Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 31

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN


CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Mã học phần: 211IVNC320905

ĐỀ TÀI: TÌM HIỂU VĂN HÓA ẨM THỰC MIỀN


TÂY NAM BỘ

Nhóm sinh viên thực hiện:


1. Trần Thị Thanh Uyên 20158137
2. Nguyễn Văn Thích 20158122
3. Phùng Khắc Khoan 20158087
4. Đặng Đức Đạt 20161176
5. Huỳnh Chấn Phát 20158042
GVHD: TS.GVC Đỗ Thùy Trang

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

ĐIỂM (BẰNG SỐ):.................

BẰNG CHỮ:...........................

CHỮ KÝ GV:..........................

2
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................4
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................................. 5
3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................................5
5. Bố cục tiểu luận..........................................................................................................5
B. NỘI DUNG................................................................................................................... 6
Chương 1. Cơ sở lý luận chung......................................................................................6
1.1 Văn hóa ẩm thực và đặc điểm văn hóa ẩm thực Việt Nam....................................6
1.2 Tổng quan về khu vực Tây Nam Bộ (vùng Đồng bằng Sông Cửu Long)..............6
Chương 2. Tìm hiểu văn hóa ẩm thực vùng Tây Nam Bộ.............................................13
2.1 Nguyên liệu ẩm thực............................................................................................13
2.2 Khẩu vị và phong cách........................................................................................13
2.3 Cách thức chế biến..............................................................................................17
2.4 Một số món ăn tiêu biểu của vùng Tây Nam Bộ..................................................17
2.5 Giá trị của văn hóa ẩm thực vùng Tây Nam Bộ...................................................24
C. KẾT LUẬN................................................................................................................. 28
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................29

3
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa ẩm thực là văn hóa phi vật thể được thể hiện qua cách ăn, kiểu ăn của từng
dân tộc, từng địa phương. Qua đó ta có thể biết được trình độ văn hóa, lối sống, tính cách
của địa phương hay của dân tộc đó và với mỗi khu vực, mỗi quốc gia đều có những nét
đặc trưng riêng trong văn hóa ẩm thực của mình.

“Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Văn hóa ẩm thực bao gồm
cả cách chế biến, bày biện và thưởng thức từng món ăn, thức uống, từ đơn giản, đạm bạc
đến cầu kỳ mỹ vị.” (Nguyễn Hữu Hiệp 2004).

Không chỉ đối với VN ta nói chung hay chính nét văn hóa ẩm thực của miền đồng
bằng song Cửu Long - miền Tây Nam Bộ nói riêng; môi trường tự nhiên chính là một
trong những yết tố góp phần không nhỏ vào việc tạo nên những đặc trưng ấy. Với hệ
thống kênh rạch và song ngòi chằng chịt đã tạo cho vùng đất miền Tây Nam Bộ trở thành
một vùng đa sinh thái rất giàu thủy hải sản: cá, tôm, cua, rùa, rắn, nghêu, sò, ốc, hến,
lươn,... và cộng thêm những nguyên liệu thực phẩm phong phú đến từ các loại gia súc-gia
cầm cùng những loại cây rau củ quả thơm ngon đặc trưng của miền đồng bằng châu thổ.
Từ các nguồn nguyên liệu tự nhiên và trù phú này, người Tây Nam Bộ đã chế biến ra các
món ăn khác nhau. Qua dòng thời gian, con người càng ngày càng phát kiến thêm nhiều
cách kết hợp món ăn khác nhau đã làm cho kho tàng văn hóa ẩm thực của dân tộc không
ngừng phát triển, đa dạng và sáng tạo lên.

Bởi thế nên đề tài tìm hiểu ẩm thực vùng Tây Nam Bộ là một đề tài hết sức rộng lớn
và phong phú, giúp chúng tôi tăng khả năng hiểu biết về văn hóa ẩm thực vùng miền nói
riêng và Việt Nam nói chung, bên cạnh đó còn nêu lên phần nào tập tục, lối sống của
người dân Tây Nam Bộ qua ẩm thực. Vì những lý do đó, chúng tôi quyết định chọn đề
tài: “Tìm hiểu ẩm thực vùng Tây Nam Bộ”.

4
2. Lịch sử vấn đề
Với đặc trưng sông nước và thiên nhiên trù phú, ẩm thực miền Nam có phong cách
đơn giản, mộc mạc, phóng khoáng với các món ăn dân dã của miền sông nước như các
món gỏi, nhiều loại mắm cá nổi tiếng và các món lẩu trứ danh,…đã góp một phần không
nhỏ vào sự đa dạng, tinh tế nét ẩm thực nước nhà.

Chính vì thế mà đề tài nghiên cứu về văn hóa ẩm thực của người Việt ở miền Tây
Nam Bộ sẽ giúp hiểu thêm về tính độc đáo và sắc thái của văn hóa miền Tây Nam bộ nói
riêng và VN nói chung.

3. Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp nghiên cứu: đề tài chủ yếu dùng phương pháp phân tích, tổng hợp và
so sánh để nghiên cứu cũng như để đánh giá và tổng hợp.

Nguồn tư liệu: Nghiên cứu các tài liệu của các tác giả trong nước đã công bố về văn
hóa Nam Bộ - Tây Nam Bộ và các nguồn có liên quan như các tạp chí, những bài viết,
nhiều diễn đàng,… trên Internet.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa ẩm thực
Phạm vi nghiên cứu:
o Không gian: Tây Nam Bộ
o Thời gian: hiện nay
o Chủ thể: người Việt Nam

5. Bố cục tiểu luận


Chương 1. Cơ sở lý luận chung
Chương 2. Tìm hiểu văn hóa ẩm thực vùng Tây Nam Bộ
Chương 3. Kết luận

5
B. NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận chung
1.1 Văn hóa ẩm thực và đặc điểm văn hóa ẩm thực Việt Nam
Văn hóa ẩm thực nói chung, đặc biệt là ẩm thực Việt Nam là một nét văn hóa tự
nhiên hình thành từ cuộc sống, được nhiều người biết đến với các đặc trưng như: tính đa
dạng, ít chất béo, hương vị phong phú và sự kết hợp giữa các nguyên liệu và các gia vị
khác nhau là điều kiện tăng hương vị lẫn sự hấp dẫn của từng món ăn. Đối với nhiều
quốc gia và dân tộc, ẩm thực không chỉ là văn hóa vật chất mà còn là văn hóa tinh thần,
nó là ngôn ngữ chung về ẩm thực. Văn hóa ẩm thực bao gồm cách chế biến, bày biện và
thức ăn từng món, thức uống, từ đơn giản thanh đạm đến tinh tế. Đây là cái chung nhất,
khi nói đến văn hóa ẩm thực của một vùng, miền nào dó thì phải nói đến “đặc điểm tình
hình” mới giải thích hết được các nét đặc trưng của vùng miền đó, nhất là đối với Việt
Nam.

