Có ý kiến cho rằng: “Cảnh vật và tâm trạng trong thơ Nguyễn Du bao giờ
cũng vận động chứ không tĩnh tại”.
Em hãy làm sáng tỏ sự vận động đó qua hai đoạn trích “Cảnh ngày xuân” và “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Bài làm Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca từ xưa đến nay. Các tao nhân mặc khách, các thi sĩ xưa đến với thiên nhiên để hoà mình với thiên nhiên, gửi gắm tâm tư, tình cảm vào mỗi bức tranh ấy. Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” mang một nét rất riêng. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng: “Cảnh vật và tâm trạng trong thơ Nguyễn Du bao giờ cũng vận động chứ không tĩnh tại”. Và điều đó đã được tác giả thể hiện rất ấn tượng qua hai đoạn trích “Cảnh Ngày xuân” và “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Trước hết, chúng ta cần hiểu ý kiến trên đang muốn bàn về vấn đề gì. “Vận động” là sự thay đổi vị trí không ngừng của vật thể trong quan hệ với những vật thể khác, “tĩnh tại” là cố định một nơi, không hoặc rất ít chuyển dịch. Như vậy, nhận định trên khẳng định tài năng của thi hào Nguyễn Du. Cảnh vật và tâm trạng nhân vật trong thơ Nguyễn Du luôn có sự “vận động”, khung cảnh luôn thay đổi theo thời gian và tâm trạng con người, đồng thời tâm trạng con người cũng luôn có sự vận động theo thời gian, không gian và cảnh ngộ. Thiên nhiên tựa như một nhân vật do Nguyễn Du tạo ra mà khiến Hoài Thanh đã từng phải thốt lên rằng: "Có thể nói thiên nhiên trong "Truyện Kiều" cũng là một nhân vật, một nhân vật thường lặng lẽ, kín đáo nhưng không mấy khi không xuất hiện và luôn luôn thấm đượm tình người”. Sự vận động của thiên nhiên trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” đã gợi lên một khung cảnh ngày xuân tươi đẹp: “Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” Đoạn thơ là bức tranh buổi sáng mùa xuân tươi sáng, trong trẻo, tinh khôi, mới mẻ và tràn đầy sức sống. Hình ảnh quen thuộc nhưng mới mẻ trong cách cảm nhận của thi nhân. Mùa xuân có đường nét, chiều cao, rộng, sâu của không gian qua từng nét vẽ, màu sắc của bức tranh thiên nhiên hài hòa đến tuyệt diệu. Tác giả đã chọn thời khắc trong sáng, thanh thoát, diễm lệ nhất của mùa xuân để làm nền cho sự xuất hiện của người và cảnh. Song thời gian ấy lại đang chảy trôi không ngừng nghỉ. “Con én đưa thoi” không chỉ là hình ảnh tả thực gắn liền với không khí mùa xuân mà nó còn là hình ảnh ước lệ cho sự chảy trôi của thời gian, như dân gian có câu: “Thời giờ thấm thoát thoi đưa Hết mưa lại nắng hết ngày lại đêm” Đoạn thơ là khung cảnh nói về thời gian vào tháng cuối của mùa xuân “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”, là khi thời tiết ở độ thanh khiết nhất. Nhưng đó cũng đồng nghĩ với việc mùa xuân tươi đẹp trôi qua nhanh. Câu thơ gợi lên sự chảy trôi, mất mát. Không gian nổi bật bởi màu sắc tươi sáng, sắc cỏ non tươi “xanh tận chân trời” tràn đầy sức sống mãnh liệt. Đó là phông nền tươi sáng cho bức tranh xuân. Bên cạnh đó, sắc trắng tinh túy, thanh thoát và diễm lệ cùng nghệ thuật đảo ngữ “trắng điểm” nhấn mạnh sắc trắng tinh khôi, tuy chỉ điểm xuyết nhưng rất nổi bật trên nền xanh tươi sáng. Những bông hoa lê như những đốm trắng mà tác giả đã thay mặt cho tạo hóa để chấm phá cho bức tranh xuân. Ở đây, tác giả Nguyễn Du còn lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ của Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa” (Cỏ thơm liền với trời xanh / Trên cành lên ở một vài bông hoa) nhưng đại thi hào có sự sáng tạo độc đáo. Nếu câu thơ cổnói đến hương thơm của cỏ, màu xanh của trời, hoa lê nở điểm trên cành mấy bông thì Nguyễn Du tả cỏ non xanh bát ngát tận chân trời. Màu xanh làm nền tôn nổi bật màu trắng của mấy bông lê. Chữ “trắng” được thêm vào đảo lên trước động từ “điểm” để tạo sự bất ngờ, mới mẻ, khiến nét vẽ trở nên có hình, có hồn, sống động, gợi ra bức tranh xuân tinh khôi, thanh thoát, tuyệt đẹp. Tác giả kết hợp tả diện và tả điểm: Diện là không gian mênh mông bát ngát và tươi tắn của cỏ non, điểm là sắc trắng tinh khôi của hoa lê loáng thoáng trên cành. Cùng với lối vẽ chấm phá, kết hợp tả diện và tả điểm là nghệ thuật phối màu đạt tới