Phương Pháp Hướng Dẫn Trẻ Làm Quen Với Tác Phẩm Văn Học

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 75

PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN TRẺ LÀM QUEN VỚI TÁC

PHẨM VĂN HỌC


GIÁO TRÌNH
PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN TRẺ
LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC
(Được thẩm định tại Hội đồng khoa học theo Quyết định số 170A mgày 20
tháng 5 năm 2006 của Trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo Trung ương 3 –
Trung tâm Ứng dụng)

Tác giả: ThS. Ngô Thị Thái Sơn

VỚI BẠN ĐỌC

Bạn đang có trong tay một trong số 18 giáo trình và tuyển tập của bộ tài liệu
đào tạo giáo viên mầm non do tập thể giảng viên Khoa Sư phạm Mầm non
trường Trường Cao đẳng Sư phạm Mẫu giáo Trung ương 3 biên soạn.

Giáo trình "Phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với tác phẩm văn
học ở trường mầm non" chứa đựng không chỉ những thông tin cập nhật về cơ
sở và cách thức vận dụng các phương pháp và hình thức tổ chức cho trẻ làm
quen với văn học còn còn cả những hoạt động để giúp bạn từng bước tự
mình nắm bắt nội dung bài học.

Giáo trình gồm hai phần với tổng số 10 bài học. Mỗi bài học là một đơn
vị trọn vẹn, được bắt đầu bằng những nhục tiêu cần đạt. Bạn có thể căn cứ
những mục tiêu bài học để tự mình đánh giá kết quả học tập của bản thân
sau mỗi bài.

Mục THỰC HÀNH là hoạt động dành cho bạn. Những bài tập nhỏ sẽ
giúp bạn tích cực đồng hành cùng tác giả, từng bước đi tới nhục tiêu bài học.

Trong mục TÌM ĐỌC là những tài liệu rất cần cho bạn Hãy đừng bỏ qua
tài liệu nào trước khi chuyển qua phần sau cùng của bài.
Ở hầu hết các bài, trong mục CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP, ngoài câu hỏi
nâng cao là bài tập với yêu cầu lập dàn ý. Khi thực hiện bài tập này, bạn cố
gắng nhớ lại bài học. Thực hiện đúng, không chỉ giúp bạn nắm chắc bài học
mà còn tạo cơ hội để bạn tự rèn miện tự nhớ và nâng dần khả năng khái quát
hoá. Nếu có thể, bạn đừng ngần ngại làm cho sơ đồ thêm chi tiết.

Chúng tôi rất vui ngừng nhận được những ý kiến xây dựng của bạn.

Xin chân thành cảm ơn và chúc bạn thành công!

TÁC GIẢ

MỤC TIÊU CHUNG

Khi làm việc với tài liệu này, người học sẽ nắm được những kiến thức
và kĩ năng về phương pháp hướng dẫn trẻ làm quen với TPVH trong trường
MN. Cụ thể là:

1. Hiểu được vai trò của văn học và nhiệm vụ của việc cho trẻ làm quen
với TPVH và kịch ở trường MN.

2. Hiểu được những tri thức khoa học về đặc điểm cảm thụ văn hóc và
khả năng sáng tạo của trẻ trong quá trình làm quen với TPVH.

3. Trình bày và vận dụng được những tri thức khoa học về hình thức,
phương pháp, biện pháp tổ chức môi trường và tổ chức các dạng hoạt
động cho trẻ làm quen với TPVH ở trường MN.

4. Lựa chọn, phối hợp, lồng ghép các hoạt động thích hợp cho trẻ trong
quá trình tổ chức cho trẻ làm quen với văn học.

5. Lập được kế hoạch tổ chức và thiết kế môi trường giáo dục cho trẻ làm
quen TPVH đảm bảo tính thẩm mĩ, khích lệ và tạo điều kiện để trẻ nâng
cao khả năng cảm thụ và khả năng tham gia vào quá trình khám phá,
thể nghiệm về TPVH ở trường MN.

6. Tự trau dồi năng lực cảm thụ văn học và khả năng diễn đạt bằng ngôn
ngữ truyền cảm.
7. Có năng lực quan sát, phân tích và đánh giá trẻ trong quá trình làm
quen với TPVH. Từ đó, có thể vận dụng, đề ra kế hoạch và phương
pháp để xử lí nhằm dạt được yêu cầu kích thích tính tích cực và nâng
cao khả năng cảm thụ văn học, khả năng sử dụng ngôn ngữ văn học
trong các hoạt động (giao tiếp, kể chuyện...) cho trẻ MN.

8. Hình thành và phát triển lòng say mê, ham thích học hỏi, tìm tòi khám
phá cái mới trong học tập để nắm vững và vận dụng được các hình
thức, phương pháp, biện pháp tổ chức môi trường và quá trình cho trẻ
MN làm quen với văn học. Tin tưởng vào sự thành công của bản thân
trong học tập và nghề nghiệp.

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

CSGD: chăm sóc giáo dục

NXBGD: nhà xuất bản Giáo dục

MGB: mẫu giáo bé

MGN: mẫu giáo nhỡ

MGL: mẫu giáo lớn

MN: mầm non

TPVH: tác phẩm văn học

HĐC: hoạt động chung

HĐG: hoạt động góc

Phần 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Phần này gồm các bài trình bày về những vấn đề cơ sở của việc đề ra
các phương pháp và hình thức tổ chức cho trẻ làm quen với TPVH ở trường
MN. Vì thế nghiên cứu các bài ở phần này, bạn sẽ:
1. Hiểu được vai trò cửa văn học và nhiệm vụ của việc cho trẻ làm
quen với TPVH ở trường MN.

2. Hiểu được những tri thức khoa học về đặc điểm cảm thụ văn học và
khả năng sáng tạo của trẻ trong quá trình làm quen với TPVH.

3. Trình bày được những tri thức khoa học về các phương pháp và
hình thức tổ chức cho trẻ làm quen vô TPVH ở trường MN.

Bài 1: Ý NGHĨA CỦA VĂN HỌC TRONG VIỆC GIÁO DỤC TRẺ -
NHIỆM VỤ CỦA VIỆC TỔ CHỨC CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI TPVH

“Chắc chắn tôi không thể nào truyền đạt lại cho được thật đầy đủ và rõ
ràng nỗi kinh ngạc của tôi lớn lao như thế nào, khi tôi cảm thấy rằng hầu như
mỗi quyển sách mở ra trước mắt tôi cánh cửa nhìn vào một thế giới lạ kì,
chưa từng biết, kể cho tôi nghe về những con người, những tình cảm, những
suy nghĩ và những mối quan hệ mà xưa nay tôi chưa từng thấy, từng hay.”

(A.M. Gorki, "Tôi đã học như thế nào?")

Văn học với sức hấp dẫn hì lạ mà A.M Gorhi nói tới trên đây sẽ
mang lại lợi ích gì cho trẻ thơ; Nhiệm vụ của việc tổ chức hoạt động cho
trẻ làm quen với TPVH ở trường MN là gì?

Bài này sẽ giúp bạn:

1. Trình bày và lấy được ví dụ ninh hoạ về vai trò của văn học trong sự
phát triển toàn diện của trẻ.

2. Trình bày và giải thích được các nhiệm vụ cơ bản của việc tổ chức
hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH ở trường MN.

Ý NGHĨA CỦA VĂN HỌC TRONG VIỆC GIÁO DỤC TRẺ


THỰC HÀNH

Từ những kiến thức về đặc điểm tâm lý của trẻ MN và kiến thức văn
học đã biết của bản thân, theo bạn, văn học có thể mang lại cho trẻ thơ
những lợi ích gì?

Văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu của trẻ thơ Mỗi TPVH: với
nội dung lí thú cùng những hình tượng nghệ thuật trong sáng, luôn có sức lôi
cuốn sự chú ý, đem lại niềm vui thích cho trẻ nhỏ, đồng thời cũng mang lại
những tác dụng giáo dục lớn lao. Vì thế, từ lâu, văn học được xem như là một
trong những phương tiện giáo dục trẻ phát triển toàn diện về nhận thức, đạo
đức và thẩm mĩ.

Văn học góp phần giáo dục nhận thức cho trẻ

Văn học là tấm gương phản ánh muôn mặt hiện thực cuộc sống. Cuộc
sống ấy bao gồm cả thế giới tự nhiên và xã hội. Những chuyện kể, truyện dân
gian, những bài thơ hiện thực vừa sức là một trong các hình thức nhận thức
thế giới của trẻ, giúp trẻ mở rộng sự hiểu biết về thế giới xung quanh.

Ở tuổi nhà trẻ, thông qua việc làm quen với các tác phẩm có nội dung
đơn giản, gần gũi, trẻ nhỏ sẽ được cung cấp một số kiến thức đơn giản về
thiên nhiên và sinh hoạt xã hội xung quanh, củng cố và tổng hợp những kiến
thức của các bài học khác. Từ đó, vốn hiểu biết và vốn từ của trẻ ngày càng
được phong phú và chính xác hơn. Ví dụ: trứng vịt thì nở ra vịt con ("Quả
trứng"), lửa thì ấm áp ("Thồ ngoan), trái thị thì có mùi thơm ("Quả thị"), Vịt thì
biết bên, gà thì dùng chân bới được đất ("Đôi bạn khô"), chim thì có cánh và
bay trên trái, cá thể bơi dưới tước (chim và cá), gà thì ăn thóc (thơ "Con gà")
hoa cà thì có màu tim tím, hoa huệ có màu trắng ("Hoa nở")...

Ở tuổi mẫu giáo, ý nghĩa của việc mở rộng sự hiểu biết cho trẻ về văn
học ở mỗi lĩnh vực bao gồm việc trang bị một số kiến thức như sau:

Về tự nhiên:

Các tác phẩm viết về đề tài này đã thông qua các hình tượng nghệ
thuật có khi là nhỏ bé, ngộ nghĩnh, có lúc là kì ảo, bất ngờ để giúp trẻ:
+ Làm quen và có được những hiểu biết ban đầu một cách khoa học,
chính xác theo quan niệm duy vật biện chứng về các hiện tượng thiên nhiên,
về đặc điểm thời tiết và các mùa trong năm.

+ Cung cấp, củng cố, mở rộng sự hiểu biết về tên gọi, đặc điểm màu
sắc, hình dáng, đặc điểm thức ăn, môi trường sống và quá trình sinh trưởng
của các loài cây và con trong thế giới động vật và thực vật.

THỰC HÀNH

Bạn hãy kể tên các TPVH viết về đề tài thiên nhiên về súc vật và cỏ cây
có trong chương trình Chăm sóc - giáo dục trẻ từ 3 đến 6 tuổi mà bạn biết và
xác định ý nghĩa của chúng trong việc mở rộng sự hiểu biết cho trẻ về thế giới
thiên nhiên?

Về xã hội:

Thần thoại và truyền thuyết cùng các bài đồng dao dân gian, với những
những hình tượng bay bổng, kì vĩ sẽ đem lại cho trẻ sự hiểu biết về cuộc
sống lao động và đấu tranh chống thiên nhiên, chống ngoại xâm, cùng các
phong tục, tập quán của cha ông ta từ xa xưa. Truyện đồng thoại, truyện ngắn
và các bài thơ viết về đề tài sinh hoạt xã hội sẽ cung cấp những hiểu biết về
các chuẩn mực đạo đức của con người và hiện thực cuộc sống sôi động đang
diễn ra trong xã hội của chúng ta.

THỰC HÀNH

Bạn hãy thử nêu ý nghĩa của việc mở rộng sự hiểu biết cho trẻ về xã
hội qua các truyện "Thánh Gióng", "Sơn Tinh Thuỷ Tinh, "Sự tích bánh chưng
bánh dày", "Bác Gấu Đen và hai chú Thỏ", "Chú Dê Đen"... (Chương trình
CSGD từ từ 3 đến 6 tuổi)

Về ngôn ngữ và các quá trình tâm lí

Có thể nói rằng, việc cho trẻ làm quen với TPVH ở trường MN mang lại
ý nghĩa lớn lao trong việc góp phần phát triển năng lực nhận thức cho trẻ. Bởi
vì, quá trình này góp phần phát triển ngôn ngữ và phát triển các quá trình tâm
lí của trẻ.

Văn học dùng ngôn ngữ làm chất liệu để xây dựng các hình tượng
nghệ thuật phản ánh hiện thực của cuộc sống. Trẻ nhỏ do chưa biết chữ nên
việc tiếp nhận TPVH phải thông qua người lớn. Khi nghe đọc, kể TPVH, trẻ
cần phải tưởng tượng tái tạo các hình ảnh được ngôn ngữ thể hiện, phải sắp
xếp, phân tích các hình ảnh đã tường tượng ra để hiểu và đánh giá đúng về
các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Vì thế, có thể nói rằng, quá trình
tiếp nhận, lĩnh hội giá trị của TPVH sẽ tạo điều kiện cho trẻ có cơ hội phát
triển khả năng chú ý, xúc cảm tướng tượng, tư duy, trí nhớ. Trong quá trình
này, trẻ cũng được phát triển khả năng nghe, nói và phát triển vốn từ cả về số
lượng và chất lượng. Đồng thời, trẻ cũng học được nhiều mẫu câu, nhiều
cách diễn đạt súc tích, mạch lạc. Các nhà giáo dục từ lâu đã khẳng định rằng,
ngôn ngữ nghệ thuật có ảnh hướng lớn lao đến sự phát triển ngôn ngữ (bao
gồm cả phát âm, ngữ pháp và vốn từ) của trẻ.

Văn học có vai trò quan trọng trong việc góp phần mở rộng sự
hiểu biết về thế giới xung quanh, đồng thời góp phần phát triển năng lực
nhận thức cho trẻ.

Văn học góp phần giáo dục đạo đức cho trẻ

TPVH luôn mở ra trước mắt trẻ một thế giới tâm hồn phong phú, khơi
gợi và kích thích trẻ đến với những đặc tính riêng biệt của nhân cách và bước
vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Chính trong quá trình làm quen với các
TPVH, trẻ sẽ làm quen và học cách biết đồng cảm với các nhân vật trong mỗi
tác phẩm, đồng thời, bắt đầu chú ý tới thái độ, linh cảm của những người gần
gũi xung quanh. Đây chính là cơ sở để dần hình thành những xúc cảm, tình
cảm lành mạnh ở trẻ. "Thực tế đã chỉ ra rằng, những đứa trẻ được giáo dục
dựa trên những tấm gương thông qua những hình tượng nhân vật văn học
điển hình, mẫu mực về tính nhân văn thì trong các câu chuyện của mình, trẻ
luôn thể hiện mình là người công bằng, hay bảo vệ những người bị xúc phạm,
yếu đuối và lên án những kẻ độc ác. "
Việc cho trẻ làm quen với văn học thường được bắt đầu bằng cách
hướng dẫn trẻ làm quen với các TPVH dân gian, như ca dao, tục ngữ, các
truyện thần thoại và cổ tích... Sau đó là những truyện ngắn, những bài thơ
phù hợp, gần gũi với trẻ. Các TPVH dân gian mang đến cho trẻ nhỏ những
bài học gì?

Thần thoại, thể loại văn học ra đời sớm nhất của con người, với những
hình tượng kì vĩ, bay bổng, giàu tính thẩm mĩ, cùng các vị thần và bán thần sẽ
góp phần chắp cánh cho trí tưởng tượng và nuôi dưỡng ước mơ của trẻ.

Truyền thuyết, với những nhân vật lịch sử trong đấu tranh của dân tộc
chống giặc ngoại xâm, là một trong những phương tiện giáo dục truyền thống
yêu nước, lòng tự hào dân tộc, lòng biết ơn, cảm phục của trẻ nhỏ với các
anh hùng có công trong công cuộc giữ gìn và bảo vệ Tổ quốc.

Truyện cổ tích dân gian, với lối kết thúc có hậu cùng những nhân vật
chính diện luôn chăm chỉ lao động, giàu lòng dũng cảm, luôn bảo vệ những
người bất hạnh, nghèo khổ, và với nội dung tư tưởng sâu sắc, sẽ mang lại
cho trẻ nhỏ những bài học về lòng nhân hậu, về tình bạn chân thành, lòng
dũng cảm và sự lạc quan. Những nội dung này sẽ góp phần hình thành ở trẻ
thái độ biết chia sẻ, cảm thông, đồng tình, yêu mến cái thiện, lên án và phản
đối sự bất công.

Ca dao dân gian luôn ngợi ca lao động và cảnh đẹp của quê hương đất
nước, ngợi ca tình cảm yêu thương, gắn bó của mọi người trong gia đình và
cộng đồng sẽ mang lại cho trẻ những bài học đầu tiên, cần thiết về tình yêu
quê hương, tình yêu lao động, tình yêu cha mẹ, ông bà và những người thân.

Qua bao nhiêu thế kỉ, truyện kể và thơ ca dân gian đã khéo léo và
tình cảm giúp cho trẻ nhỏ gần gũi với vốn văn hoá cao quý của dân tộc.

THỰC HÀNH

Bạn hãy nêu một TPVH dân gian Việt Nam có thể kể cho trẻ nghe mà
bạn yêu thích. Theo bạn tác phẩn đó mang lại ý nghĩa gì về việc giáo dục đạo
đức cho trẻ nhỏ?
Các TPVH viết dành cho trẻ em mang lại ý nghĩa gì? Các bài thơ, câu
chuyện viết về đề tài sinh hoạt, về người thật việc thật, về lãnh tụ... luôn thể
hiện những mong muốn chân thành của các nhà văn, nhà thơ đối với trẻ. Họ
mong sao cho trẻ nhỏ lớn lên sẽ là những người khoẻ mạnh, có những phẩm
chất tốt đẹp của con người mới theo năm điều Bác dạy, biết yêu kính và nhớ
ơn các anh hùng và lãnh tụ của dân tộc.

Các tác phẩm viết về súc vật, cỏ cây mang lại cho trẻ những bài học về
tình yêu và thái độ biết chăm sóc, bảo vệ thiên nhiên cùng súc vật, cỏ cây
trong thế giới xung quanh.

Có thể nói rằng, "...TPVH thiếu nhi giúp trẻ xác lập một thái độ đối với
các hiện tượng của cuộc đời xung quanh, đối với các hành vi của con người
và giúp cho việc giáo dục những cơ sở về đạo đức cộng sản chủ nghĩa. (V.V
Septsenko - "Đọc và kể chuyện văn học ở vườn trẻ") Cùng với ý nghĩa to lớn
trong việc hình thành ở trẻ những phẩm chất tốt đẹp, cần có của mỗi con
người, việc tiếp nhận TPVH còn giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp ngân vang
về âm thanh và ý nghĩa của từ, của câu trong ngôn ngữ dân tộc. Từ đó góp
phần hình thành ở trẻ tình cảm yêu mến, trân trọng và giữ gìn tiếng Việt. Vì
thế, cần giáo dục lòng yêu ngôn ngữ nghệ thuật cho trẻ nhỏ từ tuổi ấu thơ.
Đây chính là cơ sở giúp trẻ giữ mãi tình yêu đối với văn học nước nhà. Nhiều
nhà giáo dục MN đã nhận định rằng, tình yêu thiên nhiên vốn là khởi điểm của
lòng yêu nước, còn tình yêu tiếng mẹ đẻ sẽ có vai trò to lớn trong việc giáo
dục tình yêu Tổ quốc cho trẻ.

Bằng tiếng nói riêng của mình, văn học tác động vào trái tim giàu
tình cảm của trẻ thơ một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng sâu sắc để rồi
dạy trẻ bao điều hay và lẽ phải. Đó chính là những bài học đầu tiên về
đạo đức nhưng cơ bản, cần có ở mỗi con người trong suốt cuộc đời.
Văn học góp phần giáo dục thẩm mĩ cho trẻ

Văn học ảnh hưởng to lớn đến việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.

Trước hết, thông qua việc làm quen với các TPVH, trẻ cảm nhận được
vẻ đẹp ngân vang cả về âm thanh và ngữ nghĩa của ngôn ngữ văn học, cảm
nhận được vẻ đẹp trong các những hình tượng nghệ thuật tươi sáng, trong
những vần thơ giàu nhạc điệu và chuẩn xác, biểu cảm. Từ đó, trẻ cảm nhận
được vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên và hành vi ứng xử của con
người trong giao tiếp trong cuộc sống nói chung. Đồng thời văn học cũng giúp
trẻ nhận ra được và phê phán, tránh xa những điều chưa hay, chưa đẹp trong
tình cảm, trong cách cư xử hằng ngày của con người.