Tuy nằm trong vùng nhiệt đới nhưng lại phân bố thành 3 vùng khí hậu riêng biệt
với: miền Bắc và Bắc Trung Bộ mang khí hậu cận nhiệt đới ẩm. Miền Bắc gồm 4 mùa:
Xuân Hạ Thu và Đông. Miền Trung và Nam Trung bộ lại mang khí hậu nhiệt đới gió
mùa, miền cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ mang đặc điểm nhiệt đới xavan. Điều này góp
phần không nhỏ cho sự đa dạng của nền ẩm thực Việt Nam ta, bởi mỗi miền có một nét,
khẩu vị đặc trưng riêng.

1.2 Tổng quan về khu vực Tây Nam Bộ (vùng Đồng bằng Sông Cửu Long)
1.2.1 Vị trí địa lý – điều kiện tự nhiên
 Là một trong hai phần của Nam Bộ.
 Theo cách gọi của người dân miền Nam Việt Nam ngắn gọn là Miền Tây, có 12
tỉnh là: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc
Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau và một thành
phố trực thuộc trung ương là Cần Thơ.

6
 Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít nhiều chịu ảnh hưởng của khí hậu
xích đạo, nhiệt độ cao đều trong năm. Khí hậu ở đây chia thành hai mùa rõ rệt
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10.
 Là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông với diện tích 39.734km². Có vị trí
nằm liền kề với vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam
là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông. Vùng đồng bằng sông Cửu
Long của Việt Nam được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua
những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình
thành những giồng cát dọc theo bờ biển.
 Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa
phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển và đất
phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác
Long Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Đây là vùng có
khí hậu cận xích đạo vùng nên thuận lợi phát triển ngành nông nghiệp (mưa
nhiều, nắng nóng) đặc biệt là phát triển trồng lúa nước và cây lương thực.
 Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp,
Sóc Trăng, Tiền Giang. Diện tích và sản lượng thu hoạch chiếm hơn 50% so với
cả nước. Bình quân lương thực đầu người gấp 3 lần so với lương thực trung
bình cả nước. là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước.
 Ngoài ra vùng này còn trồng mía, rau đậu, xoài, dừa, sầu riêng, cam, bưởi
...Nghề chăn nuôi cũng khá phát triển như trâu, bò, vịt.... Trâu chỉ được dùng
nhiều cho cày cấy, bò dùng để lấy thịt. Vịt được nuôi nhiều nhất Bạc Liêu, Cà
Mau, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng. Gia súc nuôi ở đây không được nhiều và
cũng là tỉnh có bình quân nuôi thấp nhất cả nước.
 Do có bờ biển dài và có sông Mê Kông chia thành nhiều nhánh sông, thêm việc
khí hậu thuận lợi cho sinh vật dưới nước, kênh rạch chặt chịt, nhiều sông ngòi,
lũ đem lại nguồn thủy sản và thức ăn cho cá, có nhiều nước ngọt và nước lợ nên

7
thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, sản lượng thủy sản chiếm
50% nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, An Giang.
 Nghề nuôi trồng tôm cá xuất khẩu đang phát triển mạnh. Tôm cá tập trung rất
gần bờ và dễ nuôi nên đánh bắt rất thuận tiện nghề trồng rừng cũng giữ vai trò
quan trọng, đặc biệt trồng rừng ngập mặn ven biển Cà Mau, đảo Phú Quốc,
quần đảo Thổ Chu, hòn Khoai. Vì đây là nghề giữ vai trò trong việc bảo vệ môi
trường, sinh học, các loài sinh vật và môi trường sinh thái đa dạng.

1.2.2 Lịch sử hình thành vùng Tây Nam Bộ


Nếu như miền Bắc nước ta có nền văn hóa Đông Sơn, đến văn hóa Sa Huỳnh,
Chămpa ở Nam Trung Bộ. Thì vùng đất Tây Nam Bộ (đồng bằng châu thổ sông Cửu
Long) đã hình thành và phát triển nền văn hóa Óc Eo tạo dựng nền tảng cho sự ra đời của
Vương quốc Phù Nam (thuộc Huyện Thoại Sơn – Tỉnh An Giang ngày nay) Và rồi sau
những biến thiên của lịch sử, các nền văn hóa đó đã tích hợp vào dòng chảy chung và
thống nhất của văn hóa dân tộc Việt Nam. Trong đó riêng nền văn hóa, văn minh Vương
quốc Phù Nam cho thấy sự phát triển đáng kinh ngạc, đỉnh cao rực rỡ trên nhiều lĩnh vực
xã hội ngay từ thế kỷ I đến thế kỷ VII vương quốc hùng mạnh và lụi tàn từ biển.

8
Hình 1. Khu Di tích quốc gia đặc biệt Óc Eo
Giai đoạn 1679: Chúa Nguyễn Phúc Tần muốn khai khẩn đất Chân Lạp nên cho các
quan nhà Minh vào ở đất Đông Phố (Gia Định). Họ chia nhau đất thuộc Tiền Giang, cùng
khai mở vùng đất mới, lập ra phố phường đông đúc.

Giai đoạn 1735 - 1739: Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán
đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn
Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong. Đến năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm
vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang dựng dinh Long Hồ trực thuộc phủ
Gia Định.

Giai đoạn 1753: Biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài
Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư
Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1755 Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy
sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Tân
An và Gò Công) cho chúa Nguyễn để cầu hòa. Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là
Nặc Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc (Sóc Trăng) xin chúa Nguyễn Phúc Khoát

9
phong cho làm vua Chân Lạp. Sau đó Nặc Nhuận bị người con rể là Nặc Hinh giết và
cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa
Nguyễn cho lập Nặc Tôn  con Nặc Nhuận vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên
trong lúc hoạn nạn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm
giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc) để tạ ơn chúa Nguyễn.
Đất miền nam Việt Nam bây giờ thì trước đó là đất của Chân Lạp, tuy nhiên Chân Lạp lại
là kẻ chiếm đất của Phù Nam đã từng tồn tại từ khoảng thế kỷ 1-7 tại đồng bằng sông
Mekong.

