Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 120

MỤC LỤC

Trang
1. Nhà sử học Dương Trung Quốc – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam: Phát biểu khai mạc Hội thảo……………… 2
2. Phát biểu chào mừng Hội thảo khoa học của Đồng chí thay mặt Lãnh
đạo tỉnh Thái Nguyên…………………………………………………….. 3
3. GS.NGND. Đinh Xuân Lâm – Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam: Báo cáo đề dẫn……………………………………………………. 4
4. PGS.TS. Nguyễn Minh Tường – Viện Sử học: Vị trí của Vương triều
Tiền Lý trong tiến trình lịch sử Việt Nam………………………………… 11
5. PGS.TS. Lê Đình Sỹ - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam: Sự nghiệp đánh
giặc ngoại xâm của Lý Bí………………………………………………… 21
6. Minh Tú – Phòng Văn hóa - Thể thao và Du lịch huyện Hoài Đức - Hà
Nội: Đã phát hiện được dấu tích “Đại bản doanh Lý Nam Đế” ở Lưu Xá
(huyện Hoài Đức - Hà Nội)………………………………………………. 30
7. PGS. TS. Nguyễn Đức Nhuệ – Viện Sử học: Vài nét về tổ chức quan lại
của triều đình nhà Tiền Lý và sự thành lập nước Vạn Xuân…………….. 33
8. PGS.TS. Nguyễn Minh Tường – Viện Sử học: Vấn đề quê hương Lý
Nam Đế - Một nghi án lịch sử cần được làm sáng tỏ……………………. 41
9. Ths. Nguyễn Văn Khoa – Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy – Chủ tịch
HĐND huyện Phổ Yên – Thái Nguyên: Vài nét về huyện Phổ Yên trong
lịch sử và tấm lòng của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong huyện với
việc xác định quê hương vua Lý Nam Đế………………………………… 63
10. Nhà sử họcPhạm Văn Kính – Viện Sử học: Về mối quan hệ giữa chùa
Bảo Phúc (Hoài Đức, Hà Nội) với chốn Tổ: chùa Hương Ấp (Phổ Yên,
Thái Nguyên)……………………………………………………………. 77
11. PGS.TS. Tạ Ngọc Liễn – Viện Sử học: Một số khác biệt giữa sử gia Việt
Nam và sử gia Trung Quốc khi viết về Lý Nam Đế………………………. 85
12. PGS.TS. Nguyễn Danh Phiệt – Viện Sử học: Cuộc xâm lược nước Vạn
Xuân của nhà Tùy………………………………………………………… 90
13. PGS.TS. Nguyễn Tá Nhí – Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Tìm hiểu sự tích
Lý Nam Đế qua các câu đối thờ ở đền Giang Xá………………………… 93
14. TS. Nguyễn Hữu Tâm – Viện Sử học: Thư tịch cổ Trung Quốc viết về Lý
Bí và cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo…………………………………. 102
15. Nhà sử học Phạm Văn Kính – Viện Sử học: Thử xác định vị trí điện Vạn
Xuân của Vương triều Tiền Lý…………………………………………… 110
16. PGS.TS. Đinh Khắc Thuân – Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Văn bản Thần
tích “Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền”…………… 115
17. Nguyễn Hữu Khánh – Phổ Yên – Thái Nguyên: Về quê hương của vua
Lý Nam Đế……………………………………………………………….. 121
18. PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi – Viện Sử học: Thông qua việc người
dân Phổ Yên tri ân đối với Lý Nam Đế - Suy nghĩ về vấn đề quê gốc của
Lý Bí……………………………………………………………………… 127
19. Nhà nghiên cứu Vũ Kim Biên – TP. Việt Trì – Phú Thọ: Về vị trí hồ Điển
Triệt và động Khuất Lão trong kháng chiến chống quân Lương…… 135
20. Nguyễn Đình Hưng – Sở Văn hóa, Thể thao và Du tịch tỉnh Thái
Nguyên: Tư liệu Hán Nôm ở các di tích huyện Hoài Đức (Hà Nội) viết về
quê hương Lý Nam Đế……………………………………………………. 148
21. TS. Trương Thị Yến – Viện Sử học: Cuộc kháng chiến giữ nước của Lý
Nam Đế - Triệu Việt Vương và sự thất bại của triều đình nhà Tiền Lý….. 157
22. Ths. Trần Nam Trung – Viện Sử học: Về vị trí và quy mô của động
Khuất Lão liên quan tới cuộc kháng chiến chống quân Lương của Lý
Nam Đế…………………………………………………………………… 163
23. Ngô Vũ Hải Hằng – Viện Sử học: Đình Giang Xá (Hoài Đức – Hà Nội),
nơi thờ vua Lý Nam Đế làm thần Thành hoàng………………………….. 169
24. Nhà nghiên cứu Nguyễn Chí Ninh – Sở Văn hóa – Thể thao và du lịch
tỉnh Vĩnh Phúc: Khởi nghĩa Lý Bí từ góc nhìn thờ cúng thần Thành
hoàng ở Vĩnh Phúc. 176
25. Nhà nghiên cứu Nguyễn Chí Ninh: Hồ Điển Triệt và vấn đề địa danh
học - lịch sử trong cuộc kháng chiến chống quân Lương của Lý Nam 186
Đế……
26. Tường Minh – Viện Sử học: Về Phật giáo thời Tiền Lý và sự hình thành
Dòng Thiền đầu tiên ở Việt Nam ………..………………………………. 197
27. TS. Hà Mạnh Khoa – Viện Sử học: Ghi chép xung quanh vấn đề quê gốc
của Lý Bí qua thư tịch Việt Nam từ trước đến nay………………………. 205
28. TS. Vương Thị Hường – Viện Nghiên cứu Hán Nôm: Lý Nam Đế trong
thư tịch Hán Nôm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm……………………….. 211
29. Đại đức Thích Nguyên Thanh – Trụ trì chùa Hang – TP. Thái Nguyên: Về
việc xác định quê hương Lý Bí và tìm hiểu Phật giáo Nhà nước Vạn Xuân 226
30. Đại đức Thích Minh Tâm– Trụ trì chùa Hương Ấp – Tiên Phong – Phổ
Yên – Thái Nguyên: Những ký ức và chứng tích liên quan tới vua Lý
Nam Đế tại chùa Hương Ấp, làng Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ
Yên, tỉnh Thái Nguyên……………………………….. 235
31. Tham luận của Đại diện nhân dân thôn Cổ Pháp – xã Tiên Phong: Mối
quan hệ giữa chùa Hương Ấp – thôn Cổ Pháp với chùa Linh Bảo (Bảo
Phúc tự) – Giang Xá, Hà Nội…………………………………………….. 238
32. Nhà sử học Dương Trung Quốc – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam: Tổng kết Hội thảo…………………………. 241

