Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 37

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM


____________

NGUYỄN VĂN PHỤNG

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI


TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN -
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
_____________

NGUYỄN VĂN PHỤNG

ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI


TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN -
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật kinh tế


Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. VÕ TRÍ HẢO

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Nguyễn Văn Phụng - mã số học viên: 7701250793A, là học viên
lớp Cao học Luật Cà Mau Khóa 25 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ Luật học
với đề tài "Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại tại tòa án - Những vấn đề lý luận và thực tiễn (Sau đây gọi
tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết
quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.

Học viên thực hiện

Nguyễn Văn Phụng


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án .....5
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các biện pháp khẩn cấp tạm thời và nguyên tắc áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại tòa án ...................................................................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................................. 5
1.1.2. Đặc điểm .............................................................................................................. 7
1.1.2.1.Tính khẩn cấp................................................................................................. 7
1.1.2.2. Tính tạm thời................................................................................................. 7
1.1.2.3. Tính có hiệu lực thi hành ngay khi được ban hành ....................................... 8
1.1.3. Ý nghĩa ................................................................................................................. 8
1.1.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại ................................................................................................. 9
1.1.4.1. Nguyên tắc chung ......................................................................................... 9
1.1.4.2. Nguyên tắc riêng ......................................................................................... 11
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp khẩn cấp tạm thời ......................... 13
1.2.1. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015 .................. 13
1.2.1.1. Biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp.................................................. 14
1.2.1.2. Biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh
chấp……………………………………………………..........................................15
1.2.1.3. Biện pháp cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp ....................... 15
1.2.1.4. Biện pháp cho thu hoạch, bán hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa khác ..... 16
1.2.1.5. Biện pháp phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho
bạc nhà nước ............................................................................................................ 16
1.2.1.6. Biện pháp phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ .................................................. 17
1.2.1.7. Biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ ................................... 17
1.2.1.8. Biện pháp cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định................... 17
1.2.1.9. Bổ sung các biện pháp khẩn cấp tạm thời………………………………...18
1.2.1.10. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định ............ 18
1.2.2. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 so với Bộ luật tố tụng dân sự 2005 ...................................................................... 18
1.2.2.1. So sánh BPKCTT của BLTTDS năm 2015 và BLTTDS năm 2004…… 18
1.2.2.2. Những điểm mới của BLTTDS năm 2015 so với BLTTDS năm 2004 về
BPKCTT…………………………………………………………………………. 20
1.2.3. Quy định về đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan khi áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời ........................................................................................ 23
1.2.4. Quy định về yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời ........................ 24
1.2.5. Quy định về giải quyết yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ............. 24
1.2.5.1. Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời .................. 24
1.2.5.2. Thực hiện việc xem xét, giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời.............................................................................................................. 25
1.2.5.3. Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời .................................. 28
1.2.5.4. Thay đổi, bổ sung, hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ....... 28
1.2.6. Khiếu nại, kiến nghị quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời ........................................................................................................................ 31
Tiểu kết luận Chương 1 ................................................................................................... 33
Chương 2: Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại tòa án - thực trạng và giải pháp .......................................34
2.1. Thực trạng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại tòa án ............................................................................................ 34
2.1.1. Trước thời điểm áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự năm năm 2015........ ..............34
2.1.2. Từ khi áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 .........................................37
2.1.2.1. Đối với một số quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục áp dụng
BPKCTT…………………………………………………………………………...39
2.1.2.2. Đối với một số biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể………………………………41
2.2. Nguyên nhân tòa án ít áp dụng BPKCTT trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại………………………………………………………………………………43
2.2.1. Một số quy định của BLTTDS hiện hành về BPKCTT chưa thật chặt chẽ ....... 43
2.2.2. Chưa có hướng dẫn thực hiện các quy định tại Chương VIII BLTTDS hiện
hành, nhất là hướng dẫn áp dụng đối với các BPKCTT cụ thể ................................... 44
2.2.3. Trách nhiệm nặng nề của tòa án, của thẩm phán ............................................... 44
2.3. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao tỷ lệ áp dụng
BPKCTT trong giải quyết tranh chấp KDTM tại tòa án……………………………….44
2.3.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTDS năm 2015 về BPKCTT……...44
2.3.2. Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết hướng dẫn thực hiện các quy định
về BPKCTT…………………………………………………………………...............46
2.3.3. Tăng cường công tác đào tạo đội ngũ thẩm phán trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại; ban hành chính sách tiền lương đặc thù đối với thẩm phán...46
Tiểu kết luận Chương II ................................................................................................... 49
KẾT LUẬN ..............................................................................................................50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BPKCTT Biện pháp khẩn cấp tạm thời


BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự
KDTM Kinh doanh thương mại
HĐXX Hội đồng xét xử
TTDS Tố tụng dân sự
PLTTDS Pháp luật tố tụng dân sự
TAND Tòa án nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VADS Vụ án dân sự
1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự trong
quan hệ tranh chấp dân sự nói chung và kinh doanh thương mại nói riêng, việc áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có một vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo
vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong tố tụng dân sự và giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại đồi hỏi phải nhanh chống, kịp thời mới đáp ứng được yêu cầu kinh doanh
thương mại khi các tranh chấp là giữa một hoặc các bên đương sự là thương nhân
và tài sản tranh chấp thông thường là rất lớn và dễ dàng thực hiện hành vi tẩu tán tài
sản hay tiêu hủy chứng cứ; do đó việc áp dụng nhanh chống biện pháp khẩn cấp tạm
thời (BPKCTT) là một vấn đề cần được quan tâm vì nó giữ một vai trò hết sức quan
trọng trong quá trình giải quyết toàn diện, khách quan vụ tranh chấp.
Quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời được các nhà lập pháp quan tâm và
ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ lịch
sử. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong các văn bản pháp luật trước đây, chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời đã
được quy định khá chi tiết, cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm
2004 và được điều chỉnh phù hợp hơn trong BLTTDS năm 2015. Các quy định này
tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể bị xâm hại khi tham gia vào các quan hệ dân sự, nhất là trong hoạt động
kinh doanh thương mại vốn phát triển không ngừng như hiện nay. Tuy nhiên, qua
hơn 01 năm triển khai áp dụng quy định của BLTTDS năm 2015 trong giải quyết
tranh chấp KDTM tại tòa án cho thấy tỷ lệ áp dụng BPKCTT vẫn chưa đạt như
mong muốn; một số khó khăn, vướng mắc qua thực tiễn đã ảnh hưởng đến hiệu quả
áp dụng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu đề tài nhằm xác định những khó khăn, vướng mắc qua thực
tiễn áp dụng BLTTDS năm 2015 về BPKCTT; nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ áp dụng
BPKCTT trong giải quyết tranh chấp KDTM chưa cao và kiến nghị một số giải
pháp hoàn thiện. Qua đó góp phần thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao phụ trách.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Áp dụng BPKCTT trong giải
quyết tranh chấp KDTM tại tòa án - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận
văn thạc sĩ của mình.
2

2. Tình hình nghiên cứu


* Trước thời điểm áp dụng BLTTDS năm 2015 (trước ngày 01-7-2016):
Trước thời điểm áp dụng BLTTDS năm 2015 đã có những nghiên cứu khoa
học trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Có thể
nêu ra các nghiên cứu nổi bật có liên quan đến biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố
tụng dân sự, cụ thể:
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam", của Nguyễn Văn Pha, Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997;
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng
dân sự Việt Nam", của Lê Thị Thu Hằng, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012;
- ThS. Trần Anh Tuấn: "Chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật
Tố tụng dân sự Việt Nam", Tạp chí Luật học, Đặc san góp ý dự thảo Bộ luật Tố tụng
dân sự 2004 ;
- ThS. Trần Anh Tuấn: "Các qui định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
Bộ luật Tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
12/2005;
- ThS. Trần Phương Thảo: "Bảo vệ quyền và lợi ích của người bị áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam", Tạp chí luật học,
số 1/2009...
* Từ khi áp dụng BLTTDS năm 2015 đến nay:
Từ khi áp dụng BLTTDS năm 2015 đến nay chưa có công trình nghiên cứu về
BPKCTT được công bố. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định
của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết tranh
chấp KDTM tại toà án từ khi áp dụng BLTTDS năm 2015 đến nay, người viết
muốn đưa ra những đề xuất nhằm áp dụng có hiệu quả các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh kinh
doanh thương mại.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về BPKCTT trong giải quyết
tranh chấp KDTM tại tòa án;
- Thứ hai, tìm hiểu thực trạng áp dụng, phân tích, đánh giá những bất cập, hạn
chế trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về BPKCTT trong giải quyết
tranh chấp KDTM;
3

