Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 33

CHƯƠNG I

1) Tại sao nói siêu hình và biện chứng là 2 mặt đối lập của phương pháp tư duy?
Tại sao thời đại ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng
duy vật? Cho ví dụ?

a) Siêu hình và biện chứng là hai mặt đối lập của phương pháp tư duy:

Siêu hình: là dùng để chỉ triết học, với tính cách là khoa học siêu cảm tính, phi
thực nghiệm, đặc thù của siêu hình là tính một chiều, tuyệt đối hóa mặt này hay mặt
kia, phương pháp tư duy này nhìn nhận sự vật một cách khô khan máy móc. Phương
pháp siêu hình xem xét các sự vật và các mặt trong sự vật tách rời nhau, xem xét sự vật
trong trạng thái tĩnh hoặc biến đổi thì chỉ biến đổi về lượng không thay đổi về chất,
hoặc là này hoặc là khác chứ không vừa như thế này vừa như thế khác. Chỉ có tác
dụng trong phạm vi nhất định.

Biện chứng: là nghệ thuật tranh luận để tìm chân lí bằng cách phát hiện mâu thuẩn
trong cách lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ những lập luận của mình.
Phương pháp biện chứng duy vật mềm dẻo, linh hoạt. Xem xét sự vật trong trạng thái
vận động biến đổi liên tục. Là phương pháp khoa học vừa khắc phục được những hạn
chế của phép biện chứng cổ đại, đẩy lùi phương pháp siêu hình vừa cải tạo phép biện
chứng duy tâm để trở thành phương pháp chung nhất của nhận thức và thực tiển. Phạm
vi xét rộng lớn bao trùm.

b) Tại sao thời đại ngày nay cần chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng
duy vật?

Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức đòi
hỏi con người ta phải có chuyên môn, có khả năng vận dụng tri thức khoa học vào giải
quyết những vấn đề thực tiễn một cách hiệu quả nhất. Để nâng cao chất lượng của lực
lượng tri thức trình độ cao, cụ thể là không chỉ trang bị cho họ tri thức khoa học, mà cả
năng lực kết hợp lý luận với thực tiễn, gắn học với hành, cần phải có nhiều biện pháp
tích cực và đồng bộ, đặc biệt là việc bồi dưỡng cho họ năng lực tư duy biện chứng duy
vật. Đây là một yêu cầu quang trọng cần giải quyết tốt vấn đề này sẽ góp phần nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Tư duy biện chứng duy vật đòi hỏi chủ thể không chỉ phản ánh đúng những mối
liên hệ, sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, mà
còn phải nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn những phương pháp, nguyên tắc của
phép biện chứng duy vật vào nhận thức và hoạt động thực tiễn. Do vậy khắc phục
được lối tư duy phiến diện một chiều để xem xét sự vật hiện tượng một cách đúng đắn
và chính xác nhất. Tư duy biện chứng duy vật có vai trò to lớn trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người

c) Ví dụ:
1/ Tư duy biện chứng duy vật giúp sinh viên, một mặt, khắc phục được lối tư duy siêu
hình, phiến diện, chiết trung, nguỵ biện; mặt khác, xem xét đánh giá vấn đề một cách
toàn diện, đúng đắn. 

2/ Tư duy biện chứng duy vật giúp cho sinh viên khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì
trệ và thái độ định kiến với cái mới.

3/ Tư duy biện chứng giúp sinh viên tránh những sự sai lầm, mò mẫm, phỏng đoán
thiếu cơ sở khoa học và nguy cơ rơi vào ảo tưởng.

4/ Tư duy biện chứng duy vật giúp cho sinh viên nhìn nhận sự vật, hiện tượng một
cách khách quan và khoa học, khắc phục sai lầm chủ quan. 

5/ Phương pháp tư duy biện chứng duy vật giúp sinh viên có điều kiện học tập và
nghiên cứu các môn khoa học khác một cách hiệu quả hơn.

6/ Tư duy biện chứng duy vật giúp cho sinh viên có khả năng gắn kết lý luận với thực
tiễn, gắn học với hành. 

2) Phân tích những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác. Đâu là văn kiện
có tính chất cương lĩnh chính trị đầu tiên của chủ nghĩa Mác?

a) Phân tích điều kiện lịch sử ra đời của triết học Mác?

Triết học Mác-Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến nay. Từ
khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học
và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn của con người. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác nhìn
chung có hai nguồn gốc ra đời của triết học là nguồn tri thức và nguồn gốc xã hội. Đối
với triết học thì nuồng gốc ra đời biểu hiện thành các điều kiện sau:

Điều kiện kinh tế-xã hội:

- Thứ nhất: Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện cách mạng công nghiệp.

+ Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong công
nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.

+ Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được cũng cố vững chắc và trở thành xu thế
phát triển của nền sản xuất xã hội.

+ Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở thành cường quốc công
nghiệp.

+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được củng cố
tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triên kèm theo đó mâu thuẫn xã hội ngày
càng gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã
hội tăng.

+ Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu
tranh giai cấp.

- Thứ hai: Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử.

+ Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và phát
triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa xác lập,
giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành giai cấp bị
trị thì mâu thuẫn giữa vô sản và tư sản vốn mang tình chất đối kháng phát triển trở
thành những cuộc đấu tranh giai cấp điển hình là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành
phố Lyon (Pháp) năm 1831, ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30
của thế kỷ XIX, nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã mang
tính chất giai cấp.Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là
giai cấp cách mạng. Giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ trước cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo
dân chủ như trước.Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ mệnh xía
bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân
chủ và tiến bộ xã hội.

+ Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh của họ
đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để C. Mác và Ph. Ăngghen khai
thác xây dựng những quan điểm triết học.

=> Như vậy, từ thực tiễn xã hội (Đấu tranh của giai cấp vô sản chỉ là đấu tranh 1 cách
tự phát không làm thay đổi được địa vị xã hội của họ) đòi hỏi phải được soi sáng bằng
một hệ thống lý luận, một học thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để
định hướng phong trào đấu tranh chuyển từ tự phát sang tự giác để nhanh chóng đạt
được thắng lợi toàn diện.

Điều kiện về mặt lý luận

- Sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học.

- Sự ra đời của triết học Mác phù hợp với quy luật của lịch sử tư tưởng của nhân loại,
là kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại.

- Xây dựng học thuyết mới trong chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng có mối quan
hệ hữu cơ với nhau.

- Triết học Mác ra đời là sự tác động qua lại với quá trình các ông kế thừa và cải tạo
học thuyết kinh tế chính trị của Anh và lý luận chủ nghĩa của xã hội.

- Các ông vừa phê phán chủ nghĩa duy tâm , vừa đánh giá cao tư tưởng biện chứng của
Hêghen, của Phơbach, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với
nhau một cách hữu cơ; đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.

=> Từ những điều kiện trên, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời

- Đến đầu thế kỷ XIX nền khoa học của nhân loại được phát triển mạnh mẽ trong các
lĩnh vực của khoa học tự nhiên và xã hội.

- Trong khoa khoa học tự nhiên: có 3 phát minh vĩ đại

Học thuyết tế bào: sự sống là sản phẩm của giới tự nhiên và là quá trình phát triển
đấu tranh chọn lọc của giới tự nhiên chứ không phải do thượng đế sáng tạo.

Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: không có sự phát sinh ra và mất đi
của năng lượng mà chỉ có sự chuyển biến từ dạng này sang dạng khác.

Thuyết tiến hóa của Darwin: các loài đang tồn tại hiện nay là sinh ra từ các loài
khác bằng con đường tự nhiên và sự biến đổi động vật và thực vật là do chọn lọc tự
nhiên và chọn lọc nhân tạo.

- Trong khoa học xã hội:

+ Triết học cổ điển Đức (Hêghen, Phơ Bách).

+ Kinh tế chính trị học cổ điển Anh (A.Smith và Đ.Ricardo).

+ Chủ nghĩa không tưởng phê phán.

- Những giá trị khoa học mà các nhà khoa học trên để lại đã tạo tiền đề cho các nhà tư
tưởng, các nhà khoa học kế thừa.

- Tất cả những tiền đề kinh tế - xã hội và tiền đề khoa học ở trên đều góp phần cho các
nhà tư tưởng, các nhà khoa học nhận thức được những mâu thuẫn trong xã hội tư bản
từ đó đề ra các giải pháp khắc phục các mâu thuẫn đó để xây dựng một xã hội thay thế.

Ý nghĩa: triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu lịch sử,
không những vì nó là sự phản ánh thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn cách mạng của
giai cấp vô sản mà còn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.

b) Đâu là văn kiện có tính chất cương lĩnh chính trị đầu tiên của chủ nghĩa Mác?

“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là văn kiện mang tính chất cương lĩnh, có
giá trị lịch sử và sức sống thực tiễn của chủ nghĩa Mác.

3) Tại sao Lênin lại phải bảo vệ và phát triển sáng tạo triết học Mác? Phân tích
các thời kì Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác? Tác phẩm nào Lênin đưa ra
định nghĩa kinh điển về vật chất?

a) Tại sao Lênin lại phải bảo vệ và phát triển sáng tạo triết học Mác?
Vào những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển
sang một giai đoạn mới là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị
của chủ nghĩa tư bản ngày càng bộc lộ rõ nét; mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản ngày
càng sâu sắc mà điển hình là mâu thuẫn giai cấp giưa tư sản và vô sản. Tại các nước
thuộc địa, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc tạo nên sự thống nhất giữa cách
mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, giữa nhân dân các nước thuộc địa với
giai cấp công nhân ở chính quốc. Trung tâm của các cuộc đấu tranh cách mạng này là
nước Nga. Giai cấp vô sản và nhân dân lao động Nga dưới sự lãnh đạo của đảng
Bônsêvich đã trở thành ngọn cờ đầu của cách mạng thế giới.

