế
Đoàn kết là nguyên tắc của Đảng chân chính cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản (1848), Karl Marx và Friedrich Engels đã nêu rõ khẩu hiệu chiến lược: Vô sản tất cả
các nước đoàn kết lại. Đầu thế kỷ XX, V.I.Lenin và Quốc tế Cộng sản bổ sung: Vô sản toàn thế giới
và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại. Đối với dân tộc Việt Nam, đoàn kết là truyền thống quý báu,
là cội nguồn sức mạnh trong sự nghiệp dựng nước và giũ' nước. Hồ Chí Minh đặc biệt
chú trọng nêu cao ngọn cờ dân tộc, lợi ích quốc gia, dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc là điểm
căn bản và nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành
công. Người coi giũ' gìn đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Người
cũng là hiện thân của tinh thần đoàn kết quốc tế.
Nhờ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tập họp trong Mặt trận dân tộc thống nhất do
Đảng lãnh đạo, toàn dân Việt Nam đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, làm nên thành công
của Cách mạng Tháng Tám và các cuộc kháng chiến cứu nước, tranh thủ được sự đoản
kết và ủng hộ của đồng chí, bè bạn và nhân dân thế giới, thực hiện thành công sự nghiệp
đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng nhấn mạnh chiến lược đại đoàn kết dân tộc, lấy mục
tiêu chung của lợi ích quốc gia, dân tộc làm điểm tương đồng, tôn trọng lợi ích của các
tầng lớp, giai cấp không trái với lợi ích chung, Khép lại quá khứ, xóa bỏ định kiến, hận
thù, mặc cảm, hướng tới tương lai. Đại đoàn kết dân tộc, nhân dân luôn luôn gán liền với
phát huy và hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
tôn trọng quyền con người, quyền và trách nhiệm công dân. Trong lịch sử, Đảng đã chú
trọng xây dựng các tổ chức Mặt trận, các đoàn thể để đoàn kết toàn dân, ngày nay, tăng
cường xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội thực hiện tốt
nhất đoàn kết mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, ngưòi Việt Nam định cư ở nước
ngoài, tạo sự đồng thuận xã hội.
4. Kết hợp sức mạnỉt dàn tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế
Chủ nghĩa Mác-Lênin mang bản chất quốc tế, cách mạng của giai cấp vô sản không
chỉ giải phóng giai cấp lao động trong một nước mà giải phóng toàn nhân loại. Đoàn kết
và ủng hộ lẫn nhau giữa các cuộc cách mạng và nhân dân các nước là yêu cầu khách quan
tất yếu. Trong thế giới hiện đại, nhiều vấn đề không thể giải quyết trong phạm vi một
nước mà cấn đến sự hợp tác quốc tế. Hồ Chí Minh là lãnh tụ dân tộc, lãnh tụ của Đảng
đồng thời là chiến sĩ quốc tế. Người thấy rõ sự cần thiết phải kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại. “Nhưng muốn người ta giúp cho, thì trước minh phải tự giúp lấy
mình đã”120. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kết hợp đúng đắn sức mạnh dân tộc

