Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 26

NHÓM 3

Phạm Thị Mai Chi - 11217509


Phạm Ngọc Minh - 11217564
Lê Linh Trang - 11217596
Nguyễn Thị Lan - 11217543
Trần Thu Trang - 11217599
Hà Khánh Huyền – 11212680

ĐỀ BÀI
Câu 1. Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức? Cho ví dụ minh hoạ?
Câu 2. Phân tích mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán? Cho ví dụ minh họa?
BÀI LÀM

A. CÁC KHÁI NIỆM


I. Pháp luật
1. Khái niệm

Pháp luật xuất hiện trong xã hội như là một tất yếu khách quan, phù hợp với
yêu cầu điều chỉnh xã hội cũng như lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật một mặt
là công cụ mà giai cấp thống trị thông qua nhà nước sử dụng để quản lý xã hội,
mặt khác nó là chuẩn mực xử chung, là tổng cộng các quy tắc được cấu tạo từ mối
quan hệ tự nhiên con người và nhu cầu xã hội.

Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt


buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục
tiêu, định hướng cụ thể.

Pháp luật là chuẩn mực xã hội là thước đo của hành vi được hình thành bằng
con đường nhà nước & mang tính quyền lực nhà nước. Pháp luật là hiện tượng lịch
sử có nguồn gốc từ xã hội và là nhân tố trật tự hóa các quan hệ xã hội. Đó là công
cụ mà giai cấp cầm quyền sử dụng để thực hiện chức năng quản lý và hợp pháp
quan hệ thống trị đối với xã hội.
2. Đặc điểm

Đặc điểm của pháp luật thể hiện cầu tính quyền lực của nhà nước, tính quy
phạm phổ biến, tính bắt buộc chung, tính hệ thống thống, tính xác định về hình thức.

2.1. Pháp luật mang tính quyền lực bắt buộc chung.

Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện nghĩa là
pháp luật hình thành bằng con đường nhà nước. Thông qua nhà nước, giai cấp
thống trị xã hội thể hiện và hợp pháp hóa ý chí của mình một cách chính thống trên
thực tế. Việc pháp luật được đảm bảo thực thi trong đời đời sống chính là đảm bảo
cho quyền lực nhà nước được tác động đến mọi thành viên của xã hội. Chính vì
vậy, pháp luật phải thuộc về nhà nước, không tách rời nhà nước, mang tính quyền
lực nhà nước.

Ví dụ: Ở nước ta chỉ có Ủy ban nhân dân mới có thể xem xét để cấp
Giấy chứng nhận kết hôn cho một cặp nam nữ ở địa phương khi họ yêu
cầu, chỉ có Tòa án nhân dân mới có thể áp dụng pháp luật trong xét xử
để định tội và định hình phạt cho người phạm tội…

2.2. Pháp luật có tính quy phạm phổ biến

Các quy định của pháp luật là các khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách xử
sự cho mọi chủ thể trong xã hội. Bất kỳ ai, ở vào điều kiện, hoàn cảnh pháp luật đã dữ
liệu đều xử sự theo cách thức mà pháp luật đã nêu ra. Dựa trên cơ sở các quy định của
pháp luật các chủ thể trong xã hội biết được làm gì, không được làm gì hoặc làm như
thế nào ở vào điều kiện, hoàn cảnh pháp luật đã dữ liệu. Pháp luật luôn là tiêu chuẩn,
khuôn mẫu để đánh giá hành vi của con người là hợp pháp hay không hợp pháp. Đây
là ranh giới để phân biệt luật pháp với các loại quy phạm xã hội khác.

Mỗi quy tắc xử sự thường được thể hiện thành một quy phạm pháp luật. Tính
quy phạm phổ biến này làm nên giá trị công bằng, bình đẳng của pháp luật, vì ai ở
bất kì điều kiện, hoàn cảnh nhất định cũng xử sự theo khuôn mẫu được pháp luật quy
định.

Ví dụ, Luật Giao thông đường bộ quy định: chấp hành hiệu lệnh của
người điều khiển giao thông hoặc chỉ dẫn của đèn tín hiệu biển báo
hiệu vạch kẻ đường…. là quy tắc mà mọi người tham gia giao thông
đường bộ đều phải tuân theo, dù là người đi bộ, đi xe đạp, xe gắn máy,
điều khiển ô tô hay xe súc vật kéo. Ai không tuân thủ quy tắc đều là vi
phạm pháp luật.

Luật hôn nhân và gia đình quy định các điều kiện kết hôn giữa nam và
nữ: phải đạt độ tuổi nhất định, tự nguyện kết hôn, không bị mất năng
lực hành vi dân sự, không vi phạm các trường hợp cấm kết hôn. Các
điều kiện này áp dụng cho tất cả mọi người không có ngoại lệ. Những
trường hợp vi phạm dù chỉ một trong các điều kiện trên đều là kết hôn
trái pháp luật.

2.3. Pháp luật có tính bắt buộc chung

Giai cấp thống trị thông qua nhà nước thừa nhận hoặc đặt ra quy tắc xử sự
chung là pháp luật không phải chỉ để áp dụng với các chủ thể đơn lẻ mà còn có giá
trị áp dụng đối với mọi thành viên trong toàn xã hội tương ứng với các điều kiện
hoàn cảnh cụ thể. Pháp luật có giá trị bắt buộc thực hiện đối với mọi chủ thể trong xã
hội, bất kỳ chủ thể nào khi ở các điều kiện hoàn cảnh quy phạm đã dữ liệu đều phải
thực hiện theo đúng yêu cầu của pháp luật Đây là đặc điểm phân biệt sự khác nhau
giữa pháp luật và quy phạm đạo đức. Những người sử dụng không đúng với quy
định của pháp luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần
cần thiết kể cả cưỡng chế để buộc họ phải tuân theo hoặc để khắc phục hậu quả do
việc làm trái pháp luật của họ gây nên.