- Thứ 3, xác định nguyên nhân dẫn đến việc tòa án ít áp dụng BPKCTT trong
giải quyết tranh chấp KDTM;
- Thứ tư, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao tỷ lệ, hiệu quả áp dụng
BPKCTT trong giải quyết tranh chấp KDTM.
4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Phạm vi: Nghiên cứu chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trên cơ sở lý luận,
thực tiễn áp dụng trong tố tụng giải quyết các tranh chấp KDTM tại tòa án.
Phương pháp: Sử dụng phương pháp phân tích luật học, phương pháp tổng
hợp, so sánh, đánh giá kết hợp với phương pháp thống kê, mô tả luật để thực hiện
đề tài.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài được kết cấu gồm phần mở đầu, phần nội dung và kết luận.
Phần nội dung gồm 02 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án;
Chương 2: Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại tòa án - thực trạng và giải pháp.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Tương ứng với 02 chương như nội dung của đề tài, có 02 câu hỏi nghiên cứu
đòi hỏi đề tài phải phân tích, làm rõ, đó là:
1. Pháp luật hiện hành quy định như thế nào về BPKCTT?
2. Nguyên nhân dẫn đến việc tòa án ít áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại?
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại tòa án.
Tìm hiểu thực trạng, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong thực tiễn từ khi áp
dụng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đến nay, xác định nguyên nhân tòa án ít áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại. Qua đó, đề xuất những giải pháp có giá trị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng
cao tỷ lệ, hiệu quả áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thực tiễn giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án; nhằm mục tiêu bảo đảm môi trường
4

kinh doanh, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Kết quả nghiên cứu đề tài hy vọng đóng góp một phần nhỏ về mặt lý luận
cũng như thực tiễn nhằm hoàn thiện hơn nữa Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 với
mục tiêu nâng cao tỷ lệ, hiệu quả áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
5

Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về


biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại tòa án
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các biện pháp khẩn cấp tạm thời
và nguyên tắc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại tại tòa án
1.1.1. Khái niệm
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp do Tòa án quyết định trong quá
trình giải quyết vụ việc dân sự hoặc được áp dụng độc lập với vụ việc đó nhằm đáp
ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ chứng cứ
hoặc bảo đảm cho việc thi hành án dân sự.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, BPKCTT là một cụm từ được ghép bởi ba từ:
“biện pháp”, “khẩn cấp” và “tạm thời”. Theo Từ điển tiếng Việt giải thích: “biện
pháp” là một danh từ, chỉ cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề
cụ thể1. “Khẩn cấp” là một tính từ chỉ sự gấp gáp, cần kíp, phải giải quyết ngay,
không thể trì hoãn được2. Về thuật ngữ “tạm thời”, thuật ngữ này là một tính từ, có
nghĩa là tạm trong một thời gian ngắn trước mắt, không có tính chất lâu dài, ổn
định3. Như vậy, nếu ghép nghĩa của các cụm từ trên với nhau, chúng ta có thể hiểu:
BPKCTT là cách giải quyết tạm một vấn đề nào đó, là cách thức giải quyết gấp gáp,
tạm thời trong thời gian ngắn trước mắt.
Dưới góc độ là các biện pháp cụ thể, BPKCTT được nhìn nhận xuất phát từ
yêu cầu giải quyết vụ việc của tòa án phải bảo đảm nguyên tắc giải quyết kịp thời để
từ đó bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Muốn vậy, một trong
những biện pháp cần phải thực hiện là trong những trường hợp khẩn cấp như một
bên đương sự cần được đáp ứng ngay nhu cầu cấp bách, chứng cứ dùng để giải
quyết vụ việc cần được bảo vệ ngay để khỏi bị hủy hoại, tài sản cần được bảo toàn
ngay để bảo đảm khả năng thi hành án…, tòa án phải có ngay biện pháp can thiệp
thích hợp, có tính bắt buộc phải thực hiện để bảo vệ tạm thời quyền, lợi ích của
đương sự.

1 Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin., tr 161.
2
Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, tr 447.
3
Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, tr 9.
6

Về hình thức, BPKCTT chính là biện pháp thích hợp được áp dụng để giải
quyết tình trạng khẩn cấp của vụ việc. Xét về nội dung, BPKCTT thực chất là giải
pháp tạm thời cho tình trạng khẩn cấp. Thẩm phán – Phó chánh án TAND tối cao
Tưởng Duy Lượng khi nghiên cứu về BPKCTT đã khẳng định: “BPKCTT thực ra
chỉ là một giải pháp tình thế”4. Điều này còn có nghĩa là giải pháp tạm thời cho tình
trạng khẩn cấp chỉ được gọi là BPKCTT khi giải pháp đó được pháp luật quy định
và do tòa án có thẩm quyền quyết định áp dụng nhằm mục đích xử lý tạm thời, mau
chóng những dòi hỏi cấp bách trong xử lý vụ án để đảm bảo thi hành án.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại BLTTDS gồm các biện pháp
khác nhau, có những BPKCTT nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, có
những BPKCTT nhằm bảo vệ chứng cứ, có những BPKCTT nhằm bảo toàn tài sản,
đảm bảo thi hành án… Trong vụ án kinh doanh thương mại (KDTM) thì BPKCTT
hẹp hơn chủ yếu nhằm bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tài sản hoặc đảm bảo thi hành án.
Như vậy, dưới góc nhìn rất cụ thể, trực diện và trên phương diện hình thức,
BPKCTT là các biện pháp do pháp luật quy định mà tòa án được áp dụng để tạm
thời giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản,
bảo đảm việc bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Dưới góc độ là một thủ tục tố tụng: Thủ tục áp dụng BPKCTT trong tố tụng là
một thủ tục do tòa án tiến hành nhằm đưa ra quyết định về giải pháp tạm thời giải
quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, tài sản, bảo đảm cho việc
giải quyết vụ việc và thi hành án. Theo phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa:
“BPKCTT là một công đoạn tố tụng nhằm giúp cơ quan tài phán can thiệp nhanh
chóng, kịp thời nhằm bảo vệ chứng cứ, tài sản hoặc các bảo đảm thiết yếu khác cho
thi hành các nghĩa vụ trong khi phiên tranh tụng chính chưa kết thúc. Là một công
đoạn tố tụng trong quy trình giải quyết vụ việc nói chung nhưng thực chất BPKCTT
là một trình tự quy định về quyền yêu cầu, thẩm quyền xem xét và ban hành các
quyết định tố tụng, các đảm bảo, quyền khiếu nại và yêu cầu đền bù thiệt hại nếu có.
Quy trình này là một phần phụ, phát sinh, có tính chất chuẩn bị, bổ trợ cho thủ tục
tố tụng chính đáng được cơ quan tài phán thụ lý”5. Như vậy, nói đến BPKCTT trong
giải quyết vụ án là nói đến thủ tục áp dụng BPKCTT bao gồm một trình tự các hoạt
động tố tụng được thực hiện bởi các chủ thể liên quan.

4
Trường cán bộ tòa án - Tòa án nhân dân tối cao, Tài liệu tập huấn Bộ luật tố tụng dân sự, tr 54.
5
Phạm Duy Nghĩa, “Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng trọng tài”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số
23, tr 77.
7

