Professional Documents
Culture Documents
Phan Nguyen Tram Anh
Phan Nguyen Tram Anh
HỌC VẤN CỦA CHA MẸ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC CHỌN HỌC ĐẠI HỌC CỦA CON
Họ và tên: Phan Nguyễn Trâm Anh
Trường: Đại học Kinh tế TP.HCM
Email: pntramanh2000@gmail.com
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Ở các quốc gia khác, nhiều mô hình đã được sử dụng để nghiên cứu việc nhập học hay chọn
học đại học. Tuy nhiên tại Việt Nam, dù đã được quan tâm về học vấn của người dân cũng như
việc học đại học, nhưng nền tảng lý thuyết và các nghiên cứu liên quan đến việc chọn học đại học
vẫn còn ít. Dựa vào việc chọn học đại học và phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả đã xác
định được các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn học đại học gồm: dân tộc, giới tính, học vấn của
cha mẹ và thu nhập của gia đình. Nghiên cứu sử dụng 2.024 quan sát được lấy từ bộ dữ liệu
VHLSS 2018. Kết quả của nghiên cứu khẳng định mối liên hệ giữa các yếu tố được đề cập là có ý
nghĩa thống kê. Cụ thể, học vấn của cha và mẹ có tác động cùng chiều đối với việc chọn học đại
học của con ở tất cả mô hình được kiểm chứng.
TỪ KHÓA: Chọn học đại học, học vấn của cha, học vấn của mẹ, thu nhập của gia đình,…
CHƯƠNG I. GIỚI THIỆU
1.1 Đặt vấn đề nghiên cứu
Kỳ thi THPT luôn là kỳ thi được quan tâm hàng đầu tại nước ta. Học sinh được thiết kế
nhiều lộ trình học, bài giảng để chuẩn bị hành trang cho kỳ thi Đại học. Số lượng đăng ký thi Đại
học hằng năm luôn chiếm tỉ trọng lớn. Trong năm 2021, hơn 78,2% thí sinh tham dự có mục đích
xét tuyển đại học, Cao đẳng (Hoa Lê, 2021). Những điều đó cho thấy rằng giáo dục cũng như trình
độ học vấn của người dân là một vấn đề có tầm quan trọng và việc chọn học đại học cũng là một
vấn đề được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, vẫn có nhiều thí sinh không có ý định học đại học.
Điều đó đặt ra câu hỏi có những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc chọn học đại học của những thí
sinh này.
Mối tương quan giữa những yếu tố liên quan đến cha mẹ và việc học đại học của con từng
xuất hiện trong các nghiên cứu của Coelli (2011), Case và cộng sự (2004),… và được chứng minh
là có mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc gia đình cũng như của con ảnh hưởng đến vấn đề này. Bên
cạnh đó, có nhiều nghiên cứu cho thấy việc học đại học của con cũng như trình độ học vấn có ảnh
hưởng đến nhiều yếu tố đối với cuộc sống của mỗi người. Như trong báo Nhân dân có đề cập đến
sự ảnh hưởng của trình độ học vấn của người mẹ đến mức sinh cụ thể “Thể hiện tổng tỷ suất sinh
(TFR), cao nhất (2,65) ở những phụ nữ chưa đi học, ở dưới mức sinh thay thế (2,1) ở những phụ
nữ đã tốt nghiệp trung học cơ sở và đạt mức thấp nhất (1,64) ở những phụ nữ đã tốt nghiệp trung
học phổ thông. Số liệu này cho thấy những phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn, họ thường sinh ít
con hơn. Ðiều đó cho thấy chương trình DS - KHHGÐ cần tập trung vào nhóm có học vấn thấp để
cung cấp cho họ thông tin về lợi ích của quy mô gia đình ít con sẽ tạo cơ hội cho sự phát triển,
nâng cao trình độ học vấn của người mẹ và mang lại lợi ích về sức khỏe cho con cái họ.” (Nguyễn
Hữu Tài, 2010). Ngoài ra còn các nghiên cứu khác liên quan đến sự thành công của con trẻ, đến
thu nhập của chính họ cũng như con của mình,…
Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa có nhiều nền tảng lý thuyết và các nghiên cứu liên quan
đến các yếu tố ảnh hưởng đến việc chọn học đại học của con mà phần lớn là nghiên cứu các yếu tố
ảnh hưởng đến việc chọn trường hoặc ngành học. Từ các lý do trên, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn
nghiên cứu các yếu tố của cha mẹ ảnh hưởng đến việc chọn học đại học của con.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào các mục tiêu trọng tâm sau:
Mối liên hệ giữa học vấn của mẹ đến việc chọn học đại học của con.