Ví dụ người không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao
thông hoặc chỉ dẫn của đèn tín hiệu, biển báo, hiệu vạch kẻ đường, vi
phạm quy định về trật tự an toàn giao thông thì bị xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ

2.4. Pháp luật có tính hệ thống

Mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội rất đa dạng, một chủ thể cùng lúc có
thể tham gia nhiều quan hệ trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, do vậy
pháp luật không thể là một hay một số quy tắc xử sự lẻ tẻ dồi dào mà phải là một hệ
thống các quy tắc xử sự chung. Các quy tắc này không tồn tại độc lập mà có mối
quan hệ nội tại và thống nhất, tạo nên một hệ thống pháp luật là một dị thể thống
nhất đặc điểm này cho thấy các vật rất khác với các quy tắc xử sự khác.

2.5. Pháp luật có tính xác định về hình thức

Nội dung pháp luật là sự phản ánh ý chí của nhà nước. Ý chí đó phải được thể
hiện ra dưới những hình thức nhất định. Hình thức biểu hiện của pháp luật chính là
các nguồn luật đó là các tập quán pháp, tiền lệ pháp hay văn bản quy phạm pháp luật.
Sự xác định về hình thức của pháp luật là cơ sở để phân biệt giữa pháp luật với các
quy định khác không phải pháp luật.

Nội dung của văn bản do cơ quan cấp dưới ban hành (có hiệu lực pháp lý thấp
hơn) không được trái với nội dung của văn bản do cơ quan cấp trên ban hành (có
hiệu lực pháp lý cao hơn). Nội dung của tất cả các văn bản đều phải phù hợp, không
được trái Hiến pháp vì Hiến pháp là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý
cao nhất yêu cầu này nhằm tạo nên sự thống nhất của hệ thống pháp luật

Ví dụ: Hiến pháp quy định nguyên tắc “công dân có quyền và nghĩa vụ
học tập”( Điều 39) Phù hợp với Hiến pháp, Luật Giáo dục khẳng định
quy tắc chung “ Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân . Mọi
công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nam nữ,
nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hoàn cảnh kinh tế đều bình đẳng về
cơ hội học tập “. (Điều 10) và những quy định cụ thể khác để đảm bảo
sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ học tập của công dân.

3. Bản chất của pháp luật

Pháp luật là hệ thống quy định do nhà nước đặt ra và đảm bảo thực hiện, thể
hiện ý chí của nhà nước và là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập
và giữ gìn trật tự xã hội. Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước, gắn với
nhà nước. Cùng với nhà nước, pháp luật là công cụ nằm trong tay giai cấp thống trị,
để thực hiện và bảo vệ quyền lợi và địa vị thống trị của giai cấp đó. Đồng thời pháp
luật là công cụ của nhà nước để điều hành và quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ
gìn trật tự xã hội vì sự phát triển chung của toàn xã hội, cộng đồng. Do vậy xét về
bản chất, pháp luật mang tính giai cấp và tính xã hội.

3.1. Bản chất giai cấp của pháp luật

Pháp luật mang bản chất giai cấp sâu sắc vì pháp luật do nhà nước, đại diện cho
giai cấp cầm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện.

Pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là công cụ để
điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp các lực lượng xã hội theo chiều hướng bảo vệ
quyền và lợi ích giai cấp thống trị. Nói cách khác pháp luật là ý chí của giai cấp cầm
quyền. Bởi giai cấp cầm quyền trong xã hội luôn theo đuổi mục đích củng cố và bảo
vệ quyền thống trị của mình. Một trong những cách thức mà giai cấp thống trị sử
dụng để đạt được mục đích là biến ý chí của giai cấp thống trị trở thành ý chí của nhà
nước .Từ đó, ý chí của nhà nước sẽ được biểu hiện thành các quy định cụ thể của
pháp luật - các quy tắc xử sự có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện trong
xã hội. Pháp luật là sự thể chế hóa nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu, chính sách,
đường lối chính trị của lực lượng cầm quyền, giúp cho lực lượng này thực hiện được
quyền lãnh đạo của nó đối với toàn xã hội.
Mức độ thể hiện tính giai cấp pháp luật phụ thuộc vào tương quan lực lượng,
tính khốc liệt của mâu thuẫn giai cấp và đặc điểm của sự phát triển kinh tế, truyền
thống, tôn giáo, đạo đức, bối cảnh quốc tế ,lịch sử hay thậm chí là các điều kiện tự
nhiên.

Pháp luật tư sản quy định cho nhân dân được hưởng các quyền tự do
dân chủ nhưng về cơ bản vẫn thể hiện ý chí và phục vụ cho lợi ích của
giai cấp tư sản; pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai
cấp công nhân mà đại diện là nhà nước của nhân dân lao động.

Nhà nước Việt Nam đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động: “ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung
ương đều do dân cử ra… “. Pháp luật do nhà nước ta xây dựng và ban
hành thể hiện ý chí nhu cầu lợi ích của đa số nhân dân lao động, như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định ‘’ Pháp luật của ta là pháp luật
thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi của nhân
dân lao động…”

3.2. Bản chất xã hội của pháp luật

Xã hội được cấu tạo bởi nhiều thành phần giai cấp, tầng lớp khác nhau. Do vậy
pháp luật ngoài việc chú trọng phản ánh ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị
còn phải phản ánh ý chí và bảo vệ lợi ích cho các giai tầng khác nhau trong xã hội ở
một mức độ nhất định. Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm
thiết lập, củng cố và bảo vệ trật tự chung trong các lĩnh vực của đời sống, bảo vệ lợi
ích chung của quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển chung của toàn xã hội

Ví dụ “thuận mua vừa bán “ và giữ chữ tín là quy tắc xử sự hợp lý
được hình thành trong đời sống dân sự hàng ngày giữa người mua và
người bán được xã hội chấp nhận. Nhà nước đã thừa nhận các quy tắc
này và quy định thành những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự:
tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng ( Bộ luật Dân sự năm 2005 ). Việc tuân thủ các quy tắc này sẽ
đảm bảo sự bình đẳng và an toàn của các bên trong quan hệ pháp luật
dân sự (mua bán, tặng cho, vay mượn ,thừa kế,…) Đồng thời góp phần
bảo vệ lợi ích và trật tự công cộng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội.