1.1.2. Đặc điểm


Bên cạnh những nguyên tắc chung như đảm bảo tính pháp chế, bảo đảm
quyền bảo vệ của đương sự, nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự ... thì
BPKCTT còn thể hiện rõ nguyên tắc đặc trưng, riêng biệt của chế định này, đó là
tính khẩn cấp, tính tạm thời và tính có hiệu lực ngay sau khi ban hành.
1.1.2.1. Tính khẩn cấp
Trong quá trình giải quyết vụ án phát sinh khả năng đương sự muốn tẩu tán tài
sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ của mình và bên thắng kiện sẽ không được đảm bảo
khả năng thi hành án dù thắng kiện. Tính khẩn cấp trong tranh chấp KDTM thể hiện
đậm nét vì đây là tranh chấp nhằm mục đích sinh lợi, tài sản tranh chấp là đối tượng
có khả năng sinh lợi cao, nên việc bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích của đương sự
càng trở nên cấp bách hơn. Việc giải quyết kịp thời quyền lợi của họ trong quá trình
tố tụng là việc làm cần thiết làm ngay, tránh gây hậu quả không thể khắc phục được,
bảo vệ chứng cứ và đảm bảo quá trình thi hành án sau này. ần quy định trình tự áp
dụng các biện pháp này thật đơn giản về mặt thủ tục, nhanh chống về thời gian thực
hiện thì mới bảo vệ kịp thời các tình huống khẩn cấp ảnh hưởng đến nghĩa vụ về tài
sản trong tranh chấp KDTM.
1.1.2.2. Tính tạm thời
Quyết định áp dụng BPKCTT luôn có tính tạm thời. Bởi lẽ, vụ án vẫn chưa
giải quyết một cách triệt để, đây chỉ là một giải pháp tình thế để ngăn chặn, bảo vệ
tài sản tranh chấp, bảo tồn hiện trạng tài sản tranh chấp đang trong quá trình chờ các
thủ tục giải quyết, do đó chưa xác định tài sản tranh chấp thuộc về ai. Khi có bản
án, quyết định sau cùng và bản án có hiệu lực thi hành thì biện pháp khẩn cấp tạm
thời đương nhiên hết hiệu lực. Tính tạm thời thể hiện sự không ổn định và dễ thay
đổi của các BPKCTT, quá trình giải quyết vụ án phải tiến hành nhiều giai đoạn tố
tụng bắt buộc nên trải qua một thời gian nhất định thì mới có thể giải quyết toàn
diện vụ án. Do tính khẩn cấp làm nảy sinh yêu cầu áp dụng nên đồng thời cũng nảy
sinh tính tạm thời của biện pháp ngăn chặn trước mắt khi yêu cầu bảo vệ khẩn cấp
đến trước khi vụ án được giải quyết. Khi bản án được ban hành và có hiệu lực pháp
luật thì giải pháp tình thế để bảo vệ tài sản không còn cần thiết nữa. Tính khẩn cấp
và tính tạm thời có mối quan hệ với nhau. Khẩn cấp là tình huống cấp bách phát
sinh yêu cầu trực tiếp, tạm thời là việc đưa ra giải pháp giải quyết có tính tức thì,
đáp ứng yêu cầu khẩn cấp. Tính tạm thời được đảm bảo bởi nguyên tắc tự định đoạt
của đương sự trong việc yêu cầu thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong
8

suốt quá trình tố tụng khi họ xét thấy việc áp dụng một biện pháp khẩn cấp tạm thời
cụ thể không còn cần thiết, hay không còn phù hợp với tình hình tranh chấp thì có
quyền đề nghị hủy bỏ, thay đổi hoặc áp dụng biện pháp khác phù hợp hơn theo quy
định pháp luật.
1.1.2.3. Tính có hiệu lực thi hành ngay khi được ban hành
Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có tính cưỡng chế theo quy
định pháp luật, là cơ sở cho việc đảm bảo thi hành án. Tính hiệu lực của quyết định
áp dụng BPKCTT so với bản án có hiệu lực thi hành có tính tương đồng vì được
đảm bảo thi hành trên thực tế, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là
một khâu không bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án nhưng lại có tính hiệu lực
thi hành ngay bởi mục đích là tài sản, giải quyết về tài sản tranh chấp hoặc bảo vệ
tài sản tranh chấp.
1.1.3. Ý nghĩa
- Bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án, kịp thời
khắc phục những hậu quả, thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra.
- Ngăn chặn những hành vi hủy hoại bằng chứng làm sai lệch nội dung tranh
chấp..
- Kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản và đảm bảo việc thi hành bản án,
quyết định của Tòa án.
- Thể hiện sự chủ động của đương sự trong việc đảm bảo thi hành kết quả xét
xử. Khi xét thấy cần thiết, đương sự có thể yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp
một cách chủ động khi có căn cứ cho rằng cần áp dụng để bảo vệ tài sản, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Như vậy, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự không chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày càng
trở thành công cụ pháp lý vững chắc để các đương sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình khi tham gia vào các quan hệ dân sự, kinh doanh thương mại và lao động.
Như vậy, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết
vụ việc KDTM không chỉ có ý nghĩa pháp lý mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc, biện
pháp khẩn cấp tạm thời ngày càng trở thành công cụ pháp lý vững chắc để các
đương sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi tham gia vào các quan hệ thương
mại.
9

1.1.4. Nguyên tắc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại
1.1.4.1. Nguyên tắc chung
- Đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời:
Đảm bảo tính nhanh nhóng, kịp thời là một nhiệm vụ bắt buộc trong việc giải
quyết vụ án kinh doanh thương mại. Vì chứng cứ dùng để giải quyết có thể bị hủy
hoại, tài sản tranh chấp có thể bị tẩu tán gây ảnh hưởng đến việc thi hành án. Đòi
hỏi áp dụng BPKCTT một cách nhanh chóng thì mới kịp thời bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án. Để thực hiện được điều đó, toà
án cần phải thực hiện các vấn đề sau:
+ Nhận đơn yêu cầu, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp đơn yêu cầu Tòa
án áp dụng BPKCTT kể cả khi chưa thụ lí vụ án. Trong tố tụng dân sự nói chung,
dựa trên nguyên tắc quyền tự định đoạt, các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp có
quyền yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT vào bất cứ thời điểm nào trong quá trình tố
tụng khi thấy cần thiết theo quy định khoản 1 Điều 111 BLTTDS 2015.
+ Toà án tiến hành xem xét, giải quyết ngay đơn yêu cầu của đương sự trong
thời gian ngắn nhất để đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời, quyết định áp dụng
BPKCTT chính là cơ sở pháp lí cho việc áp dụng BPKCTT. Theo quy định tại Điều
133 BLTTDS năm 2015, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có thời hạn
tối đa là 3 ngày để ra quyết định áp dụng BPKCTT nếu trước phiên toà, đương sự
yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT và đương sự không phải thực hiện nghĩa vụ
bảo đảm theo quy định tại Điều 136 BLTTDS năm 2015. Nếu tại phiên toà mà
đương sự có yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT thì Hội đồng xét xử (HĐXX) phải ra
ngay quyết định áp dụng BPKCTT hoặc ngay sau khi người yêu cầu đã thực hiện
xong biện pháp bảo đảm. Ngoài ra, nếu trường hợp người yêu cầu toà án áp
dụng BPKCTT đưa ra yêu cầu vào thời điểm nộp đơn khởi kiện thì Chánh án tòa án
phải chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lí giải quyết đơn yêu cầu và thời hạn tối đa
mà Thẩm phán ra quyết định áp dụng BPKCTT chỉ trong 48 giờ.
+ Quyết định áp dụng BPKCTT ngay sau khi được ban hành phải được nhanh
chóng thi hành theo nguyên tắc càng nhanh càng tốt nhằm kịp thời bảo vệ
được quyền, lợi ích của đương sự. Thẩm quyền tổ chức, thi hành các quyết định về
BPKCTT trong tố tụng dân sự hiện nay theo luật định là của cơ quan thi hành
án dân sự. Để thi hành quyết định áp dụng BPKCTT một cách nhanh chóng, kịp
thời, nhằm giải quyết nhu cầu khẩn cấp của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo vệ tài
10

sản của đương sự, cơ quan thi hành án dân sự cần có sự hợp tác tích cực với toà án
và các bên đương sự, chủ động tiến hành các thủ tục cần thiết để thi hành quyết định
áp dụng BPKCTT.
- Đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự:
Đương sự có quyền tự định đoạt đối với yêu cầu của họ trong suốt quá trình
giải quyết vụ án KDTM. Đương sự có quyền yêu cầu hoặc không yêu cầu tòa án
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi nó bị xâm phạm. Khi yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nguyên tắc đảm bảo quyền tự định đoạt của
đương sự và những người có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời càng thể hiện rõ nét.
Cụ thể, khi quyền, lợi ích của đương sự bị người khác xâm phạm, cần toà án
có biện pháp can thiệp ngay, họ có quyền tự quyết định làm đơn hay không làm đơn
yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT và toà án chỉ có thể không ra quyết định áp dụng
BPKCTT khi không có yêu cầu của chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp, đặc biệt là
trong vụ án KDTM. BPKCTT chỉ là giải pháp tạm thời nên khi tình trạng khẩn cấp
không còn, Toà án cần tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể thực hiện quyền yêu
cầu toà án thay đổi, bổ sung, huỷ bỏ BPKCTT đã được áp dụng.
- Bảo vệ quyền, lợi ích của các bên đương sự và người liên quan:
Quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và người liên quan trong vụ
án sẽ phát sinh khi toà án áp dụng BPKCTT. Việc áp dụng BPKCTT của toà án
không phải để bảo vệ duy nhất quyền, lợi ích của một bên đương sự có yêu cầu mà
toà án phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giữa các bên đương sự và cả chủ thể
khác không phải là đương sự nhưng có liên quan đến việc áp dụng BPKCTT. Toà
án ra quyết định áp dụng BPKCTT trước hết nhằm mục đích kịp thời bảo vệ bên
đương sự có yêu cầu. Khi áp dụng BPKCTT, toà án cũng phải thực hiện những
hành vi tố tụng do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích của bên bị yêu cầu áp
dụng BPKCTT. Quyền lợi của người bị áp dụng BPKCTT cũng được bảo đảm khi
pháp luật buộc người yêu cầu toà án áp dụng BPKCTT phải thực hiện nghĩa vụ bảo
đảm, phải nộp giá trị tài sản nhất định để nếu sau khi việc yêu cầu áp dụng
BPKCTT là sai thì bồi thường cho người bị áp dụng BPKCTT tại Điều 136
BLTTDS năm 2015. Quy định này được xem là chế tài dân sự đối với những
người đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng, nhằm ngăn chặn tình trạng
lạm quyền của những người có quyền yêu cầu. Pháp luật còn quy định các chủ thể
có quyền khiếu nại, kiến nghị về việc áp dụng BPKCTT. Việc xem xét, quyết định
11