Có thể bắt gặp hàng loạt những bài thơ, câu chuyện có trong chương
trình truyện - thơ như "Hoa kết trái", "Trăng ơi... từ đâu đến", "Trăng sáng",
"Bác Gấu đen và hai chú Thỏ", "Củ cải trắng"... tạo được sức hấp dẫn và lôi
cuốn trẻ bởi những hình ảnh trong sáng, từ ngữ giàu âm thanh và nhịp điệu,
bởi những hình tượng nhân vật vừa quen thuộc vừa lạ lẫm. Và rồi từ đó, bằng
chính trái tim mình, trẻ sẽ tiếp nhận vẻ đẹp của sự phong phú về tên gọi và
màu sắc của các loại hoa trong thiên nhiên, vẻ đẹp của ánh trăng, vẻ đẹp của
lòng tết và sự vị tha, của sự quan tâm và thái độ ân cần biết chia sẻ và sẵn
sàng giúp đỡ người khác khi khó khăn, hoạn nạn...

Khẳng định ý nghĩa giáo dục thẩm mĩ của văn học, A.B. Zapadogiet,
nhà tâm lí học trẻ em (người Nga) đã viết: "ý nghĩa to lớn của giáo dục thẩm
mĩ hợp lí thông qua việc cho trẻ làm quen với văn học không chỉ ở chỗ nó
hình thành ở trẻ kiến thức, kĩ năng hoặc quá trình tâm lí riêng lẻ mà ở chỗ nó
thay đổi thái độ của trẻ đối với hiện thực khách quan, tác động đến sự hình
thành các động cơ hoạt động cao hơn. "

Văn học là phương tiện giao tiếp, giải trí và liệu pháp y tế

Nội dung của các TPVH được làm quen cùng nhưng cảm xúc dâng trào
về các hình tượng nhân vật trong tác phẩm có tác dụng giải toả những khó
chịu, buồn bực trước đó, đồng thời thúc đẩy trẻ có nhu cầu chia sẻ, trò
chuyện cùng cô và bạn bè. Vì thế, có thể nói rằng, văn học là phương tiện
giao tiếp, giải trí và liệu pháp y tế của trẻ.

THỰC HÀNH
Bạn hãy trao đổi và chia sẻ cách hiểu của bạn về các ý nghĩa này một
cách cụ thể với các bạn trong lớp. Lấy ví dụ minh hoạ nề các ý nghĩa đó.

Văn học không đem lại những kiến thúc cụ thể, chính xác như các
môn khoa học cơ bản. Thông qua các hình tượng nghệ thuật được xây
dựng bằng ngôn ngữ, văn học góp phần mở rộng sự hiểu biết của trẻ về
thế giới xung quanh, giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn ngữ, cảm
nhận cái đẹp của thiên nhiên và hành vi cư xử của con người. Đồng thời
văn học làm phong phú thêm cho biểu tượng về cuộc sống xung quanh,
phát triển khả năng tưởng tượng, tư duy, trí nhớ ngôn ngữ của trẻ, từ
đó giáo dục trẻ tình yêu thiên nhiên, súc vật cỏ cây và yêu quí tiếng mẹ
đẻ.

NHIỆM VỤ CỦA VIỆC CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI TPVH

Truyền cho trẻ cảm xúc và tình yêu văn học

Trẻ nhỏ vốn giàu cảm xúc. Văn học, do đặc trưng riêng của mình, đến
với con người nói chung và trẻ nhỏ nói riêng bằng con đường tình cảm, bằng
sự cảm nhận từ trái tim. Vì thế, việc tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với
TPVH, nhất thiết phải tạo cho trẻ tâm thế thoải mái, tích cực, tự tin, phải tạo
nhiều cơ hội để trẻ bộc lộ cả cảm xúc bên trong lẫn cảm xúc bên ngoài về các
hình tượng nghệ thuật có trong tác phẩm. Từ đó, người dạy văn học cần tạo
ra ở trẻ một mong muốn được nghe đọc, kể TPVH, được tham gia vào các
hoạt động nghệ thuật ở trường mẫu giáo như đóng kịch, kể chuyện, đọc thơ
cho cô và các bạn nghe. Đó chính là giáo dục về tình yêu đối với văn học.

Giúp trẻ tiếp nhận giá trị nội dung và nghệ thuật của TPVH

Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống. Vì thế, văn học là một trong
những hình thức nhận thức thế giới hấp dẫn của trẻ. Khi cho trẻ làm quen với
mỗi TPVH cụ thể, giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các
phương pháp, biện pháp dạy học để giúp trẻ nắm bắt được các nhân vật
cùng những hành động và động cơ hành động của nhân vật được thể hiện
trong các câu chuyện, nắm bắt được hình ảnh trung tâm cùng các hình ảnh
tiêu biểu trong các bài thơ được làm quen. Thông qua văn học, giáo viên phải
giúp trẻ nhận ra những hình thức biểu đạt tinh tế, giàu hình ảnh và sống động
của câu, của từ ngữ trong tiếng mẹ đẻ, góp phần mở rộng sự hiểu biết về thế
giới xung quanh, bồi dưỡng năng lực nhận thức, giáo dục những phẩm chất
đạo đức, ước mơ cao đẹp và tình cảm thẩm mĩ lành mạnh cho trẻ.

Hình thành và phát triển khả năng cảm thụ văn học cho trẻ

Trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với văn học, chúng
ta cần tạo điều kiện để từng bước hình thành và rèn luyện cho trẻ nhỏ khả
năng biết rung cảm, khả năng tự cảm nhận và tự lĩnh hội cái hay, cái đẹp,
nhất là cái đẹp trong tâm hồn con người trong quá trình trẻ được nghe và tiếp
nhận tác phẩm. Nhiệm vụ này gắn liền với yêu cầu mở rộng vốn từ và kinh
nghiệm sống cho trẻ, bởi vì, sự phong phú về vốn từ và kinh nghiệm sống là
cơ sở để trẻ tưởng tượng tái tạo và tư duy trong quá trình tiếp nhận giá trị của
TPVH.

“Khi đứa trẻ tự cảm nhận được những ngôn từ thì chính những ngôn từ
đó đã giải thích cho đứa trẻ về thiên nhiên mà không cần bất kỳ lối diễn giải
nào khác. Những ngôn từ đó cũng sẽ giúp trẻ làm quen với những đặc tính về
con người, về thế giới xung quanh, về xã hội mà chúng ta đang sống, về lịch
sử cũng như về những thành quả của con người mà không một nhà lịch sử
nào có thể ghi chép được.” (K.Đ. Usinxki)

Phát triển ngôn ngữ và rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ cho
trẻ

Trong quá trình tham gia vào hoạt động làm quen với văn học, dưới sự
dẫn dắt của giáo viên, trẻ sẽ lắng nghe và thảo luận cùng cô và bạn về các
hình tượng nghệ thuật có trong tác phẩm và bày tỏ nhưng suy nghĩ của bản
thân. Chính trong quá trình này, giáo viên cần chú ý hướng dẫn và hình thành
ở trẻ khả năng biết sử dụng ngôn ngữ văn học trong việc bày tỏ cảm xúc và
suy nghĩ của cá nhân một cách biểu cảm và mạch lạc, trong việc kể chuyện
về các hiện tượng, cảnh vật xung quanh.
Hình thành ở trẻ khả năng hoạt động cá nhân và hoạt động tập thể

Nhiệm vụ này yêu cầu giáo viên giúp trẻ rèn luyện khả năng hoạt động
độc lập (biết tự lựa chọn các phương tiện, đồ dùng và vật liệu để thể hiện
cảm nhận của cá nhân về TPVH). Đồng thời cần hình thành ở trẻ kĩ năng phối
hợp, hợp tác trong các hoạt động tập thể, hoạt động nhóm (biết thực hiện
nhiệm vụ của mình và chia sẻ khó khăn với bạn trong nhóm, biết đánh giá khả
năng thể hiện nghệ thuật của bản thân và người khác khi tham gia hoạt động
làm quen với TPVH...).

Các nhiệm vụ của việc cho trẻ làm quen với TPVH trình bày trên đây có
mối quan hệ chặt chẽ. Tạo lập cảm xúc và tình yêu văn học là nội dung của
nhiệm vụ đầu tiên, nhưng cũng là kết quả có được của việc thực hiện tết các
nhiệm vụ sau. Ngược lại; quá trình giáo dục việc tiếp nhận giá trị nội dung và
nghệ thuật của TPVH sẽ đòi hỏi và tạo ra những cơ hội cho trẻ trải nghiệm,
thực hành các kĩ năng hoạt động độc lập và phối hợp cùng cô và các bạn,
thực hành kĩ năng sử dụng ngôn ngữ..., từ đó hình thành tình yêu với văn
học.

Văn học là món ăn tinh thần không thể thiếu và là một trong những cách
thức nhận biết thế giới hấp dẫn của trẻ thơ. Vì thế, trường MN cần phải
tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với văn học. Tuy nhiên, văn học chỉ
có thể là món ăn tinh thần và hấp dẫn trẻ khi mỗi giáo viên MN có ý thức
rằng, trẻ nhỏ không chỉ cần học thuộc những ngôn từ có trong các
TPVH, mà còn cần có cách học chúng, tin tưởng vào lời nói cua giáo
viên - người không cho dạy chúng nhiều điều hay, mà còn giúp chúng
hiểu được tác phẩm một cách dễ dàng và thoải mái.

CÂU HỎI

1. Hãy phân tích một vài TPVH dành cho trẻ MN, và chỉ ra các ý nghĩa cơ
bản của tác phẩm đó đối với sự phát triển toàn diện của trẻ về các mặt
nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, phương tiện giao tiếp, giải trí và liệu
pháp y tế.
2. Hãy thảo luận cùng các bạn trong nhóm để xác định mối quan hệ giữa
các nhiệm vụ của việc tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH.

3. Theo bạn, ngoài các nhiệm vụ trên đây trong tổ chức hoạt động cho trẻ
làm quen với TPVH, có cần đưa thêm nhiệm vụ nào không? Nếu có,
hãy chia sẻ cùng các bạn trong nhóm học tập của bạn.

TÌM ĐỌC

1. M.K. Bogoliupxkaia và V.V. Septsenko, "Đọc và kể chuyện văn học ở


vườn trẻ", NXB Giáo dục, 1978, trang 3 -15.

2. Nhiều tác giả, "Văn học trẻ em", NXB Kim Đồng, 1986.

3. Ngô Thị Thái Sơn (sưu tầm và giới thiệu), "Những bài viết về văn học
dành cho trẻ thơ", Trường CĐSPMGTW3, 2004 - Lưu hành nội bộ.

4. Nguyễn Thu Thuỷ, "Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ", NXB
Giáo dục, 1986, trang 5 - 13.

5. Nguyễn Ánh Tuyết, "Giáo dục mầm non - những vấn đề lí luận và thực
tiễn", Phần V, "Giáo dục thẩm mĩ", NXB Đại học Sư phạm Hà Nội,
2004, trang 233 - 274.

Bài 2: ĐẶC ĐIỂM CẢM THỤ VĂN HỌC CỦA TRẺ TRONG HOẠT ĐỘNG
LÀM QUEN VỚI TPVH
Bài này sẽ giúp bạn:

1. Trình bày được các giai đoạn của quá trình cảm thụ văn học và các yếu
tố định hướng đến khả năng cảm thụ văn học của trẻ MN.

2. Trình bày và lấy được ví dụ ninh hoạ về đặc điểm chung và những biểu
hiện cảm thụ văn học của trẻ MN.

3. Giải thích được một số nguyên tắc cơ bản cần chú ý của việc vận dụng
các phương pháp, biện pháp và cách thức tổ chức hoạt động cho trẻ
làm quen với TPVH.
4. Trình bày được cơ sở, mức độ và những biểu hiện sáng tạo của trẻ
trong hoạt động làm quen với TPVH.

CẢM THỤ VĂN HỌC VÀ CÁC GIAI ĐOẠN CỦA CẢM THỤ VĂN HỌC

THỰC HÀNH

Chắc chắn bạn đã từng đọc không ít các TPVH và tiếp nhận được điều
gì đó từ chính các trang viết ấy. Vậy theo bạn cảm thụ văn học là gì?

Cảm thụ văn học là gì?

Cảm thụ văn học là một hoạt động có cấu trúc tâm lí phức tạp, bao gồm
tưởng tượng, tư duy, xúc cảm và mang tính độc đáo riêng ở từng người. Từ
những góc độ khác nhau, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về cảm thụ văn
học.

Ở góc độ tâm lí, cảm thụ văn học là hình ảnh tâm lí được tạo ra bởi
cảm xúc bên trong và sự rung cảm của cá nhân con người trước TPVH.

Ở góc độ giáo dục, cảm thụ văn học là sự tiếp nhận mang tính chủ
quan của cá nhân con người những tác động của TPVH.

THỰC HÀNH

Bạn hãy gạch chân cụm từ hoài toàn giống nhau trong hai cách định
nghĩa trên. Cụm từ đó có gợi cho bạn suy nghĩ gì về đặc điểm của cảm thụ
học không?

Các giai đoạn của cảm thụ văn học

Cảm thụ văn học là quá trình trọn vẹn dựa trên mến quan hệ qua lại
giữa hai yếu tố nhận thức và cảm xúc. Nghiên cứu quá trình đọc và cảm thụ
văn học của đã giả, nhiều nhà tâm lí cho rằng, quá trình này được cho làm ba
giai đoạn:

Giai đoạn tri giác trực tiếp TPVH


Đây là giai đoạn mà người lớn biết chữ sẽ trực tiếp đọc tác phẩm còn
trẻ nhỏ chưa biết chữ sẽ nghe cô giáo hoặc người lớn đọc, kể tác phẩm.

Trong giai đoạn này, người lớn cũng như trẻ nhỏ sẽ đặt mình vào vị trí
của nhân vật chính diện để dõi theo và hình dung, tái tạo ra các hình ảnh
riêng lẻ mà ngôn ngữ của tác phẩm thể hiện. Vì thế, ở giai đoạn này, tưởng
tượng giữ vai trò chủ đạo. Gắn liền với mỗi hình ảnh được tưởng tượng sẽ là
những xúc cảm tương ứng. Từ đó mà người đọc, người nghe có được những
cảm nhận chung nhất về TPVH. Các nhà tâm lí cho rằng, đây chính là giai
đoạn độc giả chuyển lời văn thành hình ảnh.

THỰC HÀNH

Theo bạn, ở giai đoạn 1, trẻ nhỏ sẽ tiếp nhận TPVH thông qua các giác
quan nào? Tại sao?

Giai đoạn hiểu TPVH

Đây là giai đoạn mà độc giả sẽ đánh giá chung về tác phẩm đã đọc
(hoặc đã nghe), suy ngẫm về chủ đề tư tưởng của tác phẩm đối với xã hội và
đối với bản thân. Vì thế, ở đây tư duy khái quát bằng hình ảnh giữ vai trò chủ
đạo. Tuy nhiên, tư duy được dựa trên cơ sở của tình cảm và ngược lại, quá
trình tư duy để thấu hiểu tác phẩm sẽ củng cố và làm phong phú hơn, sâu sắc
hơn tình cảm của độc giả.

Cùng với tri giác trực tiếp (giai đoạn 1) và sự đánh giá tác phẩm (giai
đoạn 2) là việc thấu hiểu giá trị thẩm mĩ của ngôn ngữ trong TPVH ở các mức
độ khác nhau. Trong giai đoạn 1, đó là sự thấu hiểu ở dạng xúc cảm trực tiếp
mang tính đạo đức thẩm mĩ (cảm xúc trước cái tết cái xấu cái đẹp) ở giai
đoạn 2, sự thấu hiểu ngôn ngữ của tác phẩm lại ở dạng suy ngẫm trên cơ sở
so sánh, phân tích, đối chiếu các sự kiện, đã tưởng tượng được ở giai đoạn
1. Để giúp trẻ tiếp nhận tốt TPVH được làm quen, ở giai đoạn này, giáo viên
cần trò chuyện với trẻ bằng một hệ thống câu hỏi có mục đích.

THỰC HÀNH
Theo báo, vì sao ở giai đoạn này để giúp trẻ tiếp nhận tôi TPVH, giáo
viên cẩn trò chuyện với trẻ bằng một hệ thống câu hỏi có mục đích? Tại sao
không để trẻ tự tiếp nhận TPVH?

Giai đoạn ảnh hưởng của TPVH đến độc giả

Ở giai đoạn này, trên cơ sở đã hiểu nội dung của tác phẩm, người đọc,
người nghe sẽ tự rút ra kết luận và sự đánh giá chung về giá trị giáo dục của
tác phẩm. Với ý nghĩa giáo dục này, những TPVH chân chính luôn tạo ra
những biến đổi nhất định trong nhân cách của người thưởng thức.

Ở trẻ nhỏ, ảnh hưởng của TPVH thường được thể hiện trong các sản
phẩm của hoạt động tạo hình, trong nội dung của trò chơi và trong nội dung
câu chuyện trẻ kể lại sau khi được làm quen với TPVH...

“Trẻ mẫu giáo yêu thích chuyện kể về những điều tốt ý nghĩa và xúc
cảnh về câu chuyện không dứt ngay sau khi được nghe kể thà còn tiếp tục
xuất hiện trong các hành động kế tiếp của trẻ như kể lại truyện, chơi và vẽ.”
(A.B. Zapadogiet)

THỰC HÀNH

Hãy nêu vài ba ví dụ cho thấy anh hưởng của TPVH với hành vi của trẻ
nhỏ mà bạn biết.

ĐẶC ĐIỂM CẢM THỤ VĂN HỌC CỦA TRẺ MN

Đặc điểm chung

Bạn hãy đọc kì các ví dụ sau đây:

− Tại lớp cơm thường (từ 24 đến 36 tháng tuổi), bọn trẻ đang nghe cô
giáo đọc bài thơ "Con voi. Tất cả đều tỏ rõ sự thích thú, cười và đưa tay chỉ
chỉ hoặc nhịp nhịp theo nhịp câu thơ giống như cô giáo. Thậm chí có bé còn
ngả cả người ra sau thành ghế và giậm chân rất mạnh khi thấy cô giáo giậm
nhẹ hai chân khi đọc câu thơ "Hai chân sau đi sau”…
− Ở một lớp học khác, bọn trẻ (từ 3 đến 4 tuổi đang chăm chú nghe cô
giáo kể câu chuyện “Heo con học nói”. Mỗi khi cô kể tới đoạn văn được áp đi
lặp lại nhiều lần: "Heo con lại nói: "ụt ịt! ụt ịt tư là bọn thổ lại tỏ ra thích thú
nhìn nhau cười vang. Một số bé gái vừa cười vừa lắc đầu qua lại và thậm chí
là kẻo cả vạt váy đang mặc đội lên đầu".

− Bé Hà (4 tuổi) đang nghe mẹ kể chuyện “Tích Chu”. Suốt đoạn đầu


câu chuyện, bé yên lặng và chăm chú. Khi nghe tới đoạn Tích Chu hốt hoảng
gọi: "Bà ơi, bà đi đâu? Bà ở lại với cháu, cháu sẽ lấy nước cho bà uống, bà
ơi!” thì bé kéo tay mẹ, giữ lại rồi thở dài nét mặt tỏ rõ sự lo lắng rồi hỏi cắt
ngang lời kể của mẹ: "Mẹ ơi, bà có về nhà nữa không?”…

− Tại lớp học, bọn trẻ (từ 4 đến 5 tuổi) đang chăm chú nghe cô kể
chuyện "Thỏ và Nhím. Mỗi khi cô kể tới câu nói của Nhím với Thỏ "Ta đây cơ
mà!" là chúng tỏ rõ sự vui sướng, cười và vỗ tay tán thưởng (cho dù cô giáo
luôn "tặc lưỡi" yêu cầu trẻ phải im lặng).

THỰC HÀNH

Những ví dụ trên đây có cho bạn một nhận xét gì về đặc điểm chung
trong cảm thụ văn học của trẻ MN không?

Cảm thụ văn học của trẻ MN gắn liền với sự phát triển tâm lí và có liên
quan mật thiết đến vốn từ và kinh nghiệm sống của trẻ. Vì thế, trẻ càng lớn,
khả năng cảm thụ văn học càng tốt hơn. Tuy nhiên, từ những quan sát về
biểu hiện của trẻ khi tham gia vào hoạt động làm quen với văn học, các nhà
tâm lí ghi nhận được hai đặc điểm chung là:

- Trẻ tiếp nhận TPVH một cách hồn nhiên, bộc phát, ngây thơ, không
bị ràng buộc bởi lí trí, kinh nghiệm và khuôn mẫu.

- Tưởng tượng phát triển mạnh và thường bộc lộ đồng thời cả cảm
xúc bên trong lẫn cảm xúc bên ngoài.