Trong giai đoạn này, cùng sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa là
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, đặc biệt trong lĩnh vực vật lý học, do
bấp bênh về phương pháp luận triết học duy vật nên rơi vào tình trạng khủng hoảng về
thế giới quan. Sự khủng hoảng này bị chủ nghĩa duy tâm lợi dụng, gây ảnh hưởng trực
tiếp đến nhận thức và hành động của các phong trào cách mạng.

Đây cũng là thời kỳ chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi vào nước Nga. Để bảo
vệ địa vị và lợi ích của giai cấp tư sản, những trào lưu tư tưởng như chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại…đã mang danh đổi mới chủ
nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác.

Nhu cầu phải khái quát những thành tựu khoa học tự nhiên để rút ra những kết
luận về thế giới quan và phương pháp luận, phải thực hiện cuộc đấu tranh chống trào
lưu tư tưởng phản động và phát triển chủ nghĩa Mác đã được thực tiễn nước Nga đặt
ra. Trong bối cảnh đó để đáp ứng được nhu cầu lịch sử trên Lênin đã thực hiện bảo vệ
và phát triển sáng tạo triết học Mác.

b) Phân tích các thời kỳ Lênin bảo vệ và phát triển triết học Mác?

Quá trình Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có thể chia thành ba thời kỳ:

+ Những năm 1893 đến 1907: là những năm Lênin tập trung chống phái dân túy.
Ông viết tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những
người dân chủ - xã hội ra sao?” (1894) tác phẩm vừa phê phán tính chất duy tâm và
những sai lầm nghiêm trọng của phái này khi nhận thức những vấn đề về lịch sử - xã
hội, vừa vạch ra ý đồ của họ khi muốn xuyên tạc chủ nghĩa Mác bằng cách xóa nhòa
ranh giới giữa phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác với phép biện chứng duy
tâm của Hêghen.Trong tác phẩm này, Lênin cũng đưa ra nhiều tư tưởng về tầm quan
trọng của lý luận, của thực tiễn và mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.

Cũng trong những năm này, trong tác phẩm “Làm gì?” (1902) ông đã phát triển
quan điểm của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
trước khi giành chính quyền. Lênin đã đề cập nhiều đến đấu tranh kinh tế, đấu tranh
chính trị, đấu tranh tư tưởng; đặc biệt, ông còn nhấn mạnh đến quá trình hình thành hệ
tư tưởng của giai cấp vô sản.
Cuộc cách mạng Nga 1905 – 1907 thất bại. Thực tiễn cuộc cách mạng này đã được
Lênin tổng kết trong tác phẩm kinh điển mẫu mực “Hai sách lược của Đảng dân chủ -
xã hội trong cách mạng dân chủ” (1905). Ở đây, chủ nghĩa Mác đã được phát triển sâu
sắc những vấn đề về phương pháp cách mạng, nhân tố chủ quan và nhân tố khách
quan, vai trò của quần chúng nhân dân, vai trò của các đảng chính trị…trong cách
mạng tư sản giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.

+ Những năm 1907 đến 1917: là những năm vật lý học có cuộc khủng hoảng về thế
giới quan. Điều này tác động không nhỏ đến việc xuất hiện nhiều tư tưởng duy tâm
theo quan điểm của chủ nghĩa Makhơ phủ nhận chủ nghĩa Mác. Lênin đã tổng kết toàn
bộ thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; tổng kết những sự
kiện lịch sử giai đoạn này để viết tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán” (1909). Bằng việc đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất, mối quan
hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, những nguyên tắc của
nhận thức…Lênin đã không những chỉ bảo vệ rất thành công mà còn phát triển chủ
nghĩa Mác lên một tầm cao mới. Sự bảo vệ và phát triển này còn thể hiện rõ nét ở tư
tưởng của Lênin về nguồn gốc lịch sử, bản chất và kết cấu của chủ nghĩa Mác trong
tác phẩm “Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác” (1913), về phép
biện chứng trong “Bút ký triết học” (1914 – 1916), về nhà nước chuyên chính vô sản,
bạo lực cách mạng, vai trò của Đảng cộng sản và con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong “Nhà nước và cách mạng” (1917)…

+ Những năm 1917 đến 1924: Thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng
Mười (Nga) năm 1917 đã mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự kiện này làm nảy sinh những nhu
cầu mới về lý luận mà thời Mác - Ăngghen chưa đặt ra. Lênin đã tổng kết thực tiễn
cách mạng của quần chúng nhân dân, tiếp tục bảo vệ phép biện chứng duy vật, đấu
tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa chiết trung và thuyết ngụy biện đồng thời
phát triển chủ nghĩa Mác về nhân tố quyết định thắng lợi của một chế độ xã hội, về
giai cấp, về hai nhiệm vụ cơ bản của giai cấp vô sản, về chiến lược và sách lược của
các đảng vô sản trong điều kiện lịch sử mới, về thời kỳ quá độ, về kế hoạch xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo chính sách kinh tế mới (NEP),…qua một loạt các tác phẩm nổi
tiếng như: “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản” (1920), “Lại bàn về
công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm của đồng chí …”(1921), “Về
chính sách kinh tế mới” (1921), “Bàn về thuế lương thực” (1921),…

=> Với những cống hiến to lớn ở cả ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác, tên
tuổi của Lênin đã gắn liền với chủ nghĩa này, di sản kinh điển của Lênin đã trở thành
cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của đảng cộng sản, đánh
dấu bước phát triển toàn diện của chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác - Lênin.

c) Tác phẩm nào Lênin đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất?
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” xuất bản
năm 1909 Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất.

4) Làm rõ và cho ví dụ về vai trò thế giới quan và phương pháp luận của Triết
học Mác – Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay?

a) Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin trong đời
sống xã hội:

+ Triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng đặt ra và giải quyết rất nhều
vấn đề của đời sống xã hội như: tổng kết, đánh giá tri thức của con người; phê phán,
xác định các giá trị, truy tìm chân lý; phát triển tư duy lý luận; xác định vị trí vai trò
của con người trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài; xác định mục tiêu phương
hướng hoạt động của con người….Trong số những vấn đề trên đây, trước hết phải kể
đến vấn đề có tính đặc trưng của triết học đó là vấn đề thế giới quan và phương pháp
luận chung nhất.

+ Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về
bản thân con người, về mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh nhằm giải
đáp những vấn đề về mục đích, ý nghĩa cuộc sống của con người. Thế giới quan được
hình thành trong quá trình con người sống, cải tạo thế giới và phát triển nhận thức. Mặt
khác hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người cần thiết phải được định hướng
một cách tự giác. Thế giới quan ra đời đáp ứng chính yêu cầu đó. Tuy nhiên có nhiều
loại hình thế giới quan và mỗi loại hình thế giới quan có tác động đến hoạt động của
con người với mức độ khác nhau. Thế giới quan khoa học phản ánh đúng quy luật vận
động phát triển của hiện thực khách quan, phán ánh đúng mối quan hệ giữa con người
và thế giới, vị trí của con người trong thế giới, giúp con người xác định đúng mục tiêu,
phương hướng hoạt động, từ đó con người điều chỉnh hoạt động của mình phù hợp với
quy luật khách quan, nhờ vậy hoạt động của con người đạt được hiệu quả cao. Nhưng
thế giới quan khoa học không hình thành một cách tự phát. Muốn hình thành thế giới
quan khoa học phải có một cơ sở lý luận khoa học, mà lý luận đó tổng hợp những tri
thức khoa học, tổng kết được kinh nghiệm lịch sử của con người. Lý luận đó chỉ có thể
là một hệ thống triết học khoa học. Triết học khoa học là một hạt nhân lý luận của thế
giới quan khoa học.

+ Trong lịch sử phát triển của triết học đã tồn tại nhiều hệ thống triết học khác nhau.
Căn cứ vào cách giải quyết vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại mà người ta phân
chia các lý thuyết triết học thành các trường phái khác nhau như: triết học duy tâm,
triết học duy vật, triết học nhị nguyên, triết học bất khả tri,…. Triết học Mác - Lênin là
hình thức phát triển cao nhất và hợp lý nhất của triết học duy vật. Những đặc điểmcủa
triết học Mác - Lênin, như đã trình bày trong mục trên phản ánh bản chất khoa học và
nhân vân của triết học Mác - Lênin. Với những điều trình bày trên đây, chúng ta có cơ
sở để khẳng định rằng: Trong thời đại ngày nay, triết học Mác - Lênin thực sự đóng
vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học. Thông qua việc hình thành thế
giới quan khoa học cho con người, triết học Mác - Lênintác động đến mọi mặt của đời
sống xã hội.

+ Ngoài vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học, triết học Mác - Lênin
còn đóng vai trò phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và hoạt động
thực tiễn. Phương pháp luận là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc xuất phát được
rút ra từ một hệ thống lý luận để chỉ đạo con người xây dựng, lựa chọn và vận dụng
các phương pháp thích hợp nhất trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp
luận quyết định việc xác định phương pháp cụ thể thích hợp, từ đó ảnh hưởng đến kết
quả hoạt động của con người. Trên thực tế, chúng ta thấy có thể mục tiêu phương
hướng xác định đúng nhưng nếu phương pháp hoạt động không đúng vẫn không đạt
được kết quả như mong muốn. Vì vậy phải có phương pháp luận khoa học, tức là phải
có hệ thống các nguyên tắc xuất phát phản ánh đúng quy luật vận động của các sự vật
và hoạt động của con người. Nhưng nguyên tắc không thể được đặt ra một cách tùy
tiện theo ý muốn thuần túy chủ quan của con người, mà được rút ra từ hệ thống lý
luận. Nếu hệ thống lý luận không phản ánh đúng hiện thực khách quan, chẳng hạn hệ
thống triết học duy tâm, thì nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ đó cũng không phải
là những nguyên tắc phù hợp. Như vậy, sự đúng đắn của hệ thống lý luận là một trong
những yếu tố đảm bảo cho sự đúng đắn của nguyên tắc phương pháp luận. Triết học
Mác - Lênin, trong đó có phép biện chứng duy vật là hệ thống lý luận khoa học phản
ánh đúng quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư
duy con người. Tính khoa học đó là yếu tố quyết định đảm bảo cho việc xác lập những
nguyên tắc phương pháp luận khoa học. Thông qua việc cung cấp phương pháp luận
khoa học làm cơ sở để xác định các phương pháp cụ thể, triết học Mác - Lênin thể hiện
vai trò của mình đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên không nên quan niệm rằng, triết
học Mác - Lênin có thể giải quyết được mọi vấn đề, là nhân tố quyết định hoàn toàn
đến sự hình thành các nguyên tắc phương pháp luận khoa học.