áp dụng BPKCTT của toà án cần phải được cân nhắc, xem xét theo nguyên tắc bảo
đảm hài hòa quyền, lợi ích của các bên đương sự và người liên quan đến vụ án dân
sự, không thể vì đáp ứng yêu cầu khẩn cấp của một bên đương sự mà bỏ qua quyền,
lợi ích của các bên đương sự còn lại trong vụ án.
- Bảo đảm sự tương xứng với yêu cầu của người có quyền yêu cầu Toà án áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Toà án xem xét áp dụng BPKCTT nào phải dựa vào yêu cầu của các chủ thể
yêu cầu để áp dụng sao cho vừa phù hợp, hiệu quả, đảm bảo tôn trọng quyền tự
định đoạt của người yêu cầu và phải áp dụng tương xứng với mức độ nghĩa vụ phải
thi hành. Theo quy định tại Điều 113 BLTTDS năm 2015, toà án phải bồi thường
nếu như quyết định áp dụng BPKCTT không đúng do áp dụng biện pháp khác so
với biện pháp được yêu cầu hoặc vượt quá yêu cầu của chủ thể yêu cầu. Như vậy,
khi các chủ thể có quyền yêu cầu đưa ra mức cần phải thi hành thì toà án cần phải
xem xét để có quyết định áp dụng BPKCTT tương xứng với mức độ thi hành nghĩa
vụ.
1.1.4.2. Nguyên tắc riêng
- Đối với chủ thể yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Điều 111 BLTTDS năm 2015 quy định về quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời: “đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự
hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 6 của Bộ luật
này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện
pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này để tạm thời giải

6
Điều 187: Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công
cộng và lợi ích của Nhà nước
1. Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo
quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
2. Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo quy định của
pháp luật.
3. Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
4. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu
cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định
của pháp luật.
5. Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác
theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
12

quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập
chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không
thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.”. Đối
chiếu với các quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 187 quy định về quyền khởi
kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công
cộng và lợi ích của Nhà nước thì có thể loại bỏ được chủ thể có quyền yêu cầu Tòa
án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong giải quyết vụ án KDTM là cơ
quan, tổ chức khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Vì các dấu hiệu, đặc điểm của các vụ án tranh chấp KDTM không thỏa mãn theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 187 BLTTDS 2015. Vì thế, chủ thể có quyền
yêu cầu Tòa án áp dụng các BPKCTT trong giải quyết vụ án tranh chấp KDTM tại
Tòa án chỉ có thể là đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự.
- Tòa án tự động áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Theo quy định tại Điều 135 BLTTDS 2015 quy định về việc Toà án tự mình
ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì: “Toà án tự mình ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5
Điều 114 của Bộ luật này trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời.”. Theo đó, quy định tại các khoản 1,2,3,4 và 5 Điều
114 thì đây không phải là BPKCTT được áp dụng trong giải quyết vụ án tranh chấp
KDTM mà đa phần là được áp dụng trong vụ án tranh chấp dân sự về hôn nhân gia
đình, bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm hay vụ án lao động.
Điều này có thể khẳng định rằng tòa án không thể tự mình ra quyết định áp dụng
BPKCTT trong vụ án KDTM dựa trên đơn yêu cầu của đương sự. Xuất phát từ sự
tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong những tranh chấp về KDTM mà
đương sự có quyền yêu cầu hoặc không yêu cầu trong trường hợp cho rằng quyền
và lợi ích hợp pháp của mình có thể bị xâm hại. Mặc khác, do những quy định trong
BLTTDS trên cơ sở được áp dụng chung cho việc giải quyết những tranh chấp về
dân sự theo nghĩa rộng nói chung, hôn nhân và gia đình, KDTM, lao động cho nên
có những quy định được áp dụng cho tất cả các tranh chấp và những quy định chỉ
được áp dụng trong một số tranh chấp nhất định. Đương sự trong tranh chấp KDTM
thì chủ yếu vì mục đích lợi nhuận và quyền và lợi ích liên quan đến tài sản do đó
trước tiên và duy nhất cần phải dựa trên yếu tố tự định đoạt của đương sự.
13

- Xét trên gốc độ lợi ích tranh chấp:


Đặc thù của tranh chấp KDTM đó là giá trị tài sản tranh chấp thường tương
đối lớn và tài sản thường không cố định, dễ thay đổi nên nhu cầu bảo toàn tài sản để
bảo đảm khả năng thi hành án là cấp thiết, tính đặc thù tìm kiếm lợi nhuận và khai
thác tối đa vốn, tài sản để làm phát sinh lợi nhuận của nhà kinh doanh nên không
thể áp dụng BPKCTT một cách tùy tiện, hậu quả thiệt hại có thể phát sinh rất lớn về
yếu tố vật chất và phi vật chất. Do đó, việc cẩn trọng trong việc xem xét áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng được đặt ra cấp thiết, giá trị tài sản tranh chấp và
mục đích lợi nhuận đã làm nên điểm khác biệt đặc trưng của vụ án tranh chấp
KDTM so với các loại tranh chấp khác. Bên cạnh đó, việc bị áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời không đúng thì dẫn đến sản xuất kinh doanh bị đình trệ, gây ảnh
hưởng đến công ăn việc làm của người lao động tác động xấu đến môi trường kinh
doanh, đến các doanh nghiệp khác và cả nền kinh tế, do đó sẽ gây ra những hậu quả
về kinh tế và xã hội. Vì thế cần đánh giá đúng hậu quả trước khi áp dụng BPKCTT
trong tranh chấp KDTM.
1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.2.1. Biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015
Biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được quy
định tại Chương VIII, bao gồm 32 điều luật, là cơ sở pháp lý quan trọng cho toà án
trong việc quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để đáp ứng yêu cầu cấp
bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, đảm bảo cho việc xét xử và thi hành án. Trong
đó, quy định khá chặt chẽ về điều kiện, trình tự, thủ tục, kiến nghị, khiếu nại… liên
quan đến áp dụng BPKCTT.
* Biện pháp khẩn cấp tạm thời nói chung trong tố tụng dân sự:
1. Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
2. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng.
3. Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng,
sức khoẻ bị xâm phạm.
4. Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh
14

nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho
người lao động.
5. Tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động,
quyết định sa thải người lao động.
6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.
7. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
9. Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác.
10. Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà
nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.
11. Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
12. Cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định.
13. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ.
14. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.
15. Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.
16. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
17. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định.
* Biện pháp khẩn cấp tạm thời thường được áp dụng trong giải quyết tranh
chấp KDTM. Trong giải quyết tranh chấp KDTM, do đặc thù về lợi ích tranh chấp
và chủ thể tham gia nên thường áp dụng một số BPKCTT sau:
1.2.1.1. Biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp
Kê biên tài sản được xem là biện pháp cưỡng chế nhà nước do tòa án quyết
định áp dụng, buộc người đang giữ tài sản tranh chấp không được chuyển dịch, tẩu
tán hay phá hủy tài sản đang có tranh chấp. BPKCTT này được quy định tại khoản 6
Điều 114 BLTTDS và điều kiện áp dụng biện pháp này được quy định tại Điều 120
BLTTDS năm 2015. Theo quy đó, BPKCTT kê biên tài sản tranh chấp chỉ được tòa
án quyết định áp dụng “nếu trong quá trình tòa án giải quyết vụ án có căn cứ cho
thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản”. Do
đó, việc áp dụng BPKCTT này phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Thứ nhất: Chỉ áp dụng đối với tài sản đang có tranh chấp. Những tài sản
không phải là tài sản tranh chấp hoặc những tài sản chỉ liên quan đến tài sản tranh
chấp sẽ không nằm trong phạm vi kê biên. Từ quy định này cho thấy nếu đương sự
là người có nghĩa vụ và đương sự có tài sản để thi hành nghĩa vụ đó nhưng tài sản
đó không phải là tài sản tranh chấp thì tài sản đó không thể bị kê biên.
15