THỰC HÀNH
Từ những đặc điểm chung về cảm thụ văn học của trẻ trên đây, theo
bạn, giáo viên có thể yêu cầu trẻ phải ngồi im lặng để chú ý nhìn trà nghe cô
trong suốt quá trình tham gia hoạt động khám phá và tiếp nhận TPVH được
không. Những biểu hiện bên ngoài nào ở trẻ giúp nhà giáo dục xác định được
sự tích cực tiếp nhận văn học khi nghe cô đọc, kể TPVH?

Đặc điểm cảm thụ truyện của trẻ MN

Trẻ từ 24 đến 36 tháng

Bé Quốc Anh (34 tháng) đã đầy tự tin nói như sau khi trả lời câu hỏi:
"Tại sao con lại ghét con Cáo (Truyện "Đôi bạn nhỏ - chương trình GDMN từ
24 đến 36 tháng): vì con Cáo nó ăn thịt gà con và hôm trước nó còn đến nhà
con và ăn thịt con nữa đó...".

THỰC HÀNH

Hãy đọc lại câu chuyện "Đôi bạn nhỏ và theo bạn, câu trả lời của bé
Quốc Anh có đúng không? Nguyên nhân nào khiến bé Quốc Anh trả lời như
trên? Tại sao bạn nghĩ như vậy?

Dưới sự giúp đỡ của cô nhằm giúp cho trẻ nhớ, nói một câu dài và có
cảm xúc khi kể lại câu chuyện "Thỏ ngoan (Chương trình CSGD trẻ từ 24 đến
36 tháng), giáo viên kẻ một chiếc ghế bên cạnh chậu bông để làm nhà cho
Thỏ, nhà của Cáo là một chiếc thùng giấy lớn đựng ti vi được cắt một lỗ làm
cửa sổ có thể đóng mở được khi chơi, tất cả các bé đều thích làm con Cáo
gian ác không thích đóng làm Thỏ, dù Thỏ là nhân vật mà bé rất yêu thích khi
nghe cô kể chuyện.

THỰC HÀNH

Theo bạn, trong ví dụ liêu trên vì sao trẻ lại thích đóng trai Cáo? Có
phải vì trẻ thích tính cách của nhân vật hay không? Từ đó, có thể nhận xét gì
đặc điểm cảm thụ truyện của trẻ từ 24 đến 36 tháng?

Do vốn từ và kinh nghiệm sống còn rất hạn chế, trẻ 24 - 36 tháng tuổi
chưa có khả năng phân biệt được hiện thực và hiện thực được phản ánh
trong các TPVH. Vì thế, trẻ có biểu hiện thích thú với những câu chuyện kể về
các nhân vật có nhiều hành động cụ thể (đi, chạy, nhảy...).

Khi làm quen với truyện, trẻ chủ yếu tri giác từ vựng và hành động của
các nhân vật trong truyện, chưa xác định được thời gian ở quá khứ và tương
lai. Cụ thể:

- Hiểu được nghĩa của từ, nắm bắt được tên cùng hành động chính
của các nhân vật.

- Bộc lộ cảm xúc mạnh nhưng không bền, dễ mất và đôi khi liên
tưởng quá xa.

- Cảm nhận được tính cách (hiền - dữ, ngoan - hư...) của nhân vật
dựa trên các hành động, việc làm cụ thể của nhân vật được nêu
trong truyện, thái độ, tình cảm của trẻ đối với nhân vật dễ bị thay đổi.

- Về ngôn ngữ, ở độ tuổi này, trẻ rất thích được nghe các truyện có
nhiều các từ tượng hình, tượng thanh. Vì chưa có khả năng nói và
hiểu câu dài, trí nhớ ngôn ngữ còn rất hạn chế nên trẻ chưa có khả
năng kể lại nội dung các câu chuyện đã được nghe cô kể mặc dù
câu chuyện không dài.

Đây là cuộc trò chuyện giữa cô và trẻ sau khi trẻ được nghe câu
chuyện "Thỏ ngoan" (chương trình CSGD trẻ từ 24 đến 36 tháng):

+ Con yêu ai trong câu chuyện này?

Bé A.T.:...yêu bạn Thỏ.

Bé H.V.: Con yêu Thỏ. (Mặc dù trước đó bé thực sự chỉ nghĩ đến nhân
vật bác Gấu.)

+ Con Cáo đáng yêu hay đáng ghét?

Bé T.H.:...đáng ghét.

+ Cáo đáng ghét hay đáng yêu?

Bé P.K.:... đáng yêu!


Cô hỏi lại: "Con yêu Cáo hả? Sao lại yêu Cáo?.

Bé P.K. đáp lí nhí: Con yêu Thỏ....

THỰC HÀNH

Dựa vào đặc điểm cảm thụ truyện của trẻ từ 24 đến 36 tháng trên đây,
hãy trao đổi cùng các bạn trong nhóm và thứ giải thích nguyên nhân dẫn tới
các câu trả lời của trẻ trong cuộc trò chuyện giữa cô và trẻ trên đây.

Bước qua tuổi mẫu giáo, phạm vi giao lưu của trẻ được mở rộng. Vì
thế, có thể thấy rằng, khả năng ngôn ngữ và kinh nghiệm sống của trẻ cũng
trở nên phong phú hơn kéo theo tưởng tượng tái tạo khi tiếp nhận TPVH cũng
dễ dàng hơn. Về tư duy, ở trẻ mẫu giáo cũng có bước phát triển mới: chuyển
từ tư duy trực quan hành động (tư duy diễn ra trong tình huống được tri giác
một cách trực quan và được thực hiện nhờ những hành động định hướng bên
ngoài với các đối tượng) sang tư duy trực quan hình tượng (tư duy được thực
hiện nhờ những hành động định hướng bên trong với các hình ảnh). Nhờ vậy,
trẻ mẫu giáo đã có khả năng cảm thụ tốt các hình tượng nghệ thuật được xây
dựng trong các TPVH. Tuy nhiên, cảm thụ văn học ở từng độ tuổi cũng có
những được biểu hiện vội những mức độ khác nhau.

Trẻ từ 3 đến 4 tuổi

Khi nghe kể chuyện, trẻ ở độ tuổi này thường đặt mình vào vị trí của
nhân vật chính diện, tin tưởng dõi theo và chia sẻ những buồn vui của nhân
vật một cách chân thành, không có những thắc mắc trước các tình huống đặc
biệt.

− Có thể nắm bắt dễ dàng các sự kiện riêng lẻ, nhận biết được các mối
quan hệ đơn giản như quan hệ không gian (nơi xảy ra sự việc), quan hệ thời
gian (chuyện gì xảy ra trước, chuyện gì xảy ra sau) của TPVH. Tuy nhiên, khả
năng sắp xếp các chi tiết, sắp xếp các sự kiện riêng lẻ vào hệ thống để so
sánh, phân tích và hiểu sâu nội dung của truyện thì còn khó khăn.

− Về nhân vật: Trẻ dễ dàng nắm bắt được tên, hành động chính của
các nhân vật. Khi đánh giá về nhân vật trẻ thường dựa vào lời nói, việc làm
cụ thể của chính nhân vật được nêu trong tác phẩm mà chưa chú ý đến
nguyên nhân và động cơ sâu xa của hành động. Vì thế, quan hệ tình cảm của
trẻ với các nhân vật đôi khi không bền vững.

− Về ngôn ngữ: Trẻ chưa có khả năng hiểu nghĩa của các từ trừu
tượng và một số thủ pháp nghệ thuật được sử dụng trong các TPVH như so
sánh, ẩn dụ..., chưa có khả năng nhớ và tự kể lại trọn vẹn nội dung câu
chuyện đã được làm quen và cũng như trẻ từ 24 đến 36 tháng, trẻ ở độ tuổi
này thường trả lời không chính xác câu hỏi về tựa đề đối với những truyện có
tựa đề là tên các nhân vật trong truyện.

Trả lời câu hỏi: "Cô vừa kể truyện gì?" sau khi nghe kể truyện "Bác Gấu
Đen và hai chú Thỏ, bé T.H. (3 tuốt rưỡi): "Truyện bác Gấu; Bé A.V.: "Truyện
Thỏ Trắng; Bé P.K.: "Truyện Thỏ Nâu, Thỏ Trắng".

THỰC HÀNH

Đọc kĩ đặc điểm về cảm thụ truyện của trẻ từ 3 đến 4 tuổi, bạn hãy thử
giải thích nguyên nhân dẫn tới các câu trả lời về tựa đề truyện của trẻ trong ví
dụ trên.

Trẻ từ 4 đến 6 tuổi

Bé T. (5 tuổi) đang cùng các bạn nghe cô giáo kể truyện cổ tích "Cây
khế" (Chương trình CSGD trẻ từ 4 đến 5 tuổi nghe tới đoạn: "Hôm sau, chim
phượng hoàng bay tới cõng người em ra đảo lấy vàng" thì bé quay qua nói
với người bạn bên cạnh: "Chắc là con chim phải to lắm đấy!

THỰC HÀNH

Hãy trao đổi với người bạn cùng nhóm và thử giải thích vì sao bé T. lại
lợi với bạn như vậy khi đang nghe câu chuyện

Bé H.L. (5 tuổi rưỡi) từ trường MN trở vẽ đã "tâm sự" với mẹ như sau:
"Mẹ ơi, con không thích cô Tâm đâu vì lúc nào cô ấy cũng khóc lóc, khóc lóc
để chờ Bụt lên xin cái này các nọ!" (Nhân vật Tâm trong truyện cổ tích “Tấm
Cám” - Chương trình GDMN từ 5 đến 6 tuổi
Sau khi nghe cô kể truyện cổ tích "Tấm Cám, bé Từ.V. (5 tuổi rưỡi) đã
trả lời câu hỏi "Con yêu ai trong câu chuyện như sau: con thích cô Cám vì cô
Cám không phải làm gì thà chỉ đi chơi thôi..."

Bé A.Q. (5 tuổi) sau khi nghe kể câu chuyện "Chú Dê Đen" (Chương
trình GDMN từ 5 đến 6 tuần đã nói với cô giáo là: "Con thích Chó Sói vì Chó
Sói khoẻ mạnh, làm cho Dê Trắng phải run sợ".

THỰC HÀNH

Từ những ví dụ trên, theo bạn, có thể nói gì vẽ thái độ tình cảm của trẻ
(từ 5 đến 6 tuồn đối với các nhân vật trong các chuyện kể mà trẻ được làm
quen?

Theo bạn, nguyên nhân nào khiến trẻ ở độ tuổi này đôi khi lại thích các
nhân vật phản diện có trong các câu chuyện được làm quen?

Ở độ tuổi này, khi nghe cô kể chuyện, về cơ bản, trẻ cũng đặt mình vào
vị trí của nhân vật chính diện để dõi theo và chia sẻ tất cả những buồn vui của
nhân vật một cách chân thành nhưng đôi lúc ở trẻ còn nảy sinh những thắc
mắc trước những tình huống đặc biệt, không phù hợp với kinh nghiệm mà trẻ
đã có và cố gắng lí giải chúng theo cách "suy luận" của mình.

−Trẻ có khả năng nắm bắt được trình tự diễn biến của truyện, nắm bắt
được các sự kiện, các tình tiết quan trọng của truyện, nắm được các mối
quan hệ đa dạng hơn của TPVH (quan hệ nhân - quả, quan hệ cư xử...)

− Có khả năng nắm bắt được tính cách và mối quan hệ qua lại giữa
các nhân vật. Đặc biệt, ở độ tuổi này, trẻ còn cảm nhận được tính cách, tâm
trạng của các nhân vật qua việc nghe giọng người khác đọc hoặc kể tác
phẩm, biết sử dụng ngữ điệu phù hợp với tính cách của nhân vật.

− Khi đánh giá về nhân vật, trẻ đã không chỉ dựa vào những hành động,
lời nói cùng những cư xử của chính nhân vật được nêu trong tác phẩm mà
còn chú ý đến nguyên nhân, động cơ trực tiếp và sâu xa bên trong, chú ý đến
suy nghĩ, tâm trạng và tình cảm đa dạng của nhân vật. Trẻ MGL còn có khả
năng cảm nhận được tính cách nhân vật trong các TPVH khi nghe ngữ điệu
giọng nói của nhân vật được cô giáo thể hiện khi đọc, kể. Vì thế, thái độ tình
cảm của trẻ đối với nhân vật đã bền vững hơn và không dễ bị thay đổi. Tuy
nhiên, ở độ tuổi này, thái độ tình cảm đối với nhân vật của trẻ đã tương đối
phức tạp và đôi khi không theo đúng tư tưởng chủ đề của tác phẩm bởi vì,
thái độ, tình cảm này còn được xác định dựa trên những yếu tố chủ quan
như: mong muốn và sở thích của cá nhân trẻ, kết quả tiếp thu các bài học
giáo dục trong quá trình sống ở gia đình và trường mẫu giáo...

− Trẻ có khả năng đặt mình vào vị trí của nhân vật nhưng không phải
lúc nào cũng đồng ý với cách giải quyết của nhân vật mà tự đưa ra cách giải
quyết của chính mình.

Ví dụ: tự đặt mình vào vị trí của cậu bé Tích Chu trong truyện Tích Chu
và nghĩ là nếu bé là Tích Chu bé sẽ không bỏ đi chơi xa, bé sẽ chăm sóc khi
bà bị ốm. Hoặc đặt mình vào vị trí của cô Tấm trong truyện Tấm Cám và nghĩ
là sẽ bỏ đi xem hội mà không làm theo yêu cầu của dì ghẻ là ngồi ở nhà để
nhặt thóc và gạo đã bị bà ta trộn lẫn vào nhau như nhân vật Tấm trong truyện
đã làm.

THỰC HÀNH

Từ những ví dụ trên đây, theo bạn, giáo niên nên đặt câu hỏi như thế
nào để giúp trẻ (từ 4 đến 6 tuổi tiếp nhận được những bài học giáo dục đạo
đức mà TPVH mang lại một cách sâu sắc hơn).

Để trẻ tiếp nhận được những bài học đạo đức trong TPVH một cách
sâu sắc hơn, giáo viên nên đặt câu hỏi giúp trẻ có khả năng phân biệt (bằng
kinh nghiệm) các thể loại văn học (truyện cổ tích, truyện ngắn,...); phân biệt
được các sự kiện có thực và các tình tiết được hư cấu trong TPVH; nhận biết
được từng phần khác nhau của truyện (phần mở đầu, phần nội dung chính,
phần kết thúc). Hiểu được một số thủ pháp nghệ thuật như so sánh, miêu tả...
được các nhà văn sử dụng trong tác phẩm.

Hãy nghe bé T.H. (5 tuổi rưỡi) kể lại câu chuyện "Chú Dê Đen"
(Chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ từ 5 đến 6 tuổi): "Vào buổi sáng thì chú
Dê Trắng vào rừng để ăn cỏ. Có một con Chó Sói hung dữ bỗng xuất hiện.
"Mày đi đâu đấy? " - Dê Trắng sợ quá nói: "Tôi đi... đi ăn cỏ." - Sói lại quát
"Tim mày thế nào? - "Ôi, tôi sợ quá! " - Ha, ha. Thế là Sói ăn thịt chú Dê
Trắng rồi! - Một lúc sau thì chú Dê Đen xuất hiện, Sói lại nói "Dê Đen đi đâu?"
- "Tôi đi tìm kẻ gây sự đây? - "Chân mày đâu? - Dê đen không sợ nói: "Chân
tao bằng đồng. " - "Tim mày thế nào? " - Dê Đen nói: "Tao sẽ cắm đôi sừng
vào bụng mày đây. Mày lại đây!". Thế là con Sói sợ quá chạy ngay vào trong
rừng.

THỰC HÀNH

Hãy đọc lại truyện "Chú Dê Đen" và nêu nhận xét của cá nhân về nội
dung câu chuyện kể lại của bé T.H. so với bản gốc trong sách. Từ câu chuyện
bé T.H. kể lại trên đây, bạn có nhận xét gì về cách dùng từ và diễn đạt của trẻ
trong cảm thụ truyện?

Trẻ ít chú ý đến các phương tiện biểu hiện của văn học như các đoạn
văn hay, cách dùng từ độc đáo... Vì thế, khi kể lại truyện, trẻ thường biến đổi
ngôn ngữ truyện bằng từ ngữ của mình, thường hay rút gọn lời kể, không chú
ý đến phần mở đầu, phần kết thúc và các điệp khúc hay của tác phẩm.

ĐẶC ĐIỂM CẢM THỤ THƠ CỦA TRẺ MN

THỰC HÀNH

Đã bao giờ bạn đọc thơ cho trẻ nghe chưa? Theo bạn thơ và truyện có
những khác nhau cơ bản nào? Yếu tố nào kích thích sự chú ý của trẻ khi
nghe đọc thơ?

Thơ khác truyện ở chỗ, thơ ngắn gọn, có nhịp và vần. Quan sát trẻ MN
khi tiếp nhận thơ, các nhà tâm lí đều có chung một nhận định là, nhìn chung
trẻ nhỏ rất nhạy cảm với vần và nhịp của thơ.

Trẻ từ 6 tháng đến 2 tuổi


Ở độ tuổi này, trẻ bắt đầu phát ra những âm thanh đầu tiên, thích lặp đi
lặp lại một số từ hoặc âm theo một nhịp điệu nào đó (Ma ma ma... Măm măm
măm...) Đây là một trong những đặc điểm nhận thức đầu tiên về âm thanh
ngôn ngữ của trẻ. Thời gian này trẻ cũng dễ dàng bắt chước nhắc lại những
từ, những âm thanh được lặp đi lặp lại theo một nhịp điệu vui tai nhất định.
Đặc điểm này có ảnh hưởng tới việc cảm thụ thơ nhưng chưa phải là cảm thụ
thơ đích thực mà mới chỉ là tri giác về nhịp điệu của thơ.

Trẻ 2-3 tuổi

Trẻ ở độ tuổi này khi nghe thơ cũng chỉ dừng ở mức bị cuốn hút bởi
nhịp và vần của thơ mà chưa chú ý đến tri giác nội dung, chưa hiểu nội dung
của bài thơ. Trẻ ở độ tuổi này có thể đọc thuộc một bài thơ khoảng từ 4 đến 8
hàng nhưng do chưa chú ý đến nội dung của bài thơ và bộ máy phát âm của
trẻ cũng chưa hoàn chỉnh nên trẻ chưa có khả năng thể hiện cảm xúc về bài
thơ bằng giọng đọc của chính mình.

Trẻ từ 3 đến 6 tuổi

Bước qua tuổi mẫu giáo, vốn từ của trẻ tăng lên nhanh chóng cả về
danh từ, động từ, đại từ, tính từ... Vốn từ tăng lên không chỉ ở số lượng mà
cả về chất lượng. Trẻ hiểu được ý nghĩa của từ, hướng tới thực tại được biểu
hiện bằng từ, đặc biệt là trẻ còn chú ý đến cả hình thức âm thanh của từ. Vì
thế, trẻ mẫu giáo rất thích được nghe, được đọc đi đọc lại và dễ ghi nhớ, dễ
thuộc các bài thơ có vần điệu tươi sáng, nhịp điệu rõ ràng. Khi làm quen với
thơ, trẻ đã chú ý đến nội dung được thể hiện trong bài (Bài thơ tả cảnh gì?
Bài thơ kể chuyện về ai?...). Vì thế, trẻ dễ dàng trả lời được các câu hỏi về nội
dung của bài thơ và có khả năng thể hiện cảm xúc của trẻ về nội dung của bài
thơ qua giọng đọc của chính mình.

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG CẢM THỤ VĂN HỌC CỦA
TRẺ MN

THỰC HÀNH
Theo bạn, một đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở nông thôn và một đứa trẻ
sinh ra và lớn lên ở thành phố có thể tiếp nhận giá từ của TPVH giống nhau
không? Vì sao?

Theo bạn, những yếu tố nào có ảnh hướng đến khả năng cảm thụ văn
học của trẻ?

Môi trường

Môi trường xã hội

Môi trường xã hội ảnh hưởng đến khả năng cảm thụ văn học của trẻ
MN bao gồm môi trường gia đình và môi trường giáo dục ở trường MN.

− Môi trường gia đình: Thông thường, những đứa trẻ sinh ra trong gia
đình mà cha mẹ và những người thân xung quanh có thói quen và yêu thích
đọc sách, kể chuyện, làm thơ... và biết chia sẻ sự yêu thích đó cùng trẻ thì
khả năng cảm thụ văn học của những trẻ đó sẽ tốt hơn.