+ Triết học Mác - Lênin có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng.
Mỗi quan điểm, nhận định của triết học Mác - Lênin đều có sự thống nhất giữa quan
điểm duy vật và quan điểm biện chứng. Do vậy triết học Mác - Lênin vừa có vai trò
thế giới quan, vừa có vai trò phương pháp luận khoa học.

b) Vai trò của thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin trong
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay:

+ Qua hai thật kỷ đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhân dân việt Nam đã giành được những thành tựu rất quan trọng. Các
thành tựu của Đảng và dân tộc đã giành được trong lĩnh vực vật chất và văn hóa tinh
thần là kết quả của trí tuệ, sức sáng tạo, tinh thần lao động cần cù, thông minh và lòng
dũng cảm của con người, của dân tộc Viêt Nam.
+ Vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi đã hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đất nước nằm trong thế bị bao vây, cấm vận của các thế
lực thù địch; sản xuất xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân rất khó khăn, đâu đó
đã manh nha xuất hiện dấu hiệu của cuộc khủng hoảng toàn diện. Lúc đó tình hình
chính trị thế giới có biến động dữ dội - sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu, sự thoái trào của phong trào cách mạng thế giới đã tạo nên một cơn “động
đất chính trị”. Dư chấn của nó, nếu không được ngăn chặn, có thể làm cho mọi thành
quả của cách mạng Việt Nam tiêu tan, giống như ở phần đông các nước trong hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới. Trong bối cảnh vận mệnh của dân tộc đứng trước tình thế
hiểm nghèo, thành quả của cách mạng bị đe dọa, Đảng ta đã thực hiện trách nhiệm to
lớn của mình trước lịch sử, trung thành với lý tưởng cách mạng, nêu cao khí phách độc
lập sáng tạo, tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân, chủ động tiến hành đổi mới nhận thức tư duy, trước
hết là trong lĩnh vực kinh tế.

+ Đến nay công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua 20 năm. Trong quá trình đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng định hướng chính trị, toàn dân là đội ngũ chủ lực của
sự nghiệp đổi mới toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục,….Kết
quả của công cuộc đổi mới đã đưa cho dân tộc ta một xu thế mới, một lực mới để cùng
cộng đồng quốc tế bước vào thế kỷ XXI, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong hàng loạt các nhân tố tạo nên sự thành công
của đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng
của triết học Mác - Lênin.

+ Nguyên tắc bất di, bất dịch trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và đổi mới
tư duy lý luận nói riêng ở nước ta là giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định là nền tảng tư tưởng của
Đảng, của dân tộc, là nguyên tắc và phương pháp luận của sự nghiệp đổi mới. Các
nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận trong học thuyết mácxít, trong hệ thống
quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được các lãnh tụ của Đảng, các nhà
khoa học, các nhà lý luận nhận thức lại và lựa chọn để vận dụng sáng tạo vào điều kiện
mới.

CHƯƠNG II, III


1) Tại sao Lênin lại phải bảo vệ quan điểm duy vật của Mác-Ăngghen về phạm
trù vật chất?

Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và sự
phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất:

- 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X, có khả năng xuyên qua môi trường chắn sóng đối
với ánh sáng bình thường. Phát minh này chứng minh vật chất không chỉ tồn tại dưới
dạng hữu hình có thể cảm nhận bằng các giác quan nhận biết bình thường, mà còn tồn
tại dưới dạng sóng trường, không cảm nhận được bằng giác quan, vật chất có khả năng
xuyên qua môi trường vật chất.

- 1896, Béccơren phát hiện hiện tượng phóng xạ. Chứng minh rằng khối lượng vật
chất không phải là hiện tượng bất biến, nó có thể chuyển hóa thành dạng năng lượng
đặc biệt (năng lượng nguyên tử), mà năng lượng thì nhất định sẽ bị tiêu hao.

- 1897, Tômxơn phát hiện điện tử. Chứng minh điện tử là 1 trong những thành phần
cấu tạo nên nguyên tử (chứng tỏ nguyên tử không phải là kết cấu vật chất cuối cùng).

- 1901, Kaufman chứng minh khối lượng nguyên biến đổi theo vận tốc điện tử. chứng
minh khối lượng nguyên tử không phải là bất biến mà thay đổi theo tốc độ vận động
của điện tử. Với phát minh này, nhà vật lý người Đức đã đánh đổ quan niệm về tính
bất biến khối lượng trong cơ học Newton.

=> Khoa học chứng minh rằng không có dạng vật chất đầu tiên và cuối cùng.

=> Những phát minh đó góp phần đánh đổ quan niệm trực quan, siêu hình về vật chất,
làm phát sinh chủ nghĩa duy tâm vật lý. Các nhà khoa học rất am hiểu tri thức khoa
học nhưng chưa tin tường phép biện chứng duy vật đã vội vàng lập luận rằng khối
lượng vật chất chuyển thành năng lượng, hạt chuyển thành trường, vật chất bị chia nhỏ
đến vô cùng tận, vậy thì phải chăng nó đã tiêu tan, biến mất? Chủ nghãi duy tâm cho
rằng vật chất có trước, ý thức có sau, Lênin bảo vệ và kế thừa tư tưởng Mác - Ăngghen
qua tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” (1908), phân
tích tuần tự khoa học tự nhiên, phê phán chủ nghĩa duy tâm, mở đường cho khoa học
tiến lên.

2) Anh (chị) hãy phân tích định nghĩa vật chất của Lênin. Ý nghĩa phương pháp
luận và giá trị khoa học của định nghĩa ấy?

a) Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin:

* Định nghĩa: Trong tác phẩm “ chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy vật phê
phán” Lênin đã đưa ra định nghĩa về “vật chất” như sau:”vật chất là một phạm trù triết
học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chụp lại,chép lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm
giác”.

* Phân tích:

Cách định nghĩa: Phạm trù vật chất là phạm trù rộng, mà cho đến nay,thực ra
nhận thức luận chưa qua được. Khi định nghĩa phạm trù này khôn thể quy nó về vật
thể hoặc thuộc tính cụ thể nào đó, cũng không thế quy về phạm trù rộng hơn phạm trù
vật chất. Do vậy chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan hệ ý thức của
phạm trù đối lập với nó và trong mối quan hệ ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là
tính thứ hai.
Trong định nghĩa này, Lênin phân biệt hai vấn đề:

- Thứ nhất: cần phân biết vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan điểm
về khoa học tự nhiên về cấu tạo và các thuộc tính cụ thể của các đối tượng, các dạng
vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học nó chỉ vật chất nói
chung, vô hạn, vô tận, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên
cứu đều có giới hạn. Vì vậy, không thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể
đồng nhất về vật chất nói chung với các dạng vật chất cụ thể như các nhà triết học duy
vật trong lịch sử Cổ đại và Cận đại.

- Thứ hai: là trong nhận thức luận,khi vật chất đối lập ý thức, cái quan trọng để nhận
biết vật chất là thuộc tính khách quan. Khách quan theo Lênin là “cái đang tồn tại độc
lập với con người và với cảm giác của con người”. Trong đời sống xã hội,” vật chất là
cái tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức xã hội của con người”. Về mặt nhận thức
luận thì khái niệm vật chất chính là “thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức của
con người và được con người phản ánh”.

Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:

+ Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy con người nhận thức được hay chưa nhận thức được.

+ Vật chất là cái gây ra cảm giác cho con người khi trực tiếp hay gián tiếp tác động lên
giác quan của con người.

+ Cảm giác, tư duy, ý thức là phản ánh của vật chất.

Với những nội dung cơ bản trên, phạm trù vật chất trong quan niệm của Lênin có ý
nghĩa vô cùng to lớn.

b) Ý nghĩa phương pháp luận và giá trị khoa học của định nghĩa ấy?

1. Bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất.

Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác, Lênin đã thừa nhận: Trong thế
giới hiện thực, vật chất có trước cảm giác (ý thức), vật chất là tính thứ nhất, là nguồn
gốc khách quan của cảm giác (ý thức).

Luận điểm này bác bỏ những quan điểm của chủ nghĩa duy tâm cho rằng vật
chất chỉ là phức hợp của những cảm giác (Platon,…), hoặc vật chất là sự tha hóa của
“ý niệm tuyệt đối” (Heghen,…).

Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết
học: Vật chất có trước hay ý thức có trước? Lênin khẳng định vật chất có trước.

2. Phủ nhận thuyết không thể biết về vật chất.


Thuyết không thể biết cho rằng con người không thể nhận thức được thế giới
khách quan, những tri thức mà con người biết được về thế giới khách quan chỉ là hư
ảo, giả dối, không có thật.

Khi khẳng định vật chất là cái được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh…, Lênin đã nhấn mạnh: Bằng những phương pháp nhận thức khác nhau, con
người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như thế, luận điểm này đã phủ nhận
thuyết không thể biết.