Lực lượng cầm quyền trong xã hội muốn củng cố và giữ gìn quyền lực của
mình trong xã hội một cách bền vững thì bên cạnh việc quan tâm tới lợi ích riêng của
mình còn phải quan tâm đến lợi ích chung của cộng đồng và xã hội, xây dựng và giữ
gìn trật tự xã hội. Pháp luật là một trong những công cụ hiệu quả nhất để huy động
sức mạnh trong của cộng đồng cho công cuộc xây dựng và ổn định trật tự xã hội hội,
do vậy, pháp luật phản ánh và thể hiện ý chí chung của xã hội. Xã hội càng phát triển
yêu cầu của nền dân chủ càng cao thì nhu cầu thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích chung
của toàn xã hội bằng pháp luật càng đóng vai trò quan trọng. Vì vậy trong xã hội
hiện đại, có nhiều nội dung pháp luật thể hiện tính xã hội của nó. Chẳng hạn như
việc thừa nhận một cách rộng rãi các quyền cơ bản của con người với tư cách là các
quyền tự nhiên, bẩm sinh của con người đồng thời quy định các phương thức bảo vệ
các quyền đó.

Điều 2 hiến pháp 1992 xác định: "Nhà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền
lực nhà nước đều thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp công nhân và đội ngũ tri thức"

II. Đạo đức

1. Khái niệm :
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu “Là hệ thống các quy
tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho
phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội
2. Thành phần cấu tạo
2.1. Ý thức đạo đức :
Ý thức đạo đức là những nguyên tắc và chuẩn mực hành vi phù hợp mà con
người dựa theo để hành xử, đồng thời cũng bao gồm cả mặt cảm xúc và tâm tư tình
cảm của mỗi con người và cả phần nhận thức của mỗi cá nhân trước một sự việc hiện
tượng sắp xảy ra với mình để giúp con người có hành xử hoàn thiện hơn

2.2 Hành vi đạo đức :

Hành vi đạo đức chính là những hành động được thực hiện bởi 1 cá nhân nào đó
ra bên ngoài , bao gồm hành vi đạo đức và hành vi phi đạo đức Động cơ hành vi rất
quan trọng, một hành vi đạo đức cần phải có nguyên nhân vì lợi ích của người và cộng
đồng.

2.3 Quan hệ đạo đức :

Quan hệ đạo đức: Là hệ thống những quan hệ xã hội, tác động qua lại giữa
người với người, giữa cá nhân và xã hội xét về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức vận
động, biến đổi theo quá trình phát triển của xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh
tế - xã hội hay hệ giá trị đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận động, phát triển.
Quan hệ đạo đức có các đặc tính là tính tự giác và tính tự nguyện. Tính tự giác thể
hiện ở sự nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân mỗi người trong những tình
huống cụ thể khi tham gia vào quan hệ đạo đức. Tính tự nguyện thể hiện ở nhu cầu
và ham muốn của bản thân mỗi người trong quan tâm, tương trợ, giúp đỡ người khác

3. Chức năng của đạo đức

- Chức năng giáo dục: Thông qua giáo dục đạo đức góp phần hình thành
những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo
đức trong từng con người cụ thể; giúp con nguời xác lập khả năng lựa chọn,
đánh giá các hiện tuợng xã hội. Trên cơ sở ấy, con người tự xem xét, đánh
giá đuợc tư cách, ý thức và hành vi của bản thân. Nói cách khác, chức năng
giáo dục của đạo đức chính là làm giàu thêm “tính người” cho mỗi con
người, được thực hiện thông qua quá trình giáo dục của xã hội và tự giác
của mỗi cá nhân.
- Chức năng điều chỉnh hành vi: Đây là chức năng quan trọng nhất, nhưng
đó không phải là đặc quyền của đạo đức, bởi trong xã hội, con người tạo ra
rất nhiều phương thức điều chỉnh hành vi của mình như: pháp luật, hương
ước... Mục đích điều chỉnh hành vi của đạo đức nhằm bảo đảm hài hòa quan
hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân.

Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện chủ yếu bằng hai
phương thức: Một là, sử dụng sức mạnh của dư luận để động viên, khuyến
khích những chủ thể có đạo đức và hành vi tốt đẹp, đồng thời, phê phán, lên
án nghiêm khắc những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến người khác, đến
cộng đồng. Hai là, bản thân chủ thể đạo đức phải tự nguyện, tự giác điều
chỉnh hành vi của mình trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức của xã hội.

- Chức năng nhận thức: Chức năng nhận thức của đạo đức bao gồm nhận
thức và tự nhận thức, bởi nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng nội
vừa hướng ngoại. Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mực, giá trị, đời sống
đạo đức xã hội làm đối tượng, là quá trình cá nhân đánh giá, tiếp thu hệ
thống những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội. Tự nhận thức là
quá trình tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi
đạo đức của mình với chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Bằng hai quá
trình nhận thức ấy con người đi đến sự nhận biết, phân biệt những giá trị:
đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác... hướng tới giá trị bao quát chân, thiện, mỹ.
Từ nhận thức này, chủ thể hình thành và phát triển thành các quan điểm và
nguyên tắc sống của mình.

4. Vai trò của đạo đức

- Đạo đức là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi con
người, một sự điều chỉnh hoàn toàn tự nguyện, tự giác, không vụ lợi trong một
phạm vi rộng lớn.
- Đạo đức góp phần nhân đạo hóa con người và xã hội loài người, giúp con
người sống thiện, sống có ích.
- Đạo đức thể hiện bản sắc dân tộc trong quan hệ quốc tế, là cơ sở để mở rộng
giao lưu giữa các giá trị văn hóa của dân tộc, quốc gia với các dân tộc, quốc gia
khác.
- Đạo đức góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội.