- Thứ hai: Tòa án quyết định áp dụng biện pháp kê biên tài sản khi “có căn cứ
cho thấy người đang giữ tài sản có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp”.
Điều 120 BLTTDS năm 2015 quy định là “có căn cứ cho thấy người đang giữ tài
sản có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp” chứ không phải là “người đang
giữ tài sản có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp” nhưng vẫn tạo ra những
cách hiểu khác nhau. Do đó, BPKCTT kê biên sẽ được áp dụng khi mà hành vi tẩu
tán, hủy hoại tài sản tranh chấp chưa xảy ra trên thực tế, mới chỉ có căn cứ cho thấy
các hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản tranh chấp sẽ xảy ra nên cần áp dụng ngay biện
pháp kê biên.
1.2.1.2. Biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh
chấp
Tòa án buộc người đang giữ tài sản tranh chấp không được thay đổi, chuyển
đổi quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. Biện pháp này được quy định
tại khoản 7 Điều 114 BLTTDS năm 2015 và điều kiện áp dụng BPKCTT này được
quy định tại Điều 121 BLTTDS năm 2015, theo đó chỉ được áp dụng nếu “trong
quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài
sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang
tranh chấp cho người khác”. Như vậy, việc cấm chuyển dịch quyền về tài sản chỉ
được phép áp dụng đối với những tài sản tranh chấp và tòa án quyết định áp dụng
biện pháp này phải là có căn cứ cho thấy người đang giữ tài sản tranh chấp có hành
vi chuyển dịch quyền về tài sản tranh chấp cho người khác nhằm trốn tránh nghĩa
vụ của họ, quyền đối với tài sản tranh chấp đang có nguy cơ bị chuyển dịch, cần
phải ngăn chặn việc chuyển dịch để bảo toàn tài sản tranh chấp. Nhằm đảm bảo tài
sản để thi hành án.
1.2.1.3. Biện pháp cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp
Tòa án buộc người đang giữ tài sản tranh chấp phải giữ nguyên hiện trạng bên
ngoài, vốn có của tài sản tranh chấp bởi việc thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp
sẽ làm thay đổi giá trị của tài sản tranh chấp. Điều này được quy định tại khoản 8
Điều 114 BLTTDS năm 2015 và điều kiện áp dụng quy định tại Điều 122 BLTTDS
năm 2015. Đối với tài sản tranh chấp, có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu
hoặc giữ tài sản đang tranh chấp này có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm
hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó, làm thay đổi giá trị tài sản
tranh chấp nên tòa án buộc người có hành trên phải ngừng ngay lập tức những hành
vi đó để bảo toàn tài sản, giữ nguyên giá trị tài sản tranh chấp. Về điều kiện áp dụng
16

biện pháp này có thể nhận thấy trong tình trạng khẩn cấp khi người đang chiếm giữ
tài sản có hành vi thay đổi hiện trạng vốn có của tài sản tranh chấp. Do đó, hành vi
thay đổi hiện trạng vốn có của tài sản tranh chấp đã được thực hiện, tài sản tranh
chấp đã bị thay đổi hiện trạng, quyết định của tòa án về việc cấm thay đổi hiện trạng
chỉ có ý nghĩa buộc dừng hành vi làm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp chứ
không có ý nghĩa ngăn ngừa hành vi làm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp.
1.2.1.4. Biện pháp cho thu hoạch, bán hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa khác
Tòa án buộc một bên đương sự trong vụ tranh chấp phải thu hoạch, cho bán
hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác nếu tài sản đang tranh chấp hoặc tài sản liên
quan đến tài sản tranh chấp là hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa nông nghiệp khác ở
thời kỳ thu hoạch hoặc không thể bảo quản được lâu dài. Việc không kịp thời cho
thu hoạch, không kịp thời cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác thì tài
sản tranh chấp, tài sản liên quan đến tài sản tranh chấp sẽ hư hỏng, không còn giá
trị, gây lãng phí và không đảm bảo cho khả năng thi hành án. Những tài sản bị áp
dụng biện pháp này phải được bảo quản và bán theo các phương thức do pháp luật
quy định, diều này được quy định tại Điều 123 BLTTDS năm 2015.
1.2.1.5. Biện pháp phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng
khác, kho bạc nhà nước
Có thể hiểu phong tỏa là “việc cô lập tài sản, cấm chuyển dịch, sử dụng, hủy
hoại tài sản sau khi đã xác định được loại, số lượng, đặc điểm, giá trị tài sản” 7. Biện
pháp này được quy định tại Điều 123 BLTTDS năm 2015, theo đó tòa án buộc ngân
hàng, tổ chức tín dụng khác hoặc tại kho bạc nhà nước cô lập, không cho chuyển
dịch tài sản của đương sự có trong tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác
hoặc tại kho bạc nhà nước, mọi giao dịch thực hiện đối với tài sản đó đều là vô hiệu.
Biện pháp này chỉ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho
thấy người có nghĩa vụ có tài khoản mở tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác hoặc
tại kho bạc nhà nước và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để đảm bảo cho
việc giải quyết vụ án hoặc đảm bảo cho việc thi hành án. Biện pháp này được áp
dụng với tất cả những tài sản có khả năng thi hành nghĩa vụ chứ không phải là đối
với tài sản đang có tranh chấp và do tình thế khẩn cấp là cần phải bảo toàn ngay tài
khoản của người có nghĩa vụ nhằm bảo đảm thi hành án.
1.2.1.6. Biện pháp phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ
7
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư
pháp, Hà nội, tr 621.
17

Tòa án cô lập tài sản của người có nghĩa vụ đang do người khác giữ, buộc
người đang giữ tài sản của đương sự không được chuyển dịch tài sản đó cho người
khác. Đây là việc tòa án cô lập những tài sản của đương sự không phải do ngân
hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước giữ mà do một cá nhân, tổ chức khác
giữ. Điều kiện áp dụng biện pháp này được quy định tại Điều 125 BLTTDS năm
2015, theo đó, chỉ có thể áp dụng biện pháp phong tỏa này “nếu trong quá trình giải
quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện
pháp này là cần thiết để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc đảm bảo cho việc
thi hành án”. Sau khi tòa án ra quyết định phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ thì mọi
giao dịch đối với tài sản có ở nơi gửi giữ bị ngừng lại, người đang giữ tài sản đó
không được chuyển dịch tài sản đó cho đến khi có quyết định của tòa án.
1.2.1.7. Biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ
Tòa án cô lập tài sản của đương sự có nghĩa vụ và hiện do chính họ nắm giữ,
buộc không được chuyển dịch tài sản đó cho người khác. Điều kiện áp dụng
BPKCTT này được quy định tại Điều 126 BLTTDS năm 2015, theo đó, có căn cứ
cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để
đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc đảm bảo cho việc thi hành án. Sau khi tòa
án đã phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ đang do chính họ nắm giữ, mọi giao
dịch đối với tài sản đó đều là vô hiệu, người có nghĩa vụ phải ngừng mọi giao dịch
cho đến khi có quyết định mới của tòa án về những tài sản bị phong tỏa.
1.2.1.8. Biện pháp cấm hoặc buộc thực hiện một số hành vi nhất định
Tòa án không cho đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác trong vụ
kiện dân sự thực hiện một số hành vi nhất định hoặc bắt buộc đương sự hoặc cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác trong vụ kiện dân sự phải thực hiện một số hành vi nhất
định. Điều kiện áp dụng biện pháp này được quy định tại Điều 127 BLTTDS năm
2015. Đây là biện pháp nhằm ngăn chặn khả năng đương sự thực hiện hoặc không
thực hiện hành vi làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hoặc ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích của người khác nhưng hầu như trên thực tế, đương sự đã thực hiện
hoặc đã không thực hiện hành vi không đúng đó nhưng với điều kiện là phải “có căn
cứ cho thấy có đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác đã thực hiện hoặc
không thực hiện hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hoặc
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án
đang được tòa án giải quyết” thì tòa án mới quyết định áp dụng BPKCTT này.
18