Mối liên hệ giữa học vấn của cha đến việc chọn học đại học của con.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu thiết kế câu hỏi nghiên cứu dựa vào mục tiêu nghiên cứu chi tiết đã liệt kê
bao gồm 2 câu hỏi như sau:
Học vấn của cha có tác động cùng chiều đến việc chọn học đại học của con không?
Học vấn của mẹ có tác động cùng chiều đến việc chọn học đại học của con không?
1.4 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng “Bộ dữ liệu khảo sát mức sống hộ gia đình - VHLSS” được điều tra bởi
Tổng cục Thống kê năm 2018.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng: thống kê mô tả và hồi quy
Logit bằng phần mềm STATA để tìm ra mối tương quan giữa các yếu tố được xác định đối với
trình độ học vấn của con.
1.6 Những đóng góp của đề tài
Về mặt ứng dụng trong nghiên cứu về trình độ học vấn, nghiên cứu mô tả bức tranh tổng
quan về các nghiên cứu trên thế giới cũng như Việt Nam, từ đó, tạo ra nền tảng cơ sở lý thuyết cho
các nghiên cứu tổng quan cũng như nghiên cứu thực nghiệm trong tương lai.
Về mặt ứng dụng thực tế, đề tài cung cấp góc nhìn tổng quan về các yếu tố ảnh hưởng đến
việc chọn học đại học của con cho các nhà giáo dục. Trình độ học vấn ngày càng quan trọng, do
đó, nhà nước đã và đang có xu hướng nâng cao trình độ học vấn cho người dân. Nghiên cứu sẽ
giúp xác định được các yếu tố đang ảnh hưởng đến việc chọn học đại học. Từ đó, sẽ giúp cho việc
đưa ra những quyết định phù hợp và chính xác với tình trạng trong hiện tại và tương lai.
CHƯƠNG II. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
2.1 Việc chọn học đại học của con
Việc chọn học đại học của con sẽ được đo lường trên các đối tượng khảo sát từ 18 tuổi trở
lên bao gồm cả học đại học và cao đẳng. Những quan sát này có quan hệ là con của chủ hộ được
khảo sát.
2.2 Các yếu tố tác động đến việc chọn học đại học của con
2.2.1 Yếu tố gia đình
Mối tương quan giữa thuộc tính này và việc chọn học đại học của con đã được đề cập trong
nghiên cứu của Kodde & Ritzen (1988) về ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của trình độ học vấn
của cha mẹ đối với nhu cầu giáo dục đại học. Nghiên cứu này được xây dựng dựa trên ba nhóm lý
thuyết chính. Đầu tiên là lý thuyết vốn con người (human capital theory) được phát triển bởi
Schultz (1960), Mincer (1958 và 1974), và Becker (1975). Lý thuyết này xem giáo dục như một
khoản đầu tư mà chi phí hiện tại được so sánh với lợi ích trong tương lai. Về sau, những mô hình
trong lý thuyết đã được mở rộng để thích ứng với thị trường vốn không hoàn hảo (Parsons, 1974;
Wallace & Ihnen, 1975; Johnson, 1978; Kodde & Ritzen, 1984), sự không chắc chắn của thu nhập
trong tương lai (Levhari & Weiss, 1974; Williams, 1979; Eaton & Rosen, 1980; Kodde, 1986) và
triển vọng việc làm (Kodde & Ritzen, 1988). Khi thị trường vốn không hoàn hảo thì Kodde &
Ritzen (1984) cho rằng thu nhập của gia đình cũng nên được xem xét. Nhóm lý thuyết thứ hai xem
việc đi học là một hoạt động tiêu dùng, sự chú ý được tập trung vào lợi ích phi tiền tệ của giáo dục.