2
PHỤ LỤC 242

PHÁT BIỂU KHAI MẠC HỘI THẢO

Nhà sử học Dương Trung Quốc


(Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội KHLS Việt Nam)

3
PHÁT BIỂU CHÀO MỪNG HỘI THẢO KHOA HỌC
CỦA ĐỒNG CHÍ THAY MẶT LÃNH ĐẠO TỈNH THÁI NGUYÊN

4
BÁO CÁO ĐỀ DẪN

GS.NGND. Đinh Xuân Lâm

(Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)

Cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Lương do Lý Bí lãnh đạo nổ ra
vào đầu năm 542 và đã thu được thắng lợi vang dội, dẫn đến việc Lý Bí xưng Đế
hiệu (Lý Nam Đế) năm 544, đặt niên hiệu Thiên Đức, dựng nước Vạn Xuân.
Vương triều Tiền Lý tồn tại trong thời gian khoảng 60 năm (544-602), với 4 đời
vua: Lý Nam Đế (544-548), Lý Đào Lang Vương (549-555), Triệu Việt Vương
(549-570) và Hậu Lý Nam Đế (571-602).

Công lao và sự nghiệp của vua Lý Nam Đế có thể nói là hết sức to lớn trong
tiến trình lịch sử của dân tộc. Tuy nhiên, có một khoảng trống lớn trong tiểu sử của
vị Anh hùng dân tộc họ Lý ở thế kỷ thứ VI này, là đã hơn 1000 năm qua, sử sách
không cho biết quê hương cụ thể của ông ở đâu? Trong khoảng vài chục năm lại
đây, giới sử học Việt Nam đã quan tâm nghiên cứu vấn đề trên, nhưng cho đến nay
dường như chưa có sự thống nhất cao. Tựu chung, từ trước đến nay, có 3 thuyết về
quê hương của vua Lý Nam Đế: 1. Quốc Oai, Phúc Thọ (Hà Tây cũ); 2. Thái Thụy,
Thái Bình; 3. Phổ Yên, Thái Nguyên.

Hôm nay, nhân kỷ niệm 1470 năm (542-2012), ngày Cuộc khởi nghĩa Lý Bí
bùng nổ, UBND tỉnh Thái Nguyên, UBND huyện Phổ Yên phối hợp với Hội Khoa
học Lịch sử Việt Nam, tổ chức Hội thảo khoa học Một số vấn đề về Vương triều
Tiền Lý và quê hương của vua Lý Nam Đế, nhằm làm sáng tỏ thêm một bước quê
hương, dòng họ, gia thế của vua Lý Nam Đế và vị thế của Vương triều Tiền Lý đối
với lịch sử dân tộc.

Cuộc Hội thảo khoa học Một số vấn đề về Vương triều Tiền Lý và quê
hương của vua Lý Nam Đế lần này, đã được các nhà sử học, các nhà khoa học ở
Trung ương (Viện Sử học, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Lịch sử Quân sự Việt
Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) và địa phương (huyện Hoài Đức, Hà Nội,

5
tỉnh Thái Nguyên, tỉnh Phú Thọ, tỉnh Vĩnh Phúc…) nhiệt tình hưởng ứng. Cho đến
hôm nay, Ban Tổ chức đã nhận được 27 bản tham luận khoa học từ các nơi gửi về.

Để cuộc Hội thảo của chúng ta đạt được những yêu cầu đã đặt ra, tôi xin
phép nêu lên một số vấn đề tương đối thống nhất và những vấn đề còn có ý kiến
khác nhau để Hội thảo tập trung trao đổi, thảo luận nhằm đi đến những kết luận
thỏa đáng.

Chúng tôi xin phân chia làm 3 nhóm vấn đề như sau:

1. Về vấn đề xác định quê hương của vua Lý Nam Đế.

2. Đánh giá sự nghiệp, cống hiến của vua Lý Nam Đế và vị trí của Vương
triều Tiền Lý đối với lịch sử dân tộc.