1.2.1.9. Bổ sung các Biện pháp khẩn cấp tạm thời


- Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ;
- Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình;
- Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu; -
- Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
1.2.1.10. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định
Ngoài các BPKCTT cụ thể nêu trên, khoản 11 Điều 114 BLTTDS năm 2015
còn quy định tòa án có quyền áp dụng các BPKCTT khác mà pháp luật có quy định.
Ngoài các BPKCTT được quy định trong BLTTDS năm 2015, một số văn bản pháp
luật chuyên ngành khác cũng có quy định về các BPKCTT. Tuy nhiên, nguyên tắc
áp dụng các BPKCTT trong BLTTDS và các BPKCTT trong các văn bản pháp lý
chuyên ngành chưa được quy định rõ. Có thể hiểu linh hoạt là các BPKCTT được
quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành trước hết sẽ được áp dụng trong
giải quyết các vụ việc thuộc lĩnh vực chuyên ngành mà văn bản pháp luật đó điều
chỉnh nhưng khi cần thiết vẫn có thể áp dụng BPKCTT không được quy định trong
văn bản pháp lý chuyên ngành nhưng được quy định trong BLTTDS trong giải
quyết vụ việc chuyên ngành đó.
1.2.2. Biện pháp khẩn cấp tạm thời theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 so
với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
1.2.2.1. So sánh BPKCTT của BLTTDS năm 2015 và BLTTDS năm 2004
BLTTDS năm 2015 BLTTDS năm 2004
1. Giao người chưa thành niên, 1. Giao người chưa thành niên
người mất năng lực hành vi dân sự, cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom,
người có khó khăn trong nhận thức, làm nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục.
2. Buộc thực hiện trước một phần 2. Buộc thực hiện trước một phần
nghĩa vụ cấp dưỡng. nghĩa vụ cấp dưỡng.
3. Buộc thực hiện trước một phần 3. Buộc thực hiện trước một phần
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính
mạng, sức khoẻ bị xâm phạm. mạng, sức khỏe bị xâm phạm.
4. Buộc người sử dụng lao động 4. Buộc người sử dụng lao động
19

tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc
chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ
cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp cho người lao động.
5. Tạm đình chỉ thi hành quyết 5. Tạm đình chỉ việc thi hành
định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao quyết định sa thải người lao động.
động, quyết định sa thải người lao động.
6. Kê biên tài sản đang tranh chấp. 6. Kê biên tài sản đang tranh
chấp.
7. Cấm chuyển dịch quyền về tài 7. Cấm chuyển dịch quyền về tài
sản đối với tài sản đang tranh chấp. sản đối với tài sản đang tranh chấp.
8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản 8. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản
đang tranh chấp. đang tranh chấp.
9. Cho thu hoạch, cho bán hoa 9. Cho thu hoạch, cho bán hoa
màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác. màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác.
10. Phong tỏa tài khoản tại ngân 10. Phong tỏa tài khoản tại ngân
hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhàhàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc
nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ. nhà nước; phong tỏa tài sản ở nơi gửi
giữ.
11. Phong tỏa tài sản của người có 11. Phong tỏa tài sản của người có
nghĩa vụ. nghĩa vụ.
12. Cấm hoặc buộc thực hiện hành 12. Cấm hoặc buộc đương sự thực
vi nhất định. hiện hành vi nhất định.
13. Cấm xuất cảnh đối với người
có nghĩa vụ.
14. Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo
lực gia đình.
15. Tạm dừng việc đóng thầu và
các hoạt động có liên quan đến việc đấu
thầu.
16. Bắt giữ tàu bay, tàu biển để
20

bảo đảm giải quyết vụ án.


17. Các biện pháp khẩn cấp tạm 13. Các biện pháp khẩn cấp tạm
thời khác mà luật có quy định. thời khác mà pháp luật có quy định.

1.2.2.2. Những điểm mới của BLTTDS năm 2015 so với BLTTDS năm 2004 về
BPKCTT
- Điều 111 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời. Khoản 1 điều này quy định theo hướng mở rộng mục đích yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cụ thể: “Trong quá trình giải quyết vụ án,
đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân
khởi kiện vụ án quy định (sẽ đề cập sau) có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết
vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời để tạm thời giải
quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập
chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không
thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.”
- Điều 113 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định thêm trách nhiệm do áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng. Theo đó, khoản 2, 3 điều này quy
định:
+ Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho
người bị áp dụng biện pháp này hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường
thiệt hại, đó là trường hợp: Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng
thời hạn theo quy định pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
mà không có lý do chính đáng.
+ Việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo Luật trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước.
- Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 bổ sung các BPKCTT sau:
+ Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ.
+ Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình.
+ Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.
+ Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
- Điều 130 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015: Quy định bổ sung tạm dừng việc
đóng thầu, phê duyệt danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, ký kết
hợp đồng, thực hiện hợp đồng được áp dụng nếu quá trình giải quyết vụ án cho thấy
21

việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án theo
đúng quy định pháp luật.
- Điều 131 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 quy định bổ sung:
+ Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu bay để
bảo đảm giải quyết vụ án dân sự mà vụ án đó do chủ sở hữu tàu bay, chủ nợ trong
trường hợp tàu bay là tài sản bảo đảm, người bị thiệt hại do tàu bay đang bay gây ra
hoặc người có quyền, lợi ích liên quan đối với tàu bay khởi kiện theo quy định pháp
luật về hàng không dân dụng Việt Nam.
Tòa án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển trong
các trường hợp sau:
+ Tàu biển bị yêu cầu bắt giữ để bảo đảm việc giải quyết khiếu nại hàng hải
mà người yêu cầu bắt giữ tàu biển đã khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án.
+ Chủ tàu là người có nghĩa vụ về tài sản trong vụ án đang giải quyết và vẫn
là chủ tàu tại thời điểm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển.
+ Người thuê tàu trần, người thuê tàu định hạn, người thuê tàu chuyến hoặc
người khai thác tàu là người có nghĩa vụ về tài sản trong vụ án dân sự phát sinh từ
khiếu nại hàng hải theo Bộ luật Hàng hải Việt Nam và vẫn là người thuê tàu trần,
người thuê tàu định hạn, người thuê tàu chuyến, người khai thác tàu hoặc là chủ tàu
tại thời điểm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển.
+ Tranh chấp đang được giải quyết trong vụ án phát sinh trên cơ sở của việc
thế chấp tàu biển đó.
+ Tranh chấp đang được giải quyết trong vụ án liên quan đến quyền sở hữu
hoặc quyền chiếm hữu tàu biển đó.
- Điều 136 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015: bổ sung biện pháp bảo đảm và quy
định chi tiết như sau:
Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau
phải nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng
hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một
khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng phải
tương đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu về:
+ Kê biên tài sản đang tranh chấp.
22

+ Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
+ Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
+ Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước;
phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ.
+ Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
+ Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu.
+ Bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
Đối với trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn
chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm
không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu.
- Điều 138 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 bổ sung việc Tòa án ra ngay quyết
định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng:
+ Việc giải quyết vụ án được đình chỉ theo BLTTDS 2015.
+ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng theo BLTTDS
2015.
+ Căn cứ của việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn.
+ Vụ việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật.
+ Các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo BLTTDS 2015.
Tương ứng biện pháp bảo đảm được bổ sung thì khi hủy bỏ áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời cũng bổ sung thêm khoản nhận lại, đó là chứng từ bảo lãnh được
bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác: Trường hợp hủy
bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, Tòa án phải xem xét, quyết định để người yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhận lại chứng từ bảo lãnh được bảo đảm
bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc khoản tiền, kim khí
quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá quy định, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba.
Bổ sung quy định thủ tục ra quyết định hủy bỏ: thủ tục ra quyết định hủy bỏ
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện theo quy định về thủ tục
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật thì việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán được Chánh án của Tòa án đã ra quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phân công giải quyết.
23