Luận điểm này cũng trả lời dứt khoát mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của  triết
học: Con người có nhận thức được thế giới khách quan hay không? Lênin khẳng định
là có.

Với niềm tin có thể nhận thức được thế giới, con người sẽ có thêm sức mạnh, ý
chí, nghị lực để chinh phục tự nhiên, sáng tạo nên những giá trị phục vụ cuộc sống của
con người và thúc đẩy xã hội phát triển. Con người sẽ không rơi vào thế bị động, bỏ
mặc số phận mình cho một thế lực siêu nhiên nào đó.

3. Khắc phục những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật
chất.

Với định nghĩa vật chất của Lênin, chúng ta hiểu rằng không có một dạng cụ
thể cảm tính nào của vật chất, hay một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất, lại
có thể đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất.

Vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức,
bất kể sự tồn tại ấy đã được con người nhận thức được hay chưa, đã biết về
nó hay chưa.

Với những luận điểm rút ra này, định nghĩa vật chất của Lênin đã khắc phục
những quan điểm phiến diện, siêu hình, máy móc về vật chất như: Vật chất là các dạng
cụ thể như cái bàn, cái ghế, ánh sáng mặt trời, quả táo, nước, lửa, không khí…; đồng
nhất vật chất với khối lượng, coi vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động
cơ học.

4. Định hướng các khoa học cụ thể trong việc tìm kiến các dạng hoặc hình thức
mới của vật thể.

Khẳng thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, không bao giờ biến mất,
luôn luôn vận động, định nghĩa vật chất của Lênin đã cổ vũ các nhà khoa học (nhà vật
lý học, nhà hóa học, nhà sinh học…) kiên trì, đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất để tìm
ra những kết cấu mới, những dạng thức thuộc tính, quy luật vận động mới của vật chất,
từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức của nhân loại.

5. Cho phép xác định vật chất trong lĩnh vực xã hội.
Trong việc nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất
của Lênin đã giúp chúng ta xác định được cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Đây
là điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa đạt tới.

Ta có thể tìm thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở ở các hoạt động thực tiễn của
con người, tiêu biểu là hoạt động sản xuất vật chất để nuôi sống con người và
phát triển xã hội.

Định nghĩa vật chất của Lênin giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải
thích những nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc
về sự vận động của phương thức sản xuất, trên cơ sở đó, con người có thể tìm ra các
phương tán tối ưu để thúc đẩy xã hội phát triển.

=> Khắc phục được hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, hạn
chế duy tâm trong quan niệm về xã hội.
Khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức. Khẳng định khả
năng con người nhận thức được thực tại khách quan

3) Tại sao bộ óc con người – một tổ chức sống vật chất cao lại có thể sinh ra ý
thức?

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một
dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm
của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm
khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu
nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với
thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện.

- Nguồn gốc tự nhiên:

Ý thức là kết quả của quá trình tiến hoá của thuộc tính phản ánh ở mọi dạng vật
chất. Phản ánh là thuộc tính phổ biến của mọi vật chất. Phản ánh là sự tái tạo những
đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác
động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật (vật tác
động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy vật nhận tác động bao h cũng mang
thông tin của vật tác động. Trong quá trình tiến hoá của thế giới vật chất, các vật thể
càng ở bậc thang cao bao nhiêu thì hình thức phản ánh của nó càng phức tạp bấy
nhiêu. Hình thức phản ánh đơn giản nhất, đặc trưng cho giới vô sinh là những phản
ánh vật lý, hoá học, nó là những hình thức phản ánh có tính chất thủ động, chưa có
định hướng sự lựa chọn. Hình thức phản ánh sinh học phản ánh đặc trưng cho giới tự
nhiên sống là bước phát triển mới về chất trong sự tiến hóa của các hình thức phản
ánh. Phản ứng sinh học thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau như: tính kích thích, tính
cảm ứng, tính tâm lý. Nhưng những mức độ đó chưa phải là ý thức mà nó chỉ là sự
phản ánh có tính chất bản năng do nhu cầu trực tiếp sinh lý cơ thể và do quy luật sinh
học chi phối. Ý thức là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức là
hình thức phản ánh chỉ có ở con người.

Như chúng ta biết ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc
của con người. Bộ óc người là cơ quan phản ánh, song chỉ có bộ óc thôi thì chưa có ý
thức. Không có sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ
óc thì hoạt động ý thức không thể xảy ra. Như vậy bộ óc người cùng với thế giới bên
ngoài tác động lên bộ óc đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

- Nguồn gốc xã hội:

Để cho ý thức ra đời những tiền đề nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng không
thể thiếu được nhưng lại chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là
những tiền đề nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc con
người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.

Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những
sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của mình, trong đó con người đóng vai trò môi giới,
điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là
hoạt động đặc thù của con người, lao động luôn mang tính tập thể xã hội.

Lao động có vai trò:

 + Lao động đã sang tạo ra bản thân con người nhờ có con người mà con người có thể
tách ra khỏi thế giới động vật. 

+ Lao động làm hoàn thiện cơ thể con người đặc biệt là bộ óc và các giác quan.

+ Thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận
động của mình trong quá trình lao động.

 + Trong lao động đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.

Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn
ngữ thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Vai trò của ngôn ngữ:

 + Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, trao đổi kinh nghiệm, trao đổi
tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác

 + Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn đồng thời là công cụ của tư
duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực.

=> Vậy nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý
thức là lao động là thực tiễn xã hội.

4) Hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Từ đó, rút ra ý
nghĩa phương pháp luận đối với hoạt động thực tiễn của bản thân?
a) Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.

Vật chất là cái có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức: Nguồn gốc của ý thức
chính là vật chất: bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh, sự tác động
của thế giới vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên.

Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với
nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của ý thức. Mặt
khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vật chất là đối tượng,
khách thể của ý thức, nó quy định nội dung, hình thức, khả năng và quá trình vận động
của ý thức, tác động trở lại của ý thức. Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý
thức lại có tính độc lập tương đối của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức đối với vật
chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động, máy
móc, nguyên si thế giới vật chất, vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,
con người đề ra mục tiêu, phương hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí để thực
hiện mục tiêu ấy. Vì vậy, ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu: Nếu ý
thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo
sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất. Ngược lại, nếu ý thức phản ánh
sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật
khách quan, do đó sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất. Tuy vậy, sự tác động của ý
thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoă ̣c
tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được. Và suy cho cùng, dù ở mức độ nào
nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất. Biểu hiện ở mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức còn là cơ sở để nghiên cứu, xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực
tiễn, khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý…

b) Ý nghĩa phương pháp luận:

Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận
thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn
tại xã hội để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ
những nguyên nhân tinh thần nào.“ tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó.
Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên
trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần.
Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết
những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải
nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần,
tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao.
Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ
tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách
rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.

=> Tôn trọng khách quan: Trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cần
phải xuất phát từ thực tiễn khách quan, tôn trọng quy luật khách quan, hành động tuân
theo quy luật khách quan. Không được xuất phát từ ý muốn chủ quan, không lấy ý chỉ
áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực.

Phát huy tính năng động chủ quan: Ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất
thông qua thực tiễn của con người. Giúp con người hình thành mục đích, phương
hướng, biện pháp cho hoạt động thực tiễn.

5) Ý thức là gì? Vai trò của ý thức đối với vật chất và ý nghĩa phương pháp luận?

a) Ý thức:

Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin là một phạm trù song song với
phạm trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ
óc con người và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.

b) Vai trò của ý thức đối với vật chất:

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông
qua hoạt động thực tiễn của con người.

Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai
trò của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện
thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất.
Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trò của ý thức
không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người
tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra
phương huớng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ,
phương tiện, v.v. để thực hiện mục tiêu của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện sự tác
động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiền của con người.

Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng: tích cực
hoặc tiêu cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách
mạng, có nghị lực, có ý chí thì hành động của con người phù hợp với các quy luật
khách quan, con người có năng lực vượt qua những thách thức trong quá trình thực
hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo - đó là sự tác động tích cực cúa ý thức.
Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất,
quy luật khách quan thì ngay từ đầu, hướng hành động của con người đã đi ngược lại
các quy luật khách quan, hành động ấy sẽ có tác dụng tiêu cực đổi với hoạt động thực
tiễn, đối với hiện thực khách quan.
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế
quyết định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai,
thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả.

Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất,
của ý thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả
năng sáng tạo ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả
năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua
hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý thức trong sự
tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý
thức vào những người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện
vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó con người hành động theo định hướng của ý
thức.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng xuất phát từ con người hiện thực, con người thực
tiễn để xem xét mối quan hệ này. Từ đó khảng định, vật chất có trước, ý thức có sau,
vật chất quyết định ý thức và ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của
con người. 

=> Vật chất quyết định ý thức: Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất quyết định
nguồn gốc, bản chất, nội dung sự biến đổi của ý thức.

c) Ý nghĩa phương pháp luận:

1/ Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương, hoạt động
nhận thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan và hoạt
động tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có quan điểm khách quan
trong nhận thức hoạt động thực tiễn.

2/ Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ những cái lẻ tẻ của hiện thực
khách quan, phải xuất phát từ cái chung là quy luật khách quan.

Nghị quyết 6 của Đảng là bài học kinh nghiệm là phải nắm vững hiện thực
khách quan.

Hoạt động tuân theo quy luật (quan điểm khách quan) là nhận thức sự vật phải
tôn trọng chính nó có, phải phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của sự vật và
chống chủ nghĩa khách quan, đồng thời chống chủ quan duy ý chí.

3/ Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát từ cái hiện
thực khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt tích
cực ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.