3. Nghiên cứu, khảo sát một số di tích lịch sử liên quan tới vua Lý Nam Đế
và Vương triều Tiền Lý.
*
* *
I. Về vấn đề xác định quê hương của vua Lý Nam Đế

Về vấn đề nói trên, trong cuộc Hội thảo lần này nhận được 6 bản tham luận
của PGS.TS. Nguyễn Minh Tường, PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi, Ths.
Nguyễn Văn Khoa, Nhà sử học Phạm Văn Kính, Nhà giáo Nguyễn Hữu Khánh và
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Hưng. Hầu hết các bản tham luận đã dựa trên cơ sở
tư liệu điền dã thực địa ở các vùng: Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái
Nguyên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, kết hợp với tư liệu Thần tích, Thần sắc,
Truyền thuyết… còn lưu giữ tại các xã Giang Xá, Lưu Xá, huyện Hoài Đức, Hà
Nội, để đi tới nhận định: Vua Lý Nam Đế có quê gốc là thôn Cổ Pháp, xã Tiên
Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên ngày nay.

PGS.TS. Nguyễn Minh Tường viết: “Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền cho
biết: Lý Nam Đế tu tại chùa Hương Ấp chừng 4 năm, đến năm 13 tuổi thì theo Phổ
Tổ Thiền sư về tu hành tại chùa Giang Xá (Linh Bảo tự) thuộc huyện Hoài Đức,
Hà Nội.

Nhân dân làng Giang Xá nói chung và nhà sư trụ trì cùng với phật tử chùa
Giang Xá nói riêng, từ lâu rồi, vẫn coi ngôi chùa Hương Ấp ở xã Tiên Phong là
chốn Tổ… Điều đáng chú ý: quê hương của vua Lý Nam Đế ở xã Tiên Phong,
6
huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên còn được khẳng định thêm một lần nữa trong
bản Thần tích của làng Hạ Mỗ, thuộc tổng Thượng Hội, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà
Đông (nay là xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, TP. Hà Nội). H. Maspéro trong
Etudes d’Histoire d’Annam (Nghiên cứu Lịch sử Việt Nam) cho biết: “Trong Thần
tích của làng Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm (Hà Đông), Lý Bí được coi là gốc tích tại Cổ
Pháp”… Qua những tư liệu và chứng cứ chúng tôi đã dẫn ở trên, chúng ta thấy
rằng: “Làng Cổ Pháp” mà H. Maspéro nói “được coi là gốc tích của Lý Bí”, chỉ có
thể là làng Cổ Pháp, thuộc xã Tiên Thù, tổng Tiên Thù, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái
Nguyên. Hiện nay, làng Cổ Pháp “gốc tích của Lý Bí”, thuộc xã Tiên Phong, huyện
Phổ Yên, Thái Nguyên”.

Thực ra, nhận định trên về quê gốc của vua Lý Nam Đế được PGS.TS.
Nguyễn Minh Tường tiếp thu và phát triển từ kết quả nghiên cứu của những tác giả
đi trước. Năm 1991, Nhà nghiên cứu Minh Tú đã công bố luận văn khoa học Về Lý
Nam Đế trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1 (254)-1991. Trong đó, ông nhận
định: “Sử sách cổ ghi chép Lý Bí là người Thái Bình, mà không khẳng định ở
huyện hay tỉnh Thái Bình…”. Và, theo tác giả Minh Tú thì “Thái Bình” quê hương
Lý Bí “nằm trong xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, cách Phố Cò
4 km về hướng Đông – Nam”. Năm 1997, Nhà giáo Nguyễn Hữu Khánh, người có
nhiều năm nghiên cứu về con người và vùng đất Phổ Yên (Thái Nguyên) biểu thị
sự tán đồng với ý kiến trên của tác giả Minh Tú, và công bố luận văn Tìm hiểu
thêm về châu Giã Năng1 và ấp Thái Bình thời Lý Bí, trên tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử, số 6 (295), tháng 11/12-1997. Trong đó, tác giả Nguyễn Hữu Kính cũng khẳng
định: “Một lần nữa, chúng ta có thể khẳng định được rằng quê hương Lý Bí đích
thực là ở ấp Thái Bình, châu Giã Năng, mà trung tâm là vùng đất huyện Phổ Yên
(Thái Nguyên) ngày nay”.