120 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, trang 320.
218
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quôc tê, tạo nên nhân tô quyêt định
tháng lợi.
Cách mạng Tháng Tám 1945 đã phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc, với ý chí ỗem
sức ta mà tự giải phóng cho ta đồng thời tận dụng cơ hội thuận lợi khi phe Đồng minh
chiến thắng phát xít Nhật. Trong hai cuộc kháng chiến, sức mạnh của dân tộc được huy
động cao nhất với tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh
thủ cao nhất sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa và
bạn bè quốc tế. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng huy động cao nhất nguồn lực
trong nước đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài bao gồm cả
viện trợ, cho vay và đầu tư trực tiếp. Tích cực, chủ động hợp tác với các nước, hội nhập
quốc tế, tạo cả thế và lực đế phát triển dất nước. Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, Việt Nam là
bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã tạo được sự
hội nhập thành công đồng thời vẫn giữ vững độc lập, tự chủ và con đường phát triển của
đất nước.
5. Sự lãnh đạo đúng đắn cửa Đáng lù nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam
Các nhà kinh điến của chủ nghĩa Mác-Lênin đặc biệt chú trọng xây dựng Đảng Cộng
sản-đội tiền phong của giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản phải được trang bị lý luận tiền
phong, khoa học, có Cương lĩnh chính trị rõ ràng, được tổ chức theo những nguyên tắc cơ
bản và với kỷ luật chặt chẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng trước hết phải
có Đảng cách mạng đế tố chức phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng phải có chủ
nghĩa làm cốt, Đảng không có chủ nghĩa (lý luận) cũng giống như người không có trí
khôn. Đảng phảo hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước vì hạnh
phúc của nhân dân. Người nhấn mạnh, Đảng và từng cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần
đạo đức cách mạng. Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đề ra 23 điều về tư cách
người cách mệnh. Năm 1947, Ngưòi đề ra 12 điều về tư cách của một Đảng chân chính
cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng,
nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Không ngừng phát triển, bổ
sung Cương lĩnh chính trị, đường lối, nắm vững và kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc
tố chức cơ bản của Đảng, đồng thời chú trọng các nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong
Đảng; tự phê bình và phê bình; gắn bó mật thiết với nhân dân và nguyên tắc của chủ nghĩa
quốc tế vô sản. Chú trọng công tác cán bộ, coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc.
219
Rèn luyện đạo đức cách mạng là nội dung cơ bản trong xây dựng Đảng. Không ngừng đổi
mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh dạo. Đảng lãnh đạo
bằng đường lối và những quyết sách đúng đắn và thông qua hệ thống tổ chức đảng và các
tổ chức trong hệ thống chính trị; thông qua dội ngũ cán bộ, đảng viên trên tất cả các lĩnh
vực nhằm hiện thực hóa đường lối của Đảng. Chú trọng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn và không ngừng làm rõ những vấn đề đặt ra trong khoa học lãnh đạo quản lý.
Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của Đảng cầm quyền, Đảng không ngừng đổi mới,
tự chỉnh đốn; phòng ngừa, đẩy lùi nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân và cả
nguy cơ suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, dảng viên. Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII (30-10-2016) đã ban hành Nghị quyết về tâng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chỉnh trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hỏa” trong nội bộ. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn liền
với thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị (15-5-2016) về đẩy mạnh học tập, làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII (25-10-
2017) về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; Nghị quyết Trung ương 7 khóa
XII (19-5-2018) về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhất là cấp chiến lược, thật sự làm
cho Đảng vững mạnh, tiếp tục hoàn thành sữ mệnh lãnh đạo xã hội và Nhà nước, đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ mới.
Đảng không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức
và năng lực tồ chức đế đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm nổi bật những truyền thống vẻ vang của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đó là truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của Đảng vì lý tưởng cách mạng
cao cả, vì nước, vì dân, với sự hy sinh anh dũng của nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, đảng
viên kiên trung của Đảng. Truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, thống nhất
nhận thức, ý chí và hành động. Truyền thống tự phê bình, phê bình nghiêm túc và quyết
tâm sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém. Truyền thống gắn bó mật thiết với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Truyền thống rèn luyện phẩm
chất, đạo đức, nâng cao bản lĩnh tự vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Truyền thống của
chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tôn vinh sự hy sinh anh dũng của các thế hệ cán
bộ, đảng viên trong toàn Đảng, của đồng bào cả nước trong suốt chiều dài lịch sử đấu
tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo tiêu biểu của Đảng đã anh dũng hy
sinh như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Châu Văn Liêm,

220
Nguyễn Phong sắc, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu,
Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Hữu Tiến, Phùng Chí Kiên, Tô Hiệu, Hoàng Văn Thụ,
Hoàng Đình Giong và nhiều đồng chí khác. Rất nhiều tấm gương hy sinh của chiến sĩ
cách mạng trẻ tuổi vì lý tưởng và con đường cách mạng của Đảng và dân tộc như: Lý Tự
Trọng, Nguyễn Hoàng Tôn, Kim Đồng (Nông Văn Dền), Võ Thị Sáu, Trần Văn ơn, Lê
Bình, Mạc Thị Bưởi, Bùi Thị Cúc, Nguyễn Thị Lợi, Vừ A Dính, Cù Chính Lan, Phan
Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Bùi Ngọc
Dương, Lê Thị Riêng, Lê Anh Xuân, Nguyễn Thị út (út Tịch), Quách Thị Trang, Nguyễn
Phan Vinh, Lê Thị Hồng Gấm, Kơ Pa Kơ Lơng, Nguyễn Thái Bình, Phạm Ngọc Thảo,
Vũ Xuân Thiều, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Lê Đình Chinh, Hoàng Thị Hồng
Chiêm và nhiều tấm gương kiên cường khác.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Dảng khóa XII (30-10-
2016) khẳng định:
“Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan
trọng của đội ngũ cán bộ, đẳng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền
thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta-Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại,
đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng”121.

121 Đàng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chắp hành Trung ương khóa XIJ, Văn
phòng Trung ưong Đảng, Hà Nội, 2016, trang 20.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Viện Lịch sử Đảng, LịchsửĐảngCộngsảnViệtNam,
tập /, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2018.
2. Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác -Lênin. Viện Lịch sử Đảng, LịchsửĐảngCộngsảnViệtNam,
tậpII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn tập, từ tập 1 đến tập 65, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
1998- 2018.
4. Hồ Chí Minh toàn tập, từ tập 1 đến tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011.
5. Học viện Chính trị quốc gia LIỒ Chí Minh, Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội 2006.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
2010.
7. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt
Nam 1945-1975- thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2000.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam - Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng
kết, Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận- thực tiễn qua 30 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2015.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu loàn quốc lần thứ XI
(phần Cương lĩnh, bổ sung và phát triển), Nxb Chính trị quốc gia, Hả Nội
2011.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, VânkiệnĐạihộiđạibiểutoànquốclầnthứXII Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội 2016.
11. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giảo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tải
bảncósửachữabẩsung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2018.
12. Bộ Ngoại giao, NgoạigiaoViệtNam1945-2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội 2002.
13. Bộ Ngoại giao, Mặt trận Ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.
14. Bộ Giáo dục và Đào tạo, GiáotrìnhLịchsửĐảngCộngsảnViệtNam, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2006.
15. Archymedes LA. Patti, Why Vỉetnam?(Tại SCIO Việt Nam), Nxb Đà Nang 1995.
16. Robert s McNamara, Nhìn lại quá khứ - tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006.

You might also like