Ví dụ: Trước một trận đánh làm quyết tâm thư, tự phê bình và phê bình, rút ra những
nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực.
4/ Giữa vật chất và ý thức chỉ có đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận. Ngoài
lĩnh vực đó ra, sự phân biệt chỉ là tương đối (Câu của Lênin).

=> Một chính sách đúng đắn là cơ sở liên kết hợp hai yếu tố này.

Ví dụ: giáo dục chính trị, tư tưởng gắn liền với khuyến khích lợi ích vật chất như đạt
danh hiệu thi đua, được phần thưởng.

Công tác tư tưởng phải gắn liền với công tác tổ chức nếu tuyệt đối hóa yếu tố
vật chất, yếu tố kinh tế mà coi nhẹ ý thức của con người, coi nhẹ tính năng động, sáng
tạo của con người sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường, ngược lại nếu tuyệt đối
hóa yếu tố ý thức và coi nhẹ điều kiện vật chất nhất định thì sẽ rơi vào chủ nghĩa chủ
quan duy ý chí.

Ví dụ: một thời kỳ đề ra vấn đề công hữu, xây dựng quan hệ sản xuất không dựa trên
lực lượng sản xuất.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối
quan hệ này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết
định ý thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

6) Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể trong phép biện
chứng duy vật trong quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng ta vận dụng quan điểm
trên như thế nào?

a) Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

- Mối liên hệ: dùng để chỉ sự quy định, tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

- Mối liên hệ phổ biến: dùng để chỉ sự phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật,
hiện tượng cũa thế giới.

* Tính chất của các mối liên hệ:

- Tính khách quan: là cái vốn có, tồn tại đôc lập với con người, con người chỉ nhận
thức sự vật thông qua các mối liên hệ vốn chưa có của nó.

- Tính phổ biến: bất kì nơi đâu, torng tự nhiên, xã hội, tư duy đều có vô vàn các mối
liên hệ đa dạng, chúng giữ những vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động, chuyển
hóa của các sự vật, hiện tượng.

- Tính đa dạng, phong phú: có mối liên hệ về mặt không gian và cũng có mối liên hệ
về mặt thời gian giữa các sự vật, hiện tượng…

=> Ý nghĩa phương pháp luận:


- Quan điểm toàn diện: trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phảo
xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, các mặt
của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa các sự vật này so với các sự vật
khác. Không phiến diện, siêu hình trong nhận thức, thực tiễn.

- Quan điểm lịch sử cụ thể: trong nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động
thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình
huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác
nhau của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể. Cần tránh và khắc
phục quan điểm chung chung, ngụy biện.

b) Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể trong phép biện
chứng duy vật trong quá trình đổi mới ở nước ta:

- Quan điểm toàn diện:

Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến -
một trong hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng. Đây là một phạm trù của
phép biện chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn
nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện tượng trong thế
giới khách quan.

Triết học Mác khẳng định: Cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là
thuộc tính thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện tượng dù đa dạng và khác
nhau đến mấy thì chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất
là vật chất mà thôi. Ngay bản thân ý thức vốn không phải là vật chất nhưng cũng chỉ là
sự phát triển đến đỉnh cao của một thuộc tính, của một dạng vật chất có tổ chức cao
nhất là bộ óc con người, nội dung của ý thức có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên
ngoài. Theo triết học Mác, mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là khách quan vốn
có của bản thân chúng, đồng thời mối liên hệ còn mang tính phổ biến và tính phổ biến
ấy được thể hiện ở những vấn đề sau đây: Xét về mặt không gian, mỗi sự vật hiện
tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng tồn tại không phải trong trạng biệt lập
tách rời tuyệt đối với các sự vật hiện tượng khác. Ngược lại, trong sự tồn tại của mình
thì chúng tácđộng lẫn nhau và nhận sự tác động của các sự vật hiện tượng khác. Chúng
vừa phụ thuộc nhau, chế ước nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển. Đó chính
là hai mặt của quá trình tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Ănghen đã khẳng
định: "Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập
hợp gồm các vật thể liên hệ khăng khít với nhau và việc các vật thể ấy có mối liên hệ
qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động qua lại lẫn nhau và sự tác động
qua lại ấy chính là sự vận động".
Trong đời sống xã hội ngày nay không có một quốc gia, dân tộc nào mà không
có mối quan hệ, liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về mọi mặt của đời sống xã hội.
Đây chính là sự tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc. Trên thế giới đã và đang
xuất hiện xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống xã hội. Các quốc
gia dân tộc ngày càng phụ thuộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau trên con đường phát triển
của mình. Xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong của sự vật hiện tượng thì mỗi sự vật
hiện tượng đều được tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ phận khác nhau và các
nhân tố, bộ phận đó không tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức sắp xếp theo một
logic nhất định, trật tự nhất định để tạo thành chỉnh thể. Mỗi biện pháp, yếu tố trong đó
mà có vai trò vị trí riêng của mình, lại vừa tạo điều kiện cho các bộ phận, yếu tố khác.
Nghĩa là giữa chúng có sự ảnh hưởng, ràng buộc tác động lẫn nhau, sự biến đổi bộ
phận nào đó trong cấu trúc của sự vật hiện tượng sẽ ảnh hưởng đến bộ phận khác và
đối với cả chỉnh thể sự vật,hiện tượng. Xét về mặt thời gian, mỗi một sự vật hiện
tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong sự tồn tại, phát triển của mình đều phải
trải qua các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau và các giai đoạn đó không tách rời nhau,
có liên hệ làm tiền đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này làm mở đầu cho giai
đoạn khác tiếp theo. Điều này thể hiện rõ trong mối liên hệ giữa quá khứ - hiện tại
-tương lai (hiện tại chẳng qua là bước tiếp theo của quá khứ và là bàn đạp cho tương
lai).

Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ
biến vốn có của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình mà nó còn nêu rõ
tính phong phú, đa dạng và phức tạp của mối liên hệ qua lại đó. Khi nghiên cứu hiện
thực khách quan có thể phân chia mối liên hệ thành từng loại khác nhau tuỳ tính chất
phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp
hay gián tiếp… khái quát lại có những mối liên hệ sau đây: mối liên hệ bên trong - bên
ngoài, chủ yếu - thứ yếu, chung - riêng, trực tiếp - gián tiếp, bản chất - không bản chất,
ngẫu nhiên - tất nhiên. Trong đó có những mối liên hệ bên trong, trực tiếp, chủ yếu,
bản chất và tất nhiên bao giờ cũng giữ vai trò quan trọng, quyết định cho sự tồn tại và
phát triển của sự vật, hiện tượng. Triết học Mác - xít đồng thời cũng thừa nhận rằng
các mối liên hệ khác nhau có khả năng chuyển hoá cho nhau, thay đổi vị trí của nhau
và điều đó diễn ra có thể là sự thay đổi phạm vi bao quát sự vật, hiện tượng hoặc có
thể do kết quả vận động khách quan của sự vật hiện tượng đó.

Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng chúng
ta rút ra quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem xét các sự vật hiện tượng cũng
như trong hoạt động thực tiễn.

Về mặt nhận thức, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong mối liên
hệ tác động qua lại với những sự vật, hiện tượng khác và cần phải phát hiện ra những
mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính, các giai đoạn khác nhau của bản
thân sự vật. Lênin đã khẳng định: "Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao
quát và nghiên cứu tất cả các mặt của mối liên hệ và quan hệ của sự vật đó". Để nhận
thức đúng được sự vật, hiện tượng cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu
thực tiễn, ứng với mỗi thời kỳ, giai đoạn, thế hệ thì con người bao giờ cũng chỉ phản
ánh được số lượng hữu hạn các mối liên hệ. Vì vậy tri thức về các sự vật, hiện tượng
chỉ là tương đối, không đầy đủ và cần phải được hỏi chúng ta phải phát hiện ra không
chỉ là mối liên hệ của nó mà còn phải biết xác định phân loại tính chất, vai trò, vị trí
của mỗi loại liên hệ đối với sự phát triển của sự vật. Cần chống cả lại khuynh hướng
sai lầm phiến diện một chiều, cũng như đánh giá ngang bằng vị trí của các loại quan
hệ.

Về mặt thực tiễn, quan điểm toàn diện đòi hỏi để cải tạo sự vật, hiện tượng cần
làm thay đổi mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện tượng cũng như mối liên hệ giữa sự
vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Muốn vậy,cần phải xác định, sử dụng
đồng bộ các phương pháp, các biện pháp, phương tiện để giải quyết sự vật. Mặt khác,
quan điểm toàn diện đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn cần phải kết hợp chính sách dàn
đều và chính sách có trọng tâm, trọng điểm. Vừa chú ý giải quyết về mặt tổng thể vừa
biết lựa chọn những vấn đề trọng tâm để tập trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc
giải quyết những vấn đề khác.

- Quan điểm lịch sử - cụ thể:

Khi xem xét và giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải
chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời
và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực - cả khách quan lẫn chủ quan. Khi quan sát
một quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó trong những mối quan hệ như vậy.
Chân lý sẽ trở thành sai lầm, nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của nó. Chẳng hạn,
khi đánh giá vị trí lịch sử của mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc vào những
năm 1960 - 1970, nếu chúng ta không đặt nó vào trong hoàn cảnh miền Bắc, đồng thời
thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, đặc biệt từ giữa những năm 1965 - khi đế quốc Mỹ
đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược bằng không quân ra miền Bắc, không đặt nó trong
điều kiện chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn bị ảnh
hưởng rất lớn quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội đã được xác lập ở một loạt nước
xã hội chủ nghĩa đi trước thì chúng ta, một là, sẽ không thấy được một số giá trị tích
cực của mô hình hợp tác xã trong điều kiện lịch sử đó, hai là, sẽ không thấy hết những
nguyên nhân bên trong và bên ngoài dẫn đến việc duy trì quá lâu cách làm ăn như vậy,
khi hoàn cảnh đất nước đã thay đổi.