Có thể kể đến lợi ích này trong mô hình sản xuất hộ gia đình của Michael (1973) và trong mô hình
vòng đời của Heckman và cộng sự (1976). Nhóm lý thuyết thứ ba được gọi là ghi nhãn, sàng lọc,
hoặc chủ nghĩa tín nhiệm, xem giáo dục như một bộ chọn lọc những sinh viên hiệu quả hơn.
Nghiên cứu được phân tích ở hai mô hình là mô hình đơn giản và mô hình phức tạp. Ở mô hình
đầu tiên cũng là mô hình đơn giản nhất, nhóm tác giả thấy rằng trình độ học vấn của cha mẹ có tác
động đáng kể đến việc lựa chọn giáo dục của con. Sau khi kết hợp khả năng học vấn và thu nhập,
kết quả cho thấy rằng sự tác động bởi học vấn của phụ huynh đã giảm nhưng vẫn còn rất đáng kể.
Sự ảnh hưởng bởi thu nhập của cha mẹ đối với quyết định nhập học của con cũng được
nghiên cứu và chứng minh bởi Acemoglu & Pischke (2001). Nghiên cứu này được nhóm tác giả
sử dụng ba cuộc khảo sát về học sinh tốt nghiệp THPT do Trung tâm Thống kê Giáo dục Quốc gia
Hoa Kỳ (NCES) tài trợ. Các cuộc khảo sát được kéo dài khoảng 2 thập kỷ vào những năm 1970 và
những năm 1980. Tác giả có đề cập, trên thực tế, nhiều nghiên cứu bao gồm học vấn của cha mẹ
và sự kiểm soát của họ đối với loại trường đã học trước đó hoặc điểm kiểm tra làm giảm đáng kể
mức ảnh hưởng của thu nhập gia đình đối với học vấn của con cái ví dụ như Cameron và cộng sự
(1999), Ellwood & Kane (1998), hoặc Cameron & Taber (2000)). Khác với những bài nghiên cứu
đó, bài nghiên cứu của Acemoglu & Pischke (2001) không gặp phải những vấn đề liên quan đến
các yếu tố đã nêu trên dẫn đến ước tính lớn hơn đáng kể về mức độ ảnh hưởng của các nguồn lực
của cha mẹ đối với học vấn của con cái. Sau khi nghiên cứu, nhóm tác giả kết luận rằng thu nhập
gia đình có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc đăng ký nhập học của con. Sự ảnh hưởng này được ước
tính lên đến 0,14 cho thấy đây là một ảnh hưởng rất đáng kể về mặt kinh tế.
Mối tương quan giữa các yếu tố có liên quan đến cha mẹ và việc chọn học đại học của con
được đề cập đến trong nghiên cứu của Coelli (2011). Có 2403 đứa trẻ ở các độ tuổi 17, 18 và 19
được quan sát. Trong đó, đối với các cha mẹ có học vấn thấp hơn trung học sẽ có ảnh hưởng
ngược chiều đối với việc học đại học của những đứa trẻ này ở mức độ tin cậy 10%. Việc các cha
mẹ hoàn thành chương trình bậc trung học và không học đại học có tác động cùng chiều với việc
học của con (có ý nghĩa thống kê tại mức 5%) và học vấn của cha mẹ ở bậc đại học có ảnh hưởng
cùng chiều với quyết định nhập học của con (có ý nghĩa thống kê tại mức 1%). Điều này cho thấy
học vấn của cha mẹ có ảnh hưởng đối với việc trẻ nhập học đại học. Ngoài yếu tố học vấn, mức
thu nhập của cha mẹ cũng có ảnh hưởng. Cụ thể, mức thu nhập cao có tác động cùng chiều đối với
biến phụ thuộc được nêu ra (có ý nghĩa thống kê tại mức 1%).