Qua đó, chúng ta thấy việc xác định xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh
Thái Nguyên là quê hương của vua Lý Nam Đế đã được các nhà nghiên cứu đặt ra
từ trước khi cuộc Hội thảo này diễn ra. Chúng tôi cho rằng: đây là một nội dung
hết sức quan trọng của cuộc Hội thảo, rất mong các nhà khoa học có bài gửi tới
Ban Tổ chức, và kể cả các nhà nghiên cứu chưa có điều kiện viết bài, cần thảo luận
kỹ hơn nữa, để vấn đề này càng được sáng tỏ hơn.
1
. Châu Giã Năng: một địa danh cổ, được ghi bằng chữ Nôm, có thể phiên thành Giã, hoặc Dã
(Dã Năng) đều được.
7
Chúng tôi xin lưu ý Hội nghị một bản tham luận khá đặc biệt về vấn đề này,
đó là bài: Vài nét về huyện Phổ Yên trong lịch sử và tấm lòng của Đảng bộ, nhân
dân trong huyện với việc xác định quê hương vua Lý Nam Đế của Ths. Nguyễn
Văn Khoa – Bí thư Huyện ủy huyện Phổ Yên.
Điều khá đặc biệt trong bản tham luận của Ths. Nguyễn Văn Khoa là ở chỗ,
trong đó, tác giả đã cho chúng ta thấy: Trước khi các nhà sử học, các nhà khoa học
xác định được đâu là quê hương của vua Lý Nam Đế, thì nhân dân xã Tiên Phong
(Phổ Yên, Thái Nguyên) và nhân dân làng Giang Xá (Hoài Đức, Hà Nội) đã có
những cuộc “thăm hỏi lẫn nhau”. Nhân dân làng Giang Xá, nơi có đình, đền thờ
vua Lý Nam Đế và có chùa Giang Xá, nơi Đức vua tu hành thời trẻ, đã mặc nhiên
thừa nhận thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên (Thái Nguyên), nơi có
chùa Hương Ấp, là quê hương của vua Lý Nam Đế. Và điều đáng cho chúng ta suy
ngẫm hơn nữa là nhân dân 2 vùng đất nói trên, đã tự nguyện đi lại thăm viếng lẫn
nhau từ hơn 10 năm qua. Nhân dân làng Giang Xá, về mặt tâm linh đã thừa nhận
xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên là quê hương của vị thần Thành hoàng làng mình.
Tuy nhiên, không vì thế trong cuộc Hội thảo lần này, chúng ta không muốn
lắng nghe những ý kiến phản bác, miễn là mọi ý kiến lập luận cần phải có chứng
cứ đủ sức thuyết phục.
II. Đánh giá sự nghiệp, cống hiến của vua Lý Nam Đế và vị trí của
Vương triều Tiền Lý đối với lịch sử dân tộc
Đây là vấn đề cũng được Hội thảo của chúng ta rất quan tâm, vì kể từ cuộc
Khởi nghĩa Lý Bí nổ ra năm 542, đến nay đã 1470 năm, nhưng việc tìm hiểu
nguyên nhân thắng lợi, cũng như lý do thất bại của Vương triều Tiền Lý vẫn là
việc làm cần thiết đối với nhà sử học. Về vấn đề này, chúng tôi nhận được 8 bản
tham luận của PGS.TS. Nguyễn Danh Phiệt, PGS.TS. Tạ Ngọc Liễn, PGS.TS.
Nguyễn Minh Tường, PGS.TS. Lê Đình Sỹ, PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ, TS.
Trương Thị Yến, TS. Nguyễn Hữu Tâm, Tường Minh…
Các tác giả trên đây đều dựa vào các bộ chính sử dưới thời quân chủ Việt
Nam như: Việt sử lược, thế kỷ XIV; Đại Việt sử ký toàn thư, thế kỷ XV; Khâm
Định Việt sử thông giám cương mục, thế kỷ XIX… và những bộ sử của Trung
Quốc như: Lương thư, Trần thư, Tùy thư, Sách phủ nguyên quy, v.v… để tìm hiểu
về sự nghiệp, cống hiến của vua Lý Nam Đế đối với lịch sử dân tộc Việt Nam.

8
PGS.TS. Nguyễn Minh Tường cho rằng cuộc khởi nghĩa Lý Bí nói riêng và
Vương triều Tiền Lý nói chung giữ một vị trí rất quan trọng trong thời Bắc thuộc
và chống Bắc thuộc, kéo dài hơn 1000 năm. Theo tác giả, có thể nêu lên 3 ý chính
dưới đây:

1. Trong thời kỳ Bắc thuộc, cuộc khởi nghĩa Lý Bí thu được thắng lợi vang
dội nhất và giành được quyền độc lập, tự chủ lâu dài nhất.

2. Trong lịch sử nước nhà, Lý Nam Đế là người đầu tiên xưng đế hiệu, và
cũng là người đầu tiên đặt niên hiệu “Thiên Đức”.

3. Lý Nam Đế là người đầu tiên nhận ra vị trí trung tâm đất nước của vùng
đất Hà Nội cổ.

PGS.TS. Lê Đình Sỹ bàn kỹ hơn về “Sự nghiệp đánh giặc ngoại xâm của
Lý Bí”. Theo tác giả thì “Sự nghiệp chống ngoại xâm của Lý Bí trải qua hai giai
đoạn: Giai đoạn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, thành lập Nhà nước
Vạn Xuân độc lập (từ năm 542 đến năm 543) và giai đoạn lãnh đạo cuộc kháng
chiến chống quân Lương xâm lược (trong các năm 545 và 546)”. PGS.TS. Lê Đình
Sỹ nhận định: “Sự nghiệp của Lý Nam Đế, trong đó có sự nghiệp đánh giặc ngoại
xâm của ông thật vĩ đại. Lý Bí và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo là một nhân
vật, một sự kiện đặc biệt thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc”.

