Mã phòng thi: 847406_001 Họ tên sinh viên: BÙI THỊ THANH TUYỀN Mã sinh viên: 3120470009 Giảng viên hướng dẫn: ThS. PHẠM KHÁNH NGỌC
Năm học: 2021 - 2022
Câu 1. Mô tả sơ lược về đặc điểm của lối hát Bel canto Bel Canto là một cách hát chuẩn mực của Opera ra đời từ thế kỷ 19 tại Ý. Bel là đẹp; Canto là ca hát. Bel Canto đòi hỏi một giọng hát đẹp, giai điệu đẹp và giàu cảm xúc, tạo nên sự thi vị cho bản nhạc. Đặc điểm của nghệ thuật bel canto là khả năng hát liền mạch những chuỗi nốt nhạc nhẹ nhàng bay bổng trong cùng một hơi (legato) và kỹ năng hát hoa mỹ (fioritura) ở tốc độ nhanh, rung láy (Trillo) và đặc biệt là khả năng điểm nốt trang trí trên mỗi câu nhạc. Vì thế, việc sử dụng một giọng hát nhẹ nhàng, trong sáng và nhất thiết không được tạo ra những âm thanh chói tai ở những nốt cao được coi là điểm cốt yếu của phong cách này. Như vậy, những khuông nhạc đẹp cho giọng hát là đặc điểm của âm nhạc; một nửa khác ngang bằng của bel canto chính là nghệ thuật của giọng hát hoặc kỹ thuật thanh nhạc được nâng đến trình độ cao của kỹ xảo, bel canto thường là sự kết hợp hoàn hảo của kỹ thuật hát và vẻ đẹp của tác phẩm Giọng "hát đẹp", hay lối hát bel-canto có một tính chất khác hẳn . Dù là giọng nam hay nữ đều có thể sử dụng giọng cao, trung hay trầm, với hiệu quả âm thanh vang khỏe, tròn dày, ấm áp, mềm mại, uyển chuyển và phải có vibrato. Người Ý cho rằng, một giọng hát không có tiếng rung là một giọng hát thiếu sức sống, đó là tiếng rung của cộng minh (Resonance), chứ không phải tiếng rung ở cổ. Tiếng rung đó nhẹ nhàng, không rung gấp, cũng không nặng nề và tự nhiên, không do cố tình. Giọng hát có kỹ thuật giỏi là giọng hát, về sắc thái âm lượng, có thể điều khiển khi to khi nhỏ; có thể ngân chậm rãi, ngân dài, cũng có thể hát các câu nhạc kỹ xảo chạy với móc kép trở lên. Một đặc điểm của lối hát bel-canto là ca sĩ phải hát với tầm cữ giọng tối thiểu 2 quãng tám, giọng nữ cao màu sắc (coloratura soprano) phải hát trên 2 quãng tám - khoảng 18, 19 cung - dùng giọng đầu và giọng cổ, không hát giọng thật. Ca sĩopera giỏi phải có giọng hát chuyển từ thấp lên cao, mà âm sắc, khối hình, độ dày vẫn như nhau, trong giới hạn âm vực của giọng mình. Một đặc điểm nữa của bel-canto là hát bằng giọng hơi - nghĩa là phải có sự phối hợp hợp lý giữa hơi thở và khép rung của dây thanh, tạo ra âm thanh không bị cứng đơ... Do sự làm chủ kỹ thuật bel-canto, các ca sĩ opera có thể hiện mọi tình cảm hỉ, nộ, ai, lạc bằng tiếng hát- nghĩa là giọng hát có thể cười nắc nẻ, có thể khóc nức nở... Bên cạnh các trường phái thì Bel canto trở thành mục tiêu của các ca sĩ opera nhằm phân biệt “đẳng cấp” giữa các ca sĩ với nhau. Bí quyết hát Bel canto là chuyển từ giọng ngực (chest voice) sang giọng đầu (head voice) mà không nghe ra sự chuyển giọng. Câu 2. Trình bày yêu cầu của kỹ thuật hát liền giọng. Hát liền tiếng (legato) là kỹ thuật thanh nhạc cơ bản nhất, là cách hát chuyển tiếp từ âm này sang âm kia một cách đều, mềm mại và tự nhiên. Hát liền tiếng chú trọng vào phần hơi, điều chỉnh âm lượng, kiểm soát giọng hát để tạo ra sự mượt mà và hấp dẫn người nghe bằng tính trữ tình, cảm xúc. Hát legato “đòi hỏi âm thanh phải ngân vang, từ âm