2.2.2 Thuộc tính đặc điểm của con
Nghiên cứu của Coelli (2011) cho thấy nếu các yếu tố khác không đổi, nữ giới có xác suất
đăng ký vào trường đại học cao hơn nam giới 0,149 lần và điều này có ý nghĩa thống kê tại mức
1%. Nhóm nghiên cứu vẫn chưa tìm được thêm các nghiên cứu khác có chứng minh sự tác động
của giới tính đối với việc lựa chọn này. Do đó, nhóm nghiên cứu quyết định kiểm tra mối quan hệ
của hai yếu tố này tại Việt Nam để xác định chúng có thật sự tác động lên nhau hay không. Bên
cạnh đó, trong bài nghiên cứu nêu trên cũng đã đề cập đến yếu tố dân tộc thiểu số với kết quả cho
thấy có sự tác động cùng chiều với việc chọn học đại học của con cái (có ý nghĩa thống kế tại mức
1%). Dân tộc thiểu số trong bài nghiên cứu được định nghĩa là những người gốc châu Á sinh sống
tại Mỹ. Tuy nhiên, nếu xét về thực tiễn các dân tộc thiểu số tại Việt Nam sẽ cần đo lường lại. Vì
vậy, nhóm quyết định kiểm định mối quan hệ này.
2.3 Khung lý thuyết
Dựa vào tổng quan lý thuyết nêu trên, khung lý thuyết cho bài nghiên cứu được hình thành.
Cụ thể, việc chọn học đại học của con (>18 tuổi) có thể bị ảnh hưởng bởi đặc tính của con, đặc
tính của hộ gia đình và đặc biệt là trình độ học vấn của cha mẹ.
Hình 2.1. Khung lý thuyết
Giới tính
Nữ
Nam
43%
57%
Dân tộc
63%
34%
Không học ĐH
Có học ĐH
66%
Hệ số là exp(log của odd), đại diện cho tỷ số giữa xác suất người con học đại học và xác suất
người con không học đại học Y = 1 khi Xs tăng.
Nếu hệ số > 1, tỷ số giữa xác suất người con học đại học và xác suất người con không học
đại học (Y=1) tăng.
Nếu hệ số < 1, tỷ số giữa xác suất người con học đại học và xác suất người con không học
đại học (Y=1) giảm.
Trong mô hình 1, theo phần trăm thay đổi và các biến khác có giá trị cố định, tỷ số giữa xác
suất người con học đại học và xác suất người con không học đại học đối với dân tộc Kinh cao hơn
so với tỷ số này đối với các dân tộc khác và nếu họ là người Kinh thì khả năng họ chọn học đại
học sẽ cao hơn 13,2%, điều này có ý nghĩa thống kê tại mức 1%. Tương tự, trong điều kiện các
yếu tố khác không đổi, tỷ số giữa xác suất người con học đại học và xác suất người con không học
đại học ở nữ giới sẽ thấp hơn so với tỷ số này ở nam giới, cụ thể người tham gia khảo sát là nữ sẽ
có khả năng chọn học đại học thấp hơn 6,4%, điều này có ý nghĩa thống kê tại mức 1%. Tỷ số giữa
xác suất người con học đại học và xác suất người con không học đại học ở những gia đình mà
người cha có học vấn cao hơn sẽ cao hơn so với tỷ số này ở những gia đình mà người cha có học
vấn thấp hơn, cụ thể là người khảo sát có cha với học vấn cao hơn sẽ có khả năng chọn học đại học
cao hơn 19,8% trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, điều này có ý nghĩa thống kê tại mức
1%. Trong điều kiện các yếu tố còn lại được cố định, tỷ số giữa xác suất người con học đại học và
xác suất người con không học đại học ở những gia đình có thu nhập cao sẽ cao hơn so với tỷ số
này ở những gia đình có thu nhập thấp, cụ thể người tham gia khảo sát là thành viên trong các gia
đình có thu nhập cao hơn sẽ có khả năng chọn học đại học cao hơn 33,7%, điều này có ý nghĩa
thống kê tại mức 1%.