III. Tập quán


1. Khái niệm

Tập quán là thuật ngữ được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau

- Dưới góc độ ngôn ngữ, tập quán là một thói quen được hình thành lâu đời được
mọi người tuân theo. Là những quy tắc xử sự được hình thành một cách tự phát
lâu ngày trong đời sống, xã hội và được chủ thể thừa nhận là quy tắc ứng xử
chung.
- Dưới góc độ pháp lý, tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống, xã hội,
trong sản xuất và trong sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng có tập quán đó
làm theo như một quy ước chung của cộng đồng.

Trong BLDS 2015 thuật ngữ “tập quán” được định nghĩa tại khoản 1 Điều 5,
theo đó: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền,
nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành
và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng
rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh
vực dân sự”.

2. Phân loại:

Tập quán bao gồm nhiều loại :

+ Có thể là tập quán của một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
+ Tập quán cũng có thể là tập quán trong nước như tập quán pháp hoặc tập quán
quốc tế.
3. Đặc điểm

Tập quán là 1 quy phạm xã hội nên mang đầy đủ đặc điểm chung của quy phạm xã
hội.Nhưng tập quán lại là 1 quy phạm xã hội đặc thù nên mang một số đặc điểm khác
với các quy phạm khác

- Tập quán không mang tính quyền lực nhà nước


Tập quán là loại quy phạm xã hội ra đời từ khi con người xuất hiện vì vậy, tập
quán đã ra đời trước nhà nước. Quá trình hình thành tập quán và nội dung các
tập quán không chịu điều chỉnh hay ban hành của nhà nước, nếu như pháp luật
do nhà nước chỉ đạo ban hành mang tính quyền lực nhà nước thì tập quán lại
không mang tính quyền lực nhà nước như pháp luật. Tập quán được hình thành
tự nhiên trong cộng đồng dân cư, do quá trình sinh sống của người dân như một
nhu cầu tất yếu để làm công cụ quản lý điều chỉnh, duy trì ổn định đời sống
cộng đồng.Tập quán là những chuẩn mực xã hội, giới hạn hành vi ứng xử của
con người sao cho phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng và được sự “nhất
trí” của cả cộng đồng.

Tập quán không thể hiện ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một tầng lớp
trong xã hội mà nó phản ánh ý chí, nguyện vọng của toàn thể cộng đồng, nhằm
ổn định trật tự có lợi cho toàn thể các thành viên trong cộng đồng. Do đó, tập
quán không trở thành công cụ để Nhà nước áp đặt và quản lý xã hội như pháp
luật.

Ví dụ : Không có văn bản quy phạm nào bắt buộc mọi người dân đều
phải gói bánh chưng ngày Tết Nguyên Đán

- Tập quán mang tính cộng đồng


Tập quán được hình thành do những đòi hỏi tất yếu của sự quản lý chung các
thành viên trong cộng đồng, là sản phẩm của quá trình sinh sống của con người
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác vì thế nó tồn tại lâu bền trong
đời sống xã hội, gần gũi với lối sống và tâm lý của các thành viên trong cộng
đồng. Tập quán đã ăn sâu vào mỗi người, khó thay đổi trở thành tiêu chuẩn cho
các ứng xử của các thành viên trong xã hội. Do vậy mà tập quán được mọi
người tôn trọng tuân theo, tự giác thực hiện mà không cần có một sự cưỡng chế
hay ép buộc nào , những người đi ngược  lại với các tập quán sẽ bị cộng đồng
lên án. Tập quán đã tạo nên sự gắn kết cũng như sự ổn định trong cộng đồng.

Ví dụ : lên chùa cầu may dịp đầu năm mới

- Tập quán mang tính đa dạng


Sự phong phú, đa dạng của tập quán bắt nguồn từ chính cơ sở hình thành nên
loại quy phạm này. Tập quán bắt nguồn từ hoạt động sống của con người, gắn
liền với mỗi cộng đồng dân cư, mà hoạt động sống của con người vô cùng đa
đa dạng phong phú vì vậy mà tập quán cũng có tính đa dạng hình thành. Ở Việt
Nam với lịch sử hình thành và phát triển hàng ngàn năm cùng với sự đa dạng
về văn hóa và sự đa dạng về tộc người, nước ta có một hệ thống các phong tục,
tập quán được hình thành, phát triển từ rất sớm và vô cùng đa dạng. Hầu hết
các bản làng, thông xóm, tỉnh…đều có những tập quán khác nhau, áp dụng cho
người dân ở đó, được người dân thực hiện.

Ví dụ : Tết ở miền Bắc khác với miền Nam : ngày tết người dân miền
Bắc thường sum họp ,trò chuyện ,ăn uống , đi chúc tết. Còn người dân
miền Nam thường dành thời gian và tiền bạc tích lũy được trong năm để
đi du lịch, khám phá đây đó với người thân và bạn bè.

- Tập quán mang tính linh hoạt


Tập quán được hình thành từ đời sống, áp dụng từ thế hệ này qua thế hệ khác
ăn sâu vào tiềm thức mỗi người, tập quán có tính ổn định và khó thay đổi. Tuy
nhiên, với tư cách là một loại công cụ để quản lý và điều hành xã hội thì tập
quán luôn gắn bó mật thiết với các điều kiện thực tiễn, phù hợp với điều kiện
thực tiễn. Do đó, tập quán cũng có thể linh hoạt thay đổi để phù hợp với sự
thay đổi của xã hội, vì vậy mà tập quán có tính ứng dụng cao được mọi người
thực hiện.