này sang âm khác phải có sự liên kết với nhau, không bị ngắt quãng và cũng không vuốt qua một âm trung gian nào. Âm thanh lý tưởng phải tròn, gọn, sáng, thanh thoát, mềm mại”. Hát liền tiếng là cách hát để đáp ứng tính chất mềm mại của giai điệu, với âm thanh có chất lượng tốt. Kỹ thuật legato không chỉ quan trọng đối với những người mới học hát. Mà phải được chú trọng trong luyện tập thường xuyên. Liên tục của người ca sĩ và cả những người làm công tác đào tạo thanh nhạc. Luyện tập cho cơ quan phát thanh hoạt động đúng và phù hợp, nghĩa là hơi thở phải có điểm tựa kéo dài; hơi thở sâu và sử dụng tiết kiệm, gắn bó chặt chẽ tất cả các nốt nhạc (âm thanh) lại với nhau, từng âm thanh phải vang khoẻ, tròn trặn, thống nhất về cường độ và âm sắc. Hát liền tiếng trong luyện thanh dễ hơn trong những bài hát,vì giai điệu còn ghép với lời, gồm những nguyên âm và phụ âm. Muốn hát liền giọng trong các bài hát, ngoài việc hát liền các nguyên âm, còn phải phát âm những phụ âm nhanh, gọn, làm cho bộ phận truyền âm thay đổi những tư thế khác nhau khi phát âm những phụ âm. Nói trong sinh hoạt và việc phát âm những vần, tiếng trong ca hát rất khác nhau. Khi nói, mọi người không dừng lại ở những nguyên âm, mà phát âm những nguyên âm nhanh và ngắn, còn trong ca hát thì nguyên âm được kéo dài ra. Phụ âm trong lời nói và trong ca hát thì giống nhau và bao giờ cũng phát âm nhanh. Biết xử lí sao cho các nguyên âm được hát lên và tước bỏ những trở ngại do phát âm những phụ âm gây ra là điều rất quan trọng để tạo ra tiếng hát đẹp, mượt mà, nghĩa là thật legato, cantilena. Người hát phải cố sao trong lúc hát các nguyên âm được kéo dài và nối liền nguyên âm nọ với nguyên âm kia, càng liền càng tốt, mặc dù giữa các nguyên âm còn có những phụ âm. Cần đặc biệt chú ý những phụ âm khép tiếng ở cuối chữ, ví dụ: C, CH, NH, NG, P, T – không nên khép lại quá sớm mà cố kéo dài đủ trường độ nốt nhạc trên những nguyên âm, rồi khép phụ âm và chuyển nó thành một nguyên âm vang ở mũi. Như vậy âm thanh cũng như lời hát sẽ gắn bó được với nhau. Chú ý khi giải quyết yêu cầu hát liền tiếng vẫn phải chú ý hát rõ lời. Trong các bài dân ca hoặc các bài hát mà tác giả của nó chú ý trau chuốt lời ca, thì tính giai điệu còn hàm chứa ngay cả trong lời hát với những ca từ đẹp, giàu hình tượng, giàu chất thơ. Đối với kỹ thuật legato, để hát được liền tiếng thì tiếng hát phải thanh thoát, liên kết các âm trầm và bổng; tiếng không bị ngắt quãng, ngân vang đều đặn, âm thanh tròn và mềm mại. Người hát lấy hơi sâu, khống chế nén chặt hơi và đẩy ra từ từ. Hơi thở: Như mọi kĩ thuật khác, legato đòi hỏi một buồng hơi lớn, phổi khỏe. Người thở yếu sẽ khó hát liền mạch trong một hơi dài được. Vì vậy hãy luyện thở và điều tiết hơi thở. Âm lượng: Điều chỉnh âm lượng to nhỏ là cách thức căn bản giúp bạn kiểm soát tốt legato. Hãy tập hát to và nhỏ ngay trong một làn hơi. Dùng giọng óc (head voice): Head voice gần giống với falsetto (giọng gió). Đừng bao giờ hát quá nhiều giọng ngực (chest voice), tức giọng thường của mình, vì độ nặng của nó sẽ đè gãy legato của bạn. Phải làm sao để chuyển xuống trầm rồi lên cao ngay mà vẫn không đem theo sức nặng của giọng ngực lên