1.2.3 Một số đặc trưng văn hóa vùng Tây Nam Bộ


Văn hóa Miền Tây Nam Bộ được tạo nên từ sự bình dị, mộc mạc của những con
người hiền lành, chân chất. Những nét đặc trưng trong văn hóa miền Tây đã khiến nơi
đây trở nên thu hút và làm xiêu lòng du khách thập phương với phong cảnh sông nước trữ
tình, thơ mộng. Ví dụ như:

 Về Trang phục: Ở Việt Nam, thì mỗi vùng miền đều có những trang phục riêng
mang đậm nét đặc trưng vùng miền đó, Tây Nam Bộ cũng không ngoại lệ. Miền
Tây Nam Bộ nổi tiếng với hình ảnh người dân bình dị, hiếu khách, và gắn liền
với nét mộc mạc đó là trang phục áo bà ba.

10
Hình 2. Trang phục áo bà ba
Chiếc áo bà ba đơn sơ, mộc mạc, thoải mái là loại áo may dưới dạng cổ tim hoặc cổ
tròn. Thân áo là sự biến đổi của áo tứ thân miền Bắc nhưng độ dài của áo thì ngắn đến
hông. Phía trước áo được thợ may xẻ ra hai tà và may thêm hai túi nhỏ đối với nữ và hai
túi to phía trước đối với nam giới. Áo bà ba thường đi kèm với chiếc quần đen dài đến cổ
chân, khăn rằn trắng đen và nón lá. Ngày nay, khi Việt Nam đang dần phát triển và tiếp
nhận nhiều nền văn hóa từ Phương Tây, do đó trở nên hiện đại hơn, thì chiếc áo bà ba
truyền thống không còn được may mặc nhiều so với thời xưa nữa. Nhưng thay vào đó là
những chiếc áo bà ba được cải tiến, sáng tạo ở cánh tay, cổ áo, cổ tay,… thay đổi về chất
liệu màu sắc, nhưng vẫn giữ được nét đặc trưng của văn hóa miền Tây Nam Bộ.

 Về văn hóa – tín ngưỡng: Miền Tây là nơi hội tụ, giao thoa của nhiều nền văn
hóa nhất ở Việt Nam. Trong đó đặc trưng nhất là nền văn hóa của ba dân tộc
Kinh – Chăm – Khmer. Minh chứng của sự giao lưu văn hóa này được thể hiện
rõ ở những đền miếu, ngôi chùa lâu đời như: chùa Dơi ở Sóc Trăng, chùa Vàm
Ray, chùa Âng ở Trà Vinh…

11
Hình 3. Chùa Dơi Sóc Trăng

Hình 4. Chùa Âng ở Trà Vinh


 Ngoài ra không thể không nhắc đến hình ảnh “chợ nổi” trứ danh của miền đồng
bằng sông nước. Vùng Tây Nam Bộ có hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng
chịt, cuộc sống của người dân gắn liền với hình ảnh sông nước. Vì thế mà
phương tiện đi lại chính của họ là ghe, xuồng, tàu, thuyền. Người dân đã dùng
các phương tiện trên nước này phục vụ cho hoạt động trao đổi buôn bán thương

12
mại của mình. Cho đến ngày nay thì các hoạt động mua bán trên ghe xuồng đó
vẫn được lưu giữ và đã trở thành một nét văn hóa không thể thiếu của Tây Nam
Bộ. Một số khu chợ nổi tiếng ở miền Tây bao gồm: chợ nổi Cái Răng, chợ nổi
Ngã Bảy (Cần Thơ), chợ nổi Cái Bè (Tiền Giang), chợ nổi ngã năm (Sóc
Trăng).

Hình 5. Chợ nổi


 Về nền ẩm thực: Với những đặc điểm về tự nhiên đa dạng góp phần quan trọng
trong việc đem lại nguồn nguyên liệu phong phú cho ẩm thực miền Tây Nam
Bộ. Chính vì điều kiện khí hậu nơi đây nên người Tây Nam Bộ mới có câu “Ăn
theo thuở, ở theo thời” hay nói cách khác người địa phương tận dụng nguyên
liệu theo từng mùa. Mỗi mùa nước nổi cũng là mùa cá linh, mùa đông bông
điên điển, thiên lí, bông súng, sầu đông… Còn đến mùa gặt, người dân lại có cơ
hội thưởng thức nhiều món ngon từ cá lóc, cua đồng, rau đắng…
 Người Tây Nam Bộ cởi mở tính thiết thực công khai nói lên rằng: “Có thực mới
vực được đạo”. Nó quan trọng tới mức Trời cũng không dám xâm phạm: “Trời
đánh tránh bữa ăn”. Mọi hoạt đông của của người Việt Nam nói chung và Tây
Nam Bộ nói riêng đều lấy ăn làm đầu: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn
học, ăn tiêu, ăn ngủ, ăn cắp, ăn trộm… Ngay cả khi tính thời gian đều lấy ăn

13
uống và cấy trồng làm đơn vị, làm nhanh thì khoảng giập bã trầu, lâu hơn một
chút là chín nồi cơm, còn kéo dài tới hàng năm thì hai mùa lúa, mọi giá trị
(lương, thuế, học phí…) đều quy ra gạo. Ăn uống văn hóa, chính xác hơn, đó là
văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên. Cho nên, sẽ không có gì ngạc nhiên khi
cư dân nền gốc du mục (như phương Tây hoặc bắc Trung Hoa) lại thiên về ăn
thịt, còn trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam thì lại bộc lộ rất rõ dấu ấn của
truyền thống văn hóa nông nghiệp lúa nước: cơ cấu bữa ăn, nguyên liệu làm ra
món ăn, món ăn chín.

Chương 2. Tìm hiểu văn hóa ẩm thực vùng Tây Nam Bộ


2.1 Nguyên liệu ẩm thực
Môi trường tự nhiên ở Tây Nam Bộ tương đối yên tĩnh, rừng bạt ngàn chứ lượng
ngũ cốc dồi dào, dễ khai thác. Đó là cá đồng, cá sông nước ngọt, tôm cá ven biển, chim,
ong, thú rừng và bò sát; nhiều loài thực vật có thể sử dụng thức ăn và cũng có thể thay thể
thức ăn khi cần thiết. Điều kiện sản xuất và khai thác vô cùng dễ dàng như câu nói “Làm
chơi ăn thiệt.”