Khái quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện chứng trong việc nhận
thức và hoạt động thực tiễn, Ph.Ăngghen viết: “Phép biện chứng là phương pháp mà
điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng
trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát
sinh và sự tiêu vong của chúng”. Trong cùng một cách xem xét vấn đề tương tự như
vậy, V.I.Lênin cho rằng, để có tri thức đúng về sự vật, “bản thân sự vật phải được xem
xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó”.

c) Đảng ta vận dụng quan điểm đó như thế nào:

Quan điểm toàn diện còn được Đảng ta nhận thức và quán triệt ngay trong
chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là việc Đảng và Nhà nước vẫn thừa nhận vai trò tích cực
của các thành phần kinh tế khác cũng như thừa nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư
nhân. Tuy nhiên, trong đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn mạnh và coi trọng hình thức sở
hữu công cộng với vai trò chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh trong cơ chế thị
trường hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện nước ta đã trở thành thành viên chính thức
của WTO, đây là một thách thức rất lớn đối với một nước có thể nói là chậm phát
triển,lạc hậu như Việt Nam chúng ta. Và như thế, việc nhận thức và quán triệt tốt
nguyên tắc toàn diện của Đảng có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới của nước
ta trong thời gian tới. Việt Nam sẽ là nơi thu hút rất lớn vốn đầu tư của nước ngoài
cũng như chúng ta sẽ trở thành đối tác của rất nhiều quốc gia kể từ khi gia nhập WTO,
điều đó có nghĩa việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước phải có chính sách, đường
lối phù hợp để thành phần kinh tế quốc dân vẫn giữ được vai trò chủ đạo, tạo đà cho sự
phát triển của đất nước,đồng thời,bên cạnh đó với việc đầu tư của tập đoàn tư bản
nước ngoài vào Việt Nam thì việc đưa ra những chính sách điều chỉnhnhằm ổn định,
phát triển kinh tếđất nước là một nhiệm vụ quan trọng đặt ra trước mắt chúng ta. Việc
kết hợp chặt chẽ “Chính sách dàn đều” và “Chính sách trọng điểm” có ý nghĩa quan
trọng trong việc lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng ta trong thời gian tới.

Quá trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc
phương pháp luận để nhận thức sự vật và sự vận dụng, quán triệt nguyên tắc trên của
Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước đã đem lại rất nhiều thành công, đưa đất nước
phát triển đi lên với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội côngbằng, dân chủ, văn
minh".

7) Phân tích cơ sở lý luận cùa quan điểm phát triển trong phép biện chứng duy
vật trong quá trình đổi mới ở nước ta. Đảng ta vận dụng quan điểm trên như thế
nào?

a) Khái niệm về sự phát triển:

Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động đi lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện
hơn. Phát triển đi theo đường “xoáy ốc”, cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng,
đặc tính của cái cũ trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có
những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.

b) Tính chất của sự phát triển:

1. Tính khách quan của sự phát triển:

– Tất cả các sự vật, hiện tượng trong hiện thực luôn vận động, phát triển một cách
khách quan, độc lập với ý thức của con người. Đây là sự thật hiển nhiên, dù ý thức của
con người có nhận thức được hay không, có mong muốn hay không.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngày trong chính bản thân của sự vật, hiện
tượng. Đó là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thuộc mỗi sự vật, hiện
tượng.

Phát triển là quá trình tự thân (tự nó, tự mình) của mọi sự vật, hiện tượng.

– Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về tính khách quan của sự phát triển đã
phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình về sự phát triển.

Quan điểm duy tâm cho rằng nguồn gốc của sự phát triển ở các lực lượng siêu
nhiên, phi vật chất (thần linh, thượng đế), hay ở ý thức con người. Tức là đều nằm ở
bên ngoài sự vật, hiện tượng.

Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng về cơ bản là “đứng im”,
không phát triển. Hoặc phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về mặt lượng (số lượng,
kích thước…) mà không có sự biến đổi về chất.

2. Tính phổ biến của sự phát triển:

Sự phát triển diễn ra ở tất cả mọi lĩnh vực, từ tự nhiên, xã hội và tư duy. Từ
hiện thực khách quan đến những khái niệm, những phạm trù phản ánh hiện thực ấy.

Trong hiện thực, không có sự vật, hiện tượng nào là đứng im, luôn luôn duy trì
một trạng thái cố định trong suốt quãng đời tồn tại của nó.

3. Tính phong phú, đa dạng của sự phát triển:

Sự phát triển có muôn hình, muôn vẻ, biểu hiện ra bên ngoài theo vô vàn loại
hình khác nhau.

Sự phong phú của các dạng vật chất và phương thức tồn tại của chúng quy định
sự phong phú của phát triển. Môi trường, không gian, thời gian và những điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau tác động vào các sự vật, hiện tượng cũng làm cho sự phát triển
của chúng khác nhau.

Trong giới hữu cơ, sự phát triển biểu hiện ở khả năng thích nghi của cơ thể
trước sự biến đổi của môi trường, ở khả năng tự sản sinh ra chính mình với trình độ
ngày càng cao hơn…

Sự phát triển trong xã hội biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã
hội ngày càng lớn của con người.

Đối với tư duy, sự phát triển là năng lực nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn
diện, đúng đắn hơn.

* Ý nghĩa phương pháp luận:

- Quan điểm phát triển:


Phải phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho
cái mới phát triển.

Khi xem xét sự vật, phải đặt nó trong sự vận động, biến đổi, chuyển hóa, không
chỉ nhận thức sự vật trong trạng thái hiện tại, mà phải thấy được xu hướng phát triển
của nó

- Quan điểm lịch sử cụ thể:

Nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình
phát triển.

Trong nhận thức và giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, phù hợp với tính chất
phong phú, đa dạng, phức tạp của nó

* VD:

Trong lịch sử, có nhiều hàng hóa đóng vai trò như tiền tệ (mai rùa, vỏ sò…) gọi
là tiên hiện vật, nhưng tồn tại không ít khuyết điểm (thế tích lớn, không thể chia nhỏ,
khó bảo quản…). Từ tiền hiện vật quá độ lên tiền kim loại (Cu, Pb, Zn…) nhưng cũng
bất tiện (cồng kềnh, khó cất giữ…). Vàng ra đời trở thành tiền tệ, vật ngang giá chung
cố định ở 1 số hàng hóa độc tôn. Trong lưu thông, tiền vàng tỏ ra không thuận tiện nên
loài người thay thế bằng tiền giấy, tiền giấy không có giá trị mà chỉ là đại biểu, ký hiệu
của giá trị, khế ước, quy định chung của xã hội. Để kiềm chế lạm phát, thuận lợi trong
lưu thông, còn có 1 số giấy tờ có giá trị: thẻ tín dụng, cổ phiếu…

c) Đảng ta vận dụng nó như thế nào?

Trong công cuộc đổi mới, Ðảng ta, nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của
Ðảng và dân tộc ta. Ðảng rất quan tâm tới khoa học công nghệ, tăng trưởng kinh tế, sự
giàu có, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, năng suất lao động,…

Nhưng tất cả những điều đó chỉ là phương tiện và nấc thang cho chất lượng dân
sinh và hạnh phúc của con người - mục tiêu cao nhất của sự phát triển trong đường lối
chính sách của Ðảng.

8) Phân tích con đường biện chứng của nhận thức theo quan điểm triết học Mác -
Lênin? Trong quá trình nhận thức của bản thân, anh (chị) vận dụng quan điểm
trên như thế nào?

* Nhận thức: là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vao bộ óc người; là quá
trình tạo thành tri thức về thế giới khách quan trong bộ óc con người. Lênin đã khái
quát quá trình đó như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của
sự nhận thức hiện thực khách quan”.
a) Phân tích:

I. Khâu thứ nhất: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.

1. Trực quan sinh động còn gọi là nhận thức cảm tính, đây là giai đoạn đầu tiên
của quá trình nhận thức.

Nó được thể hiện dưới 3 hình thức là cảm giác, tri giức và biểu tượng.

* Cảm giác:

– Đây là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc của mọi hiểu biết
của con người.

Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc tính bên ngoài của sự vật vào các
giác quan của con người. Các giác quan đó là thị giác (mắt), thính giác (tai), vị giác
(lưỡi), khứu giác (mũi), xúc giác (tay, chân tiếp xúc với sự vật…).

– Sự vật hoặc hiện tượng trực tiếp tác động vào các giác quan con người thì gây nên
cảm giác, như cảm giác về màu đỏ, tiếng nhạc, vị chát, mùi thơm, nước nóng…

Cảm giác là kết quả của sự tác động vật chất của sự vật vào các giác quan con
người, là sự chuyển hóa năng lượng kích thích bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Cảm
giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

* Tri giác:

Đây là hình thức tổng hợp nhiều cảm giác để đem lại hình ảnh hoàn chỉnh hơn
về sự vật.

Tri giác nảy sinh trên cơ sở cảm giác, là sự kết hợp các cảm giác. So với cảm
giác, tri giác là hình thức cao hơn của nhận thức cảm tính; nó đem lại cho chúng
ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, phong phú hơn.

* Biểu tượng:

– Đây là hình ảnh của sự vật được con người giữ lại trong trí nhớ.

Sự tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn
tượng, những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu sắc
đến mức có thể hiện lên trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không còn ở trước
mắt. Đó chính là biểu tượng.