Ví dụ: Sự thay đổi trong hỏi tục cưới chay ở Việt Nam

4. Nguyên tắc để tập quán được áp dụng :


- Thứ nhất, tập quán phải rõ ràng để xác định được quyền và nghĩa vụ của các
bên trong quan hệ dân sự. Các quan hệ này là những quan hệ nhân thân hoặc
quan hệ tài sản hình thành trên cơ sở bình đẳng địa vị pháp lý, chủ thể tham gia
hoàn toàn tự do, tự nguyện, các chủ thể tự chịu trách nhiệm nếu có hành vi vi
phạm nghĩa vụ.
- Thứ hai, pháp luật không quy định riêng và các bên không thoả thuận. Trong
nguyên tắc áp dụng thì trước tiên quy định của pháp luật được ưu tiên áp dụng
giải quyết. Bên cạnh đó, luật dân sự cũng ghi nhận cho các chủ thể trong vụ
việc dân sự được thỏa thuận để giải quyết vụ việc với điều kiện thỏa thuận
không được vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội. Do đó, khi
tranh chấp xảy ra mà đã có luật để giải quyết thì cần áp dụng luật hoặc nếu các
bên có thỏa thuận thì giải quyết theo sự thống nhất của các bên chủ thể.
- Thứ ba, có tập quán được áp dụng trong một địa phương, vùng, miền.Tập quán
phải là thói quen được hình thành, thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong đời
sống xã hội. Đây là điều kiện quan trọng để áp dụng tập quán bởi không phải
vụ việc dân sự nào hay tranh chấp dân sự nào phát sinh cũng có tập quán tương
thích để giải quyết.
- Thứ tư, tập quán không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã
hội.
5. Ý nghĩa, vai trò :
- Hướng dẫn hành vi ứng xử của con người trong nhóm xã hội; giáo dục nhận
thức cho thế hệ trẻ, xây dựng tình cảm và kỹ năng sống, hành vi ban đầu cho
con người.
- Là chất keo gắn bó các thành viên trong nhóm ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới hoạt
động, đời sống của các cá nhân và nhóm.
- Là tiêu chuẩn thước đo đánh giá về mặt đạo đức, xã hội các thành viên trong
nhóm và giữa các nhóm xã hội với nhau.
- Là hình thức lưu giữ những nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của đời sống văn hoá
nhóm.
- Bổ sung những khiếm khuyết ,hạn chế của pháp luật và tập quán cũng là nguồn
nội dung của pháp luật
- Tập quán là tiền đề đưa pháp luật vào đời sống xã hội, đồng thời nâng cao hiệu
quả của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội góp phần đảm bảo
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
B. NỘI DUNG
Câu 1:

*So sánh Pháp luật và Đạo đức

❖ Điểm giống nhau

- Đều là tập hợp những quy tắc xử sự chung, là khuôn khổ, khuôn mẫu, chuẩn
mực hướng dẫn con người cách xử sự trong xã hội. Pháp luật được đặt ra
không phải cho một chủ thể cụ thể hay một tổ chức, cá nhân cụ thể đã xác định
được mà được đặt ra cho tất cả các chủ thể tham gia vào quan hệ xã hội do
chúng điều chỉnh. Căn cứ vào các chuẩn mực đạo đức và pháp luật để các chủ
thể biết mình được làm gì, không được làm gì khi ở một hoàn cảnh, điều kiện
nhất định.
- Có tính phổ biến và xu hướng để phù hợp với xã hội. Đạo đức và pháp luật đều
mang tính quy phạm phổ biến, là khuôn mẫu chuẩn mực trong hành vi của mỗi
con người trong xã hội. Chúng có tác động đến hầu hết tất cả các lĩnh vực trong
đời sống và chủ thể trong xã hội.
- Là kết quả, là đúc kết của quá trình nhận thức, phản ánh sự tồn tại và phát triển
của xã hội trong những giai đoạn khác nhau. Pháp luật và đạo đức vừa chịu sự
chi phối, vừa tác động tới đời sống kinh tế xã hội.
- Được thực hiện và điều chỉnh nhiều lần trong thực tế cuộc sống để phù hợp với
các điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong xã hội. Vì ban hành ra pháp luật và
các chuẩn mực đạo đức không chỉ để điều chỉnh một mối quan hệ cụ thể mà là
để điều chỉnh cả một hệ thống xã hội chung.

❖ Điểm khác nhau

Tiêu chí Pháp luật Đạo đức


Cơ sở hình Do nhà nước ban hành Được đúc kết từ cuộc sống,
thành nguyện vọng của nhân dân và
được truyền tai nhau qua
nhiều thế hệ

Hình thức thể Hệ thống của văn bản quy Thể hiện thông qua dạng
hiện phạm pháp luật: Bộ luật, Luật, không thành văn như văn hoá
Nghị định, Thông tư, truyền miệng, phong tục tập
quán, ca dao, tục ngữ…và
dạng thành văn như kinh,
sách chính trị,…

Các biện Pháp luật thông qua bộ máy cơ Tự giác, răn đe thông qua tác
pháp bảo đảm quan như cơ quan lập pháp, tư động của dư luận xã hội, khen
thực hiện pháp, hành pháp để đảm bảo chê, lên án, khuyến khích,…
thực hiện bằng các biện pháp Lương tâm con người.
quyền lực nhà nước, từ tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục,
thuyết phục cho đến áp dụng
các biện pháp cưỡng chế của
nhà nước.