PGS.TS. Tạ Ngọc Liễn có bài tham luận: Một số khác biệt giữa sử gia Việt
Nam và sử gia Trung Quốc khi viết về Lý Nam Đế. Theo tác giả, ở Việt Nam và ở
Trung Quốc, từ đầu thế kỷ XX đến nay, không một công trình nghiên cứu lịch sử
nào viết về các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ Bắc thuộc, lại
không quan tâm đặc biệt tới sự kiện Lý Nam Đế. Trong bài tham luận của mình,
PGS.TS. Tạ Ngọc Liễn dựa vào thư tịch cổ của Việt Nam và Trung Quốc phủ nhận
sự kiện “Lý Nam Đế tổ chức trận tấn công quân Lương ở Hợp Phố”. Theo tác giả,
“Hợp Phố (Từ Văn) cách khu vực Hà Nội cổ, trung tâm của nước Vạn Xuân rất xa.
Nếu muốn đánh quân nhà Lương ở Hợp Phố, thì Lý Bôn phải mất hàng năm đóng
thuyền bè, chuẩn bị lương thực, vũ khí… và để đến được Hợp Phố nhanh nhất,
quân đội của Lý Bôn phải ra Móng Cái ngày nay, qua Đông Hưng, rồi cửa biển
Phòng Thành dong buồm, vượt biển…, một chuyện không thể thực hiện được, nhất
là trong vòng 4, 5 tháng”.

9
Ngoài ra, về nguyên nhân thất bại của cuộc kháng chiến chống xâm lược
nhà Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy cũng được nhiều nhà khoa học bàn tới. Đây
cũng là một vấn đề, theo chúng tôi cần được trao đổi thêm trong cuộc Hội thảo lần
này.

III. Nghiên cứu, khảo sát một số di tích lịch sử liên quan tới vua Lý
Nam Đế và Vương triều Tiền Lý

Theo chúng tôi đây là vấn đề mà Hội thảo của chúng ta cần thảo luận một
cách cụ thể để làm rõ: Vì sao Lý Nam Đế lại được thờ ở nhiều nơi trên miền Bắc
nước ta như: Thái Nguyên, Hà Nội, Hà Nam, Thái Bình, v.v… Trong cuộc Hội
thảo lần này, rất tiếc chúng ta chưa nhận được những báo cáo khoa học nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề địa danh học – lịch sử như: Vì sao quê hương vị vua sáng
lập nhà Tiền Lý (Lý Bôn) và vị vua sáng lập nhà Hậu Lý (Lý Công Uẩn) lại cùng
có tên là “Cổ Pháp”? Châu Giã Năng, ấp Thái Bình, v.v… đích thực là vùng đất
nào? Mong rằng sau này, có những chuyên khảo sâu hơn, kỹ hơn về vấn đề trên.

Về những di tích liên quan tới vua Lý Nam Đế và Vương triều Tiền Lý, Hội
thảo của chúng ta nhận được 10 bản tham luận của PGS.TS. Nguyễn Tá Nhí,
PGS.TS. Đinh Khắc Thuân, Nhà nghiên cứu Vũ Kim Biên, Nhà nghiên cứu
Nguyễn Chí Ninh, TS. Hà Mạnh Khoa, Nhà sử học Phạm Văn Kính, Nhà nghiên
cứu Minh Tú, TS. Vương Thị Hường, Ths. Trần Nam Trung, CN. Ngô Vũ Hải
Hằng…

Trong số các báo cáo khoa học trên đây, tham luận của PGS.TS. Đinh Khắc
Thuân về Văn bản Thần tích Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền
có ý nghĩa: “Góp phần làm rõ hơn về quê hương, tuổi ấu thơ của Lý Bí, cũng như
công cuộc chống ngoại xâm, xây dựng Nhà nước Vạn Xuân hết đỗi tự hào của dân
tộc ta”. Tác giả Vũ Kim Biên, là nhà nghiên cứu lịch sử của tỉnh Phú Thọ, đã bỏ ra
hàng chục năm đi điền dã, nghiên cứu về những di tích lịch sử liên quan tới Lý
Nam Đế, đặc biệt là hồ Điển Triệt và động Khuất Lão. Trong Hội thảo lần này,
Nhà nghiên cứu Vũ Kim Biên viết: Về vị trí hồ Điển Triệt và động Khuất Lão
trong cuộc kháng chiến chống quân Lương của Lý Nam Đế. Vũ Kim Biên là một
trong những người đầu tiên trong giới sử học xác định được vị trí đích thực của hồ
Điển Triệt là ở xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay. Tác giả đã

10
bác bỏ một cách khá thuyết phục ý kiến của một số nhà sử học đi trước, từng cho
rằng hồ Điển Triệt tức là Đầm Vạc ở Thành phố Vĩnh Yên.

Trong cuộc Hội thảo khoa học lần này, chúng tôi xin thay mặt Ban Tổ chức
đề nghị các nhà khoa học phát biểu ý kiến về vấn đề tôn vinh xứng đáng đối với
công lao, sự nghiệp của vị Anh hùng dân tộc, Đức vua Lý Nam Đế. Tôi cho rằng
nếu như chúng ta đã xác định được thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên,
tỉnh Thái Nguyên là quê hương của vua Lý Nam Đế, Nhà nước ta cần đầu tư để
xây dựng một đền thờ khang trang tại đây, làm nơi thờ phụng vị Anh hùng dân tộc
sáng lập nên Vương triều Tiền Lý này. Ngoài ra, chúng ta nên có kế hoạch tu bổ,
nâng cấp những di tích lịch sử như: chùa Hương Ấp, đình Giang Xá, đền Giang
Xá, đền Mục, chùa Giang Xá, v.v… liên quan tới vua Lý Nam Đế. Đó là những
việc làm cần thiết đối với bậc Anh hùng dân tộc, vừa thể hiện tấm lòng trung hậu
“Uống nước nhớ nguồn” của chúng ta, vừa góp phần giáo dục tinh thần tự hào dân
tộc, lòng yêu quý quê hương đất nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

Điểm qua một số vấn đề chính yếu mà các bản tham luận khoa học đề cập
tới, với tinh thần khoa học, chúng tôi xin lắng nghe mọi ý kiến phát biểu, thảo luận
và trân trọng với từng đóng góp dù là nhỏ của mỗi người… Ở đây, không riêng gì
những điểm khác biệt, mà ngay cả những điểm đã thống nhất, chúng ta vẫn có thể
trao đổi lại, xem có đủ luận cứ khoa học hoặc đủ sức thuyết phục hay chưa?