Miền tây sông nước được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho nguồn thủy hải
sản phong phú. Có đầy đủ các loại trái cây, rau củ nổi danh. Vì thế, các món ăn của
người dân nơi đây chế biến đều sử dụng nguyên liệu bắt nguồn hoàn toàn tự nhiên và
được đánh bắt tại chỗ.

Đặc trưng không thể không kể đến của Tây Nam Bộ chính là mùa nào thức nấy.
Vào mùa nước cạn, khách du lịch tới đây sẽ được thưởng thức các món ăn đặc sản chế
biến từ lươn, cá chạch, cá lóc. Vào mùa nước nổi, khách du lịch sẽ được nếm thử các
món ăn như lẩu cá linh bông điên điển, cá kho tộ,…

2.2 Khẩu vị và phong cách


a) Phong cách

So với lịch sử đất nước, miền Tây Nam Bộ là một vùng đất hoàn toàn mới. Trong
quá trình khai mở vùng đất, người dân Tây Nam Bộ đã phát triển cho mình một khẩu vị

14
riêng căn cứ vào tính cách người dân hay sản vật địa phương, và cũng dựa trên sự thích
nghi mới môi trường mới. Ngoài ra, còn có cộng đồng ba dân tộc Việt – Hoa – Khmer và
một số người Chăm ở miền Tây Nam Bộ. Sự chung sống giao lưu văn hóa của cộng đồng
dân tộc này kết hợp với điều kiện lao động trong môi trường tự nhiên mở cửa hình thành
nên gu ăn uống độc đáo của người dân miền Tây Nam Bộ.

Trước hết, trở lại miền Tây Nam Bộ, ta nhận thấy rằng người miền Tây khá tự do,
thoải mái và cũng hơi dễ dàng, xuề xòa trong giao tiếp và sinh hoạt, điều này ảnh hướng
đến phong cách ăn uống của họ.

Khi đặt chân đến miền Tây Nam Bộ, dù lỡ bữa, bạn cũng sẽ được bạn bè, người
quen mời đi ăn cơm. Đây là lời mời chân thành vì sau khi mời, họ sẽ sai cháu mang bát
đĩa, kê thêm ghế hoặc dọn chỗ cho khách. Có thể trong cơm không còn bao nhiêu, có thể
thức ăn trên đĩa gần hết nhưng họ cũng cố gắng ép chúng ta ăn cho vui. Khi đã vào mâm,
chủ nhà có thể nấu thêm cơm, làm thêm thức ăn và lấy ra một chai rượu cho chủ nhà “lai
rai”. Ở miền quê Tây Nam Bộ không phải ai cũng có thể mua được một bữa ăn tươm tất
có thịt có cá mà trong nhà không có gi để thưởng thức. Đôi khi chỉ là khô, nước mắm, bát
canh chua… Đối vối chủ nhà là đủ ấm, cái gọi là “lai rai” có thể kéo dài mấy tiếng
đồnnng hồ. Chúng ta cũng sẽ bắt gặp giữa buổi tiệc nhậu nhẹ nhàng có người đi ngang
qua và được chủ nhà gọi vào.

Mặc dù tục ngữ có câu “Ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, nhưng người Tây Nam bộ có
thói quen ăn lớn miếng, “gắp đũa nằm”. Thành ngữ “Ăn to nói lớn” thường được hiểu để
ám chỉ những người giàu có hoặc có chức, có quyền, nhưng cũng có thể hiểu đó là cách
ăn của những người lao động: Phải ăn lớn miếng cho nhanh để còn đi làm việc, phải nói
lớn tiếng để người cùng làm ở xa nghe thấy (thường trong điều kiện cấy gặt hay lao động
trong rừng). Đồng thời thịt cá không thiếu (chủ yếu là cá) thì cũng không tội lệ gì mà dè
sẽn, lâu dần thành thói quen.

Trong một thời gian tương đối dài từ thời mở đất cách nay hơn 300 năm cho đến
giữa thế kỷ 20, những người tiên phong trong công cuộc khai mở vùng đất Hậu Giang và

15
người nông dân sau này thường phải lao động một mình hoặc ít người trong rừng, trong
đồng xa thường phải ăn tại nơi lao động, ăn khi đói chứ không chờ đúng bữa, nướng cá
ăn trên bờ đìa, ăn cơm trên bờ ruộng, trên gò đất trong rừng, trên mũi ghe, xuồng lâu dần
thành thói quen nên người Tây Nam bộ ít chú ý đến việc chuẩn bị chỗ ngồi ăn cho đàng
hoàng, tươm tất, kể cả khi có tiệc tùng. Bữa ăn trong nhà có thể dọn trên bộ ngựa, trên bộ
vạt tre, trên bàn và cả trải chiếu, đệm trên mặt đất trong nhà, ngoài sân đều được, miễn là
cơm cá phải đủ đầy. Thêm nữa, người Tây Nam bộ cũng có thói quen ăn bốc với một số
món như khi ăn mắm sống, ăn ba khía muối, thịt gà luộc, xôi, cơm nếp. .

Có lẽ do không có điều kiện chế biến thức ăn một cách bài bản, cầu kỳ khi đang lao
động trong rừng, trên ruộng hay lênh đênh trên mặt nước mà người xưa hay dùng phương
pháp nướng như cá lóc nướng trui, ốp bẹ chuối nướng, rùa rắn nướng lèo, gà vịt ốp đất
sét nướng. . . và họ phát hiện ra rằng nướng như thế còn ngon hơn khi được chế biến cẩn
thận ở nhà. Việc luộc cũng thế, thịt cá khi luộc chỉ với nước thì không được hấp dẫn,
nhưng do không thể tìm gia vị đầy đủ, họ phải cho vào nồi nước luộc bất cứ thứ gì có sẵn
xung quanh nhà hay trong rừng, do đó mà có những món như thịt trâu luộc sả, thịt trâu
kho bầu, cá lóc luộc hèm. . . Thật tình mà nói, những cách chế biến đơn giản ấy vừa có
phong vị riêng lại ngon miệng hơn đối với người lớn tuổi nên ngày nay, hầu hết những
cách chế biến dân dã ấy đã đi vào nhà hàng sang trọng và được coi là “đặc sản” của Miền
Tây.