- Điều 142 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 bổ sung cụm từ “quyền sử dụng” vào
quy định sau: Trường hợp quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với
tài sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì đương sự có nghĩa vụ nộp bản
sao quyết định cho cơ quan quản lý đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng.
1.2.3. Quy định về đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan khi áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Trách nhiệm của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
đúng:
Khoản 1 Điều 113 BLTTDS năm 2015 quy định “Người yêu cầu tòa án áp
dụng BPKCTT phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trong
trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp
dụng BPKCTT hoặc người thứ ba thì phải bồi thường”. Đây là quy định mới so với
BLTTDS năm 2004, thể hiện sự tiến bộ đáng kể trong pháp luật dân sự.
- Trách nhiệm của tòa án khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không
đúng:
Quy định về trách nhiệm của tòa án trong việc áp dụng BPKCTT buộc tòa
phải cân nhắc, không lạm dụng, tùy tiện khi thực hiện thẩm quyền áp dụng
BPKCTT. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường của tòa án trong việc áp dụng
BPKCTT không đúng phải được dựa trên những căn cứ pháp lý phù hợp. Khoản 2
Điều 113 BLTTDS năm 2015 quy định: “Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
hoặc cho người thứ ba thì Tòa án phải bồi thường nếu thuộc một trong các trường
hợp sau đây:
a) Tòa án tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
b) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp
tạm thời mà cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu;
c) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
d) Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn theo quy
định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có
lý do chính đáng.”. Chỉ xem xét đến trường hợp trách nhiệm bồi thường của tòa án
khi tòa án quyết định tự áp dụng BPKCTT trong các trường hợp nêu trên. Nếu tòa
án tự ý áp dụng BPKTT không đúng, hoặc tự ý áp dụng BPKTT khác hoặc vượt quá
24

mức độ mà người yêu cầu đề nghị, gây ra thiệt hại thì tòa án phải chịu trách nhiệm
bồi thường.
1.2.4. Quy định về yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Chủ thể có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Khoản 1 Điều 111 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trong quá trình giải quyết
vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá
nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa
án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời
….”. Do đặc điểm đặc thù nên trong vụ án KDTM thì chỉ có đương sự, người đại
diện hợp pháp của đương sự có quyền yêu cầu tòa án đang giải quyết vụ án đó áp
dụng một hoặc nhiều BPKCT.
- Thời điểm được yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Theo Điều 111 BLTTDS năm 2015, thời điểm được yêu cầu áp dụng
BPKCTT sớm nhất là thời điểm cùng với việc nộp đơn khởi kiện.
- Thủ tục nộp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và các chứng
cứ chứng minh cho yêu cầu :
Theo quy định tại khoản 1 Điều 133 BLTTDS, “người yêu cầu tòa án áp dụng
BPKCTT phải làm đơn gửi đến tòa án có thẩm quyền...”. Đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT sẽ là cơ sở pháp lý phát sinh quy trình tố tụng giải quyết yêu cầu áp dụng
BPKCTT. Đặc biệt là đối với việc giải quyết các tranh chấp thương mại, tòa án chỉ
được quyết định áp dụng BPKCTT khi có đơn yêu cầu của người có quyền yêu cầu.
Đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT phải có những nội dung quy định tại Điều 133 này,
quy định này là cần thiết, nhằm đảm bảo tính minh bạch trong thủ tục áp dụng
BPKCTT.
1.2.5. Quy định về giải quyết yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1.2.5.1. Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại Điều 112 BLTTDS, việc xem xét ra quyết định áp dụng
BPKCTT trong giải quyết vụ án tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền tòa án. Thẩm
quyền quyết định áp dụng BPKCTT sẽ được xác định theo từng thời điểm tố tụng:
+ Trước khi mở phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT do một
thẩm phán xem xét, quyết định.
+ Tại phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ BPKCTT do HĐXX xem xét,
quyết định.
25

Thẩm quyền quyết định áp dụng BPKCTT được xác định tùy vào từng thời
điểm tố tụng trong quá trình giải quyết VADS, có thể là thẩm phán được Chánh án
chỉ định (nếu chưa thụ lý vụ án), có thể là thẩm phán được Chánh án phân công giải
quyết VADS (nếu đã thụ lý vụ án nhưng trước khi mở phiên tòa xét xử), có thể là
HĐXX (nếu tại phiên tòa).
1.2.5.2. Việc xem xét, giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời
Sau khi nhận được đơn yêu cầu hợp lệ, tòa án tiến hành thụ lý vụ án sẽ xem
xét, giải quyết đơn yêu cầu áp dụng PKCTT. Theo quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều
134 BLTTDS năm 2015 việc tiếp tục xem xét đơn được thực hiện theo từng trường
hợp sau:
- Thứ nhất: Đối với những trường hợp có đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT theo
quy định tại khoản 1 Điều 111 BLTTDS năm 2015 và đơn đó được nộp vào thời
điểm trước khi mở phiên tòa thì thẩm phán được Chánh án phân công giải quyết vụ
án có quyền xem xét, giải quyết. Thẩm phán được phân công sẽ xem xét đơn yêu
cầu áp dụng BPKCTT và các chứng cứ kèm theo chứng minh cho sự cần thiết phải
áp dụng BPKCTT đó. Nếu đơn yêu cầu chưa làm đúng quy định tại khoản 1 Điều
133 BLTTDS năm 2015 thì thẩm phán yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu. Trong
thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực
hiện biện pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện xong biện pháp bảo
đảm quy định tại Điều 136 của Bộ luật này thì Thẩm phán phải ra ngay quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán
phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu.
Sau khi xem xét đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, nếu thẩm phán được phân
công nhận thấy yêu cầu áp dụng BPKCTT là không có căn cứ, không cần thiết,
thẩm phán sẽ không chấp nhận yêu cầu áp dụng BPKCTT. Việc không chấp nhận
yêu cầu áp dụng BPKCTT của tòa án phải được thông báo bằng văn bản, trong đó
nêu rõ lý do của việc không chấp nhận. Ngược lại, nếu yêu cầu áp dụng BPKCTT là
có căn cứ thì thẩm phán sẽ chấp nhận, sau đó xét xem người có đơn yêu cầu có
thuộc diện phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm hay không. Việc xem xét, xác minh về
yêu cầu áp dụng BPKCTT của tòa án là rất quan trọng bởi quyết định của tòa án về
việc áp dụng hay không áp dụng BPKCTT sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền, lợi ích
của các bên đương sự. Nếu xác minh tài sản bị yêu cầu áp dụng BPKCTT không
26

cẩn thận thì cho dù chỉ có tính tạm thời nhưng quyết định áp dụng BPKCTT của tòa
án cũng gây ra nhiều hậu quả pháp lý không tốt.
Đương sự nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT theo khoản 1 Điều 111
BLTTDS năm 2015 vào thời điểm tại phiên tòa thì HĐXX sẽ xem xét giải quyết
đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT. HĐXX sẽ xem xét đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT
và các chứng cứ kèm theo, thảo luận tại phòng xử án để thống nhất có quyết định áp
dụng BPKCTT hay không.
Nếu chấp nhận thì Hội đồng xét xử ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời ngay hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy
định tại Điều 136 của Bộ luật này. Việc thực hiện biện pháp bảo đảm được bắt đầu
từ thời điểm Hội đồng xét xử ra quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm,
nhưng người yêu cầu phải xuất trình chứng cứ về việc đã thực hiện xong biện pháp
bảo đảm trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án; nếu không chấp nhận yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng xét xử phải thông báo ngay
tại phòng xử án và ghi vào biên bản phiên tòa.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 133 và Điều 136 BLTTDS năm 2015, người
đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm nếu như
BPKCTT mà họ yêu cầu là kê biên tài sản tranh chấp, cấm chuyển dịch quyền về tài
sản tranh chấp, cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp, cho thu hoạch, cho bán
hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa khác, phong tỏa tài khoản hoặc phong tỏa tài sản
của người có nghĩa vụ. Nếu xét thấy người có yêu cầu áp dụng BPKCTT phải thực
hiện nghĩa vụ bảo đảm thì thẩm phán sẽ ấn định một khoản tiền, kim khí quý, đá
quý hoặc giấy tờ có giá, tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người có nghĩa vụ
phải thực hiện để yêu cầu họ gửi tại ngân hàng nhằm bảo vệ lợi ích của người bị áp
dụng BPKCTT. Trước khi ấn định, thẩm phán được phân công giải quyết yêu cầu
áp dụng BPKCTT phải giải thích cho người có yêu cầu biết trách nhiệm của họ
được quy định tại Điều 113 BLTTDS năm 2015.
- Thứ hai: Đối với những trường hợp có đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT theo
khoản 2 Điều 111 BLTTDS năm 2015, tức là nộp đơn yêu cầu cùng với thời điểm
nộp đơn khởi kiện thì sau khi nhận đơn và các chứng cứ kèm theo, Chánh án phải
chỉ định ngay một thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Thẩm phán được phân
công phải xem xét yêu cầu đó, nếu thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì phải xét xem
người có yêu cầu có thuộc diện phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm hay không. Nếu
người có yêu cầu phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm thì thẩm phán phải yêu cầu họ
27