Đối với mô hình 2, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, tỷ số giữa xác suất người con
học đại học và xác suất người con không học đại học đối với dân tộc Kinh cao hơn so với tỷ số này
đối với các dân tộc khác, cụ thể nếu người tham gia khảo sát là người dân tộc Kinh, khả năng họ
chọn học đại học sẽ cao hơn 12,2% và điều này có ý nghĩa thống kê tại mức 1%. Tương tự, trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi, tỷ số giữa xác suất người con học đại học và xác suất người
con không học đại học ở nữ giới sẽ thấp hơn so với tỷ số này ở nam giới, cụ thể người tham gia
khảo sát là nữ sẽ có khả năng chọn học đại học thấp hơn 6,7% và điều này có ý nghĩa thống kê tại
mức 1%. Tỷ số giữa xác suất người con học đại học và xác suất người con không học đại học ở
những gia đình mà người mẹ có học vấn cao hơn sẽ cao hơn so với tỷ số này ở những gia đình mà
người mẹ có học vấn thấp hơn trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, cụ thể, Người khảo sát
có mẹ với học vấn cao hơn sẽ có khả năng chọn học đại học cao hơn 21,4% và điều này có ý nghĩa
thống kê tại mức 1%. Trong điều kiện các yếu tố còn lại được cố định, tỷ số giữa xác suất người
con học đại học và xác suất người con không học đại học ở những gia đình có thu nhập cao sẽ cao
hơn so với tỷ số này ở những gia đình có thu nhập thấp, cụ thể người tham gia khảo sát là thành
viên trong các gia đình có thu nhập cao hơn sẽ có khả năng chọn học đại học cao hơn 33,8% và
điều này có ý nghĩa thống kê tại mức 1%.
Đối với mô hình 3, theo phần trăm thay đổi, có thể nói tỷ số giữa xác suất người con học đại
học và xác suất người con không học đại học đối với dân tộc Kinh cao hơn so với tỷ số này đối với
các dân tộc khác, cụ thể, nếu người tham gia khảo sát là người dân tộc Kinh, khả năng họ chọn học
đại học sẽ cao hơn 10,1% và điều này có ý nghĩa thống kê tại mức 1%. Tương tự, trong điều kiện
các yếu tố khác không đổi, tỷ số giữa xác suất người con học đại học và xác suất người con không
học đại học ở nữ giới sẽ thấp hơn so với tỷ số này ở nam giới, cụ thể người tham gia khảo sát là nữ
sẽ có khả năng chọn học đại học thấp hơn 6,5% và điều này có ý nghĩa thống kê tại mức 1%.
Tương tự kết quả ở mô hình 1, tỷ số giữa xác suất người con học đại học và xác suất người con
không học đại học ở những gia đình mà người cha có học vấn cao hơn sẽ cao hơn so với tỷ số này
ở những gia đình mà người cha có học vấn thấp hơn trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, cụ
thể Người khảo sát có cha với học vấn cao hơn sẽ có khả năng chọn học đại học cao hơn 12,5% và
điều này có ý nghĩa thống kê tại mức 1%. Tương tự với kết quả ở mô hình 2, tỷ số giữa xác suất
người con học đại học và xác suất người con không học đại học ở những gia đình mà người mẹ có
học vấn cao hơn sẽ cao hơn so với tỷ số này ở những gia đình mà người mẹ có học vấn thấp hơn
trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, cụ thể người tham gia khảo sát sẽ có khả năng chọn học
đại học cao hơn 15,5% khi người mẹ có học vấn cao hơn và điều này có ý nghĩa thống kê tại mức
1%. Trong điều kiện các yếu tố còn lại được cố định, tỷ số giữa xác suất người con học đại học và
xác suất người con không học đại học ở những gia đình có thu nhập cao sẽ cao hơn so với tỷ số
này ở những gia đình có thu nhập thấp, cụ thể người tham gia khảo sát là thành viên trong các gia
đình có thu nhập cao hơn sẽ có khả năng chọn học đại học cao hơn 32,3% và điều này có ý nghĩa
thống kê tại mức 1%.
Tóm tắt
Thuộc tính của trẻ
Kết quả nghiên cứu cho thấy dân tộc của trẻ có quan hệ cùng chiều với việc chọn học đại
học của con. Điều này giống với kết quả nghiên cứu của Coelli (2011) và giống vời kỳ vọng đã
đưa ra. Điều này có thể được lý giải bởi dân tộc thiểu số ở Việt Nam chủ yếu là những người sống
tại những khu vực còn nhiều khó khăn, còn hạn chế trong tiếp cận giáo dục. Tác động của yếu tố
dân tộc lên yếu tố phụ thuộc khi ở 3 mô hình, kết quả hồi quy luôn có ý nghĩa thống kê tại mức
1%.
Những đối tượng quan sát là nữ có xu hướng chọn học đại học ít hơn nam giới. Tác động của
yếu tố giới tính lên yếu tố phụ thuộc là vững khi ở 3 mô hình, kết quả hồi quy luôn có ý nghĩa
thống kê tại mức 1%.