− Môi trường giáo dục ở trường MN: môi trường giáo dụ bao gồm:

+ Môi trường không gian: môi trường trong lớp họ và ngoài lớp
học cần hài hoà, gợi được cảm xúc thẩm mĩ ở trẻ.

+ Môi trường vật chất trang thiết bị: đồ dụng, giát cụ đồ chơi,
tranh ảnh... phải đa dạng, phong phú sinh động, phải được sắp xếp một
cách hài hoà phù hợp, có tính thẩm mĩ để gợi ở trẻ mong muối khám
phá, thể hiện cảm nhận về TPVH.

+ Môi trường tâm lí: thể hiện ở mối quan hệ tương tác giữa cô và
trẻ và giữa trẻ và các bạn. Cần tạo ra mối quan hệ thân thiện, cùng hợp
tác, chia sẻ giúp trẻ thể hiện được cái "tôi" của bản thân trong quá trình
làm quen với TPVH. Môi trường tâm lí tốt sẽ tạo ra ở trẻ sự nhạy cảm
trong cảm thụ văn học và sự tự tin trong quá trình khám phá, tiếp nhận
TPVH.

Môi trường tự nhiên


Môi trường tự nhiên bao gồm phong cảnh, các hiện tượng tự nhiên, thế
giới động thực vật... nơi đứa trẻ sinh ra và lớn lên.

Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến khả năng cảm thụ nghệ
thuật nói chung và khả năng cảm thụ văn học nói riêng của trẻ. Môi trường tự
nhiên càng phong phú và đa dạng thì sự nhạy cảm trong cảm thụ văn học
càng tốt. Thường thì, trẻ sinh ra và lớn lên ở các vùng miền khác nhau sẽ có
khả năng cảm thụ văn học khác nhau. Vì thế, thông thường những đứa trẻ
lớn lên ở thành thị khả năng tiếp nhận văn học sẽ không giống với những trẻ
lớn lên ở nông thôn hoặc ở miền núi.

THỰC HÀNH

Bạn thử lấy ví dụ chứng minh cho tác động của môi trường tự nhiên nơi
con người sinh ra và lớn lên, có ảnh hưởng đến khả năng cảm thụ văn học
của trẻ.

Tác phẩm văn học

TPVH là đối tượng khám phá của trẻ. Vì thế, TPVH cần đảm bảo yêu
cầu "vừa sức" và hấp dẫn trẻ.

THỰC HÀNH

Theo bạn, những TPVH như thế nào là những TPVH "vừa sức" và hấp
dẫn trẻ?

Vai trò của giáo viên

THỰC HÀNH

Theo bạn, người giáo viên có vai trò như thế nào trong việc giúp trẻ tích
cực và tiếp nhận sâu sắc giá trị của TPVH?

Hãy trao đổi với các bạn trong nhóm để tìm hiểu xem, để tổ chức hoạt
động cho trẻ làm quen với TPVH có hiệu quả, người giáo viên cần có những
khả năng gì?

Cô giáo MN có vai trò là người tổ chức, gợi mở và dẫn dắt trẻ khám
phá và tiếp nhận TPVH một cách tích cực và có xúc cảm. Để thực hiện được
vai trò này, người giáo viên cần rèn luyện và học tập hướng tới có được
những năng lực về chuyên môn và sư phạm cần thiết.

Những yêu cầu cơ bản đối với giáo viên

- Nhận thức được vai trò của văn học trong sự phát triển toàn diện
của trẻ.

- Hiểu rõ được đặc trưng của văn học và đặc điểm cảm thụ văn học
của trẻ MN.

- Yêu thích và có khả năng cảm thụ sâu TPVH dành cho trẻ nhỏ và
năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ.

- Biết lựa chọn và vận dụng tốt các phương pháp, biện pháp, hình
thức tổ chức và lập kế hoạch tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen
với TPVH một cách phù hợp.

- Có khả năng quan sát, nhận xét, đánh giá khả năng tiếp nhận TPVH
của trẻ và xây dựng được môi trường giáo dục kích thích, khuyến
khích trẻ hoạt động khám phá TPVH.

Năng lực cá nhân của trẻ

Năng lực của trẻ bao gồm cả yếu tố bẩm sinh di truyền và cả sự phát
triển năng lực bên trong của cá nhân đứa trẻ (ngôn ngữ, tư duy, tưởng tượng,
trí nhớ, xúc cảm, tình cảm...). Năng lực này phụ thuộc vào kinh nghiệm của
cá nhân trẻ thu nhận được qua những trải nghiệm của bản thân trong môi
trường giáo dục ở gia đình và trường MN. Thông thường, những đứa trẻ sinh
ra trong gia đình có truyền thống về văn học và nghệ thuật, những đứa trẻ
coó khả năng ngôn ngữ, phẩm chất tư duy tốt, những đứa trẻ được học tập
trong môi trường giáo dục tốt... thì khả năng tiếp nhận văn học khá hơn
những trẻ khác.

THỰC HÀNH
Theo bạn, gia đình và nhà trường có ý nghĩa và ảnh hưởng đến năng
lực của trẻ không? Ảnh hưởng như thế nào? Hãy trao đổi với nhóm và đưa ra
một vài dẫn chứng minh hoạ.

KHẢ NĂNG SÁNG TẠO CỦA TRẺ TRONG HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI
TPVH

Sáng tạo là gì?

THỰC HÀNH

Theo bạn, sáng tạo là gì? Bạn đã bao giờ sáng tạo chưa? Nếu có hãy
chia sẻ với mọi người về sản phẩm sáng tạo của bạn.

Một lần, bé Hà (5 tuổi) nói với mẹ: "Mẹ ơi, con kể chuyện này cho mẹ
nghe nhé!" và không chờ mẹ trả lời, bé bắt đầu kể: "Có một cô bé quàng khăn
đỏ mang bánh đến cho bà. Bạn ấy đi trong rừng. Thế là gặp con chó sói Này
cô bé đi đâu đấy... Ôi sợ quá! Thật đấy, bạn ấy sợ lắm nhưng vẫn cứ đi. Bà
ơi, cháu đến rồi nè! Ôi, thế là bà biến thành con chim... Bà ơi, bà đi đâu
đấy?... Con chim không trả lời. Thế là bạn ấy đi về nhà... Thế là hết câu
chuyện! Mẹ ơi, có hay không?"

Một lần khác, bé lại kể: "Mẹ ơi, hôm qua con nhìn thấy một con ma đấy!
Nó to lắm, nó mắc áo đen, nó bay đi rất nhanh. Thế là nó vào nhà mình. Con
ma đi vào đôi dép của con nhưng có một con chuột chạy ra. Thế là con ma sợ
quá... (Bé làm động tác co hai vai lại tỏ sự sợ hãi nhưng chợt dừng lại và thở
dài khi thấy mẹ tỏ ý không tin.) Con nói thật đấy. Mẹ có tin không? Mẹ gật đầu
và động viên bé kể tiếp nhưng bé nói: “Thôi, con không kể nữa đâu, hết
chuyện rồi!”

THỰC HÀNH

Theo bạn, các chi tiết trong câu chuyện của bé Hà có phải hoàn toàn
do bé tự nghĩ, tự tưởng tượng ra không? Vì sao bạn cho là như vậy? Thử đưa
ra những giả thuyết của việc "xây dựng" chi tiết về con ma và con chuột trong
câu chuyện thứ hai của bé Hà?

Câu chuyện của bé Hà có thể gọi là một sản phẩm của sáng tạo chưa?
Tại sao?

Có nhiều quan niệm khác nhau về sáng tạo. Nhiều người cho rằng,
sáng tạo là lĩnh vực dành riêng cho các thiên tài và sản phẩm của sự sáng tạo
phải là những phát minh khoa học hoặc những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại
được cả thế giới công nhận. Tuy nhiên, Vưgotxky - nhà tâm lí học nổi tiếng
người Nga, quan niệm rằng “... sự sáng tạo thật ra không phải chỉ có ở nên
nó tạo ra những tác phẩm lịch sử vĩ đại mà ở khắp nơi nào con người tưởng
tượng, phối hợp, biến đổi và tạo ra một cái gì mới, dù cho cái mới ấy nhỏ bé
đến đâu chăng nữa so với những sáng tạo của các bậc thiên tài. Từ quan
niệm này, ông cũng cho là, "quá trình sáng tạo đã biểu lộ với tất cả sức mạnh
của nó ngay trong tuổi ấu thơ..." và sự sáng tạo của tuổi ấu thơ, cũng theo
Vưgotxky, có thể dễ đàng nhận thấy trong các trò chơi của trẻ. "Trò chơi của
đứa trẻ không phải là hồi ức đơn giản về những gì nó đã trải qua, mà là sự
gia công sáng tạo những ấn tượng đã được tiếp nhận, sự phối hợp những ấn
tượng ấy và từ đó cấu tạo nên một thực tế mới đáp ứng nhu cầu và hứng thú
của bản thân đứa bé."

Tuy nhiên Vưgotxky cũng cho rằng, ở tuổi mẫu giáo, vẽ chính là hoạt
động sáng tạo tiêu biểu và "đứa bé phải đủ trình độ mới có thể sáng tác văn
học". Vì thế, “khả năng biết xây dựng một hệ thống bằng các yếu tố, biết phối
hợp cái cũ lại thành những kết hợp mới chính là tạo nên cơ sở của sự sáng
tạo.”

THỰC HÀNH

Theo bạn, "trình độ" đủ để đứa bé có thể sáng tác văn học mà]
Vưgotxky nói tới ở đây bao gồm những yếu tố nào?

Người giáo viên MN có vai trò gì trong việc giúp trẻ hội tụ đủ các yếu tố
đó?
Cơ sở của sáng tạo

Cơ sở của sáng tạo là tưởng tượng. Khẳng định vai trò của tưởng
tượng trong sáng tạo, Timiriazep, nhà tâm lí học người Tiệp đã từng nói: "Con
người không biết tưởng tượng vẫn có thể thu thập được sự kiện. Nhưng nếu
không có tưởng tượng sẽ không thể có phát minh vĩ đại, loài người sẽ không
phát triển cả văn minh vật chất và văn minh tinh thần."

Tuy nhiên không phải lúc nào con người cũng có thể tưởng tượng.
"Quá trình nhận thức lí tính phải trải qua quá trình tư duy. Nhưng tư duy
không thể đáp ứng được mọi đòi hỏi phức tạp do thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Có những tình huống có vấn đề con người khổ có thể dùng tư duy mà giải
quyết được. Khi đó, con người phải dùng đến một quá trình nhận thức cao
cắp khác đó là tưởng tượng." (PTS Nguyễn Chu Phác)

Ở trẻ mẫu giáo, phần lớn tưởng tượng của trẻ là tưởng tưởng tượng
tuỳ ý, tưởng tượng không chủ định. Những gì làm trẻ xúc động mạnh sẽ trở
thành đối tượng của tư tưởng tượng nơi trẻ.

Như vậy, không phải chỉ ở người lớn mà cá với trẻ nhỏ, tưởng tượng
cũng chỉ nảy sinh trong tình huống có vấn đề.

Hãy đọc kĩ các ví dụ sau đây:

Một lần bé T.H. (5 tuổi rưỡi) được ba mẹ cho đến chơi nhà bạn là bé
T.V. Được người lớn khuyến khích, hai cô bé thi nhau kể chuyện. Lúc đầu, cả
hai bé lần lượt thay nhau kể rất trôi chảy. Thế rồi, bé T.H. sau khi đã nhanh
chóng đứng vào vị trí để kể chuyện lại cứ lúng túng nhìn mẹ... Thấy vậy mọi
người cổ vũ bé: "Im lặng để T.H. kể chuyện nào!"... Và rồi bé bắt đầu... nhìn
lên trần nhà và say sưa kể: Ngày xửa, ngày xưa có một bạn Thỏ con. Một
hôm, Thỏ con thấy đói bụng quá và mặc áo vào để để kiến ăn. Bỗng Thỏ con
tìm được hai củ cà rốt ở trong vườn rau. Ôi ngon quá! Thế là bạn ấy ăn một
củ và nhớ đến bạn Hươu con. Trời lạnh thế này, chắc Hươu con không có
các ăn. Phải đem cho Hươu một củ cà rốt mới được! (Toàn bộ nội dung ở
phần sau, bé kể giống với truyện "Củ cải trắng" - Chương trình CSGD trẻ từ 5
đến 6 tuổi, đã được nghe cô kể ở lớp).

Tại một lớp học nọ, sau khi kể và trò chuyện với bọn trẻ (từ 5 đến 6
tuổi) về nội dung truyện cổ tích "Ba cô gái", cô giáo hỏi:

− Nếu con là cô chị út, con có cứu các chị mình trở lại thành người
không?

− Cứu bằng cách nào?

− Khi các chị trở lại thành người, con sẽ khuyên họ điều gì?

Kết thúc, cô đề nghị trẻ: "Hãy kể về một kết cục khác cho câu chuyện
nào". Và kết quả là bọn trẻ đưa ra một kết thúc khác với câu chuyện mà cô đã
kể như sau: "Cô chị út về thăm mẹ. Mẹ cô mừng lắm. Sau đó cô út xin bà tiên
giúp đỡ. Bà tiên liền hoá phép cho cô Cả và cô Hai trở lại thành người. Gặp
lại các chị, cô út khuyên các em phải yêu thương mẹ. Hai người chị hối hận
lắm và đã về thăm mẹ ngay."

THỰC HÀNH

Đọc kĩ các ví dụ trên và chỉ ra những chi tiết mà bạn cho là sáng tạo.
Từ hai ví dụ trên, theo bạn, sáng tạo ở trẻ có thể được nảy sinh trong những
tình huống như thế nào?

Trong quá trình làm quen với TPVH, trẻ MN có khả năng sáng tạo.
Tuy nhiên, sáng tạo ở trẻ chỉ bộc lộ trong những điều hiện nhất định. Đó
là sự gợi mở, dẫn dắt, khuyến khích của người lớn, là sự định hướng và
việc sử dụng một cách phù hợp các phương pháp, biện pháp dạy học
trong quá trình cho trẻ làm quen với TPVH.

Khả năng sáng tạo của trẻ trong làm quen với TPVH

Từ quan điểm của Vưgotxky, có thể khẳng định rằng, trẻ mẫu giáo có
khả năng sáng tạo. Đặc điểm sáng tạo của trẻ dưới 6 tuổi là tự nhiên, hứng
khởi, không bị ràng buộc theo khuôn mẫu và có nét riêng mang tính tự phát.
Trong hoạt động làm quen với văn học, những biểu hiện sáng tạo của
trẻ thể hiện ở cách lựa chọn từ, cách diễn đạt câu văn, thể hiện ở ngữ điệu
của giọng khi nói... Từ 4 tuổi trẻ đã biết phối hợp các kĩ năng thể hiện của các
loại hình nghệ thuật khác nhau. Cụ thể như:

− Diễn tả cảm xúc văn học thông qua các sản phẩm của hoạt động tạo
hình (vẽ, nặn, tô màu, xé dán... các nhân vật, cảnh vật trong TPVH được làm
quen).

Hãy xem "sản phẩm" của bé T.H. (4 tuổi) vẽ bác Gấu Đen với chiếc nón
đội trên đầu sau khi nghe kể chuyện "Bác Gấu Đen và hai chú Thỏ" (Chương
trình CSGD trẻ từ 3 đến 4 tuổi).

Bé T.H.: “Phải cho bác Gấu chiếc nón thôi, không thì bác bị ướt đấy”

THỰC HÀNH

Hãy đọc kĩ lời giải thích của bé T.H. trong các ví dụ trên. Theo bạn, bức
tranh vế bác Gấu và tranh vẽ bác Gấu cùng Thỏ Nâu nới củ cà rốt của bé
T.H. giúp người giáo viên nhận biết được cảm xúc gì của các bé đối với các
nhân vật của truyện?

− Xem tranh vẽ và "sáng tác" nội dung truyện kể. Thường các câu
chuyện bé "sáng tác" dựa vào nội dung tranh vẽ luôn có bóng dáng của các
sự kiện, của các chi tiết trong các câu chuyện bé được nghe kể trước đó hoặc
được dựa trên các sự việc xảy ra trong gia đình, xảy ra với chính bé hoặc
trong khi vui chơi với bạn bè.

− Dưới sự giúp đỡ của cô, từ 4 tuổi, trẻ có thể nghĩ và thay đổi phần
mở đầu, phần kết thúc của câu chuyện đã được nghe kể trước đó. Cuối 4
tuổi, trẻ còn có khả năng kể lại sáng tạo trong vai một nhân vật của truyện.

Trong vai nhân vật Dê Trắng, bé T.H. (5 tuổi rưỡi) đã kể lại phần đầu
truyện "Chú Dê Đen" (chương trình CSGD trẻ từ 5 đến 6 tuổi) như sau: hôm
nay tôi đi vào rừng để ăn cỏ. Đang đi thì tôi gặp Chó Sói. Ôi, tôi sợ quá! Con
Chó Sói hung dữ lắm. Con Chó Sói quát to lên: Mày đi đâu?... Dê Trắng sợ
quá định bỏ chạy. Con Sói xông tới: Tim mày thế nào? Tôi muốn xỉu nhưng
trả lời: Tim tôi run sợ! Thế là Sói hung ác ăn thịt tôi vào bụng.

THỰC HÀNH

Bạn hãy chỉ ra những từ và câu văn khác nhau giữa truyện chú Dê
Đen" trong bản gốc của chương trình CSGD trẻ từ 5 đến 6 tuổi mà cô giáo đã
kể cho trẻ nghe và đoạn kể lại của bé T.H. trên đây.

Đoạn truyện kể lại trên đây của bé T.H. có ẩn chứa sự sáng tạo không?
Nếu có, sự sáng tạo ở đây là gì?

Sự sáng tạo ở đây là thể hiện tâm trạng, tính cách của nhân vật bằng
vận động có xúc cảm của cơ thể.

Từ 5 tuổi, nét tự phát của trẻ giảm dần, thay vào đó trẻ có mong muốn
được thể hiện giống như mẫu (giống cô giáo hoặc giống nhân vật trong TPVH
mà bé yêu thích...)

Đặc điểm cảm thụ văn học và khả năng sáng tạo của trẻ trong hoạt
động làm quen với TPVH là những cơ sở cần thiết và quan trọng để xác
định và lựa chọn hình thức, phương pháp và biện pháp do học phù hợp.
Cần chú ý rằng, cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi phải có xúc
cảm. Vì thế, để đạt hiệu quả cao và kích thích tính tích cực và sáng tạo
của trẻ khi tham gia vào hoạt động tiếp nhận TPVH, các giáo viên MN
cần phải tôn trọng sự tự do và không được gò ép trẻ.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP

1. Trình bày các giai đoạn của cảm thụ văn học. Các giai đoạn của cảm
thụ văn học có gợi ý gì cho bạn về các bước tiến hành tổ chức hoạt
động cho trẻ làm quen với TPVH.

2. Trình bày đặc điểm chung về cảm thụ văn học của trẻ MN. Từ đó, nêu
những điều cần chú ý khi tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH
nhằm kích thích được sự tích cực và hứng thú của trẻ.

2.1. Hãy trình bày đặc điểm cảm thụ truyện của trẻ MN theo bảng sau:
Mức độ cảm thụ Nhà trẻ MGB MG nhỡ - lớn
Quan hệ không gian, thời
gian
Nhân vật
Ngôn ngữ
Đánh giá nhân vật
2.2. Tự lập bảng so sánh đặc điểm cảm thụ thơ của trẻ MN.

3. Để tác động vào giai đoạn thứ nhất của quá trình cảm thụ văn học khi
cho trẻ MGB làm quen với truyện "Chú Thỏ tinh khôn" (Chương trình
CSGD trẻ từ 3 đến 4 tuổi), một giáo viên MN đã tiến hành kể chuyện
cho trẻ nghe hai lần như sau:

− Lần 1: kể toàn bộ truyện kết hợp cho xem tranh minh hoạ nội dung
truyện.

− Lần 2: vừa kể vừa dừng lại hỏi trẻ như sau:

+ "Có một lần Thỏ đến bên bờ sông": Thỏ làm gì?

+ Cá Sấu ở gần đồ làm gì?

+ "Cá Sấu không nhìn thấy": Thỏ lúc đó như thế nào?

+ "Thỏ yên trí... bò đến bên thỏ": Rồi đột nhiên Cá Sấu làm gì?

+ "Cá Sấu kêu lên... tìm kế thoát thân": Thỏ tìm kế như thế nào?

+ … thì tôi chẳng sợ đâu!": Cá Sấu có nghe lời thỏ không?