Trong cuộc Hội thảo khoa học lần này, với thời gian không dài, có thể
chúng ta sẽ không giải quyết được những tồn nghi khoa học, nhưng chúng tôi vẫn
hy vọng rằng, trong nỗ lực chung của mọi người, chúng ta có thể đi tới sự xác định
có tính thống nhất cao về Quê hương của Đức vua Lý Nam Đế - Vị Anh hùng dân
tộc, vị Hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sống và hoạt động vào thế kỷ VI.

Xin kính chúc Hội thảo thành công tốt đẹp.

11
VỊ TRÍ CỦA VƯƠNG TRIỀU TIỀN LÝ

TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ VIỆT NAM

PGS.TS. Nguyễn Minh Tường


(Viện Sử học)

Sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong phần Kỷ nhà Tiền Lý chép khái quát về
cuộc khởi nghĩa của Lý Bí như sau: “Vua họ Lý, tên húy là Bí, người Thái Bình,
phủ Long Hưng. Tổ tiên là người Bắc, cuối đời Tây Hán khổ về việc đánh dẹp,
mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam. Vua có tài
văn võ, trước làm quan với nhà Lương, gặp loạn, trở về Thái Bình. Bấy giờ bọn
thú lệnh tàn bạo hà khắc, Lâm Ấp cướp phá ngoài biên, vua dấy binh đánh đuổi
được, xưng là Nam Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên” 1.

Thời bấy giờ Giao Châu (miền Bắc Bộ của nước ta ngày ấy) ở dưới quyền
cai trị của Vũ Lâm hầu Tiêu Tư. Tiêu Tư vốn là tôn thất của nhà Lương 2 là một kẻ
tàn bạo, mất lòng dân. Lý Bí nhân lòng oán hận của nhân dân và các hào trưởng
người Việt đối với chính quyền thực dân, đã hiệu triệu các bậc anh kiệt các châu
lãnh đạo nhân dân nổi dậy. Sử ta chép rằng tù trưởng Chu Diên là Triệu Túc, phục
tài đức Lý Bí, đem quân theo trước tiên3. Miền đất nước ta bấy giờ gồm các châu:
Giao, Hoàng (Bắc Bộ), Ái (Thanh Hóa), Đức, Lợi, Minh (Nghệ Tĩnh).

Như vậy, cuộc khởi nghĩa của Lý Bí không phải chỉ nổ ra ở Giao Châu (tức
miền Bắc Bộ ngày nay). Lý Bí đã liên kết với hào kiệt các châu khác trên miền đất
của người Việt, và sau này lên ngôi hoàng đế, Lý Nam Đế đã cố gắng xây dựng
một Nhà nước độc lập, tự chủ bao gồm toàn bộ lãnh thổ của người Việt từ Bắc Bộ
đến Hà Tĩnh. Cho nên, có thể nói cuộc khởi nghĩa của Lý Bí giữ một vị trí hết sức
trọng đại trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt.

Chúng tôi xin phân tích một cách khái quát ý nghĩa và vị trí của việc thành
lập vương triều Tiền Lý do vua Lý Nam Đế khai sáng.

1
. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, H. 1998, tập 1, tr. 178, 179.
2
. Lương Võ Đế (503-549) là Tiêu Diễn, người sáng lập nhà Lương (503-557).
3
. Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr. 179.
12
I. Trong thời kỳ Bắc thuộc, cuộc khởi nghĩa Lý Bí thu được thắng lợi
vang dội nhất và giành được quyền độc lập, tự chủ lâu dài nhất

Theo quan niệm của giới sử học ngày nay, thì năm 179 tr. Cn, Triệu Đà sau
khi chinh phục nước Âu Lạc, lật đổ triều đình An Dương Vương, sát nhập đất đai
Âu Lạc vào phạm vi quốc gia Nam Việt, là mở đầu thời kỳ Bắc thuộc 1. Và thời kỳ
Bắc thuộc kết thúc bằng sự kiện Khúc Thừa Dụ dựng quyền tự chủ vào năm 905.
Như vậy, thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc kéo dài tới 1084 năm.

Trong khoảng thời gian gần 11 thế kỷ ấy, nước ta bị bọn phong kiến phương
Bắc đô hộ có hàng chục cuộc nổi dậy, cuộc khởi nghĩa, to có, nhỏ có, nhưng chưa
có cuộc khởi nghĩa nào thu được thắng lợi vang dội như cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Từ
xưa đến nay, không sử gia nào không ca ngợi võ công đánh giặc, cứu nước của
Đức vua Lý Nam Đế.