Người Tây Nam bộ cũng không chấp nhặt lễ nghi trên mâm cơm. Khi đã dọn cơm
ra, mọi người trong gia đình hay khách khứa đã đầy đủ, người chủ nhà, người lớn nhất ra
hiệu cầm đủa là mọi người cứ tự do ăn chứ không phải mời mọc từ trên xuống. Dĩ nhiên
trong bữa ăn tôn ti, trật tự cũng được tôn trọng, món ngon phải nhường cho người lớn
tuổi, con cháu không được “cụng ly” ngang hàng với người lớn. . .

Không phải người dân Miền Tây không biết chế biến món ăn cầu kỳ, ngon miệng
như những vùng miền khác. Trong quá trình giao thoa văn hóa, những món ăn “Tàu” cao
cấp cũng được người Miền Tây tiếp nhận và chế biến không thua gì “Tàu chính hiệu”,
nhưng họ chỉ trổ tài khéo léo khi có đám tiệc. Chứng kiến việc chuẩn bị cho một đám
16
cưới, chúng ta sẽ thấy các bà, các cô ra tay “làm khéo” dưới sự chỉ huy của người “Tổng
phậu” chế biến các món ăn cầu kỳ và ngon miệng mà khó có một thực khách nào chê
được.

Về phong cách uống, người Miền Tây xưa thường uống rượu đế. Trên một “sòng
nhậu”, chúng ta có thể thấy chỉ có một cái ly “xây chừng” (loại ly thủy tinh uống trà hơi
nhỏ, giữa ly có ngấn mà người xưa hay gọi vui là “Chệt đẻo”) uống xoay vòng chứ không
phải mỗi người một ly riêng như ngoài phố chợ hiện nay. Một ly rượu được rót ra, người
uống trước phải uống đến mức “Chệt đẻo” rồi chuyền sang cho người kế tiếp gọi là uống
xoay vòng. Nếu muốn mời riêng ai đó thì phải xin phép “chủ xị”, và ly đó không được
tính theo vòng bởi “đá bổng là đá bỏ”. Việc uống chung bằng một cái ly này có thể xuất
phát từ việc người đi lao động trong rừng, trên ruộng, người ta chỉ mang theo chai rượu
và chỉ có một cái ly. Khi có bạn thì cũng không kiếm đâu ra cái ly khác được, đành phải
uống chung, lâu dần thành thói quen. Cũng có khi là trong nông thôn, nhà không có nhiều
ly đủ cho mọi người trên bàn nhậu nên phải uống xoay vòng vậy. Trong nông thôn Miền
Tây xưa còn có việc “uống kình”, thách đố nhau xem tửu lượng ai mạnh hơn. Lúc đó
người ta có thể uống bằng chén (bát-chén ăn cơm, không phải ly nhỏ), bằng ly cối, bằng
tô. . . Họ cho rằng đàn ông, con trai phải có tửu lượng cao mới đáng mặt anh hào, do đó,
trừ những người thể chất không uống được rượu, còn hầu hết các đấng nam nhi đều có
uống rượu, thậm chí uống hơi nhiều. Gặp bạn mà không có rượu là sự thiếu sót đáng
trách. Đám tiệc uống, vui uống, buồn cũng uống, cũng có người uống theo bữa cơm,
uống rượu ghiền.

b) Khẩu vị

“Do khí hậu nắng nóng và đô ̣ ẩm cao, khiến cho cơ thể mê ̣t mỏi, không thoát được
mồ hôi, nên thèm ngọt để bổ sung năng lượng” (Quỳnh Như 2020). Đó là câu nói mà tác
giả bài báo Văn hóa ẩm thực dùng để lý giải cho việc hảo ngọt của người Tây Nam Bộ.
Chính vì thế mà đường trở thành gia vị không thể thiếu trong mỗi gian bếp của người dân
nơi đây. Nói cách khác, vị ngọt từ đường hay vị béo từ nước cốt dừa chính là khẩu vị đặc

17
trưng của người dân Tây Nam Bộ. Đây cũng là cái nơi cho ra đời các món chè ngon nổi
tiếng như: Chè bưởi, chè bà ba, chè đậu,….

Ngoài vị ngọt thanh đặc trưng, người Tây Nam Bộ cũng rất thích ăn cay để làm
giảm bớt mùi tanh của cá, lươn, ếch, rùa, rắn; ăn món mặn (các loại mắm, cá khô...);
thích ăn chua (canh chua, dưa chua...); ưa ăn chát (bắp chuối, chuối chát, trái bần, lá điều,
đọt vừng) và thích ăn đắng (khổ quả, rau đắng đất, mật cá lóc, mật cá kèo...)

2.3 Cách thức chế biến


Người dân nơi đây cho rằng chế biến và ăn tại chỗ các món ăn mới có thể tận hưởng
trọn vẹn hương vị dân dã của nguyên liệu. Qua thời gian, nét văn hóa này trở thành một
đặc trưng không thể thiếu trong ẩm thực Tây Nam Bộ.

Sự sáng tạo và linh hoạt trong cách nấu ăn của miền Tây Nam Bộ thể hiện rất rõ
trong cách nấu nướng hằng ngày. Một món ăn cũng có thể được làm từ các loại thực
phẩm khác nhau. Và các cách chế biến, gia vị cũng vô cùng đa dạng. Ví dụ như món cá
kho, cá thì có rất nhiều loại cá như cá rô kho, cá trê kho, cá sặc kho, cá lòng tong kho,..
Cách chế biến cũng rất ấn tượng và đơn giản, không phức tạp và cầu kỳ. Có nhiều cách
khác nhau để tạo thành món ăn. Điển hình cho sự kết hợp đó phải kể đến món lẩu mắm
Nam Bô ̣. Lẩu mắm không thể thiếu và những ngày mưa được xem là một món ăn ngon
đặc trưng của miền Nam. Nước lẩu mắm sánh màu nâu sẫm của mắm, mùi thơm phức
bởi sự kết hợp của mùi sả, tỏi ớt băm. Có thể nấu với cá linh, cá sặc,.. ăn cùng bông điên
điển, bông súng hoặc các loại rau xanh mướt trong vườn. Tạo nên sự dân dã đậm chất
miền Tây Nam Bộ.

2.4 Một số món ăn tiêu biểu của vùng Tây Nam Bộ


2.4.1 Vịt nấu chao
Đây là món ăn nổi tiếng của Cần Thơ với các nguyên liệu chính là vịt xiêm nhiều
thịt ít mỡ vô cùng dân dã và cách chế biến đơn giản đã tạo nên hương vị thơm ngon khó
cưỡng chiếm trọn tâm hồn các thực khách và dần trở nên phổ biến trong các bữa cơm
hàng ngày tại khắp các vùng miền.