cùng. Cách tốt nhất học là chuyển vị trí âm thanh lên thành head voice và tập hát cả mixed voice (giọng pha). Tập vocalize (ngân nga không lời theo giai điệu): Trước khi ghép lời, hãy tập cho nhuần nhuyễn kỹ thuật và khả năng chuyển đổi tông giọng. Thử ngậm chặt miệng rồi ừm ừm trong mồm theo giai điệu, sẽ rất tốt để cải thiện legato.. Hát liền tiếng là một trong số những kỹ thuật cổ điển, thường được dùng trong lối hát bel canto (nghệ thuật hát đẹp chuẩn mực nhất của opera). Vì hát liền tiếng khả năng tạo ra sự mượt mà, cảm xúc, nên kỹ thuật hát liền tiếng được áp dụng chủ yếu trong những bản nhạc và loại giọng trữ tình (thường nhật ở châu Á và Việt Nam). Câu 3. Trình bày sơ lược về tác giả của Romance hoặc Aria trong phần thực hành a. Thân thế và sự nghiệp của nhạc sĩ Alessandro Scarlatti với Aria “O cessate di piagarmi” trích vở opera mang tên Pompeo (1683)
Alessandro Scarlatti sinh ngày 2 tháng 5 năm 1660 tại thành phố Palermo của
Ý, lúc bấy giờ thuộc quyền thống trị của Đế quốc Tây Ban Nha. Alessandro Scarlatti là nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nhà sư phạm người Ý thuộc thời kỳ Baroque. Ông là cha của nhà soạn nhạc Domenico Scarlatti. và Pietro Filippo Scarlatti . Năm 1672, ông được thụ giáo với nhạc sư Carissimi. Năm 1679, Scarlatti có sáng tác opera thành công đầu tiên, qua đó ông nhận được chức vụ nhạc trưởng của triều đình nữ hoàng Kristina của Thụy Điển khi ấy đang cư trú tại thành Roma. Đồng thời nhà soạn nhạc người Ý còn chỉ đạo dàn nhạc và hợp xướng của nhà thờ. Từ năm 1684 đến năm 1702, Scarlatti là nhạc trưởng cung đình và là nhà soạn nhạc về opera cho phó vương vùng Napoli. Cho đến năm 1725, ông thường xuyên làm việc ở Roma và Napoli cho nhiều triều đình, nhà thờ và một thời gian giảng dạy tại Nhạc viện Santa Maria di Lopeto thuộc thành phố Napoli. Ông qua đời ngày 24 tháng 10 năm 1725 tại Napoli và được chôn cất tại nhà thờ Santa Maria di Montesanto . b. Phong cách sáng tác Alessandro Scarlatti là người đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của nghệ thuật opera, là một trong những đại diện lớn nhất của trường phái opera ở thành phố Naples. Sáng tác của ông đã tích hợp và củng cố vững chắc những nét tiêu biểu trong thể loại opera kinh điển trường phái Naples, khẳng định cả một thời đại trong lịch sử opera. Ông là người hoàn chỉnh hình thức aria 3 đoạn (aria da capo) có mở đầu bảng một đoạn hát nói (recitative), hoàn chỉnh loại nhạc mở màn (overture) của vở opera, cấu trúc thành 3 tốc độ chuyển động (movement) nhanh-chậm-nhanh, đưa vào opera lối hát kỹ xảo coloratura và ông còn nhiều cống hiến khác trong việc thay đổi opera. c. Các tác phẩm tiêu biểu Alessandro Scarlatti đã sáng tác 115 vở opera, trong đó chỉ có 1 vở opera hài (có 64 vở được lưu giữ toàn bộ hoặc một phần); khoảng 20 bản oratorio; 10 bản mixa; 660 bản cancata, motet, madrigal, serenade; những tác phẩm hòa tấu nhạc cụ cùng nhiều tác phẩm cho đàn organ. Những vở opera đầu tiên của ông— Gli Equivoci nel sembiante 1679; L'honestà negli amori 1680, chứa aria nổi tiếng "Già il sole dal Gange"; Il Pompeo 1683, có chứa các aria nổi tiếng "O cessate di piagarmi" và "Toglietemi la vita Ancor" .