độ hài hòa cổ điển: nền xanh - điểm trắng, hơn nữa, cả màu xanh và sắc trắng ấyđều gợi cảm giác tươi non và tinh khiết. Cảnh thiên nhiên vận động từ cao xuống thấp, từ bầu trời đến mặt đất, từ cái chuyển động của cánh én đưa thoi đến cái tĩnh đầy sức sống của cỏ hoa. Sáu câu thơ cuối của đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là cảnh ra về khi lễ hội tan. Thiên nhiên khi đó thật ảm đạm vào buồn rầu biết bao: “Tà tà bóng ngả về tây Chị em thơ thẩn dan tay ra về Bước dần theo ngọn tiểu khê Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh Nao nao dòng nước uốn quanh Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang” Vẫn là cảnh thiên nhiên ngày xuân nhưng khi chiều về lại có sự thay đổi theo thời gian và theo tâm trạng con người. Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu nhưng mọi chuyển động đều rất nhẹ nhàng, nhuốm màu tâm trạng. Hoàng hôn bắt đầu lan tỏa, bao phủ cả phong cảnh và con người “Tà tà bóng ngả về tây”. Cảnh vật có sắc thái nghiêng về sự thanh đạm với “ngọn tiểu khê”, “phong cảnh có bề thanh thanh”, “dòng nước uốn quanh”, “dịp cầu nho nhỏ” , cùng với đó hàng loạt từ láy: “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” là tạo hình của sự nhẹ nhàng, tinh tế, mang chút man mác, u hoài. Cảnh vẫn mang cái thanh nhẹ của mùa xuân song dường như đã nhuốm đầy tâm trạng. Có lẽ bởi khi vào hội náo nức rộn rã thì khi tan hội sẽ có nhiều tiếc nuối, bâng khuâng, lễ hội lại nên cái náo nhiệt say mê thì nay những rộn ràng ấy đã lắng xuống và tan đi. Từ “nao nao” diễn tả niềm bâng khuâng, luyến tiếc xen với nỗi buồn mơ hồ man mác. Ngay cả một con suối nhỏ cũng như dùng dằng trong nỗi xao xuyến bâng khuâng. Dòng nước “nao nao”, trôi chầm chậm như lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, dường như cũng là nỗi niềm lưu luyến, tiếc nuối của con người khi ngày vui chóng qua. Sáu câu thơ tả cảnh mà kín đáo gửi gắm rung động của hồn người. Bằng bút lực tài hoa của mình, Nguyễn Du đã vẽ lên một khung cảnh hoàng hôn thanh nhẹ, dịu dàng trong nỗi bâng khuâng, xao xuyến của tâm trạng giai nhân sau khi hội tan, ngày tàn. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, thiên nhiên mang dáng vẻ u buồn như tâm trạng Kiều khi đang bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” Bằng nét bút tả cảnh ngụ tình điêu luyện, Nguyễn Du đã miêu tả thành công nội tâm của Kiều. Từ ngữ "khóa xuân" đã cho thấy tình cảnh Kiều lâm vào cảnh cá chậu chim lồng, bị giam lỏng nơi lầu cao, khóa kín tuổi xuân của nàng. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy vào chốn lầu xanh ô nhục."Lầu Ngưng Bích" vốn là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữ tình, thơ mộng được mở ra cả ba chiều cao, xa và rộng qua các từ ngữ "non xa", "trăng gần", "cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia". Thế nhưng "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!", trong tình cảnh giam cầm Kiều khung cảnh thật buồn thảm, vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm hoang vu, vắng lặng. Lầu Ngưng Bích chỉ là là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm tuổi xuân mơn mởn của tuyệt sắc giai nhân, sự sống của Kiều như bị những bàn tay tàn bạo bóp nghẹt. Từ đó khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngán, buồn tủi, không ai chia sẻ nàng chỉ biết là bạn với mây, với đèn, với cảnh vật hoang vu, nhạt nhòa. Giờ đây, tâm trang nhân vật khiến thiên nhiên càng trở nên hoang vắng, trơ trọi biết bao nhiêu. Tâm trạng buồn tủi của Kiều đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng nhưng đều diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều. Cánh buồm trên biển giữa mênh mông trời chiều hoàng hôn thật cô độc, lẻ loi: “Buồn trông cửa bể chiều hôm, Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” Khung mở ra vào thời điểm chiều hôm, thời điểm của những lưu luyến khó tả. "Cửa bể chiều hôm" gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Các từ ngữ "thấp thoáng", "xa xa" gợi sự lẻ loi, đơn độc như chính niềm hi vọng mỏng manh, leo lét của Kiều. Một mình bơ vơ ở nơi đó, Kiều chỉ mòn mỏi nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, chờ mong một con thuyền đến cứu, thế nhưng những chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở xa rồi mất hút về phía chân trời. "Thuyền ai" lênh đênh rồi mất hút về phía chân trời xa như cuộc đời Kiều, chẳng biết đến bao giờ có thể về được quê nhà, báo hiếu cho cha mẹ.