18
Cách thức chế biến: Cho vịt vào bát ướp cùng tỏi, hành, ớt băm nhuyễn, đường, và
tất nhiên nguyên liệu không thể thiếu là nước chao cùng khoảng năm miếng chao đỏ trộn
đều và ướp. Sau đó tới công đoạn chiên khoai môn. Sử dụng chào sâu lòng hay nồi bắc
lên bếp với lửa vừa phải, phi hành thơm rồi cho vịt vào xào, đến khi vịt săn lại thì cho
khoai môn chiên cùng nước dừa đổ ngập vịt đun dưới lửa nhỏ đến khi thịt chín mềm. Thứ
không thể thiếu để ăn cùng vịt nấu chao đó là nước chấm. Nguyên liệu để làm nước chấm
gồm chao, chanh, ớt, đường, nước chấm chỉ cần nêm nếm vừa miệng là được.

Hình 6. Món vịt nấu chao

Thưởng thức: Món vịt nấu chao được ăn chung với bún tươi hay các loại rau như
rau muống, rau mồng tơi, rau mùi,…

Mùi vị đặc trưng: Với vị ngọt của thịt vịt, vị thơm của chao, vị bùi bùi béo ngậy của
khoai môn hòa quyện với chút cay cay của ớt đã làm cho món ăn này được nhiều người
yêu thích và phổ biến ở nhiều nơi.

19
2.4.2 Lẩu mắm

Một món ăn không thể không nhắc đến đó là lẩu mắm. Để nấu được một nồi lẩu
mắm ngon đúng nghĩa, người nấu phải sành sỏi về các loại mắm cũng như biết cách nêm
nếm đúng điệu.

Cách thức chế biến: Có thể nói phần chế biến mắm cá sao cho đậm vị nhất là một
khâu quan trọng trong quá trình chế biến. Điều này giúp kích thích vị giác của bất kì một
ai khi ngửi thấy mùi thơm đặc trưng của mắm cá. Nước dùng của lẩu mắm được chế biến
rất công phu. Đó là nước dùng của nhiều loại mắm trộn lại, lược thật kĩ để bỏ bớt xương
cá lẫn trong mắm. Khi nấu nước dùng phải ước lượng các lượng mắm vừa đủ, tránh cho
quá nhiều hay quá ít lượng nào đó, sẽ làm mất đi vị ngon của nồi lẩu. Để có một nồi nước
dùng hoàn hảo, phải đập sả cho vào nước dùng đã được hầm, sau đó cho mắm cá, cà tím,
thịt ba chỉ vào nồi. Cuối cùng là nêm nếm sao cho vừa miệng.

Hình 7. Lẩu mắm Cần Thơ

Thưởng thức: Ta bắc nước lẩu lên bếp, dọn những nguyên liệu ăn cùng lẩu mắm ra
rồi từ từ thưởng thức. Lẩu mắm thường được ăn kèm với các loại rau: rau muống, rau
cần, mồng tơi, mướp, cà tím, ngó sen, cải xanh, lục bình,… nhằm tăng thêm phần vị ngọt

20
tự nhiên và sắc màu cho món ăn. Đặc biệt hơn, vào mùa nước nổi còn có bông điên điển
giúp dậy mùi hơn bao giờ hết. Chúng ta còn có thể cho thêm vào nồi lẩu các loại hải sản
như tôm sú, thịt ba chỉ, mực xắt khoanh, ốc, chả cá,...

Mùi vị đặc trưng: Nếu ai đã một được thưởng thức, chắc chắn sẽ không dễ gì quên
cái hương vị đậm đà của mắm, vị ngọt tự nhiên của cá linh và thơm ngon của các loại rau
quả,vị ngọt của thịt heo và hải sản. Tất cả cùng hòa quyện tạo nên nét đặc trưng khó
cưỡng của nồi lẩu mắm miền Tây. Lẩu mắm luôn là sự lựa chọn hàng đầu cho người dân
miền Tây tiếp đãi thực khách phương xa. Không chỉ độc đáo ở mùi vị đặc trưng gây tò
mò mà nồi lẩu mắm còn tô điểm những gam màu dung dị của miền sông nước. Để những
người con xa quê lại phải vấn vương hương vị, nhớ mãi nồi lẩu mắm đậm đà của quê
hương.

2.4.3 Cá lóc nướng trui

Nếu đã đặt đến miền Tây Nam Bộ mà không thưởng thức món Cá lóc nướng trui thì
sẽ thật là đáng tiếc bởi đây được coi là đặc sản của miền sông nước. Miền Tây được thiên
nhiên ưu ái với vô vàn loài cá nước ngọt, đặc biệt nhất phải nhắc tới cá lóc. Hương vị của
cá lóc trở nên trọn vẹn hơn bao giờ hết chỉ có món cá lóc nướng trui. Một món ăn vô
cùng dân dã nhưng không kém phần hấp dẫn.

Cách thức chế biến: Đặc điểm của món cá lóc nướng trui dân dã là cá không cần sơ
chế, Cá lóc vừa bắt dưới sông lên, rửa sạch, được xiên bằng một que dài từ miệng đến
đuôi, sau vùi cá vào rơm khô rồi châm lửa đốt hoặc cắm que xuống đất, lấy rơm phủ lên
và đốt lửa cho đến khi tro tàn.

Cách thức thưởng thức: Sau khi cá chín, đặt lên tàu lá chuối, cạo bớt lớp vảy bị cháy
sẽ thấy phần thịt cá trắng và thơm. Có thể rưới lên1 lớp mỡ hành + đậu phộng nhằm tăng
hương vị. Thường cuốn ăn kèm với bánh tráng, rau ghém, chấm vào nước mắm chua cay
ngọt của miền Tây.

21
Hình 8. Nướng cá lóc bằng rơm

Mùi vị đặc trưng: Có vị thơm, vị ngọt béo của cá hoà quyện với các loại rau. Phần
quan trọng không thể thiếu là dùng rơm rạ nướng cá sẽ giúp cá thơm và không bị hôi
khói.

22
Hình 9. Cá lóc nướng trui

2.4.4 Gà nướng đất sét

Đây là món ăn dân dã đậm chất đồng quê ở vùng Tây Nam Bộ, đặc biệt là Đồng
Tháp.