+ … ra khỏi miệng Cá Sấu”: Sau khi nhảy ra khỏi miệng Cá Sấu,


Thỏ đã làm gì?

+ Bạn Thỏ trong câu chuyện là người thế nào?

Theo bạn, cách làm của giáo viên có hợp lí không? Tại sao?

4. Để chuyển từ bước kể chuyện qua bước đàm thoại khi tổ chức cho trẻ
lớp chồi (từ 4 đến 5 tuổi) làm quen với truyện "Dê con nhanh trí"
(Chương trình CSGD trẻ từ 4 đến 5 tuổi), một cô giáo đã cho trẻ chơi
trò chơi "Chó Sói và Dê con" như sau: 1 bé đội mũ đóng Chó Sói, các
bé còn lại đóng làm Dê con. Tất cả các chú Dê con vận động tự do đi
kiếm ăn, vừa đi vừa kêu "Be! Be! Be...". Khi nghe cô nói: "Có Chó Sói!",
bé đóng Chó Sói xông ra còn các bé đóng vai Dê con bỏ chạy - Trò
chơi tiến hành ba lần, sau đó cô cho trẻ ngồi xuống và tiến hành đàm
thoại.

Dựa vào các giai đoạn của cảm thụ văn học, bạn thử nhận xét
xem thời điểm tiến hành trò chơi này có hợp lí không? Vì sao?

5. Theo bạn các câu hỏi sau đây có phù hợp với đặc điểm cảm thụ truyện
của trẻ ở mỗi độ tuổi không? Vì sao?

− Tại sao bác Gấu lại phải đến trú nhờ nhà Cáo và nhà Thỏ? (Truyện
"Thỏ ngoan" chương trình CSGD trẻ từ 24 đến 36 tháng)

− Theo con, nhân vật Thỏ Nâu là người như thế nào?

− Con yêu ai nhất trong câu chuyện này? (Truyện "Bác Gấu Đen và hai
chú Thỏ" chương trình CSGD trẻ từ 3 đến 4 tuổi)

− Nếu con là cô bé quàng khăn đỏ con sẽ làm gì khi gặp con Chó Sói?
(Truyện "Cô bé quàng khăn đỏ" chương trình CSGD trẻ từ 3 đến 4 tuổi)

6. Để tác động vào giai đoạn thứ hai của quá trình cảm thụ văn học, cô
giáo có thể luôn giữ vai trò chủ đạo để nêu ra các câu hỏi về nội dung
của tác phẩm và lần lượt gọi trẻ trả lời được không? Vì sao?

7. Trình bày quan điểm về sáng tạo của Vưgotxky và những biểu hiện
sáng tạo của trẻ MN trong hoạt động làm quen với TPVH.

TÌM ĐỌC

1. Hà Nguyễn Kim Giang, "Phương pháp kể sáng tạo truyện cổ tích thần
kì cho trẻ mẫu giáo", NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002.

2. V.X Mukhina, "Tâm tí học mẫu giáo", Tập II, NXB Giáo dục, 1981.
3. Ngô Thị Thái Sơn, "Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn
học", Tài liệu lưu hành nội bộ, Trường CĐSPMGTW3, 1998.

4. Nguyễn Ánh Tuyết, "Giáo dục mầm non - những vấn đề lí luận và thực
tiễn", NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2004.

5. L.V Vưgotxky, "Trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo ở lứa tuổi thiếu
nhi NXB Phụ nữ, 1985.

Bài 3: LỰA CHỌN TPVH CHO TRẺ MN


Văn học phản ánh muôn mặt của đời sống hiện thực. Vì thế, từ
lâu, văn học đã được sử dụng như một trong những phương tiện giáo
dục trẻ phát triển toàn diện. Tuy nhiên, không phải TPVH nào cũng có
sức lôi cuốn, hấp dẫn trẻ và có thể cho trẻ làm quen. Bài này sẽ giúp
bạn:

1. Trình bày được cơ sở của việc lựa chọn TPVH dành cho trẻ MN.

2. Trình bày được một số đặc điểm cơ bản về nội dung và hình thức
cửa TPVH dành cho trẻ MN.

CƠ SỞ LỰA CHỌN TPVH CHO TRẺ MN

Cơ sở tâm lí

Tưởng tượng và tưởng tượng trong cảm thụ văn học

“Tưởng tượng là quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa có trong
kinh nghiệm, bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những hình
ảnh (biểu tượng) đã có.” (Nguyễn Chu Phác)

Như vậy, tưởng tượng có mối liên hệ và có cơ sở là hiện thực.

Tưởng tượng trong cảm thụ văn học là tưởng tượng tái tạo. Nhờ vậy
khi nghe hoặc đọc TPVH, độc giả sẽ có được những biểu tượng về các nhân
vật, về tình huống hành động của các nhân vật và về cuộc sống nói chung.
Biểu tượng là quá trình làm sống lại các dấu vết của cảm giác và tri giác
trước đó. Những kinh nghiệm trong quá khứ được tích luỹ và biến đổi cùng
với sự phát triển của con người. Vì thế, trẻ càng lớn, càng có nhiều hiểu biết
về cuộc sống thì biểu tượng của trẻ càng rõ nét và chính xác cảm thụ văn học
cần có nguồn dự trữ các biểu tượng đúng và sự phát triển của tưởng tượng.

Phần lớn tưởng tượng của trẻ mẫu giáo là tưởng tượng tuỳ ý tưởng
tượng không chủ định. Những gì làm trẻ xúc động mạnh sẽ trở thành đối
tượng của trí tưởng tượng nơi trẻ. Tuy nhiên, "vai trò của tư tưởng tượng
trong đời sống của trẻ em lớn hơn trong đời sống của người lớn, nó biểu hiện
thường xuyên hơn, bay bổng hơn và vi phạm hiến thực nhiều hơn. Sự làm
việc không mệt mỏi của tư tưởng tượng là một trong những con đường dẫn
trẻ em đến chỗ nhận thức và tìm hiểu thế giới xung quanh vượt ra khỏi giới
hạn kinh nghiệm cá nhân chật hẹp." (V.X. Mukhina).

Xúc cảm của trẻ trong cảm thụ văn học

Cảm thụ nghệ thuật, trong đó có cảm thụ văn học phải thông qua xúc
cảm. Nói cách khác, không có xúc cảm thì không có cảm thụ nghệ thuật. Xúc
cảm trong cảm thụ văn học xuất hiện khi trẻ đặt mình vào vị trí của nhân vật
và hành động có ý thức cùng với nhân vật. Qua nhân vật trẻ nhìn thấy những
con người thật, tin vào số phận của họ và cùng chia sẻ với những số phận đó.
Thường thì trong quá trình tiếp nhận TPVH, trẻ dễ dàng ghi nhớ các tình tiết
gây cho chúng xúc động mạnh, buộc chúng phải đồng cảm cùng nhân vật.

Xúc cảm xuất hiện trong quá trình cảm thụ văn học có thể khác nhau về
mức độ, về tính chất và nội dung. Ở trẻ nhỏ, xúc cảm trong cảm thụ vãn học
sẽ khác nhau dựa trên cơ sở là hành động, lời nói của các nhân vật trong
TPVH phù hợp hay không phù hợp với những chuẩn mực hành vi mà trẻ tiếp
thu được từ cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, M.A. Seprioghina - nhà tâm lí
học người Nga - cho rằng năng lực rung cảm trước các hình tượng văn học
không có sẵn. Năng lực này được hình thành dần dần dưới tác động của giáo
dục. Quá trình giáo dục đó phải được bắt đầu từ tuổi bé thơ. Đó là việc nghe
kể chuyện ở trường mẫu giáo và đọc TPVH ở trường tiểu học. Bà cũng cho
rằng, việc xây đắp xúc cảm ở trẻ xuất phát từ những trải nghiệm hằng ngày
của trẻ ở gia đình và trường MN.

THỰC HÀNH

Từ đặc điểm về tưởng tượng và xúc cảm trong cảm thụ văn học của trẻ
trên đây, theo bạn, nội dung của TPVH lựa chọn cho trẻ MN có thể đề cập,
phản ánh tất cả mọi mặt của hiện thực cuộc sống được không? Tại sao?
Những vấn đề những mẫu nhân vật nào trong tác phẩm có thể cho trẻ làm
quen?

Khả năng ngôn ngữ và sự thông hiểu ngôn ngữ trong cảm thụ văn
học của trẻ

Tri thức về tiếng và sự phong phú về vốn từ là những yếu tố ảnh hưởng
tới hiệu quả cảm thụ văn học của độc giả nói chung và của trẻ nhỏ nới riêng.

Tuổi nhà trẻ, vốn từ của trẻ mới dừng ở khoảng 500 dấn 600 từ và chủ
yếu là các danh từ và động từ.

Bước qua tuổi mẫu giáo, phạm vi giao lưu của trẻ mở rộng. Vì thế vốn
từ của trẻ được tăng lên nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Trẻ hiểu
được ý nghĩa của từ, hiểu được các từ láy, nghĩa đen và nghĩa bóng của từ,
hướng tới thực tại dược biểu hiện bằng từ và chú ý đến hình thức âm thanh
của từ,... Dù vậy, qua nghiên cứu, các nhà tâm lí học trẻ em cũng chỉ ra rằng,
không chỉ là trẻ nhỏ mà ngay cá học sinh tiểu học, đôi khi cũng gặp khó khăn
trong việc suy ngẫm về các từ vựng mới và khó. Tuy nhiên, điều này không
phá vỡ quá trình hiểu lời văn nói chung. Khi gặp từ mới, cũng như người lớn,
trẻ sẽ đoán nghĩa của từ. Việc đoán nghĩa của từ đúng hay sai hoàn toàn là
tình cờ vì vốn từ của trẻ còn ít ỏi. Vì thế, đôi khi trẻ cũng đoán sai nghĩa của
từ dẫn tới hiểu sai cả đoạn văn.

THỰC HÀNH

Từ đặc điểm về ngôn ngữ có liên quan đến khả năng tiếp nhận TPVH
của trẻ trên đây, theo bạn, dung lượng câu chữ trong một TPVH cho trẻ ở tất
cả các độ tuổi có thể bằng nhau được không? Nên chú ý sử dụng những loại
từ nào trong sáng tác TPVH dành cho trẻ MN?

Tư duy trong cảm thụ văn học của trẻ

Cảm thụ văn học dựa vào sự tri giác nghệ thuật dùng từ. Ở đây độc giả
suy nghĩ bằng hình ảnh mà hình ảnh lại được xây dựng bằng từ ngữ - hệ
thống tín hiệu thứ 2. Ngôn ngữ làm xuất hiện các biểu tượng tương ứng trong
trí tưởng tượng của trẻ. Các biểu tượng đó lại liên kết thành bức tranh trọn
vẹn về nội dung của TPVH. Tư duy của tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan - hành
động. Bước qua tuổi mẫu giáo, tư duy của trẻ có bước phát triển mới: từ tư
duy trực quan - hành động qua tư duy trực quan - hình tượng. Nhờ vậy, trong
cảm thụ văn học, trẻ có thể thấy được tính hiện thực và chân thực của các sự
vật được hư cấu. Trẻ ở tuổi nhà trẻ và đầu MGB, do còn non nớt, thường sẵn
sàng chấp nhận mọi sự hư cấu trong TPVH. Từ 4 tuổi trở lên, trẻ đã có khả
năng đánh giá giá trị của TPVH xuất phát từ tính chân thực của các sự kiện
được xây dựng trong tác phẩm và "Trẻ MGL đã có cái nhìn từ cơ sở hiện
thực một cách vững vàng. Vì thế, chúng bắt đầu yêu mến mọi sự "đảo lộn" và
thích thú cười những "đảo lộn" ấy" (B. Makarova).

THỰC HÀNH

Từ đặc điểm về tư duy của trẻ và tư duy trong cảm thụ văn học của trẻ
trên đây, theo bạn, TPVH cho trẻ MN có cẩn xây dựng các yếu tố kì ảo,
hoang đường, kì vĩ không?

Cơ sở giáo dục

Yêu cầu của thời đại và của đất nước ta trong giai đoạn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá hiện nay đang đặt ra các yêu cầu cụ thể về nội dung và
phương thức cho giáo dục. Bởi vì, "Giáo dục là công cụ cơ bản để phát triển
con người" (Phạm Mai Chi).

Về nội dung giáo dục, trong giai đoạn hiện nay đất nước ta nghiêng về
tri thức ứng dụng, các kĩ năng hành dụng, các kỹ năng và hiểu biết xã hội...
học vấn công nghệ và kinh tế, học vấn về bản thân con người và đối sồng con
người, học vấn về tài nguyên và môi trường.... Nội dung giáo đục này đòi hỏi
mở rộng hơn phạm vi và nội dung đề cập trong các TPVH lựa chọn cho trẻ
MN.

Về phương thức giáo dục, chúng ta đang đổi mới sử dụng "tích hợp nội
dung như lồng ghép các môn, tích hợp xuyên môn.....

Văn học là một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Vì thế, các TPVH có nội
dung phản ánh đa dạng mọi mặt của cuộc sống sẽ là phương tiện tết để dẫn
dắt trẻ tìm hiểu, khám phá và tiếp nhận các vấn đề của cuộc sống, của khoa
học một cách tự nhiên và hứng thú. Nói cách khác, văn học là một trong
những phương tiện hữu hiệu để thực hiện nội dung và phương thức tích hợp
của giáo dục đối với tuổi MN.

YÊU CẦU ĐỐI VỚI TPVH LỰA CHỌN CHO TRẺ MN

TPVH lựa chọn cho trẻ MN trước hết phải có yêu cầu chung của một
TPVH. Đó là, phản ánh hiện thực cuộc sống thông qua các hình tượng nghệ
thuật dược xây dựng bằng ngôn ngữ và phải đảm bảo sự thống nhất giữa nội
dung và hình thức thể hiện.

Về nội dung

Yêu cầu về nội dung của TPVH được thể hiện cụ thể ở đề tài và tư
tưởng chủ đề của tác phẩm.

Đề tài

Để kích thích tưởng tượng của trẻ từ đó tạo ra những xúc cảm trong
cảm thụ văn học, đề tài phái xuất phát từ những gì quen thuộc, gần gũi nảy
sinh trong cuộc sống xung quanh trẻ. Đó là:

Thiên nhiên với muôn điều kì diệu làm nảy sinh bao thắc mắc gợi sự tò
mò, khám phá cho tuổi thơ.

Thế giới đồ vật và những con vật gần gũi thân quen.
Thế giới tình cảm và những sinh hoạt trong những quan hệ ở gia đình,
ở trường MN với cha mẹ, người thân, cô giáo và bạn bè.

Tư tưởng chủ đề

Các TPVH lựa chọn cho trẻ cần có ý nghĩa trong việc góp phần mở
rộng sự hiểu biết về thế giới xung quanh, giáo dục thẩm mĩ và đặc biệt là phải
đem lại cho trẻ những bài học đạo đức một cách nhẹ nhàng. Vì thế, cần thể
hiện sự đánh giá đúng - sai, tốt - xấu, phải - trái... và thái độ yêu - ghét một
cách rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên, tư tưởng chủ đề này cần phải được chuyển
tải thông qua một hình thức nghệ thuật hấp dẫn. Những câu chuyện, bài thơ
mà ở đó, bài học giáo dục về đạo đức được chỉ ra một cách gượng ép, áp đặt
và khô khan sẽ không được trẻ chấp nhận.

Về nghệ thuật

Dễ hiểu và hấp dẫn chính là đòi hỏi về nghệ thuật đối với các TPVH
dành cho trẻ MN. Xem xét các yêu cầu về hình thức nghệ thuật của văn học
dành cho trẻ, cần xem xét yêu cầu về ngôn ngữ, về kết cấu, nhân vật và cách
xây dựng các tình tiết trong tác phẩm.

Ngôn ngữ

Dung lượng câu chữ không quá nhiều. Cần sử dụng nhiều các từ
tượng hình, tượng thanh, từ lấp láy và tính từ để tạo được những câu văn,
câu thơ giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu kích thích từ tưởng tượng bay bổng
của trẻ.

Về diễn đạt, cần sử dụng lối diễn đạt gần với cách nổi, cách nghĩ của
trẻ. Vì thế, ở thể loại thơ, tốt nhất nên chọn các bài thơ có cốt truyện, viết theo
thể thơ tự do, thơ 4 chữ hoặc 5 chữ. Đặc biệt, thơ cho trẻ MN cần tạo ra
những bức tranh về nhịp và vần rõ nét để lôi cuốn trẻ từ chú ý về hình thức
mà tiếp nhận được nội dung

Ở truyện, nên chọn các tác phẩm có những điệp khúc dễ nhớ, buộc trẻ
phải đọc đi đọc lại để dễ dàng tiếp nhận và ghi nhớ nội dung cua tác phẩm.
Kết cấu của tác phẩm

Cần lựa chọn những tác phẩm có kết cấu đơn giản nhằm giúp trẻ dễ
theo dõi và nắm bắt các tình tiết, các sự kiện. Nên chọn các loại kết cấu sau
đây:

Kết cấu theo trục thời gian. chuyện gì xảy ra trước thì nói trước, chuyện
gì xảy ra sau thì nói sau.

Kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập.

Kết cấu lặp đi lặp lại.

Đặc biệt, truyện thơ cho trẻ MN cần sử dụng lối kết thúc có hậu để tạo
được tâm trạng vui vẻ, thoãi mái khi tiếp nhận tác phẩm cho trẻ.

THỰC HÀNH

Theo bạn, khi cho trẻ làm quen với TPVH, các tác phẩm có lối kết cấu
theo trục thời gian và kết cấu lặp đi lặp lại có tác dụng gì với từ? Tại sao
truyện cho trẻ MN lại phải sử dụng kết cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập.

Nhân vật

Nhân vật trong các TPVH dành cho trẻ nhỏ cần gần gũi với trẻ cả về
tên gọi, vóc dáng, suy nghĩ, nói năng và có những hành vi phù hợp với những
chuẩn mực đạo đức mà trẻ tiếp thu được từ cuộc sống. Đặc biệt trẻ rất yêu
thích và dễ dàng cảm với các nhân vật được xây dựng theo lối nhân cách hoá
từ các con vật bé nhỏ, thân quen hằng ngày.

Số lượng các nhân vật trong TPVH dành cho tuổi nhà trẻ chỉ nên hạn
chế từ 2 đến 3, ở tuổi mẫu giáo có thể từ 3 đến 5.

Xây dựng các tình tiết

Phải xây dựng được những tình tiết ngộ nghĩnh, bất ngờ, hoang
đường, kì ảo,... tạo nên sự dí dỏm, hài hước, vui nhộn về các tình huống của
nhân vật, để kích thích trí tưởng tượng và xúc cảm của trẻ. Đây chính là yếu
tố quan trọng tạo nên chất thơ cho truyện và thường thì, ngay từ đầu, những
yếu tố này đã kích thích trí tưởng tượng và xúc cảm nơi trẻ. Từ đây, trẻ dần
dần thấy được nội dung tư tưởng của TPVH.

Với tuổi nhà trẻ, cần chọn những câu chuyện có các sự kiện diễn ra
trong thời gian ngắn với không gian xảy ra hẹp hơn để trẻ dễ theo dõi.

THỰC HÀNH

Bạn hãy đọc kĩ truyện “Ai đáng khen nhiều hơn?” (Chương trình MN trẻ
từ 5 đến 6 tuổi) và nêu nhận xét của bạn về hai câu nói sau đây của nhân vật
Thỏ anh trong truyện:

− "Cùng một công đi, con hái nhiều để dành lần sau có cần đến, mẹ đỡ
phải vào rừng.

− "Dạ, cô Gà Hoa Mơ dẫn đàn con đi ăn bị lạc mất một đứa. Cô tìm
nháo nhác cả lên. Con phải dừng lại để giúp cô tìm cậu Gà Nhiếp bị lạc. Tìm
thấy rồi, con lại phải vừa đi vừa đợi cô dắt lũ trẻ cùng về, kẻo bị lạc lần nữa.
Vì vậy, con đã về chậm mẹ ạ!”

Sưu tầm, sáng tác, lựa chọn các TPVH phù hợp, hấp dẫn cả về nội
dung lẫn hình thức với trẻ là một trong những việc làm thường xuyên và
cần thiết của những người làm công tác giáo dục MN. Cần lựa chọn
được những tác phẩm có ý nghĩa về nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ
cho trẻ. Tuy nhiên, cũng cần hữu ý là, những câu chuyện và bài thơ mà
ở đó các bài học về giáo dục đạo đức được nêu một cách áp đặt, gượng
ép và khiên cưỡng sẽ không có sức hấp dẫn và không phải là món ăn
tinh thần dành cho trẻ.