Sự khác nhau về hình thức thể hiện của pháp luật và đạo đức
*Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức

❖ Tác động của pháp luật đối với đạo đức:


- Pháp luật góp phần hình thành và xác lập các giá trị chuẩn mực đạo đức của xã
hội

- Pháp luật bảo vệ các giá trị đạo đức của xã hội và chống lại các phản giá trị của
đạo đức
-  Pháp luật có thể góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của các
quan niệm, quy tắc đạo đức khi chúng phù hợp với ý chí của Nhà nước và được
thừa nhận trong pháp luật
- Pháp luật quy định hành vi phải phù hợp và không được trái với đạo đức

● Thứ nhất, việc tôn trọng, giữ gìn ,phát huy đạo đức,truyền thống tốt đẹp
của nhân dân đã trở thành thành một trong những nhiệm vụ của pháp
luật Việt Nam .
 Điều 30 Hiến Pháp năm 1922 quy định: “ nhà nước và xã hội bảo tồn và phát
triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn, kế thừa và phát huy
những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức phong
cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát huy mọi tài năng
sáng tạo trong nhân dân”

● Thứ hai, pháp luật nghiêm cấm các hành vi vi phạm đạo đức xã hội 
Điều 33 Hiến pháp năm 1992 quy định: “nhà nước phát triển công tác thông
tin, báo chí, phát thanh truyền hình, điện ảnh, xuất bản thư viện và các phương
tiện thông tin đại chúng khác. Nghiêm cấm những hoạt động văn hóa thông tin
làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách đạo đức và lối sống tốt đẹp của
người Việt Nam

● Thứ ba, pháp luật đặt tiêu chuẩn “có phẩm chất đạo đức tốt” lên hàng
đầu trong công việc tuyển dụng cán bộ công chức
 Để đảm bảo thực thi pháp luật một cách có hiệu quả, điều 23 Pháp Luật cán bộ
công chức 26/02/1998 quy định: “Người được tuyển dụng phải có phẩm chất
đạo đức đúng với tiêu chuẩn nghiệp vụ và phải thông qua thi tuyển theo quy
định của pháp luật”

● Thứ tư, pháp luật đã thể chế hóa những giá trị đạo đức truyền thống tốt
đẹp thành quy phạm bắt buộc được đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước.
 Điều 40 hiến pháp 1992 quy định: “nhà nước xã hội gia đình và công nhân có
trách nhiệm bảo vệ chăm sóc bà mẹ và trẻ em” 

❖ Tác động của đạo đức đối với pháp luật


- Thực hiện pháp luật:
● Ý thức đạo đức cá nhân có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp
luật. Đối với người có ý thức đạo đức tốt có xu hướng thực hiện nghiêm
chỉ các quy định của pháp luật hơn là những cá nhân có ý thức đạo đức
kém. Đối với một số trường hợp đã thực hiện hành vi trái pháp luật thì ý
thức đạo đức sẽ giúp chủ thể ăn năn, hối lỗi và sửa chữa lỗi đã vi phạm.
● Các quy tắc, quan niệm đạo đức được thừa nhận trong pháp luật góp
phần làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác.
Những quy tắc, quan niệm đạo đức trái với ý chí của Nhà nước sẽ cản
trở thực hiện pháp luật trong thực tế.
- Hình thành pháp luật.
● Các quy tắc, quan niệm đạo đức trái với ý chí của Nhà nước sẽ trở thành
tiền đề để hình thành nên những quy phạm thay thế chúng, từ đó cũng
góp phần hình thành nên pháp luật.
● Trên thực tế rất nhiều quy tắc đạo đức được thể chế hóa thành pháp luật,
nhiều quan điểm phù hợp với ý chí của Nhà nước được thừa nhận trong
pháp luật qua đó góp phần tạo nên pháp luật.

❖ Ý nghĩa
Như chúng ta đã biết, Pháp luật và Đạo đức đều là những bộ phận của hình thái
ý thức xã hội. Giữa chúng thường xuyên có những mối quan hệ, tác động qua lại đan
xen lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau cho dù bản thân chúng có những điểm riêng biệt. Vì
suy cho cùng, pháp luật cũng chỉ là hiện tượng của đạo đức. Không những thế, sự tác
động của pháp luật hiện đại sẽ tạo điều kiện làm thông thoáng và tháo gỡ những quan
niệm đạo đức vốn dĩ trước đây rất khắt khe. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ pháp luật khi
ban hành dù có hiện đại đến đâu cũng phải phù hợp với đạo đức, vì nếu không pháp
luật đó sẽ không tồn tại được. Chính sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức sẽ
bổ sung, hoàn thiện lẫn nhau, nhằm tiến đến xây dựng xã hội tốt đẹp và công bằng
hơn.

Trong quá trình áp dụng pháp luật và đạo đức vào trong đời sống xã hội sẽ
không tránh khỏi những mâu thuẫn, xung đột. Nhìn chung, giữa pháp luật và đạo đức
không có những mâu thuẫn sâu sắc, vì cả hai đều chung một mục đích là cùng bảo vệ
những hành vi tốt, bài trừ những quan điểm, hành vi xấu, nhằm hướng đến mục tiêu
xác lập trật tự và điều hòa lợi ích chung của xã hội. Nếu xét về yếu tố con người thì
đạo đức là một lĩnh vực mang đậm tính nhân văn và nhân đạo. Trong khi đó, pháp luật
tiến bộ dù coi con người là trọng tâm nhưng pháp luật còn trọng trách điều chỉnh trật
tự xã hội nên nó không đáp ứng đầy đủ nhu cầu về đạo đức của con người. Vì thế, có
những hành vi được coi là vi phạm đạo đức nhưng không vi phạm pháp luật và ngược
lại. Đối với những trường hợp như vậy thường khó có thể giải quyết triệt để được, vì
cho dù xã hội có phát triển và hiện đại mấy đi chăng nữa thi không thể xóa nhòa tương
quan giữa pháp luật và đạo đức. Trong trường hợp nếu pháp luật chưa điều chỉnh thì
giải quyết theo quy phạm đạo đức hay nếu có xung đột giữa pháp luật và đạo đức
thường giải quyết theo hướng thiên về quy phạm đạo đức.