Cách thức chế biến: Băm nhỏ sả nhồi vào bụng gà, sau đó trộn dẻo đất rồi bọc
quanh thân gà, đất bọc không nên mỏng làm gà dễ bị cháy, cũng không dày quá khiến
bên trong gà khó chín. Nhóm củi đốt rồi cho gà bọc đất vào đống củi nướng với lửa lớn
liên tục trong khoảng 2 tiếng, đến khi đất sét khô và tự nứt ra là được.

23
Hình 10. Nướng gà trong đất sét

Cách thức thưởng thức: Khi ăn đập, bóc lớp đất bọc gà đến đâu lông gà dính theo
tuột ra đến đấy. Thường được xé thịt bóp muối tiêu chanh, rau răm.

Hương vị đặc trưng: Gà nướng đất sét mang hồn của đất, đậm đà chất quê, tuy mộc
mạc tự nhiên nhưng toát lên sự hấp dẫn tự nhiên. Từng miếng thịt gà chắc ngọt trót nuốt
trôi rồi mà vẫn còn đọng vị thơm nơi đầu lưỡi. Thế mới biết vị của đất của hồn quê của
miền Tây Nam Bộ.

24
Hình 11. Gà nướng đất sét

2.5.5 Chuột đồng nướng xiên que

Đây là đặc sản nổi tiếng của người miền Tây, đặc biệt là khu vực An Giang. Món ăn
hút thực khách với vị thơm và béo ngậy.

Chuột được làm thịt sạch sẽ. Để hết mùi tanh bằng muối và gừng cùng các gia vị
khác. Thịt chuột đã ướp xong rồi xiên vào que rưới 1 ít mỡ nướng lên đến khi chín vàng
đều, vừa nướng vừa phết nước mỡ có tỏi phi.

Cách thức thưởng thức: Sau khi đã nướng thịt chuột vàng đều, rưới mỡ hành và đậu
phộng lên. Thường ăn kèm với dưa leo, chuối chát hoặc khế chua, cà chua cắt lát, thêm
chén muối tiêu chanh.

Mùi vị đặc trưng: Thịt chuột đồng nướng thơm phức, có vị ngọt, dai chắc như thịt
gà và đặc biệt là rất ít mỡ. Món thịt chuột nướng dường như đã trở thành “thương hiệu”
riêng của miền Tây. Những người sành ăn coi chuột nướng như món ăn ngon, bổ, rẻ, thứ
đặc sản mà không tìm được đâu khác ngoài vùng sông nước này.

25
Hình 12. Chuột đồng nướng

2.5 Giá trị của văn hóa ẩm thực vùng Tây Nam Bộ
2.5.1 Giá trị văn hóa

Thứ nhất, ẩm thực đậm đà bản sắc văn hóa đất phương Nam. Những điều kiện tự
nhiên mang tính đặc thù gắn với đời sống lao động, sản xuất của người dân nơi đây ngay
từ những ngày đầu đến khai phá vùng đất Tây Nam Bộ đã dần hình thành nên nhiều
phong tục tập quán, nét văn hóa ẩm thực mang đậm bản sắc văn hóa của cả vùng cũng
như từng địa phương trong khu vực.

Các nghệ nhân ẩm thực khi nói về ẩm thực phương Nam thường nhắc tới những từ:
đơn giản, đậm đà, đa dạng, mùa nào thức ấy. Dựa vào nguồn nguyên liệu có trong tự
nhiên, những món ăn Tây Nam Bộ được giới thiệu đến du khách phần lớn là những món
ăn gắn với cuộc sống đời thường của người dân với nguồn nguyên liệu thực vật, động vật
có sẵn trong tự nhiên. Những món ăn này mang đến sự hài lòng cho người thưởng thức,

26
nhất là những thực khách muốn từ ẩm thực để tìm hiểu về bản sắc văn hóa, đời sống sinh
hoạt, thói quen ăn uống của người dân Tây Nam Bộ.

Thứ hai, sự đa dạng phong phú của ẩm thực các khu vực vùng Tây Nam Bộ đóng
góp vào bức tranh tổng thể của ẩm thực Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu từng khẳng
định ẩm thực của vùng đất này gắn với lịch sử khai hoang mở cõi của ông cha ta từ bao
đời, vừa thể hiện nét phóng khoáng, dễ dung nạp, giao hòa, tiếp thu những nét tinh túy
của các vùng, miền lại vừa có sự sáng tạo, linh hoạt để hình thành rất nhiều đặc sản ẩm
thực, tạo nên các mảng màu đặc sắc trong bức tranh ẩm thực của đất nước Việt Nam.

Theo Nghệ nhân ẩm thực Triệu Thị Chơi, Trưởng Ban Nghệ nhân - Hiệp hội Văn
hóa Ẩm thực Việt Nam: “Ẩm thực Tây Nam Bộ rất đa dạng và phong phú, mỗi món ăn
thường được chế biến bởi nhiều loại nguyên liệu với sự kết hợp linh hoạt, sáng tạo.” Nhờ
nguồn nguyên liệu dồi dào được kết hợp, vùng đất này có nhiều món ăn chỉ mới nghe tên
cũng đủ thấy hấp dẫn, mời gọi du khách như cá lóc hấp bầu, cá tra um lá cách, canh chua
bông điên điển, lẩu mắm, bánh lọt đậu xanh nước dừa, bánh da lợn đậu xanh, bánh tằm
bì, bánh ít khoai mỳ, bánh ống lá dứa, bánh bò thốt nốt, bánh chuối đập...

Thứ ba, văn hóa ẩm thực Tây Nam Bộ là kết quả của sự giao lưu văn hóa tộc người,
đó là các tộc người Hoa – Chăm – Khmer. Nhờ đó mà thấy được sự đa dạng, sáng tạo của
người Việt khi có những biến đổi để phù hợp với điều kiện thực tiễn hơn, chứ không tiếp
thu hoàn toàn không biến đổi những món ăn đó.

2.5.2 Giá trị kinh tế - du lịch

Ngành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Tây Nam Bộ nói riêng đã hình thành
và phát triển trên dưới 60 năm. Tổng cục Du lịch xác định ẩm thực là yếu tố quan trọng,
góp phần tạo nên chất lượng và thương hiệu du lịch nhằm thu hút khách, tạo doanh thu,
xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao và giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho du
lịch Việt Nam.