Sử gia Nguyễn Nghiễm2 (1708-1776), trong Việt sử bị lãm viết: “Từ khi
nước Việt ta thuộc vào Đông Hán (25-220 – TG), trải qua khoảng mấy trăm năm
mà chưa có kẻ đắc chí. Tiền [Lý] Nam Đế trỗi dậy nơi đất khách, hăng hái mưu
khôi phục đất nước, văn chương thì đã có Tinh Thiều bày mưu kế; võ dũng thì đã
có Triệu Túc ra chiến trường, vì thế mà đuổi được Tiêu Tư về phương Bắc, dẹp
được Lâm Ấp ở phương Nam, dựng đô, đặt quốc hiệu, khôi phục bờ cõi. Nếu
không phải là người văn võ toàn tài, mưu lược, thì chưa dễ đã làm được”3.

Sử gia Ngô Thì Sĩ (1726-1780), trong bộ Đại Việt sử ký tiền biên (được ấn
hành vào năm 1800 đời Cảnh Thịnh), thì bàn cụ thể và đánh giá cao hơn: “Tiền
[Lý] Nam Đế là một hào tộc khởi binh, có Tinh Thiều giúp việc mưu mô, có Triệu
Túc chủ việc quân ngũ. Châu quận hưởng ứng, hào kiệt đồng tâm, trục xuất được
Tiêu Tư, đánh đuổi được Tử Hùng, lại phá được Lâm Ấp ở Cửu Đức 4. Uy binh
vang dội, thế mạnh dần lên, rồi lên ngôi vua, đặt niên hiệu, đặt tên nước là Vạn
Xuân, hiệu vua xưng là Nam Việt. Có nơi triều hội, có tướng võ tướng văn, quy

1
. Sử cũ: thí dụ Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều bộ sử thời quân chủ, quan niệm nhà Triệu (179-
111 tr. Cn) là một triều đại chính thống của nước ta và viết thành Kỷ nhà Triệu. Quan niệm đó,
từ cuối thế kỷ XVIII, đã bị phê phán, mà người bác bỏ đầu tiên là Ngô Thì Sĩ, tác giả Việt sử
tiêu án.
2
. Nguyễn Nghiễm: là thân phụ của Đại thi hào Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều nổi tiếng.
3
. Trích theo Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên. Nxb Khoa học xã hội, H. 1997, tr. 110.
4
. Cửu Đức: tức miền Hà Tĩnh ngày nay.
13
mô dựng nước hoàn chỉnh có thể coi được… Từ sau khi Hai Bà Trưng mất 1, tới
đây là 490 năm nội thuộc làm châu phụ biên, một khi vùng lên chống chọi với binh
hùng tướng mạnh của Tam Ngô, khiến cho người trong nước có chỗ nương nhờ,
quốc thống có nơi hệ thuộc. Ở vào thế rất khó khăn, mà lập được công rất kỳ diệu.
Bọn giặc Man do đó hết cơ hội quấy rối, quân phương Bắc vì thế nhụt chí xâm
lăng. Cho nên Triệu Việt Vương, Hậu Lý [Nam Đế] cũng được nhờ để dựng nước,
quân Lâm Ấp cũng không dám dòm ngó ngoài biên. Hơn 60 năm, công lao của
ông không thể mai một được, xứng đáng vào hạng người như Đinh Tiên
Hoàng…”2.

Học giả Nguyễn Văn Tố (1889-1947), trên tạp chí Tri Tân, trong khoảng từ
năm 1932 đến năm 1936, có một số bài liên quan tới Lý Nam Đế như: Nên có
ngày kỷ niệm vua Tiền Lý, Có Triệu Quang Phục không?, Có nhà Tiền Lý không?,
Lý Nam Đế, v.v… Vào năm 1997, các bài luận văn trên đây của Học giả Nguyễn
Văn Tố, được Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam in lại trong bộ sách: Đại Nam dật
sử - Sử Ta so với sử Tàu.

Trong bài Nên có ngày kỷ niệm vua Tiền Lý, Học giả Nguyễn Văn Tố viết:
“Nước ta có ba bậc “anh hùng cứu nước” đầu tiên là Đức Đổng Thiên Vương, Hai
Bà Trưng và vua Tiền Lý Nam Đế. Đức Đổng Thiên Vương thuộc vào thời kỳ lộ
sử, mà chuyện lại thần kỳ, cho nên bộ Khâm định Việt sử không chép đến. Còn Hai
Bà Trưng, thì ai là người nước Nam, tất phải biết chuyện. Đến như vua Tiền Lý
Nam Đế (Lý Bí, hoặc Lý Bôn 544-548), thì sử nước ta chép riêng ra một “Kỷ”, tức
một dòng vua, nhưng lại không có ngày quốc tế! Đổng Thiên Vương thì có hội
Gióng… vào mùng tám tháng tư… Trưng Vương có hội “Đền Hai Bà”, vào mùng
năm tháng hai, là ngày kỷ niệm chung của cả nước. Duy có vua Tiền Lý thì chỉ có
mấy làng ở cửa sông Đáy thờ làm thành hoàng, còn chưa có ngày hội lớn để cho
quốc dân nhớ lại công ơn của một vị anh hùng đã đưa đường dẫn lối cho dân ta
thoát vòng lao lung…”3. Trong bài Lý Nam Đế, Nguyễn Văn Tố còn khẳng định:

1
. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng: từ năm 40 giành quyền độc lập, tự chủ, đến năm 43 thì bị Mã Viện
đàn áp.
2
. Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên. Sđd, tr. 111.
3
. Nguyễn Văn Tố: Đại Nam dật sử - Sử Ta so với sử Tàu. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam XB,
H. 1997, tr. 78.
14
“Người nước Nam mà làm vua nước Nam, Lý Bí thực là một người xây nền độc
lập cho nước Nam muôn nghìn năm sau này”1.