Hiện nay, khi bước sang cơ chế thị trường, pháp luật đóng vai trò quan trọng
trong việc thiết lập các quan hệ kinh tế, vì thế phần nào những giá trị đạo đức đang
dần bị xem nhẹ và bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Do đó, việc giáo dục đạo đức trong
nhân dân cũng như đội ngũ cán bộ công chức là rất cần thiết để tránh những tác hại về
mặt tư tưởng, dẫn đến băng hoại về đạo đức. Vì thế, phải nhận thức sâu sắc vai trò của
đạo đức và các nguyên tắc xã hội khác trong việc thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của xã
hội. Cũng chính vì thế tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Cần tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.

Câu 2:

*So sánh Pháp luật và Tập quán

❖ Điểm giống nhau

- Cả phong tục tập quán và pháp luật đều là những quy tắc xử sự chung có tính
khuôn mẫu chuẩn mực để hướng dẫn mọi hành vi xử sự, là tiêu chuẩn để xác
định giới hạn, đánh giá hành vi con người. Chúng cùng thực hiện vai trò duy trì
một trật tự cần thiết cho sự phát triển xã hội, điều chỉnh và điều hoà các quan
hệ xã hội. Như vậy, phong tục tập quán ở một phạm vi nhất định cũng có vai
trò quan trọng như pháp luật.
- Không chỉ vậy, chúng đều có giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với các cá
nhân, tổ chức khi cá nhân, tổ chức đó ở vào những điều kiện, hoàn cảnh, tình
huống mà các quy phạm đó đã dự liệu từ trước.
- Ngoài ra, giữa phong tục tập quán và pháp luật còn điểm chung là đều được
đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp nhất định như dư luận xã hội, giáo
dục cộng đồng hoặc cưỡng chế.
- Cuối cùng, chúng đều có tính quy phạm, tính xã hội, tính ý chí và đều có sự
thay đổi theo điều kiện và tình hình phát triển của xã hội.

❖ Điểm khác nhau

Các khía Pháp luật Tập quán


cạnh

Quá trình -Pháp luật được hình thành thông -Tập quán lúc đầu được hình
hình thành qua 3 con đường là: thừa nhận các thành một cách tự phát trong
phát triển quy tắc có sẵn nâng chúng lên cộng đồng xã hội, là thói
thành pháp luật, thừa nhận cách quan ứng xử có tính chất lặp
giải quyết một vụ việc trong thực đi lặp lại.
tế rồi lấy làm khuôn mẫu cho các
sự việc khác, đặt ra các quy tắc xử
sự mới.

Thể hiện ý – Thể hiện ý chí của lực lượng – Thể hiện ý chí của một
chí cầm quyền. cộng đồng dân cư trong địa
phương nhất định.
Chủ thể ban Nhà nước. Nhóm người, dân cư trong
hành địa phương nhất định.

Tính quy Có tính khái quát cao, là những Chỉ tác động tới một bộ phận
phạm phổ khuôn mẫu điển hình để các chủ dân cư nhất định.
biến thể thực hiện theo khi gặp phải
những tình huống như dự liệu.

Tính hệ Là một hệ thống các quy phạm để Không có tính hệ thống.


thống điều chỉnh nhiều loại quan hệ xã
hội trong các lĩnh vực khác nhau.

Hình thức Tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn Truyền miệng từ đời này sang
bản quy phạm pháp luật . đời khác.

Phạm vi điều Phạm vi rộng, mọi tầng lớp trong Phạm vi khá rộng, nhưng cả
chỉnh xã hội đều phải tuân thủ. xã hội không bắt buộc phải
tuân thủ

Biện pháp Giáo dục, tuyên truyền, cưỡng chế, Chủ yếu dựa trên tinh thần tự
bảo đảm thực ép buộc,… bằng quyền lực nhà giác của những con người,
hiện nước. không bị buộc phải thực hiện
hay có những biện pháp như
cưỡng chế thực hiện.
Sự khác nhau về chủ thể ban hành giữa pháp luật và tập quán

*Mối quan hệ giữa pháp luật với tập quán

❖ Tác động của pháp luật tới tập quán:


- Pháp luật có thể góp phần củng cố, phát huy vai trò, tác dụng thực tế của các
tập quán khi chúng phù hợp với ý chí của nhà nước và được thừa nhận trong
pháp luật.

Ví dụ, các phong tục ăn Tết cổ truyền, Giỗ Tổ Hùng Vương khi được
Nhà nước thừa nhận thì sẽ được Nhà nước bảo đảm thực hiện, tạo điều
kiện cho các phong tục đó được củng cố, phát huy vai trò, tác dụng
trong thực tế thông qua việc cho phép người lao động, giáo viên, học
sinh, sinh viên được nghỉ để ăn Tết, ăn Giỗ, tổ chức các nghi lễ quốc
gia để kỷ niệm những ngày này.

- Ngược lại, pháp luật cũng có thể góp phần loại trừ, thanh toán dần các tập quán
trái với ý chí của nhà nước, lạc hậu, không phù hợp với tiến trình phát triển của
xã hội.

Ví dụ, phong tục thách cưới, tập quán coi quan hệ hôn nhân là một
quan hệ gả bán… trái với ý chí của Nhà nước ta nên được pháp luật
loại trừ, thanh toán dần bằng quy định: Hôn nhân là tự nguyện, trên cơ
sở tình yêu giữa nam và nữ, cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi…

❖ Tác động của tập quán đến pháp luật:


● Đối với việc hình thành pháp luật:
- Nhiều tập quán phù hợp với ý chí của nhà nước được thừa nhận trong pháp luật
đã góp phần tạo nên pháp luật, ví dụ, tập quán xác định họ hoặc xác định dân
tộc cho con tạo nên quy định về xác nhận họ cho con theo khoản 1 điều 26
BLDS năm 2015, tập quán giải thích giao dịch dân sự… ở nước ta.*Khoản 1
Điều 26 BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân có quyền có họ, tên (bao gồm cả
chữ đệm, nếu có). Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh
của người đó”.