27
Theo báo cáo toàn cầu về du lịch ẩm thực của Tổ chức Du lịch thế giới, du khách
thường chi trung bình 1/3 ngân sách chuyến đi cho ẩm thực. Ðồng thời, có tới hơn 80%
số đơn vị, tổ chức du lịch khi được điều tra đều xác định du lịch ẩm thực là yếu tố chiến
lược đối với điểm đến, là động lực quan trọng cho phát triển du lịch. Qua đó, có thể thấy
ẩm thực không những đáp ứng nhu cầu ăn uống mà còn đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm
hiểu khám phá văn hóa địa phương của du khách.

Trong một chuyến đi, chi tiêu của khách du lịch dành cho lưu trú và ăn uống là nhu
cầu không thể thiếu. Theo như số liệu đã thống kế của Viện Nghiên cứu phát triển du lịch
thì vào năm 1995, trung bình mỗi ngày khách quốc tế đến Việt Nam chi tiêu khoảng 70
USD. Phần lớn nguồn chi tiêu của khách tập trung vào lưu trú (chiếm 50,17 %) và ăn
uống (chiếm 19,6 %) sau đó là mua hàng lưu niệm (chiếm 13,34%), lữ hành vận chuyển
(chiếm 9,55 %) và các dịch vụ khác (chiếm 8,34 %).

Những số liệu đó càng khẳng định rằng văn hóa ẩm thực đặc trưng của Tây Nam Bộ
góp phần thu hút thêm khách du lịch, kéo dài thời gian lưu trú, tăng mức chi tiêu bình
quân của khách, tăng doanh thu du lịch và tạo nguồn thu cho địa phương. Ẩm thực được
xem là yếu tố không thể tách rời của du lịch miền Tây. Hoạt động du lịch không chỉ đáp
ứng nhu cầu ăn uống của khách du lịch, tạo ra việc làm và mang lại thu nhập kinh tế cho
một bộ phận người dân địa phương, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch địa
phương.

Sự phát triển của du lịch ẩm thực Tây Nam Bộ cũng đóng góp phần nào vào nền
kinh tế - du lịch Việt Nam.

2.5.3 Một số vấn đề ẩm thực vùng Tây Nam Bộ hiện nay


Sự hội nhập các văn hóa bên ngoài như Trung Hoa, văn hóa các nước phương Tây
khiến ẩm thực Tây Nam Bộ gặp nhiều thách thức. Hiện nay, có rất nhiều món ăn truyền
thống Tây Nam Bộ dần dần mất đi hay hiếm dần đi. Đó chính là mặt tiêu cực của hội
nhập, làm mất đi trong kho tàng văn hoá ẩm thực Tây Nam Bộ những giá trị đã tồn tại lâu
đời.

28
Cuộc sống ngày càng trở nên bận rộn, giới trẻ Tây Nam Bộ giờ ưa chuộng với những loại
thức ăn nhanh. Chúng ta có thể đễ dàng chế biến, nhanh chóng và tiện lợi. Vì điều này mà
thế hệ trẻ ngày càng không quan tâm đến giá trị các món ăn truyền thống, dẫn đến việc có
thể lãng quên và không lưu giữ được văn hóa ẩm thực Tây Nam Bộ.

29
C. KẾT LUẬN
Vùng đất Tây Nam Bộ là một vùng đất mới, vùng đất của những lưu dân. Tây Nam
Bộ không có truyền thống hàng ngàn, hàng vạn năm như miền Bắc, miền Trung. Bên
cạnh những món ăn cổ truyền, người Việt ở Tây Nam Bộ còn tiếp thu những món ăn của
người Chăm, người Khơme, người Hoa… Họ đã tiếp thu, chế biến và sáng tạo từ những
nguồn nguyên liệu có sẵn nhờ điều kiện thiên nhiên vô cùng phong phú và thuận lợi để
làm nên những món ăn độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền mình.

Ăn uống giờ đây không chỉ là nhu cầu thuần túy của con người để duy trì sự sống,
ăn uống còn là bản sắc, văn hóa của vùng, miền, của Quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia,
dân tộc đều có một nét văn hóa ăn uống đặc thù của mình. Ẩm thực Tây Nam Bộ dù
không cầu kì trong khâu bày trí nhưng vẫn rất hấp dẫn bởi sự tươi ngon, dồi dào của
nguyên liệu sự giản đơn mộc mạc trong chế biến, thưởng thức nhưng vẫn mang một nét
rất riêng không pha lẫn, điều đó đã làm nên những đặc trưng độc đáo trong văn hóa ẩm
thực Tây Nam Bộ và để lại ấn tượng khó quên cho người dân và thực khách.

Vì những giá trị đó, bản thân chúng ta là lớp trẻ là thế hệ tương lai nên càng phải
biết tôn trọng, giữ gìn và phát huy các truyền thống văn hóa ẩm thực địa phương, đặc biệt
là ẩm thực vùng Tây Nam Bộ

30
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa,... (2014), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam
Bộ, Nxb Tổng hợp TP. HCM
2. Trần Ngọc Thêm (2014), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ, Nxb Văn hóa –
Văn nghệ
3. “Tìm hiểu những nét khái quát miền Tây Nam Bộ”,
https://www.asiaholiday.com.vn/tim-hieu-nhung-net-khai-quat-ve-mien-tay-
nam-bo (truy cập ngày 03/11/2021).
4. “Du lịch miền Tây Nam Bộ - Lịch sử hình thành”,
https://www.dulichmientaynambo.com/p/du-lich-mien-tay-nam-bo.html (truy cập
ngày 03/11/2021)
5. Huỳnh Như (2021), “4 nét đặc trưng của văn hóa miền Tây Nam Bộ”
https://tuilanguoimientay.vn/4-net-dat-trung-cua-van-hoa-mien-tay.html
(truy cập ngày 03/11/2021).
6. “Những điều đặc biệt trong văn hóa ẩm thực Nam Bộ”,
https://anvuitudosong.com/nhung-dieu-dac-biet-trong-van-hoa-am-thuc-mien-
nam-bo/ (truy cập ngày 10/11/2021)
7. Trương Thanh Hùng (2019), “Phong cách ẩm thực miền Tây”,
https://duyendangvietnam.net.vn/phong-cach-am-thuc-mien-tay.html (truy cập
ngày 04/11/2021)
8. Ths. Phạm Quang Hưng (2014), “Ẩm thực: Yếu tố quan trọng góp phần định vị

thương hiệu du lịch”, https://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/15622 (truy


cập ngày 26/11/2021)

31

You might also like