CÂU HỎI

1. Hãy đọc kĩ ba bài thơ sau đây:

Bài 1: Mèo con

“Mèo con bé tí

Đã có râu ria
Mèo cứ ngồi kia

Meo meo kêu mẹ.

Ăn thì ăn khỏe

Mà lại ham chơi

Bạn nhỏ ta ơi

Chớ theo mèo nhé tư”

Bài 2: Giếng làng em

Giếng làng em mát

Cô bác cùng đào

Em góp công lao

Giữ gìn sạch sẽ

Giếng em mát mẻ

Vui vẻ bà con

Kìa ông Trăng tròn.

Bài 3: Cánh hoa nở

Năm ngón tay đẹp

Như năm cánh hoa

Mười ngón tay đẹp

Như mười cánh hoa.

Bé không nghịch bẩn

Tay bé trắng hồng

Như cánh hoa nở

Trong vườn hoa xuân.

Theo bạn, các bài thơ trên đây có thể lựa chọn cho trẻ MN làm quen
được không? Tại sao?
2. Hãy thử sáng tác một bài thơ (hoặc một câu chuyện) theo các yêu cầu
của TPVH dành cho trẻ MN và trao đổi, chia sẻ với các bạn trong nhóm
về sản phẩm của bạn.

3. Hãy sưu tầm một bài thơ và một câu chuyện có thể lựa chọn cho trẻ
làm quen được đăng trên sách báo trong hoặc ngoài nước và giới thiệu
cùng các bạn trong nhóm.

4. Hãy nhớ lại tuổi thơ của mình và chia sẻ với các bạn trong nhóm điều
này: nhìn chung trẻ nhỏ thích được nghe kể truyện cổ tích hơn hay
truyện thần thoại và truyền thuyết hơn? Thử giải thích vì sao?

TÌM ĐỌC

1. Phạm Hổ, "Chú bò tìm bạn", NXB Kim Đồng, 1998.

2. V.X Mukhina, "Tâm tí học mẫu giáo Tập II, NXB Giáo dục, 1981.

3. Nhiều tác giá, "Tác phẩm văn học mầm non", Tài liệu lưu hành nội bộ,
Trường THSPMN, TP Hồ Chí Minh.

4. "Tuyển tập truyện thơ dành cho trẻ mầm non Ngô Thị Thái Sơn sưu
tầm và giới thiệu Lưu hành nội bộ, Trường CĐSPMGTW3, 2005.

5. Vụ Mầm non, "Tuyển tập bài hát, câu đố, truyện thơ cho trẻ mầm non",
(theo chủ đề), NXB Giáo dục, 2005.

Bài 4: CÁC PH ƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN TRẺ LÀM QUEN VỚI TPVH

Văn học là một món ăn tinh thần không thể thiếu của trẻ thơ. Để
có để sử dụng văn học như một trong những phương tiện giáo dục trẻ
phát triển toàn diện, cần hiểu và biết cách vận dụng linh hoạt, sáng tạo
các tương pháp dạy học. Bài này sẽ giúp bạn:
1. Trình bày và giải thích được khái niệm, vai trò và các yêu cẩu cơ
bản các phương pháp dạy học sử dụng để tổ chức cho trẻ làm quen
với TPVH.

2. Bước đầu thực hành đọc, kể diễn cảm TPVH dành cho trẻ MN.

3. Lựa chọn được đồ dùng trực quan minh hoạ phù hợp với độ tuổi của
từ và nội dung của TPVH.

4. Xây dựng được các câu hỏi đàm thoại với trẻ phù hợp với nhiệm vụ
để ra cho mỗi loại giờ học làm quen với TPVH cụ thể.

THỰC HÀNH

Hãy kể tên các phương pháp dạy học sử dụng để tổ chức các hoạt
động giáo dục ở trường MN mà bạn biết?

Theo bạn, để tổ chức cho trẻ làm quen với văn học, cần sử dụng những
phương pháp nào trong các nhóm phương pháp dạy học trên đây?

Có nhiều cách phân chia các phương pháp dạy học khác nhau. Trong
giáo dục MN, căn cứ vào phương thực truyền thụ và đặc điểm tiếp nhận
thông tin, các nhà giáo dục chia các phương pháp dạy học theo ba nhóm sau:

− Nhóm phương pháp sử dụng lời nói.

− Nhóm phương pháp trực quan.

− Nhóm phương pháp thực hành.

Đây là cách phân loại truyền thống và tương đối thuận lợi đối với giáo
viên MN khi lựa chọn sử dụng.

NHÓM PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG LỜI NÓI

Phương pháp đọc, kể diễn cảm TPVH

Khái niệm
Đọc, kể diễn cảm TPVH là cách sử dụng lời kể, giọng đọc có kèm theo
cử chỉ, điệu bộ, nét mặt để truyền đạt lại một cách có nghệ thuật nội dung của
một TPVH tới người nghe.

Tại một lớp học ở trường MN nọ, bọn trẻ (từ 5 đến 6 tuổi) đang say sưa
nghe cô giáo kể chuyện cổ tích Tấm Cám. Khi kể tới đoạn: "Tắm xong, Tấm
lên bờ, nhìn vào giỏ tép thì chỉ còn giỏ không. Cám đã trút hết tôm tép của
Tấm vào giỏ của mình và về trước mất rồi. Tấm buồn quá, ngồi xuống bờ
ruộng và bưng mặt khóc nức nở, cô giáo đưa hai tay lên bưng mặt và khóc
(giả bộ) thật to.

Ngay lập tức, bọn trẻ cười ồ lên rất khoái to rồi quay qua, quay lại nhìn
nhau khiến giáo viên phải dừng lại để ổn định lớp trước khi có thể tiếp lực kể
câu chuyện.

Trong ví dụ trên theo bạn, điều gì khiến bọn trẻ đang say sưa nghe cô
kể chuyện lại cười ồ lên và không còn tập trung lắng nghe nữa?

Hãy thảo luận cùng các bạn trong nhóm học tập của mình và thử xác
định xem, điều gì cần phải chú ý khi đọc, kể TPVH trước trẻ MN?

Các thủ thuật của đọc, kể diễn cảm

Đọc kể diễn cảm TPVH cho trẻ MN yêu cầu cô giáo dùng giọng đọc, lời
kể của mình kết hợp những yếu tố phi ngôn ngữ (cử chỉ, nét mặt, điệu bộ...)
để tái hiện lại nội dung của TPVH một cách khách quan, nhấn mạnh được các
chi tiết chính, không có những cảm xúc giả làm ảnh hưởng đến sự tiếp nhận
giá trị tư tưởng của tác phẩm của trẻ.

Thanh điệu cơ bản

− Thanh điệu cơ bản là thanh âm cơ bản của một TPVH, là nền âm


thanh mà trên đó người đọc, người kể tái tạo ra bức tranh về các khung cảnh
và tình tiết của tác phẩm.

− Các yếu tố quy định thanh điệu cơ bản:

+ Thể loại của TPVH.


+ Chủ đề, nội dung của TPVH.

− Các loại thanh điệu cơ bản: rất phong phú.

Ngắt giọng

− Ngắt giọng là cách dừng lại, cách nghỉ lại giây lát khi đọc kể TPVH.

− Các loại ngắt giọng:

+ Ngắt giọng lô gích: là chỗ dừng lại, nghỉ lại khi đọc kể sau các dấu
của câu văn.

+ Ngắt giọng tâm lí: Ngắt giọng tâm lí phản ánh thái độ và sự am hiểu
của người đọc, người kể đối với các hình ảnh, các tính cách và tâm trạng của
nhân vật được thể hiện đằng sau các câu chữ của TPVH. Vì thế, ngắt giọng
tâm lí là chỗ dừng lại, nghỉ lại ở bất kì chỗ nào của câu văn nhưng lại có ý
nghĩa to lớn trong việc tạo ra sự hấp dẫn và hồi hộp cho người nghe.

Ví dụ: Ngắt giọng tâm lí (được kí hiệu bởi dấu /) ở đoạn trích trong câu
chuyện "Dê con nhanh trí" của Hoàng Thái Anh sau đây: “Dê con / ở trong
nhà. Nghe tiếng gõ cửa vội vàng chạy ra. Nghe / đúng câu mẹ dặn, nó / định
mà cửa, nhưng / sao nó thấy tiếng gọi lại ồm ồm chứ / không phải tiếng mẹ.”
Kkhi thực hiện, sẽ tạo ra những khoảng thời gian cần thiết để trẻ tưởng tượng
về diện mạo (chỗ dừng lại sau từ "Dê con"), về vị trí, tâm trạng, về sự cân
nhắc và băn khoăn của nhân vật (ở những lần dừng lại giây lát khi kể chuyện
tiếp theo). Từ đó trong trẻ sẽ dâng lên những cảm xúc hồi hộp, lo lắng cho
nhân vật.

+ Ngắt giọng thi ca: là chỗ dừng lại, nghỉ lại ở cuối mỗi hàng thơ. Loại
ngắt giọng này có tác dụng giữ vững nhịp thơ.

Nhịp điệu

− Nhịp điệu là tốc độ nhanh chậm hay vừa phải trong giọng nói của
người đọc, kể TPVH.

− Các yếu tố quy định nhịp điệu:


+ Nội dung của TPVH.

+ Sự phát triển của các chi tiết.

+ Tính cách, tâm trạng, hành động của nhân vật.

+ Nhịp của bài thơ.

Ví dụ: Hành động của nhân vật và nghĩa của từ là cơ sở để tạo ra sự


thay đổi tốc độ nhanh chậm khác nhau khi kể đoạn trích trong truyện "Chú
Thỏ tinh khôn" của Vũ Tú Nam sau đây:

“Cá sấu liền giả bộ hiền lành từ... từ, từ... từ... bò đến bên thỏ, rồi đột
nhiên đớp gọn thỏ vào mồm.”

Để đọc kể diễn cảm, người đọc, kể phải biết phối hợp nhiều loại tốc độ
khác nhau của giọng khi thể hiện tác phẩm. Giọng kể, đọc sẽ không thể diễn
cảm nếu người kể, đọc chỉ sử dụng độc lập một loại tốc độ cho suốt câu
chuyện hoặc bài thơ.

Cường độ

− Cường độ là độ vang, độ hoàn chỉnh của giọng, là khả năng điếu


chỉnh giọng, làm cho giọng có thể to hoặc nhỏ mạnh hoặc nhẹ, tạo nên những
bậc thang chuyển độ vang từ to tới nhỏ hoặc từ nhỏ tới to khi đọc, kể TPVH.

− Các yếu tố quy định cường độ:

+ Sự phát triển của chi tiết.

+ Nghĩa của từ trong câu văn.

+ Tính cách, tâm trạng... của nhân vật.

+ Không gian của phòng đọc và số lượng người nghe.

Cũng cần chú ý rằng, trong khi đọc, kể TPVH, độ mạnh, nhẹ, vang, ấm,
to, nhỏ... luôn được sử dụng trong sự đan xen với nhau. Thậm chí, cùng trong
một câu kể, sẽ có những từ và cụm từ được đọc to hơn, nhấn hơn một chút
và những từ và cụm từ khác còn lại phải được đọc nhỏ, đọc nhẹ hơn.
Ví dụ: hãy thử sử dụng sự thay đổi về độ to nhỏ, mạnh nhẹ khác nhau
(đọc mạnh và to hơn ở những từ in đậm) khi đọc đoạn trích trong truyện "Bác
Gấu Đen và hai chú Thỏ" sau đây để cùng ngẫm nghĩ về giá trị biểu cảm của
nó:

“Trời mưa to như trút nước. Gió thổi ào ào... bẻ gẫy cả cành cây. Gấu
Đen đỏ chơi về bị ướt lướt thướt. Nước mưa chảy ròng ròng xuống một Gấu.
Gấu chạy mãi, chạy mãi trong rừng để tìm chỗ trú nhờ...”

Ngữ điệu

− Ngữ điệu là sắc thái đa dạng trong giọng nói của người kể chuyện,
giúp cho người kể chuyện "vẽ" ra được chân dung của các nhân vật có tính
cách khác nhau trong TPVH.

− Yếu tố quy định ngữ điệu: tính cách và tâm trạng của nhân vật.

Ngữ điệu rất phong phú, có bao nhiêu loại tính cách, tâm trạng nhân vật
sẽ có bấy nhiêu loại ngữ điệu.

Nhân vật trung tâm trong các TPVH dành cho lứa tuổi MN là trẻ nhỏ. Vì
thế, khi đọc, kể, để "vẽ" ra được chân dung của nhân vật luôn ngây thơ, hồn
nhiên và đáng yêu đáng tha thứ ngay cả lúc mắc lỗi lầm này, giáo viên phải
hiểu rất rõ về trẻ và phải biết phối kết hợp tất cả các thủ thuật về thanh điệu,
nhịp điệu, cường độ.và ngắt giọng.

Nét mặt, cử chỉ, điệu bộ: đây là yếu tố phi ngôn ngữ nhưng với trẻ nhỏ,
yếu tố này không thể không sử dụng và nếu sử dụng hợp lí sẽ tạo nên sự lôi
cuốn, chú ý ở trẻ, đồng thời giúp trẻ tiếp nhận dễ dàng nội dung của tác
phẩm.

Đọc, kể diễn cảm tác phẩm đòi hỏi người giáo viên phải thấu hiểu
tác phẩm tới từng từ, phải có trí tưởng tượng phong phú để "nhìn thấy"
được những điều mình sẽ đọc, sẽ kể. Từ đó, biết kết hợp chất giọng của
mình cùng các yếu tố phi ngôn ngữ giúp người nghe cũng "nhìn thấy"
được trọn vẹn nội dung tư tưởng của tác phẩm một cách đầy xúc cảm.
THỰC HÀNH

Theo bạn, đọc, kể diễn cảm có vị trí và ý nghĩa gì trong tổ chức hoạt
động cho trẻ làm quen với TPVH? Tại sao?

Phương pháp giải thích

THỰC HÀNH

Hãy trao đổi cùng bạn trong nhóm để tìm hiểu xem, điều gì trong TPVH
cần phải giải thích với trẻ?

Khái niệm

Phương pháp giải thích sử dụng trong tổ chức hoạt động cho trẻ làm
quen với TPVH là việc giáo viên dùng lời (có lúc kết hợp với trực quan hình
ảnh) để giải nghĩa các từ khó có trong tác phẩm.

Từ khó là những từ mà trước khi làm quen với tác phẩm, trẻ chưa biết
hoặc chưa được nghe giải thích để hiểu đúng nghĩa của nó. Đôi khi, đó cũng
là các từ địa phương, các từ được dùng trong các truyện cổ dân gian.

Khi cho trẻ làm quen với truyện “Chú Dê Đen”, có cô giáo đã giải thích
nghĩa của những từ khó "đồng, kim cương, thép" trong các câu văn: "chân có
móng bằng đồng, sừng bằng kim cương; trái tim bằng thép" như sau: “…
đồng và thép là kim loại. Còn kim cương là một loại đá quý hơn vàng đấy!”

Giải thích từ “nghển cổ” trong câu thơ “Và nghển cổ / Lên trời cao...”
trong bài thơ “Cây dây leo”, một giáo viên khác đã làm động tác “vươn cao cổ
về phía trước” và nói: “Các con nhìn cô nghển cổ này!”

THỰC HÀNH

Bạn có nhận xét gì về hai cách giải thích từ khó trong các ví dụ trên?
Theo bạn, khi giải thích từ khó trong TPVH với trẻ, cần lưu ý điều gì?

Một vài thủ thuật giải thích từ khó

Cần nhớ rằng, không phải bất kì từ khó nào xuất hiện trong tác phẩm
mà trẻ chưa biết cũng nhất thiết phải giải thích. Trong nhiều trường hợp, trẻ
có thể hiểu nghĩa của từ khó trong văn cảnh mà tác giả sử dụng. Vì thế, việc
giải thích từ khó cũng cần được xem xét trong chính câu văn, câu thơ, trong
cách dùng cụ thể của tác giả. Không nên giải thích một cách riêng lẻ và chỉ
chú trọng nghĩa từ vựng (nghĩa đen) của từ.

- Miêu tả, thay thế từ khó bằng các từ đồng nghĩa, quen thuộc mà trẻ đã
biết.

- Đọc đi đọc lại chính từ khó đó nhiều lần để trẻ nghe và tự cảm nhận
nghĩa của từ.

- Gợi lại những biểu tượng đã có để trẻ tự cảm nhận nghĩa của từ.

- Cho xem tranh ảnh kết hợp với chỉ dẫn bằng lời.

THỰC HÀNH

Phương pháp giải thích có vai trò và ý nghĩa gì trong tổ chức hoạt động
cho trẻ làm quen với TPVH?

Theo bạn, giải thích từ khó nên thực hiện vào thời đêm trước hay ngay
trong khi tiến hành đọc, kể cho trẻ nghe TPVH? Vì sao?

Phương pháp đàm thoại

Khái niệm

Đàm thoại trong tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với văn học là
cuộc trò chuyện giữa cô và trẻ được tổ chức nhờ một hệ thống câu hỏi có
mục đích của cô nhằm giúp trẻ tiếp nhận giá trị của TPVH một cách tích cực,
hình thành và rèn luyện các kĩ năng ghi nhớ, kể chuyện, đọc thơ diễn cảm.

THỰC HÀNH

Hãy gạch chân những từ mà bạn cho là quan trọng trong khái niệm về
phương pháp đàm thoại nêu trên? Tại sao bạn cho là những từ đó là quan
trọng?

Các dạng câu hỏi cơ bản


Để thực hiện cuộc đàm thoại với trẻ về một TPVH, cô có thể đặt nhiều
dạng câu hỏi khác nhau.

− Câu hỏi nhận biết:

+ Ở truyện có thể đặt những câu hỏi như: Truyện gì? Truyện kể về điều
gì? Sự kiện nào là sự kiện chính của truyện? Truyện có những nhân vật
nào?...

+ Ở thơ có thể đặt những câu hỏi giúp trẻ nhận biết về tựa đề về nhịp,
vần và nội dung chính của bài thơ.

Câu hỏi tái tạo lại tác phẩm: có thể đặt các câu hỏi như: Chuyện xảy ra
khi nào? Nhân vật... đã gặp điều gì? Nhân vật... đã làm gì? Nhân vật... đã nói
gì?

Câu hỏi phát triển khả năng suy đoán, khơi gợi tưởng tượng, khả năng
ngôn ngữ và sáng tạo cho trẻ: ở thơ, loại câu hỏi này thường kích thích trẻ
cảm nhận bức tranh về màu sắc và âm thanh mà bài thơ tạo ra. Ở truyện, loại
câu hỏi này thường được bắt đầu bằng các từ như: Tại sao...?; Nếu...?; Thử
đoán xem...?; Có thể...?

Câu hỏi phát triển khả năng thể hiện cảm xúc bằng lời nói, giọng đọc,
nét mặt, điệu bộ... Ví dụ: Vì sợ hãi nên nhân vật... nói to hay nhỏ? (hoặc:...
giọng nói như thế nào?), nét mặt thế nào?... Để mọi người thấy được vẻ đẹp
của... khi đọc bài thơ, mình phải đọc nhanh hay chậm?...).

Câu hỏi khắc sâu chi tiết giúp trẻ ghi nhớ tác phẩm. Ví dụ: Đoạn nào,
câu thơ nào... trong truyện, trong bài thơ nói lên điều đó?...

Câu hỏi đánh giá nhân vật và xác định quan hệ tình cảm của trẻ đối với
các nhân vật và hình tượng thơ. Ví dụ: Nhân vật... tốt hay xấu, ngoan hay
hư? Con nghĩ gì về nhân vật...? Theo con, nhân vật... là người như thế nào?
Cảnh... có đẹp không?...

Câu hỏi hướng tới việc nhớ và kể lại (hoặc đọc lại) từng đoạn hoặc
toàn bộ TPVH đã được làm quen, ví dụ: Con có thể kể về nhân vật nào trong
truyện? Con thích đoạn nào của truyện, đoạn nào trong bài thơ? Có thể kể lại
đọc lại đoạn đó như thế nào?...

Câu hỏi kích thích trẻ vận dụng và phát triển vốn từ, ví dụ: Có thể dùng
từ gì để kể về nhân vật...?... dùng từ nào để tả vẻ đẹp của...? Tìm từ đồng
nghĩa, nghịch nghĩa với từ...

Câu hỏi giúp trẻ thêm kiến thức thể loại văn học, ví dụ: Truyện... là
truyện cổ tích hay truyện ngắn? Điều gì trong truyện giúp con biết được đây là
truyện cổ tích?...