Ánh nhìn của Kiều vẫn ở mặt nước nhưng đã gần hơn: “Buồn trông ngọn nước mới sa, Hoa trôi man mác biết là về đâu” Cánh hoa mỏng manh, dập dìu trong dòng nước, bé nhỏ, chẳng thể nào chống chọi được sức của "ngọn nước mới sa" như chính thân phận nàng Kiều nhỏ bé trong dòng đời đẩy đưa. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi, tả tơi trôi theo dòng đời vô định "biết là về đâu" như chính bông hoa kia. Nhìn cánh hoa bị vùi dập tả tơi ấy, nàng Kiều lại càng nhớ thương Kim Trọng, càng buồn tủi, xót xa vì số phận bèo dạt mây trôi, chẳng biết sẽ đi về nơi nao của mình. Không chỉ có mặt nước mênh mang chất chứa bao nỗi buồn mà cả cỏ cây cũng sầu thảm: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.” Ngược với cái tên xanh biếc hi vọng của "Ngưng Bích" sắc xanh nối tiếp của trời đất qua đôi mắt buồn tủi của Kiều trở nên thật sầu thảm. Từ láy "rầu rầu" gợi nên hình ảnh của một bãi cỏ tàn úa, xơ xác đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất tàn úa, héo hon, vô vị, tẻ nhạt như chính số phận bị giam lỏng trên lầu cao của Kiều.Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài sắc vẹn toàn của nàng rồi sẽ phai tàn, vô vị như màu xanh héo úa kia. Màu xanh vốn là màu của hi vọng nay đã tàn úa như chính niềm hi vọng đang cạn dần và nỗi xót xa, dằn vặt ngày càng dâng cao trong lòng Kiều. Quang cảnh đang im lặng, bỗng dậy sóng: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.” Âm thanh của tiếng sóng "ầm ầm" trong cảnh "gió cuốn mặt duềnh" như chính là những bão tố phong ba đang chờ Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào tai họa sẽ ập đến như tiếng sóng dồn dập ngoài xa. Tiếng sóng ầm ì như chính tiếng của tai họa sắp ập tới, những cạm bẫy của cuộc đời ập đến "kêu quanh ghế ngồi" khiến cho nàng Kiều sợ hãi. Điệp ngữ "buồn trông" đặt ở bốn đầu câu lục bát trong đoạn thơ như tiếng thở dài cùng với nhịp thơ chầm chậm và những thanh bằng đã nhấn mạnh nỗi buồn cứ càng lúc càng dâng lên mãi trong lòng Kiều cùng hòa với cảnh vật càng lúc càng mênh mang, vắng vẻ hơn. Những từ láy "xa xa", "thấp thoáng", "man mác", "rầu rầu", "xanh xanh", "ầm ầm" như những con sóng dằn vặt, buồn tủi dâng tràn trong lòng Kiều. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du vô cùng điêu luyện, cảnh mang hồn người. Cảnh và tình hòa hợp, sống động. Tả cảnh để tả tình, trong cảnh có tình, lấy cảnh để phô diễn tâm trạng "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!". Mỗi một cảnh vật là một nét đau, nỗi lo, nỗi đau buồn tê tái người con gái lưu lạc… Bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh đã khắc họa nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải. Qua hai đoạn trích “Cảnh ngày xuân” và Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã thể hiện được ngòi bút miêu tả bậc thầy của mình khi thiên nhiên trong tác phẩm của ông “bao giờ cũng vận động chứ không tĩnh tại”. Nhà thơ luôn nhìn cảnh vật trong sự vận động theo thời gian và tâm trạng nhân vật. Cảnh và tình luôn gắn bó, hòa quyện. Tài năng tả cảnh, tả tình của Nguyễn Du làm nên thành công của tác phẩm và góp phần thể hiện tấm lòng nhân đạo của nhà thơ trong "Truyện Kiều. Phải có “một tâm hồn cảm nhận được sự diễm lệ phong phú của thiên nhiên” (Đặng Thanh Lê) thì ông mới có thể viết lên những vần thơ “thi trung hữu hoạ” làm say đắm lòng người đến thế. Khép lại những trang thơ ấy, trong lòng bạn đọc vẫn bồi hồi bao cảm xúc. Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” tựa như một nhân vật đã được Nguyễn Du trân trọng, trân quý, chau chuốt từng chút một để rồi giờ đây, khi đọc những vần thơ đó lòng chúng ta lại dạt dào bao cảm xúc. Qua cảnh vật mà Nguyễn Du đã gợi lên tâm trạng nhân vật một cách sâu sắc. Phải chăng khi ông có “Con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” thì mới có thể viết lên nhưgx vần thơ tuyệt tác như thế.