– Trong biểu tượng chỉ giữ lại những nét chủ yếu, nổi bật nhất của sự vật do cảm
giác, tri giác đem lại trước đó. Biểu tượng thường hiện ra khi có những tác nhân tác
động, kích thích  đến trí nhớ con người.

Hình thức cao nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng.


Ở sự tưởng tượng đã mang tính chủ động, sáng tạo của con người. Tưởng tượng
có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật.

– Biểu tượng tuy vẫn còn mang tính chất cụ thể, sinh động của nhận thức cảm
tính, song đã bắt đầu mang tính khái quát và gián tiếp. Có thể xem biểu tượng như là
hình thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lý
tính.

Trên cơ sở những tài liệu do nhận thức cảm tính cung cấp, nhận thức sẽ
phát triển lên một giai đoạn cao hơn, đó là nhận thức lý tính. Nhận thức lý tính còn gọi
là tư duy trừu tượng.

2. Tư duy trừu tượng: là giai đoạn tiếp theo và cao hơn về chất của quá trình nhận
thức, nó nảy sinh trên cơ sở nhận thức cảm tính.

– Nếu chỉ bằng cảm giác, tri giác thì nhận thức của con người sẽ rất hạn chế. Bởi vì
con người không thể chỉ với cảm giác, tri giác mà hiểu được những cái như độc lập, tự
do, hạnh phúc, tốc độ ánh sáng, hình thái kinh tế – xã hội… Muốn hiểu được những
cái phức tạp như vậy cần phải có sức mạnh của tư duy trừu tượng.

Tư duy trừu tượng là sự phản ánh khái quát và gián tiếp hiện thực khách quan.

– Tư duy phải gắn liền với ngôn ngữ, được biểu đạt thành ngôn ngữ. Ngôn ngữ là cái
vỏ vật chất của tư duy.

Tư duy có tính năng động, sáng tạo, nó có thể phản ánh được những mối liên hệ
bản chất, tất nhiên, bên trong của sự vật, do đó phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ
hơn. Muốn tư duy, con người phải sử dụng các phương pháp như so sánh, phân tích và
tổng hợp, khái quát hóa và trừu tượng hóa…

– Tư duy trừu tượng, hay nhận thức lý tính, được thể hiện ở các hình thức như khái
niệm, phán đoán và suy lý:

* Khái niệm:

- Khái niệm là một hình thức của tư duy trừu tượng, phản ánh những mối liên hệ và
thuộc tính bản chất, phổ biến của một tập hợp các sự vật, hiện tượng nào đó, chẳng hạn
cá khái niệm “xe máy”, “nhà hát”, “thể thao”, “giai cấp”…

- Khái niệm đóng vai trò quan trọng trong tư duy khoa học.

Khái niệm là những vật liệu tạo thành ý thức, tư tưởng. Khái niệm là những
phương tiện để con người tích lũy thông tin, suy nghĩ và trao đổi tri thức với nhau.

- Khái niệm có tính chất khách quan bởi chũng phản ánh những mối liên hệ, những
thuộc tính khách quan của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. Vì vậy, khi vận dụng
khái niệm, ta phải chú ý đến tính khách quan của nó. Nếu áp dụng khái niệm một cách
chủ quan, tùy tiện sẽ rơi vào chiết trung và ngụy biện.
- Nội hàm của khái niệm không phải là bất biến mà luôn vận động, phát triển. Bởi vì
hiện thực khách quan luôn vận động và phát triển nên khái niệm phản ánh hiện thực đó
cũng phải vận động, phát triển theo, liên hệ chuyển hóa lẫn nhau, linh hoạt, năng động.

Do đó, ta phải chú ý đến tính biện chứng, sự mềm dẻo của các khái niệm khi
vận dụng chúng. Phải mài sắc, gọt giũa các khái niệm, phải bổ sung những
nội dung mới cho các khái niệm đã có, thay thế các khái niệm cũ bằng khái niệm mới
để phản ánh hiện thực mới, phù hợp với thực tiễn mới.

* Phán đoán:

- Phán đoán là hình thức của tư duy trừu tượng vận dụng các khái niệm để khẳng định
hoặc phủ định một thuộc tính, một mối liên hệ nào đó của hiện thực khách quan.

- Phán đoán là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng trong ý thức của con người. Tuy nhiên, phán đoán không phải là tổng
số đơn giản những khái niệm tạo thành mà là quá trình biện chứng trong đó các khái
niệm có sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.

- Phán đoán được biểu hiện dưới hình thức ngôn ngữ là các mệnh đề theo những quy
tắc văn phạm nhất định.

* Suy lý:

- Suy lý là một hình thức của tư duy trừu tượng trong đó xuất phát từ một hoặc nhiều
phán đoán làm tiền đề để rút ra phán đoán mới làm kết luận.

Ví dụ: Ta có 2 phán đoán làm tiền đề: “Giấy rất dễ cháy” và “Sách làm từ giấy”. Từ 2
phán đoán này, ta đi đến phán đoán mới: “Sách rất dễ cháy”.

- Nếu như phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm, thì suy lý là sự liên hệ giữa các
phán đoán. Suy lý là công cụ hùng mạnh của tư duy trừu tượng, thể hiện quá trình vận
động của tư duy đi từ những cái đã biết đến nhận thức những cái chưa biết một cách
gián tiếp.

Có thể nói, toàn bộ các khoa học được xây dựng trên hệ thống suy lý. Nhờ có
suy lý, con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về hiện thực khách
quan.

- Tuy nhiên, để phản ánh đúng hiện thực khách quan, quá trình suy lý phải xuất phát từ
những tiền đề đúng và phải tuân theo những quy tắc logic. Do đó, nếu ta có những tiền
đề đúng và ta vận dụng một cách chính xác những quy luật của tư duy đối với những
tiền đề ấy thì kết quả phù hợp với hiện thực.

3. Sự thống nhất biện chứng giữa trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) và tư
duy trừu tượng (nhận thức lý tính).
– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc
điểm và vai trò khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan.

Trực quan sinh động là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động sự vật. Còn tư
duy trừu tượng là phản ánh gián tiếp, mang tính trừu tượng khái quát.

Trực quan sinh động mang lại những hình ảnh bề ngoài, chưa sâu sắc về sự vật.
Còn tư duy trừu tượng phản ánh được những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ biến,
tất yếu của sự vật. Do đó, tư duy trừu tượng phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ
hơn.

– Trực quan sinh động và tư duy trừu tượng thống nhất biện chứng với nhau, liên hệ,
tác động lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau.

Chúng cùng phản ánh thế giới vật chất, có cùng một cơ sở sinh lý duy nhất là hệ
thần kinh của con người và điều cùng chịu sự chi phối của thực tiễn lịch sử – xã hội.

– Trực quan sinh động là cơ sở của tư duy trừu tượng. Không có trực quan sinh động
thì không có tư duy trừu tượng. Trái lại, trực quan sinh động mà không có tư duy trừu
tượng thì không thể nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật.

Vì vậy, cần phải phát triển trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng; tư duy
trừu tượng sẽ giúp trực quan sinh động trở nên chính xác. Trên thực tế, chúng thường
diễn ra đan xen vào nhau trong quá trình nhận thức.

– Một hình thức đặc biệt của nhận thức là trực giác.

Trực giác là năng lực nắm bắt trực tiếp chân lý không cần lập luận logic trước.

Trực giác có những tính chất như bỗng nhiên, bất ngờ, tính trực tiếp và tính
không ý thức được. Tuy nhiên, tính bỗng nhiên, bất ngờ của trực giác không có nghĩa
nó không dựa gì trên tri thức trước đó mà nó dựa trên những kinh nghiệm, những hiểu
biết được tích lũy từ trước.

Trực giác là tri thức trực tiếp song có liên hệ với tri thức gián tiếp. Trực giác
được môi giới bởi toàn bộ thực tiễn và nhận thức có trước của con người, bởi kinh
nghiệm của quá khứ.

Tính không ý thức được của trực giác không có nghĩa nó đối lập với ý thức, với
những quy luật hoạt động của logic. Trực giác là kết quả hoạt động trước đó của ý
thức. Trực giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và tri thức dẫn đến sự “bùng nổ” bằng
nhiều thao tác tư duy phát triển ở trình độ khác nhau.

Trực giác là sản phẩm của tài năng và sự say mê, sự kiên trì lao động khoa học
một cách nghiêm túc.

II. Khâu thứ hai: Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
– Nhận thức đến trình độ tư duy trừu tượng rồi thi ta phải quay trở về thực tiễn để
kiểm tra. Chỉ có qua thực tiễn ta mới có thể xác định được nhận thức đó là đúng đắn
hay sai lầm.

Mục đích của nhận thức là để định hướng cho hoạt động sản xuất vật chất, hoạt
động cải tạo thế giới. Đến lượt mình, hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở cho sự tồn
tại và phát triển của xã hội.

– Quay trở về thực tiễn, nhận thức hoàn thành một quy trình biện chứng của nó. Trên
cơ sở hoạt động thực tiễn, một quy trình nhận thức mới lại bắt đầu và cứ thế mãi mãi.

b) Vận dụng quan điểm:

- Thứ nhất: luôn tiếp nhận tri thức một cách khoa học, sáng tạo. Tư duy biện chứng sẽ
giúp sinh viên cái nhìn toàn diện, phân biệt tri thức đúng, sai; chỉ ra nguyên nhân cái
sai, và khẳng định, phát triển tri thức đúng đắn. Sinh viên tự học, tự nghiên cứu, giải
thích thực tiễn biến đổi, đưa ra những giải pháp mà thực tiễn đặt ra…
- Thứ hai: có phương pháp học tập, làm việc đúng đắn; sinh viên không còn phải học
vẹt, học tủ; mà học hiểu, biết vận dụng, biết đánh giá và sáng tạo ra tri thức mới.
Thứ ba, loại bỏ tư duy siêu hình, cứng nhắc, bảo thủ, trì trệ...

9) Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của các lực lượng sản xuất. Đảng và Nhà nước ta vận dụng quy luật này như thế
nào ở nước ta giai đoạn hiện nay?

a) Phân tích:

1. Lực lượng sản xuất:

* Định nghĩa: là sự biểu hiện giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản
xuất tạo ra của cải vật chất, biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người.

Lực lượng sản xuất là thước đo quan trọng cho sự tiến bộ của xã hội

* Kết cấu của lực lượng sản xuất:

- LLSX là sự thống nhất giữa hai yếu tố là con người và tư liệu sản xuất

+ Người lao động: toàn bộ năng lực và trí tuệ của con người thông qua tư liệu lao
động được kết tinh vào sản phẩm phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ
xảo, thói quen, kết hợp các yếu tố đạo đức, tâm lý, khoa học,… biết sử dụng TLSX để
tạo ra của cải vật chất.

Lênin nói “LLSX hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”

+ TLSX: là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất. Nó bao gồm đối
tượng lao động và tư liệu lao động
 Đối tượng lao động: không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ là một bộ phận của
giới tự nhiên được con người sử dụng để tạo ra của cái vật chất. Đối tượng lao động
gồm hai dạng: dạng tự nhiên sẵn có và dạng nhân tạo.

 Tư liệu lao động: là vật thế hay phức hợp vật thể mà con người đặt dưới mình với
đối tượng lao động. Tư liệu lao động gồm 2 bộ phận: công cụ lao động và tư liệu lao
động.

+ Công cụ lao động là vật nối trung gian giữa con người với tư liệu lao động. Theo
Ănghen “Công cụ lao động là khí quan của bộ óc con người, là tri thức được vật thể
hóa có tác dụng nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ con người”.

+ Phương tiện lao động (xe, nhà kho,…)

=> Trong các yếu tố này không thể thiếu người lao động, người lao động là nhân tố
chủ quan hàng đầu của LLSX. Hơn thế nữa, lao động của con người ngày càng trở
thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ.

Khi con người tiến hành lao động SX thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng
nhất, động nhất và cách mạng nhất. Tóm lại, trình độ của công cụ lao động là thước đo
trình độ chinh phục tự nhiên của con người.

+ Khoa học công nghệ:

Vài trò của Khoa học công nghệ theo quan điểm của Mác-Lênin:

+ Nnâng cao trình độ con người

+ Nâng cao công cụ lao động

+ Kết hợp người lao động với công cụ lao động, tạo nên năng suất lao động cao và đây
là cái đích cuối cùng của Khoa học

2. Quan hệ sản xuất:

* Khái niệm: là biệu hiện sự quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.

- Quan hệ sản xuất về lĩnh vực đời sống vật chất xã hội do đó mang tính khách quan.

- Mỗi loại QHSX đặc trưng cho 1 hình thái kinh tế - xã hội.

* Kết cấu quan hệ sản xuất:

- Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu tư liệu sản xuất.

- Quan hệ giữa người với người đối với việc tố chức quản lý.

- Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
=> 3 mặt của QHSX có quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, trong đó quan hệ sở
hữu đối với TLSX là quan trọng nhất. Nó quyết định và chi phối tới tất cả các quan hệ
khác. Mác nói “ Trong mối quan hệ này thì QHSX là quan trọng nhất nhưng quan hệ
sở hữu này không đơn giản mà có được”.

3. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX:

- Tính chất của LLSX: là tính chất của LLSX và của người lao động. Nền sản xuất đó
thủ công cá thể hoặc bằng máy móc tập thể, thể hiện là sự đòi hỏi phân công lao động
trong nền sản xuất

- Trình độ của LLSX: được biểu hiện ở trình độ công cụ lao động cộng với trình độ
tổ chức lao động xã hội + trình độ ứng dụng khoa học và công nghệ + kinh nghiệm, kỹ
năng lao động của con người + trình độ phân công lao động

* QHSX được hình thành và biến đổi dưới ảnh hưởng quyết định của LLSX:

LLSX

LLSX

QHSX

PTSX QHSX

- LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất nhưng trong đó LLSX là mặt
động thường xuyên biến đổi, còn QHSX mang tình bảo thủ, trì trệ hơn, thê hiện con
người luôn cải tiến công cụ để giảm nhẹ lao động, thời gian lao động, tạo nên năng
suất lao động hiệu quả cao. Vì vậy công cụ lao động là yếu tố động nhất trong LLSX
cho nên công cụ lao động thay đổi dẫn hến QHSX thay đổi theo và thể hiện SX ngày
càng mang tình chất xã hội cao.

- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX giống như mối quan hệ giữa nội dung và hình
thức. Nội dung là cái quy định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng thay
đổi theo.

- Tính chất và trình độ của LLSX là quyết định đối với sự phát triển của QHSX. Trong
lực lượng SX có nhiều yếu tố khác nhưng quyết định nhất đối với việc hình thành và
phát triển mối quan hệ sản xuất là do tính chất và trình độ của LLSX quyết định quan
hệ chặt chẽ như thế nào giữa người lao động với người lao động chứ không phải do
phương pháp của đối tượng lao động hoặc tư liệu lao động. Điều này được Mác chứng
minh, Mác nói “ Trong phương thức sản xuất kiếm sống của mình mà con người làm
thay đổi các quan hệ xã hội của mình, các cối xay quay bằng tay đem lại xã hội có lãnh
chúa phong kiến, cái cối xay chạy bằng hơi nước đem lại xã hội có nhà TBCN”.

- Trong các hình thức kinh tế không phải lúc nào LLSX cũng quyết định được quan hệ
sản xuất. Cho nên mâu thuẫn được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp.

* Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX:

- LLSX phát triển được là nhờ nhiều yếu tố quyết định như dân số, hoàn cảnh địa lý,
trình độ phát triển của khoa học, còn QHSX chỉ giữ vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của LLSX.

- QHSX là sự phản ánh LLSX như chính nó lại quy định mục đích của SX, khuynh
hướng phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất và tinh thần, quyết định hệ thống
quản lý sản xuất và quản lý xã hội. Bởi vậy nói QHSX phù hợp với tính chất và trình
độ của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Còn nếu QHSX
không phù hợp với tính chất và trình độ lao động thì nó sẽ cản trở LLSX.

=> Giải quyết mâu thuẫn giữa QHSX và LLSX không phải đơn giản mà phải thông
qua hoạt động có ý thức của con người.

- Sự tác động của QHSX đối với LLSX: chỉ khi xem xét QHSX trong một tình huống
đầy đủ với 3 mặt của nó, đồng thời chịu sự chi phối của các yếu tố chung:

+ Các quy luật kinh tế cơ bản.

+ Phụ thuộc vào trình độ của người lao động.

+ Tùy thuộc vào sự phát triển của khoa học, công nghệ.

- Trong xã hội các đối kháng giai cấp thì khi LLSX phát triển tới mức QHSX cản trở
sự phát triển của nó thì CMXH là bước cuối cùng để thay đổi QHSX hiện có.

Như vậy, ta có thể khẳng định:

- Quy luật về sự phù hợp của QHSX và tính chất, trình đồ của LLSX là quy luật chung
cho toàn xã hội loài người, chính sự tác động của quy luật này làm cho xã hội loài
người phát triển từ hình thái kinh tế XH này sang hình thái kinh tế XH khác cao hơn.

- Quy luật này là cơ sở để chống lại các quan điểm duy tâm tôn giáo về sự phát triển
của lịch sử.

- Quy luật này là cơ sở lý luận cho việc hoạch định các đượng lối của Đảng, phê phán
các chủ trương sai lầm trong việc xây dựng phương pháp sản xuất mới.

- Đây là quy luật khách quan, tất yếu đối với 5 hình thái kinh tế, xã hội và lịch sử của
nhân loại: HTKT - XH nguyên thủy  HTKH - XH nô lệ  HTKT - XH phong kiến
 HTKT - XH TBCN  HTKT - XH CSCN
* Liên hệ thực tiễn:

Nước ta từ 1 nước nông nghiệp lạc hậu (tư tưởng trọng nông khinh thương,
LLSX chưa phát triển cao, khoa học - kỹ thuật chưa phát triển, ảnh hưởng chiến tranh)
bắt đầu đi lên XHCN, bỏ qua TBCN (1975). Đến 1986, bắt đầu Đổi mới (Đại hội VI),
thay thế nền kinh tế 2 thành phần sang nền kinh tế nhiều thành phần.

+ Thành phần KT Nhà nước (Nhà nước giữ vai trò chủ đạo): công cụ, lực lượng vật
chất quan trọng để nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc
đẩy phát triển kinh tế-xã hội, khắc phục khuyết tật cơ chế thị trường.

+ Thành phần KT tập thể (hợp tác xã): tổ hợp tác có phạm vi hoạt động lớn, với vai trò
cung cấp dịch vụ cho các thành viên, liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, tăng
cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.

+ Thành phần KT tư nhân (gồm KT cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước):
được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành nghề, lĩnh vực pháp luật không cấm,
được hỗ trợ phát triển thành công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, sức cạnh tranh
cao.

+ Thành phần KT có vốn đầu tư nước ngoài: bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân,
có vai trò lớn trong hoạt động vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại,
mở rộng thị trường xuất khẩu…

b) Đảng và Nhà nước ta vận dụng quy luật này như thế nào ở nước ta giai đoạn
hiện nay?

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng chủ trương giải phóng mạnh mẽ hơn nữa
LLSX, phát huy nguồn lực toàn XH, mọi công dân, mọi vùng, mọi ngành kinh tế,phát
triển, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát triển con người, nâng
cao chất lương nguồn lực, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, đẩy
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển và ứng dụng kinh tế tri thức, định
hướng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.

You might also like