Câu hỏi về cấu trúc của bài thơ, ví dụ: Phần đầu bài thơ nói về điều gì
(hoặc tả cảnh gì)?; phần tiếp theo..., phần cuối nói cái gì?,...

Câu hỏi giúp trẻ cảm nhận giá trị nghệ thuật của bài thơ, ví dụ: Trong
bài thơ tác giả đã tả... như thế nào?.... đã so sánh... với cái gì? Tại sao tác giả
lại gọi cái... như vậy?

Cần lưu ý là, số lượng và nội dung câu hỏi trong mỗi lần tổ chức hoạt
động cụ thể sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau:

+ Nhiệm vụ cụ thể đặt ra của mỗi giờ học.

+ Khả năng cảm thụ vần học của trẻ ở mỗi độ tuổi.

+ Độ dài ngắn, khó dễ của TPVH.

Không nhất thiết phải sử dụng tất cả các loại câu hỏi trong một lần tổ
chức hoạt động và không nên đặt quá nhiều câu hỏi trong một giờ học vì như
vậy sẽ làm "nát vụn" tác phẩm và không tạo được ở trẻ cảm xúc trọn vẹn về
TPVH.

THỰC HÀNH

Bạn hãy đọc kĩ các dạng câu hỏi trên và thử xác định xem, những câu
hỏi nào có thể sử dụng để trò chuyện giúp trẻ tiếp nhận giá trị của TPVH?

Những câu hỏi nào hướng với nhiệm vụ rèn các kĩ năng ghi nhớ, kể lại
tác phẩm hoặc đóng kịch theo cốt truyện?
Hãy đọc kĩ các câu hỏi trong các ví dụ sau:

Ví dụ 1: câu hỏi cho trẻ làm quen với truyện "Ba cô gái" (Chương trình
CSGD trẻ từ 5 đến 6 tuổi):

+ Truyện có những nhân vật nào?

+ Nhờ đâu mà "Ba cô gái lớn nhanh như thổi và cả ba cùng đẹp như
trăng rằm"?

+ Vì sao bà mẹ lại nhờ Sóc con mang thư tới các con bà?

+ Cô cả và cô Hai có về thăm mẹ ngay không?

+ Chi tiết nào cho con biết là họ không về thăm mẹ ngay?

+ Theo con, hành động của cô Cả và cô Hai có đúng không?

+ Tức giận vì hành động không đúng của các cô, Sóc con đã nói gì?

+ Vì sao cô út trong câu chuyện lại được mọi người yêu quý và các con
của cô hiếu thảo?

+ Nếu là cô út, con có nghĩ cách để cứu các chị của mình không? Cứu
bằng cách nào?... Khi các chị trở lại thành người, con sẽ nói gì với họ?

+ Có thể dùng những từ nào để kể về cô út?

+ Có thể đặt cho câu chuyện một cái tên khác không?

Ví dụ 2: câu hỏi cho trẻ làm quen với bài thơ “Mèo đi câu cá” (Chương
trình CSGD trẻ từ 5 đến 6 tuổi):

+ Anh em nhà mèo rủ nhau đi đâu?

+ Khi đi câu, Mèo em ngồi ở đâu? Mèo anh ra chỗ nào?

+ Đi câu nhưng họ có câu cá không?

+ Không câu cá Mèo anh làm gì?

+ Đoạn thơ nào cho con biết Mèo em cũng không câu cá?

+ Khi ông Mặt Trời đi ngủ, đôi mèo làm gì?

+ Tại sao anh em mèo lại khóc?


+ Để không bị đói bụng và không

+ Hãy nghĩ một từ để kể về Mèo anh và Mèo em?

+ Có thể đặt tên khác cho bài thơ không?

THỰC HÀNH

Bạn hãy xác định các dạng câu hỏi được sử dụng trong hai ví dụ nêu
trên. Theo bạn, hệ thống câu hỏi trên đây có thể sử dụng để thực hiện nhiệm
vụ cung cấp kiến thức mới hay rèn các kĩ năng khi cho trẻ làm quen với truyện
"Ba cô gái" và bài thơ “Mèo đi câu cá” không? Vì sao?

Các yêu cầu cơ bản cửa phương pháp đàm thoại

- Đảm bảo tính mục đích: Nội dung của các câu hỏi đặt ra cho trẻ phải
bám sát và nhằm thực hiện các nhiệm vụ của việc tổ chức cho trẻ làm
quen với văn học, không đi sang lĩnh vực khác.

- Đảm bảo tính hệ thống: Các câu hỏi cần sắp xếp theo trục phát triển
của TPVH, có mối quan hệ lô gích với nhau, đi từ dễ đến khó, từ cụ thể
đến khái quát... Nên kết hợp giữa các câu hỏi cho cá nhân và câu hỏi
giúp trẻ xâu chuỗi các sự kiện và chi tiết trong TPVH dùng cho tập thể
(Thường các câu hỏi xâu chuỗi các sự kiện chỉ nên có câu trả lời là
"Có" hoặc "Không").

- Phù hợp với đặc điểm cảm thụ văn học, vị từ và kinh nghiệm sống của
trẻ ở mỗi độ tuổi.

- Khơi gợi tưởng tượng, kích thích tư duy, khả năng sáng tạo vốn từ và
kinh nghiệm sống của trẻ.

- Kết hợp khéo léo, linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với biện pháp trò chơi.

- Câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu. Không nên ghép hai ba yêu cầu phải trả
lời trong một câu hỏi.

Trẻ mẫu giáo còn hạn chế về vốn từ và kinh nghiệm sống nên gặp
khó khăn trong quá trình tiếp nhận TPVH. Vì thế, đàm thoại giữa cô và
trẻ góp phần tích cực giúp trẻ hiểu đúng và sâu sắc giá trị của tác phẩm
được làm quen.

THỰC HÀNH

Theo bạn, phương pháp đàm thoại có vai trò và ý nghĩa gì trong tổ chức
hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH? Có thể không sử dụng phương pháp
đàm thoại khi tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH được không? Vì
sao?

NHÓM PHƯƠNG PHÁP TRỰC QUAN

Trực quan hình ảnh

Khái niệm

Trực quan hình ảnh là việc sử dụng tranh ảnh, vật thật, mô hình, đồ
chơi, các loại rối... kết hợp với những phương pháp lời nói trong quá trình cho
trẻ làm quen với TPVH.

THỰC HÀNH

Theo bạn, cần chú ý cụm từ nào trong khái niệm trên? Khi tổ chức hoạt
động cho trẻ làm quen với văn học, có thể sử dụng phương pháp trực quan
hình ảnh một cách độc lập được không? Vì sao?

Các loại trực quan hình ảnh

Tranh minh hoạ

Là tranh vẽ những sự kiện, những hình ảnh chính có trong TPVH.


Tranh có thể được vẽ ở dạng hoàn toàn tĩnh nhưng cũng có thể vừa tĩnh vừa
động.

Tranh minh hoạ cho nội dung của TPVH nên vẽ theo lối nhân cách hoá
(nếu các nhân vật là các con vật) và phải được đặt trong một khung cảnh cụ
thể nhằm minh hoạ cho một chi tiết trọn vẹn.
Tranh minh hoạ TPVH cho trẻ nhà trẻ và MGB cần thể hiện diện mạo
bên ngoài, tư thế, hành động của các nhân vật cũng như không gian diễn ra
các sự kiện phù hợp với hình ảnh mà ngôn ngữ thể hiện. Với trẻ MGL, tranh
cần phải đảm bảo tỉ lệ cân đối giữa các phần, thể hiện trạng thái xúc cảm qua
nét mặt vui, buồn... của nhân vật.

Số lượng tranh minh hoạ cho mỗi tác phẩm phụ thuộc vào nội dung và
tình tiết cụ thể của tác phẩm. Tuy nhiên, với trẻ nhỏ thì số lượng tranh minh
hoạ sẽ cần nhiều hơn trẻ lớn.

THỰC HÀNH

Theo bạn, vì sao trẻ nhỏ thì cần sử dụng nhiều tranh minh hoạ cho
TPVH cho trẻ nhỏ hơn trẻ lớn?

Tranh vẽ không gian diễn ra câu chuyện với kích cỡ lớn dùng làm
phông và các nhân vật rời bằng bìa loại này thường chỉ sử dụng kết hợp khi
tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với thể loại truyện.

Ví dụ: tranh vẽ cảnh ngôi nhà, gốc cây, bờ ao, bờ sông, ông Mặt Trời
(làm phông) minh hoạ cho bài thơ "Mèo đi đi câu cá" (Chương trình CSGD từ
5 đến 6 tuổi).

Trong những trường hợp cụ thể, giáo viên có thể thay thế tranh phông
cảnh bằng việc gắn các loại cây, cỏ, hoa lá nhà, mặt trời... cắt bằng bìa lên
bảng nỉ để tạo phông không gian cho câu chuyện.

Mũ, mặt nạ nhân vật

Rối nhân vật: có thể được làm bằng vải hoặc bằng giấy.

Đồ chơi: có thể là thú nhồi bông, búp bê, các loại con giống nhỏ... trong
"kho" đồ chơi của trẻ có trong lớp. Tuy nhiên, để những đồ chơi này trở thành
các nhân vật của truyện kể, cô giáo nên thắt cho chúng một cái nơ hoặc đội
cho chúng một cái nón, đi cho chúng một đôi giày...

Cỗ bài nhân vật: gồm những lá bài vẽ hình các nhân vật có trong
TPVH theo lối nhân cách hoá. Số lượng lá bài in hình mỗi nhân vật của truyện
ít nhất là hai và nên tăng theo cấp số nhân. Để tạo độ bền chắc cho giáo cụ,
nên làm bằng chất liệu simili.

Vật thật: là những con vật, cây trái, hoa cỏ... được đề cập trong TPVH.

Chú ý: Sử dụng phương pháp trực quan hình ảnh cần phải đảm bảo
tính an toàn, đa năng, dễ sử dụng cho cả cô và trẻ.

THỰC HÀNH

Theo bạn để tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH, mỗi loại
trực quan hình ảnh kể trên có những ưu điểm và hạn chế gì khi sử dụng?

Ý nghĩa của phương pháp trục quan hình ảnh trong tổ chức cho
trẻ làm quen với TPVH

Trực quan hình ảnh là một trong những phương pháp hỗ trợ được sử
dụng kết hợp với phương pháp dùng lời trong tổ chức hoạt động cho trẻ làm
quen với văn học. Tuỳ thuộc vào nhiệm vụ cụ thể của mỗi lần tổ chức hoạt
động cho trẻ làm quen với văn học mà giáo viên sẽ lựa chọn thời điểm sử
dụng phương pháp trực quan hình ảnh cho phù hợp. Ở các giờ học với nhiệm
vụ cung cấp kiến thức mới, phương pháp trực quan hình ảnh thường được
sử dụng kết hợp với phương pháp đọc, kể tác phẩm, và mang lại những ý
nghĩa sau đây:

- Tạo được sức hấp dẫn và chú ý tham gia vào hoạt động làm quen
với văn học của trẻ.

- Giúp trẻ dễ dàng hình dung, tưởng tượng các hình ảnh dược ngôn
ngữ của tác phẩm thể hiện.

Phương pháp trực quan hình ảnh có thể được dùng kết hợp với đàm
thoại hoặc trò chuyện khi tổ chức hoạt động làm quen với văn học hướng với
nhiệm vụ rèn kĩ năng ghi nhớ, kể (hoặc đọc) diễn cảm (hoặc kể sáng tạo)
TPVH cho trẻ. Trong trường hợp đó, phương pháp này sẽ giúp trẻ:

- Dễ dàng nhớ lại đoạn văn, đoạn thơ được thể hiện trong tranh minh
hoạ.
- Lựa chọn sử dụng từ để kể hoặc miêu tả về các nhân vật cảnh vật một
cách hợp lí và sáng tạo. (Hình ảnh về hành động và tâm trạng của các
nhân vật, hình ảnh không gian và cảnh vật... thể hiện trong tranh là gợi
ý có hiệu quả cho trẻ.).

THỰC HÀNH

Theo bạn, có thể không sử dụng phương pháp trực quan hình ảnh
trong tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH dược không? Tại sao?

Trực quan làm mẫu

Kể mẫu, đọc mẫu

Về bản chất, đây chính là phương pháp đọc, kể diễn cảm TPVH nhưng
được sử dụng với mục đích làm mẫu để trẻ bắt chước và lặp lại khi tổ chức
hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH với nhiệm vụ rèn các kĩ năng kể lại
truyện, đọc thơ diễn cảm.

Làm mẫu động tác cử chỉ

Động tác, điệu bộ, cử chỉ và những vận động có xúc cảm của giáo viên
(kết hợp với ngôn ngữ) dùng làm mẫu để trẻ bắt chước thể hiện lại khi luyện
tập các kĩ năng kể lại truyện, đọc thơ và đóng kịch theo cốt truyện.

NHÓM PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH

Phương pháp luyện tập

Luyện tập kể lại truyện

Luyện tập kể lại truyện là việc hướng dẫn trẻ nhớ và kể lại diễn cảm nội
dung hoặc kể lại một cách sáng tạo câu chuyện mà trẻ đã được làm quen.

Kể lại nội dung truyện: có nhiều mức độ khác nhau:

- Nhớ và kể lại một đoạn của tác phẩm (theo tranh minh hoạ hoặc kể
không có tranh minh hoạ).
- Nhớ và kể lại toàn bộ nội dung truyện (theo tranh minh hoạ hoặc
không có tranh minh hoạ, kể một mình hoặc phối hợp cùng bạn khi
kể...).

Kể lại sáng tạo:

- Kể lại sáng tạo từ vai của nhân vật mà bé yêu thích trong tác phẩm.

- Sắp xếp lại trật tự của tranh minh hoạ theo lựa chọn của cá nhân và
kể lại nội dung theo thứ tự đó.

- Nghĩ phần mở đầu, phần kết thúc khác cho câu chuyện.

- Xem tranh minh hoạ và với sự giúp đỡ của cô bằng các câu hỏi gợi
ý, trẻ "sáng tác" lời thoại, hoặc kể về tâm trạng, hoàn cảnh và hành
động của nhân vật theo tranh...

THỰC HÀNH

Theo bạn, kể lại nội dung truyện và kể lại sáng tạo, loại nào khó hơn?
Vì sao?

Luyện tập đọc thuộc thơ

Luyện tập đọc thuộc thơ là việc giáo viên hướng dẫn trẻ nhớ và đọc lại
bài thơ một cách diễn cảm.

Tuỳ vào khả năng và hứng thú của trẻ, luyện tập đọc thuộc thơ có thể
hướng tới một đoạn hoặc cả bài thơ. Tuy nhiên, cần lưu ý dạy trẻ biết thể hiện
xúc cảm và sự am hiểu của bản thân về nội dung bài thơ qua giọng đọc có
cảm xúc.

THỰC HÀNH

Theo bạn, có thể thực hiện việc dạy trẻ học thuộc lòng thơ từ độ tuổi
nào? Vì sao?

Phương pháp trò chơi

Trò chơi với tranh ảnh và đồ chơi


Xếp tranh theo thứ tự của TPVH

Loại trò chơi này giúp trẻ củng cố lại trình tự phát triển của TPVH. Vì
thế, loại trò chơi này thường được sử dụng để kết thúc giờ học với nhiệm vụ
cung cấp kiến thức mới (HĐC) hoặc trẻ tự chơi theo nhóm ở HĐG.

Giáo cụ trực quan cần có là bộ tranh minh hoạ cho nội dung TPVH.
(Tham khảo phần Phụ lục 4.l.)

Cách tiến hành: Cô giáo xếp đặt các tranh minh hoạ không theo trình tự
của tác phẩm. Mời trẻ lên xếp lại theo đúng trình tự. Để kích thích trẻ tích cực,
nên kết hợp biện pháp thi đua.

Tìm nhân vật trong TPVH

Trò chơi này có ý nghĩa giúp trẻ củng cố sự cảm nhận và hệ thống hoá
các nhân vật có trong tác phẩm được làm quen. Ngoài ra, trò chơi cũng góp
phần rèn luyện trí nhớ, tính kiên trì và phát triển khả năng phán đoán cho trẻ
yêu cầu đặt ra cho trẻ trong trò chơi này có nhiều mức độ khác nhau. Vì thế,
thời điểm tiến hành trò chơi sẽ hoặc là phần kết thúc của giờ học với nhiệm
vụ cung cấp kiến thức mới hoặc trẻ tự chơi trong nhóm.

Giáo cụ cần có là nhân vật rời được cắt bằng bìa hoặc bitis hoặc cỗ bài
các nhân vật có trong TPVH. (Tham khảo phần Phụ lục 4.2.).

Cách chơi: Nếu sử dụng để giúp trẻ củng cố cảm nhận về các nhân vật
thì giáo viên cần đặt các nhân vật cắt bằng bìa hoặc bitis lên bàn, nêu tính
cách hoặc việc làm hoặc tâm trạng... của nhân vật và mời trẻ lên chọn và đính
nhân vật đó lên bảng cho lớp cùng xem. Nếu có đủ các nhân vật rời, nên phát
cho mỗi bé trong lớp một nhân vật cô giáo cũng sẽ nêu tính cách hoặc hành
động... của nhân vật rồi đếm từ 1 đến 3, những bé nào có trong tay nhân vật
cô nêu thì giơ cao nhân vật rời đó lên...

Nếu trò chơi được tiến hành theo nhóm thì trẻ sẽ tráo bộ bài nhân vật
và xếp úp các lá bài xuống bàn, "oằn tù tì" để xem ai là người được đi trước.
Khi chơi, tay phải bé lật một lá bài, tay trái cũng lật một lá bài. Nếu hai lá bài
là cùng một nhân vật thì bé được "ăn" và lại đi tiếp. Nếu không trùng nhau, bé
còn lại sẽ được đi... Trò chơi được tiếp tục cho đến khi hết các lá bài. Bé
thắng cuộc là bé có số lượng lá bài thu về nhiều hơn.

Điều khiển nhân vật theo lời kể

Điều khiển nhân vật theo lời kể tạo cơ hội để trẻ tập thể hiện những xúc
cảm về các hình tượng nghệ thuật khi nghe kể, đọc tác phẩm bằng các động
tác điều khiển các nhân vật có xúc cảm. Vì thế, trò chơi này có thể kết hợp khi
thực hiện bước kể chuyện trong giờ học cung cấp kiến thức mới hoặc trẻ tự
chơi trong nhóm khi thực hành kể lại truyện.

Giáo cụ cần có là các nhân vật đồ chơi hoặc các nhân vật làm bằng bìa
rời, nhân vật rối giấy... (Tham khảo phần Phụ lục 4.3.)

Cách thực hiện: Cô giáo sẽ kể chuyện, trẻ sẽ "điều khiển" các nhân vật
hoặc trẻ vừa nhớ vừa kể lại chuyện đồng thời vừa "điều khiển" các nhân vật
phù hợp với lời kể.

Trò chơi ngôn ngữ

Đoán xem nhân vật nào vừa nói

Trò chơi này giúp trẻ củng cố cảm nhận về tính cách các nhân vật qua
việc nghe hoặc bắt chước ngữ điệu giọng nói của nhân vật.

Tuỳ theo khả năng của trẻ mà giáo viên cùng tham gia hoặc để trẻ tự
chơi với nhau theo cách là, cô hoặc một trẻ nói lại lời thoại của nhân vật, trẻ
còn lại sẽ đoán xem nhân vật đó là ai và nói tên.

Thử giọng nói nhân vật

Trò chơi này yêu cầu trẻ phải "đặt" mình vào vị trí của nhân vật và thử
nói lại lời nói xem có giống nhân vật không. Vì thế, trò chơi này thường giúp
trẻ cảm nhận tính cách, tâm trạng của nhân vật tốt hơn đồng thời để dáng và
hứng thú hơn trong việc ghi nhớ lời thoại của nhân vật trong TPVH.

Giáo cụ: mũ nhân vật, mặt nạ nhân vật. (Phụ lục 4.2.)

Cách thực hiện: Thay vì yêu cầu trẻ nhắc lại lời nói của các nhân vật
cần tìm hiểu trong tác phẩm, cô giáo khuyến khích trẻ "thử bắt chước" xem
giọng nói của bé có giống với nhân vật không, hoặc "Thi xem ai có giọng nói
giống nhân vật nhất".

Đàm thoại theo vai

Trò chơi này thường sử dụng khi cho trẻ làm quen với những câu
chuyện có nhiều đoạn đối thoại giữa các nhân vật.

Tuỳ thuộc vào thời điểm thực hiện trò chơi mà có thể cần hoặc không
cần cho trẻ đội mũ nhân vật khi tham gia chơi.