thực hiện. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm
phán phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu
không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý
do cho người yêu cầu biết. Việc bắt buộc người có yêu cầu áp dụng BPKCTT phải
thực hiện biện pháp bảo đảm là thủ tục cần thiết của thủ tục áp dụng BPKCTT, hạn
chế tình trạng lạm quyền của người có quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT.
Theo quy định tại Điều 136 BLTTDS năm 2015, người yêu cầu áp dụng
BPKCTT “Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các biện pháp khẩn cấp tạm
thời quy định tại các khoản 6, 7, 8, 10, 11, 15 và 16 Điều 114 của Bộ luật này phải
nộp cho Tòa án chứng từ bảo lãnh được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng hoặc
tổ chức tín dụng khác hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc gửi một khoản
tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Tòa án ấn định nhưng phải tương
đương với tổn thất hoặc thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu.”. Với quy định tại này đòi
hỏi Tòa án phải phải dự tính thiệt hại thực tế có thể xảy ra trước khi áp dụng biện
pháp bảo đảm. Quy định này là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, đồng thời có tác dụng ngăn ngừa tình trạng người có
quyền yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời lạm dụng quyền này.
Tuy nhiên không phải người nào đưa ra yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời đều phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Điều 136 BLTTDS năm 2015
đã quy định rõ những trường hợp người đưa ra yêu cầu phải thực hiện biện pháp
bảo đảm như kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối
với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; phong
tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; phong tỏa tài
sản của người có nghĩa vụ, bắt giữ tàu bay, tàu biển để đảm bảo giải quyết vụ án,
các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định. Khoản tiền, kim khí quý,
đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng nơi
có trụ sở của toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thời hạn
do toà án ấn định. Đối với những trường hợp khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng
chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra theo khoản 2 Điều 111
BLTTDS năm 2015 thì thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm này không quá 48
giờ, kể từ thời điểm nộp đơn yêu cầu. Nếu việc thực hiện biện pháp bảo đảm vào
28

ngày lễ, ngày nghỉ, khoản tiền thực hiện biện pháp bảo đảm sẽ được giữ lại toà án.
Toà án phải làm thủ tục giao nhận và gửi ngay khoản tiền đó vào ngân hàng trong
ngày làm việc tiếp theo.
1.2.5.3. Ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Sau khi xem xét đơn cùng với những bằng chứng chứng minh cho sự cần thiết
phải áp dụng BPKCTT, người có yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện xong biện
pháp bảo đảm thì tòa án ra quyết định áp dụng BPKCTT. Việc ra quyết định áp
dụng BPKCTT được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 133 BLTTDS năm
2015. Đối với những trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT theo khoản 1 Điều 11
BLTTDS năm 2015 mà yêu cầu này được đặt ra sau khi tòa án đã thụ lý vụ án
nhưng trước khi mở phiên tòa thì thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ ra
quyết định áp dụng BPKCTT trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận đơn nếu người
yêu cầu áp dụng BPKCTT không phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Nếu người yêu
cầu áp dụng BPKCTT phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm thì thẩm phán phải ra quyết
định áp dụng BPKCTT ngay sau khi người yêu cầu thực hiện xong biện pháp bảo
đảm. Còn tại phiên tòa mới đưa ra yêu cầu áp dụng BPKCTT thì HĐXX sẽ ra quyết
định áp dụng BPKCTT ngay sau khi người yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện
xong nghĩa vụ bảo đảm, nhưng người yêu cầu phải xuất trình chứng cứ về việc đã
thực hiện xong biện pháp bảo đảm trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án.
Theo khoản 3 Điều 133 BLTTDS năm 2015, trường hợp yêu cầu áp dụng BPKCTT
được đưa ra rất khẩn cấp, cùng với đơn khởi kiện (theo khoản 2 Điều 111 BLTTDS)
thì thẩm phán được chánh án phân công xem xét, giải quyết đơn yêu cầu áp dụng
BPKCTT phải ra quyết định áp dụng BPKCTT trong vòng 48 giờ kể từ thời điểm
nhận đựợc đơn yêu cầu. Tải bản FULL (61 trang): https://bit.ly/3ebdkh9
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
1.2.5.4. Thay đổi, bổ sung, hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Quyết định áp dụng BPKCTT được tổ chức thi hành theo quy định của Luật
thi hành án dân sự. Nếu BPKCTT được áp dụng không còn phù hợp, cần thiết phải
có sự thay đổi hoặc áp dụng bổ sung BPKCTT khác thì theo quy định tại Điều 137
BLTTDS năm 2015, thủ tục thay đổi, áp dụng bổ sung BPKCTT khác sẽ được thực
hiện như sau “Khi xét thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng không
còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi hoặc áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp
tạm thời khác thì thủ tục thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời
29

khác được thực hiện theo quy định tại Điều 1338 của Bộ luật này.”. Việc thay đổi,
bổ sung BPKCTT đang áp dụng không còn phù hợp với tình trạng đang được áp
dụng và bổ sung thêm BPKCTT khác là rất cần thiết. Điều này tạo sự linh hoạt
trong việc sử dụng hoặc không tiếp tục sử dụng BPKCTT trong quá trình giải quyết
vụ tranh chấp.
Điều 122 BLTTDS năm 2015 quy định: Tòa án ra ngay quyết định hủy bỏ
BPKCTT đã áp dụng nếu như có một trong những trường hợp như sau “Người yêu
cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị hủy bỏ; Người phải thi hành
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác
thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu; Nghĩa vụ
dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của Bộ luật dân sự; Việc giải
quyết vụ án được đình chỉ theo quy định của Bộ luật này; Quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời không đúng theo quy định của Bộ luật này; Căn cứ của việc
Tải bản FULL (61 trang): https://bit.ly/3ebdkh9
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
8
Điều 133. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền. Đơn yêu cầu
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
c) Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
d) Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
đ) Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
e) Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể.
Tùy theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng
minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
2. Yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 111 của Bộ luật này được
giải quyết như sau:
a) Trường hợp Tòa án nhận đơn yêu cầu trước khi mở phiên tòa thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải
xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện
pháp bảo đảm hoặc ngay sau khi người đó thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 136 của Bộ luật này thì
Thẩm phán phải ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán
phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu;
b) Trường hợp Hội đồng xét xử nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử
xem xét, thảo luận, giải quyết tại phòng xử án. Nếu chấp nhận thì Hội đồng xét xử ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời ngay hoặc sau khi người yêu cầu đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm quy định tại Điều 136 của Bộ luật
này. Việc thực hiện biện pháp bảo đảm được bắt đầu từ thời điểm Hội đồng xét xử ra quyết định buộc thực hiện biện
pháp bảo đảm, nhưng người yêu cầu phải xuất trình chứng cứ về việc đã thực hiện xong biện pháp bảo đảm trước khi Hội
đồng xét xử vào phòng nghị án; nếu không chấp nhận yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng xét xử
phải thông báo ngay tại phòng xử án và ghi vào biên bản phiên tòa.
3. Đối với trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều 111 của Bộ luật này thì
sau khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công ngay một
Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán
phải xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; nếu không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải
thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu biết.
4. Trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 10 và khoản 11 Điều 114 của Bộ luật này thì chỉ
được phong tỏa tài khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện.
30

áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn; Vụ việc đã được giải quyết bằng
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Các trường hợp Tòa án trả
lại đơn khởi kiện theo quy định của Bộ luật này.”. Rõ rang căn cứ ra quyết định
trong trường hợp này có sự mở rộng hơn so với quy định của BLTTDS năm 2004
khi chỉ quy định với ba trường hợp “Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời đề nghị hủy bỏ; Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành
nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu”. Việc quy định thêm những căn cứ hủy bỏ việc áp
dụng BPKTT như trên sẽ giúp quá trình giải quyết vụ án toàn diện hơn. Do tính
khẩn cấp nên quyết định áp dụng BPKCTT là quyết định có ngay hiệu lực, quyết
định này không thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Việc hủy bỏ
BPKCTT đã áp dụng thì tòa án phải xem xét, quyết định để người yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể “nhận lại chứng từ bảo lãnh được bảo đảm
bằng tài sản của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác hoặc khoản tiền, kim khí
quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá” theo quy định tại Điều 136 của BLTTDS năm
2015, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này là “Người yêu
cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về yêu cầu của mình; trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường”.
Việc hủy bỏ BPKCTT được áp dụng cũng được quy định theo một trình tự,
thủ tục hợp lý, theo đó “thủ tục ra quyết định hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời được thực hiện theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này. Trường
hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì việc giải quyết
yêu cầu hủy quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do một Thẩm phán
được Chánh án của Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
phân công giải quyết”. Theo đó, đương sự có yêu cầu hủy bỏ BPKTT đã được áp
dụng phải gửi đơn yêu cầu đến tòa án và phải đúng mẫu quy định theo điều này và
cung cấp các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có cơ sở. Quy định này
là mới so và tiến bộ hơn so với BLTTDS năm 2004 khi quy định rõ trình tự, thủ tục
cho việc yêu cầu hủy quyết định áp dụng BPKTT.
Cũng giống như quyết định áp dụng BPKTT, quyết định thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay, cụ thể Điều 139 BLTTDS năm
2015 quy định “quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời

6681033

You might also like