- Những tập quán trái với ý chí của nhà nước sẽ trở thành tiền đề để hình thành
nên những quy phạm thay thế chúng, từ đó góp phần hình thành nên pháp luật,
ví dụ, tập quán sản xuất pháo và đốt pháo, phong tục thách cưới… ở nước ta.

● Đối với việc thực hiện pháp luật


- Những tập quán phù hợp với ý chí của nhà nước, được thừa nhận trong pháp
luật sẽ góp phần làm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự
giác hơn, bởi vì các tập quán đó đã ngấm sâu vào tiềm thức của nhân dân thành
thói quen xử sự của họ.
- Luật tục Ê đê là một ví dụ điển hình. Một số tập quán tốt đẹp lâu đời của đồng
bào dân tộc thiểu số ÊĐê đã được nhà nước ghi nhận và thể chế hóa thành
những quy phạm pháp luật, chẳng hạn như các quy định về bảo vệ rừng, bảo vệ
cây trồng, bảo vệ vật nuôi trong nhà đặc biệt là ccas quy định về bảo vệ tính
mạng, sức khỏe con người như giết người, hiếp dâm, tội cố ý gây thương tích,
tội ngược đãi ông bà cha mẹ, người trực tiếp nuôi dưỡng mình. Dựa trên cơ sở
được thừa nhận và ủng hộ của người dân tộc ÊĐê, luật tục Ê Đê làm cho pháp
luật trở nên phong phú, hoàn thiện hơn, trở thành một thói quen trong nếp suy
nghĩ của người ÊĐê.
- Hay trong quan hệ dân sự, kinh doanh -
thương mại cũng có nhiều quy phạm pháp luật
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành quy định theo hướng áp dụng tập quán.
Điều 3 BLDS năm 2005 của pháp luật không được trái với những nguyên tắc
quy định trong Bộ luật này.".
Điều 5 Luật Thương mại năm 2005 nêu những trường hợp áp dụng tập
quán thương mại, như sau:

“1. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán
thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật này thì
áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.”

2. “Các bên trong giao dịch thương mại có yếu tố nước ngoài được
thoả thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế
nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái
với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.".

- Ngược lại, những phong tục, tập quán trái với ý chí của nhà nước sẽ cản trở
việc thực hiện pháp luật trong thực tế. Việc sản xuất pháo và đốt pháo ở nước
ta đã bị Nhà nước cấm từ lâu nhưng một số người vẫn lén lút thực hiện, đó là
hành vi vi phạm pháp luật nên đã cản trở việc thực hiện pháp luật.
❖ Ý nghĩa

Quan hệ giữa tập quán và pháp luật. Tập quán có vai trò thay thế pháp luật trong
nhiều lĩnh vực :

- Phong tục có thể thay thế pháp luật trong một số quan hệ xử sự trong xã hội khi
mà pháp luật chưa tìm được cách thức truyền bá có khả năng tác dụng sâu sắc
đến ý thức của các cá nhân, cộng đồng các dân tộc.
- Trong điều kiện nào đó, tập quán phát huy vai trò thay thế pháp luật không phải
ở một hay vài lĩnh vực nhất định mà nó thay thế pháp luật ở rất nhiều lĩnh vực
như : Dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình, bảo vệ rừng, đất đai, tín ngưỡng, khai
khoáng… Có rất nhiều tập tục phù hợp với tinh thần của pháp luật nhưng nếu
được nâng lên thành các quy phạm thì tính hiệu quả của nó không cao.nhưng
nếu vẫn để nguyên là tập tục thì hiệu quả của nó lại rất cao. Ví dụ như : Tập tục
bảo vệ rừng thiêng của người H’ mông.
- Tập tục có vai trò bổ sung hỗ trợ pháp luật bởi vì pháp luật có hoàn thiện đến
mấy cũng không thể dự liệu hết mọi tình huống cụ thể, không thể len lỏi vào
mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Trong những trường hợp đó lại tỏ ra rất
hữu hiệu và cũng rất phù hợp với tinh thần của pháp luật. Ngoài ra tập tục còn
có vai trò làm chi tiết hóa các điều luật . Ví dụ : Pháp luật nghiêm cấm đánh bắt
thủy hải sản bằng các hình thức gây nguy hại cho nguồn lợi thủy sản như xung
điện, thuốc nổ, các loại hóa chất… Những tập tục lại quy định rất cụ thể về loại
hình đánh bắt bị cấm và quy định loại thủy sản nào bị cấm khai thác. Như vậy
vai trò bổ sung, hỗ trợ của tập tục là rất lớn.
- Nhìn chung về cơ bản pháp luật không ngăn cấm, không loại trừ tập tục, pháp
luật tồn tại đồng hành cùng với tập tục trong một thời gian nhất định. Pháp luật
sẽ tiêu vong khi cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của nó không còn. Ngược
lại, những phong tục tốt đẹp vẫn còn mãi với đời sống con người, trong mọi xã
hội. Pháp luật chỉ ngăn cấm và loại bỏ những tập tục trái pháp luật, có hại cho
xã hội và không phù hợp với tiến bộ xã hội. Gặp những trường hợp có sự mâu
thuẫn giữa tập tục và pháp luật thì không được theo nguyên tắc “phép vua thua
lệ làng” mà phải theo nguyên tắc pháp luật. Pháp luật phải có tính tối cao so
với tập quán. Hay nói cách khác, việc áp dụng tập quán không được trái với các
quy tắc của ngành luật hoặc pháp luật đã quy định.

=> Tóm lại, tập quán và pháp luật là hai hình thức giữ vai trò công cụ quan
trọng, không thể thiếu trong việc điều chỉnh những hành vi ứng xử, đạo đức
của con người. Một dân tộc với những tinh hoa của phong tục tập quán và
những giá trị nghiêm minh của pháp luật song song tồn tại sẽ là động lực thúc
đẩy quá trình hội nhập với nền văn minh tiên tiến của nhân loại mà Việt Nam là
một điển hình tiêu biểu.

You might also like