Cách thực hiện: Giáo viên phân trẻ trong lớp thành hai vai đại diện cho
hai nhân vật có tính cách khác nhau trong truyện, hoặc cô giáo vào vai một
nhân vật, toàn bộ trẻ trong lớp vào vai nhân vật còn lại. Hai nhân vật sẽ đối
đáp theo lời thoại của nhân vật trong truyện và được tự do vận động, làm
động tác biểu cảm theo cảm xúc về nhân vật khi chơi.

Trò chuyện cùng nhân vật

Giáo viên sẽ nhập vai một nhân vật có trong câu chuyện, bước ra khỏi
TPVH để "trò chuyện" cùng trẻ. Nội dung của cuộc trò chuyện thực chất là
các câu hỏi của cô nhằm giúp trẻ không những hiểu đúng về nhân vật mà cô
vào vai mà còn hiểu đúng về các nhân vật còn lại của truyện. Trong khi dẫn
dắt trẻ chơi, cô giáo phải linh hoạt kết hợp các thao tác và vận động có cảm
xúc để cô luôn hiện lên trước trẻ là hình ảnh của nhân vật và nhân vật đó
đang trò chuyện với chúng. Đây là một trò chơi có sức hấp dẫn trẻ nhưng
không dễ và đòi hỏi giáo viên phải có năng khiếu đóng kịch. Vì thế, cần căn
cứ vào tình hình của trẻ và khả năng của bản thân mà giáo viên quyết định
thời điểm và mức độ "trò chuyện" của nhân vật cùng trẻ.

Để trò chơi kích thích tính tích cực và lôi cuốn trẻ, cô giáo cần sử dụng
mặt nạ nhân vật. (Tham khảo phần Phụ lục 4.2.)

THỰC HÀNH
Thử xác định thời điểm có thể sử dụng những loại trò chơi ngôn ngữ
trên đây khi tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH? Theo bạn, những
trò chơi này có nhiệm vụ gì?

Trò chơi vận động

Trẻ tạo dáng bác Gấu trong truyện Thỏ ngoan (Chương trình CSGD trẻ
từ 24 đến 36 tháng)

Trò chơi vận động sử dụng trong việc tổ chức cho trẻ làm quen với
TPVH là các trò chơi mô phỏng vận động của các con vật. Đó là việc giáo
viên hướng dẫn và cùng trẻ bắt chước điệu bộ, dáng đi, tiếng kêu của các
con vật được nhân cách hoá trong TPVH mà trẻ làm quen.

Loại trò chơi này có tác dụng kích thích tính tích cực và tạo điều kiện
cho trẻ củng cố hình ảnh và kiến thức về đặc điểm đặc trưng của các con vật
trong thế giới xung quanh, tập bộc lộ xúc cảm và tiếp nhận tính cách của các
nhân vật được nhân cách hoá trong TPVH mà trẻ được làm quen.

THỰC HÀNH

Theo bạn, trò chơi vận động mô phỏng có thể sử dụng để dẫn dắt trẻ
cùng cô "bước vào" tình hiểu, khám phá TPVH hoặc dùng để kết thúc hoạt
động cho trẻ làm quen với văn học được không?

Trò chơi đóng kịch

Trò chơi đóng kịch (còn gọi là trò chơi đóng vai theo TPVH) là hình thức
giúp trẻ nhập vai thành các nhân vật có trong TPVH. Loại trò chơi này là một
trong những con đường giúp trẻ tiếp nhận TPVH một cách tích cực và có hiệu
quả nhất.

Trong khi chơi đóng kịch, trẻ nhỏ phải biết "hoá thân" thành các nhân
vật với nội tâm, cá tính riêng biệt được thể hiện bằng những lời nói và hành
động vừa thực, vừa hư và phải tuân theo nội dung của một tác phẩm cụ thể.
Vì thế, trò chơi đóng kịch với trẻ MN không chỉ là một trò chơi mà còn là hoạt
động mang tính nghệ thuật. Yếu tố trò chơi và yếu tố nghệ thuật được kết hợp
chặt chẽ trong quá trình trò chơi đóng kịch diễn ra.

Yếu tố nghệ thuật của trò chơi thể hiện ở kịch bản, hoá trang, bài trí sân
khấu và diễn xuất của các "diễn viên".

Khác với một vở kịch được diễn trên sân khấu trong nhà hát, trò chơi
đóng kịch ở trẻ MN ngoài các nhân vật chuyển từ tác phẩm, cần có nhân vật
người dẫn chuyện. Vì thế, khi chuyển thể TPVH thành kịch, cô giáo cần tính
toán để sao cho, có thể nhân vật người dẫn chuyện không xuất hiện trên sân
khấu nhưng tiếng nói của nhân vật này vẫn giúp trẻ xâu chuỗi được các sự
kiện và giúp cho diễn biến của câu chuyện được mạch lạc.

Yếu tố chơi được thể hiện ở chỗ trẻ đến với trò chơi một cách tự
nguyện, trẻ được tự do lựa chọn cách thể hiện vai mà mình đóng. Trong suốt
cuộc chơi, trẻ phải thấy thích thú thoải mái, không bị gò bó. Cũng cần lưu ý là,
trong trò chơi đóng kịch, cùng với vai diễn thể hiện các nhân vật trong truyện,
trẻ còn cần phải vào cả vai của các khán giả đến xem kịch. Những bé không
đóng làm diễn viên thì sẽ ở vai khán giả và thực hiện nhiệm vụ của vai như:
mua vé trước khi vào nhà hát, trật tự hướng về sân khấu, vỗ tay tán thưởng
sau mỗi màn diễn...

Các bước tiến hành trò chơi đóng kịch cụ thể sẽ đề cập ở phần
"Phương pháp hướng dẫn trẻ đóng kịch theo cốt truyện" trong chương sau.

THỰC HÀNH

Bạn hãy nhớ lại các yêu cầu và nội dung của trò chơi đóng vai theo chủ
đề. Theo bạn, trò chơi đóng vai theo chủ đề và trò chơi đóng kịch theo cốt
truyện có gỗ giống và khác nhau? Trò chơi nào khó hơn? Vì sao?

Các phương pháp dạy học trình bày trên đây được phân tích một
cách biệt lập và tách rời nhau nhằm chỉ rõ nội dung, ý nghĩa và vai trò
của chúng trong sử dụng để tổ chức cho trẻ làm quen với TPVH. Tuy
nhiên, cần sử dụng chúng trong mối liên hệ mật thiết với nhau và hỗ trợ
nhau. Để kích thích tính tích cực của trẻ, giáo viên cần biết lựa chọn và
sử dụng một cách linh hoạt, sáng tạo và phối kết hợp các phương pháp
dạy học. Không được sử dụng một cách độc lập, rập khuôn và máy
móc.

CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP

1. Chọn một bài thơ và một câu chuyện có trong chương trình CSGD trẻ và
thực hiện các yêu cầu sau:

- Đọc kĩ tác phẩm và xác định nhịp thơ, vần thơ, hình ảnh chính của
bài thơ tính cách và các chi tiết thể hiện rõ tính cách của các nhân
vật trong truyện.

- Luyện tập đọc, kể diễn cảm để thể hiện cảm nhận của bạn về các
hình tượng nghệ thuật có trong TPVH.

- Để giúp trẻ dễ dàng tưởng tượng khi nghe đọc, kể các TPVH đó, có
thể lựa chọn loại giáo cụ trực quan minh hoạ cho hình ảnh hoặc chi
tiết nào của tác phẩm?

2. Dựa vào các yêu cầu cơ bản của phương pháp đàm thoại sử dụng trong
tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen với TPVH, hãy nêu nhận xét của cá
nhân bạn về các câu hỏi mà giáo viên đã sử dụng để trò chuyện cùng trẻ
khi tổ chức giờ học với nhiệm vụ cung cấp kiến thức mới sau đây:

Truyện: Cây khế" (Chương trình CSGD trẻ từ 4 đến 5 tuổi)

- Các con vừa nghe câu chuyện gì?

- Trong truyện có những ai?

- Người anh đã làm gì với người em?

- Khi được chia gia tài, người em đã làm gì?

- Người anh đối với người em như thế nào?

- Tại sao người anh lại tham lam?


- Một hôm có con chim tới ăn khế, con chim này đã nói gì với người
em?

- Cuối cùng người anh đã bị gì? Tại sao?

- Còn người em sống như thế nào?

Bài thơ: "Mèo đi câu cá" (Chương trình CSGD trẻ từ 5 đến 6 tuổi)

- Hai anh em Mèo rủ nhau đi đâu và phân công công việc như thế
nào?

- Khi Mèo em đang câu cá thì chuyện gì xảy ra?

- Mèo anh có làm tốt công việc của mình không? Tại sao?

- Thế Mèo anh thay việc câu cá bằng việc gì?

- Tại sao anh em mèo phải hối hả về nhà?

- Kết quả một ngày đi câu cá của hai anh em mèo như thế nào?

- Con nghe được âm thanh gì trong bài thơ "Mèo đi câu cá"?

- Vậy con bắt chước Mèo anh hay Mèo em? Vì sao?

- Theo suy nghĩ của con thì bài thơ này muốn nhắc nhở ta điều gì?

3. Vai trò của phương pháp trò chơi sử dụng trong tổ chức hoạt động cho trẻ
làm quen với TPVH. Nêu ba trò chơi có thể sử dụng trong tổ chức hoạt
động cho trẻ làm quen với TPVH (tên trò chơi, ý nghĩa, thời điểm tiến
hành, giáo cụ cần có, cách tiến hành trò chơi với trẻ).

4. Hãy phân chia các phương pháp dạy học sử dụng để tổ chức cho trẻ làm
quen với TPVH theo mục đích sử dụng.

5. Chọn một TPVH có trong chương trình CSGD trẻ MN, xây dựng một hệ
thống câu hỏi có thể sử dụng để trò chuyện giúp trẻ tiếp nhận được giá trị
của TPVH đó. Trao đổi với người bạn trong nhóm để chuyển đổi một vài
câu hỏi ở dạng trực tiếp sang dạng đàm thoại gián tiếp bằng biện pháp trò
chơi.
6. Chọn một câu chuyện có trong chương trình CSGD trẻ, hãy trao đổi với
các bạn trong nhóm và tập chuyển thể câu chuyện thành kịch có thể sử
dụng để hướng dẫn trẻ đóng kịch theo cất truyện TPVH đó.

TÌM ĐỌC

1. M.K Bogoliupxkia, V.V Sepsenko, "Đọc và kể chuyện văn học ở vườn trẻ"
NXB Giáo dục, 1978.

2. Nguyễn Xuân Khoa, "Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo".
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.

3. Ngô Thị Thái Sơn, "Các bài giảng về phương pháp cho trẻ làm quen với
TPVH", Tài liệu lưu hành nội bộ, Trường CĐSPMGTW3, 1998.

4. Nguyễn Thu Thuỷ, "Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ, NXB Giáo
dục, 1986.

5. Phạm Thị Việt, Lê ánh Tuyết, Cao Đức Tiến, "Văn học và phương pháp
cho trẻ tiếp xúc với văn học", NXB Giáo dục, 1998.

Bài 5: CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI TPVH Ở
TRƯỜNG MN
Bài này sẽ giúp bạn:

1. Trình bày được nhiệm vụ, cấu trúc và yêu cầu của các giờ học cho
trẻ làm quen với TPVH ở trường MN.

2. Giải thích được cơ sở và các quan điểm khác nhau trong việc phân
chia các dạng hoạt động cho trẻ làm quen với văn học ở MN.

Ở trường MN việc cho trẻ làm quen với TPVH thường được tổ chức
thông qua hai hình thức cơ bản, đó là: giờ học và mọi nơi mọi lúc (ngoài giờ
học).

GIỜ HỌC
Giờ học là hình thức cơ bản để người giáo viên thực hiện các nhiệm vụ
và nội dung của chương trình cho trẻ làm quen với văn học. Hình thức này
thường hướng tới hai nhiệm vụ cơ bản là:

1. Giúp trẻ tiếp nhận giá trị của TPVH được làm quen.

2. Giúp trẻ rèn luyện các kĩ năng ghi nhớ, đọc hoặc kể lại diễn cảm
TPVH, kì năng đóng kịch theo cốt truyện...

Theo phân chia của giáo dục học, giờ học giúp trẻ tiếp nhận giá trị tác
phẩm là loại giờ cung cấp kiến thức mới, có cấu trúc ba phần như sau:

1. Ổn định - giới thiệu.

2. Tổ chức các hoạt động nhận thức cho trẻ.

3. Kết thúc.

Giờ học này được tổ chức tập thể cho tất cả các trẻ trong lớp. Tuy
nhiên để kích thích tính tích cực của trẻ, tạo cho trẻ cổ nhiều cơ hội để tiếp
nhận tác phẩm bằng tất cả các giác quan, các cô giáo MN cần biết vận dụng
một cách linh hoạt và sáng tạo các phương pháp, biện pháp dạy học khi thực
hiện cấu trúc ba phần của giờ học. Đây chính là sự khác biệt cơ bản của giờ
học ở MN và giờ học ở trường phổ thông. Vì thế, hiện nay giờ học với nhiệm
vụ cung cấp kiến thức mới tiến hành với trẻ MN còn được gọi là HĐC.

Trong xu hướng đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ở
trường MN hiện nay, giờ học cho trẻ làm quen với TPVH với nhiệm vụ cung
cấp kiến thức mới cũng có hai cách tiếp cận khác nhau sau đây:

- Giờ học được thực hiện theo kiểu lồng ghép tất cả các lĩnh vực
trong cùng chủ đề. Ở đây, trẻ tiếp nhận, khám phá và tìm hiểu các
lĩnh vực có liên quan ngang bằng nhau, không có lĩnh vực nào ở vị
trí trọng tâm. Cách tiếp cận này có ưu điểm là tạo được nhiều cơ hội
cho trẻ phát huy và vận dụng vốn sống của bản thân vào hoạt động
nhưng việc cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng lại không đảm
bảo tính hệ thống. Hơn nữa, cách tiếp cận này đòi hỏi người giáo
viên phải có trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm tổ chức tốt
trong điều kiện hạn chế về số lượng trẻ trong một lớp.

- Giờ học tuy lấy văn học làm trọng tâm nhưng cần có sự liên hệ với
các lĩnh vực có liên quan cùng chủ đề.

Cách tiếp cận này đảm bảo được tính hệ thống trong cung cấp kiến
thức và luyện kĩ năng cho trẻ nhưng có hạn chế là, không tạo được nhiều cơ
hội để trẻ trải nghiệm và vận dụng tối đa kinh nghiệm của bản thân trong khi
tham gia hoạt động khám phá và tiếp nhận.

Từ hai cách tiếp cận trên đây, giờ học cho trẻ làm quen với văn học ở
trường MN có thể phân chia thành hai loại sau:

- Giờ học lấy văn học trọng tâm.

- Giờ học hỗn hợp lồng ghép nhiều lĩnh vực cùng chủ đề trong đó có
Tải bản FULL (153 trang): https://bit.ly/3l3diL6
văn học.
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
Giáo viên căn cứ vào tình hình của trẻ và khả năng của bản thân cũng
như tình huống cụ thể để lựa chọn dạng giờ học và cấu trúc tiến hành cho
phù hợp. Tuy nhiên, dù là hình thức giờ học nào cũng cần chú ý đảm bảo thời
gian tiến hành cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ ở mỗi độ tuổi.
Theo quy định, thời gian tiến hành một giờ học cho trẻ làm quen với văn học
là: từ 12 đến 15 phút cho trẻ nhà trẻ (từ 24 đến 36 tháng), từ 15 đến 20 phút
cho trẻ MGB (từ 3 đến 4 tuổi), từ 20 đến 25 phút cho trẻ mẫu giáo nhỏ (từ 4
đến 5 tuổi), từ 25 đến 30 phút cho trẻ MGL (từ 5 đến 6 tuổi).

Các giờ học "hướng tới nhiệm vụ rèn kĩ năng cần chú ý tới sở thích và
khả năng của cá nhân trẻ, chú ý tạo cho trẻ có thời gian, điều kiện và cơ hội
để thực hành luyện tập. Vì thế, loại giờ này cần để trẻ được tự do lựa chọn
nhóm chơi cũng như mức độ và nội dung cụ thể của cuộc chơi. Hiện nay loại
giờ học này thường được tổ chức dưới hình thức là hoạt động góc (HĐG) cho
một nhóm trẻ trên tinh thần tự nguyện.
Như vậy, cần hiểu khái niệm về "giờ học" theo hướng rộng hơn. Không
nên quan niệm giờ học phải được diễn ra tại phòng học và phải được tổ chức
cho toàn bộ trẻ trong lớp tham gia.

Dựa vào mối quan hệ qua lại giữa kiến thức và kĩ năng (kiến thức là cơ
sở để rèn kĩ năng và kĩ năng góp phần củng cố, khắc sâu hơn kiến thức), và
căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí của trẻ MN trong cảm thụ nghệ thuật, hiện
nay, HĐG được quy định là phải thực hiện ngay sau giờ học cung cấp kiến
thức mới (hoạt động chung - HĐC). Đặt văn học trong mối quan hệ với các
lĩnh vực có liên quan trong cùng chủ đề, các góc có thể tổ chức sau HĐC
thường là:

- Góc kể lại truyện: nhiệm vụ khi tổ chức góc này hoặc là hướng dẫn
và tạo điều kiện để trẻ nhớ và kể lại diễn cảm nội dung truyện hoặc
kể lại sáng tạo.

- Góc đọc thơ: rèn luyện cho trẻ kĩ năng ghi nhớ và đọc lai bài thơ có
cảm xúc. Tải bản FULL (153 trang): https://bit.ly/3l3diL6
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
- Góc đóng kịch: giúp trẻ cùng nhau thảo luận, tìm kiếm cách thể hiện
và phối hợp cùng nhau tập thể hiện hình ảnh của các nhân vật trong
TPVH bằng trò chơi đóng kịch theo cốt truyện.

- Góc tạo hình: tạo điều kiện và cơ hội để trẻ lựa chọn vật liệu và
phương tiện để thể hiện cảm nhận về TPVH đã được làm quen
thông qua các sản phẩm của tạo hình (tô màu, vẽ, nặn, xé dán, làm
rối, làm rối các nhân vật, xây dựng mô hình, làm album...)

- Góc vận động và âm nhạc: nghe nhạc và vận động tạo dáng hoặc
biểu hiện tâm trạng, hành động... của nhân vật trong TPVH.

- Góc phát triển ngôn ngữ: rèn luyện kĩ năng sử dụng tỉ diễn đạt và kể
chuyện về các nhân vật có trong TPVH kể về nội dung tranh vẽ, thể
hiện cảm nhận của bé các hình tượng nghệ thuật có trong TPVH...
Giáo viên căn cứ vào điều kiện cụ thể về cơ sở vật chế về khả năng, sở
thích của trẻ, về nội dung của TPVH ca trẻ làm quen để lựa chọn tổ chức các
góc cho phù hội Không nhất thiết phải tổ chức tất cả các góc trên đã sau khi
tổ chức HĐC.

Các bước tiến hành HĐG không bắt buộc tuần tự tiến hành một giờ học
với nhiệm vụ cung cấp kiến thứ mới cho cả lớp. Cần kết hợp linh hoạt các
phương phải thực hành luyện tập với trực quan làm mẫu, trực quan hình ảnh
và trò chuyện để kích thích tính tích cực của trẻ.

Thời gian tổ chức HĐG cũng không nên quy định cụ thể hãy để cho sự
thích thú, khả năng và nội dung của cuộc chơi dẫn dắt trẻ.

LÀM QUEN VỚI TPVH Ở MỌI NƠI MỌI LÚC (NGOÀI GIỜ HỌC)

THỰC HÀNH

Theo bạn, ở trường MN, ngoài giờ học có những thời điểm và hoạt
động nào có thể cho trẻ làm quen với văn học?

Trò chuyện đầu giờ

Trò chuyện đầu giờ được tổ chức vào thời điểm sau thể dục sáng và ăn
sáng của trẻ. Nhiệm vụ của cuộc trò chuyện này là góp phần làm giàu vốn từ
và kinh nghiệm sống có liên quan đến việc tiếp nhận TPVH sẽ được cho trẻ
làm quen.

Nội dung và cách tiến hành trò chuyện đầu giờ dựa trên các cơ sở sau
đây:

- Căn cứ vào tình hình và khả năng thực tế của trẻ.

- Nội dung của TPVH sẽ cho trẻ làm quen.

- Mối liên quan giữa nội dung của TPVH với các lĩnh vực khác trong
cùng chủ đề.

THỰC HÀNH 4194724

You might also like