Qua những nhận định của các nhà sử học nói trên, ta thấy cuộc khởi nghĩa
Lý Bí (542-544), sau khi giành thắng lợi đã dựng nên cả một vương triều: Vương
triều Tiền Lý kéo dài tới hơn nửa thế kỷ (544-602), với 4 đời vua: Lý Nam Đế
(544-548), Lý Đào Lang Vương (549-555), Triệu Việt Vương (549-570) và Hậu
Lý Nam Đế (571-602).

II. Trong lịch sử nước nhà, Lý Nam Đế là người đầu tiên xưng đế hiệu,
và cũng là người đầu tiên đặt niên hiệu “Thiên Đức”

Sau khi đánh thắng quân Lương, đuổi Thứ sứ Tiêu Tư về Trung Quốc, tháng
Giêng năm Giáp Tý, Lý Bí chính thức lên ngôi Hoàng đế. Sách Đại Việt sử ký toàn
thư chép về sự kiện này như sau: “Mùa xuân, tháng Giêng năm Giáp Tý (544), Vua
nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi đặt niên hiệu (là Thiên Đức
năm thứ 1 – TG), lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc
truyền đến muôn đời vậy”2.

Như vậy, ta thấy trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Lý Bí là
người Việt Nam đầu tiên tự xưng Hoàng đế. Sử Trung Quốc, như bộ Tư trị thông
giám của Tư Mã Quang đời Tống (960-1279) cũng ghi nhận Lý Bí xưng là Việt
Đế, còn chính sử nước ta đều chép Đức vua xưng là Nam Đế, hoặc Nam Việt Đế.
Tuy cả sử Trung Quốc và sử ta đều nói Lý Bí xưng Đế 帝 (Việt Đế, hay Nam
Đế…), nhưng cần hiểu chính xác của sự kiện lịch sử trọng đại này là: Lý Bí tự
xưng Hoàng Đế: 帝 帝.

Chúng ta cần phải biết xưng Hoàng đế 帝 帝 khác với xưng Vương 帝 như thế
nào?

Sách Từ Nguyên giải thích: 帝 帝: 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝帝


帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 (Phiên âm: Hoàng đế: Tần dĩ hậu, Thiên tử chi xưng. Thủy Hoàng
tính thiên hạ dĩ vi đức kiêm Tam hoàng, công cao Ngũ đế, cánh xưng Hoàng đế.
Dịch nghĩa: Hoàng đế: từ đời Tần Thủy Hoàng (221-211 tr. Cn) trở về sau này, là
từ mà các bậc Thiên tử tự xưng. Tần Thủy Hoàng kiêm tính được toàn bộ thiên hạ,

1
. Nguyễn Văn Tố. Sđd, tr. 500.
. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, H. 1998, tập 1, tr. 179.
2

15
tự cho rằng tài đức của mình gồm kiêm cả Tam Hoàng 1, công nghiệp của mình cao
hơn Ngũ đế2, cho nên xưng là Hoàng đế3).

Sách Từ Nguyên giải thích: “帝: 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝帝帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝帝


帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝. (Phiên âm: Vương,
quân dã, chủ dã, thiên hạ quy vãng, vị chi vương. Tam đại thời, duy hữu thiên hạ
giả, xưng vương. Ngô, Sở chi xưng vương, giai tiếm xưng dã. Hán dĩ hạ, quân chủ
xưng Hoàng Đế. Hoàng tộc, công thần phong vương tước. Dịch nghĩa: Vương là
để chỉ người làm Vua, hay người làm Chúa, được người trong thiên hạ quy về, thì
xưng là Vương. Thời Tam Đại (Hạ - Thương - Chu), chỉ có những người làm chủ
thiên hạ mới xưng Vương. Nước Ngô, nước Sở bấy giờ xưng Vương, đều bị coi là
tiếm xưng. Từ đời Hán (206 tr. Cn – 220 s. Cn) trở về sau, bậc quân chủ xưng là
Hoàng đế, từ đó những người trong hoàng tộc và công thần được phong tước
Vương4).

Như vậy, chúng ta thấy, Lý Bí xưng Hoàng đế (gọi tắt là xưng Đế) là một sự
khẳng định vị thế của nước Nam thời bấy giờ so với Trung Quốc. Trong bộ Lịch
sử Việt Nam, Giáo sư Trần Quốc Vượng nhận định về sự kiện ấy như sau: “[Lý Bí]
xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt
đối chọi với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng
tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là
sự ngang nhiên phủ định quyền làm “bá chủ thiên hạ” của Hoàng đế phương Bắc,
vạch rõ sơn hà, cương vực và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt
phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành
quyền làm chủ vận mệnh của mình”5.

1
. Tam Hoàng có nhiều thuyết:
a. Thiên Hoàng – Địa Hoàng – Nhân Hoàng (nhiều người theo thuyết này).
b. Phục Hy – Thần Nông – Nữ Oa.
c. Phục Hy – Thần Nông – Chúc Dung
d. Phục Hy – Thần Nông – Hoàng Đế…
2
. Ngũ Đế có 3 thuyết:
a. Thái Hạo – Thần Nông – Hoàng Đế – Thiếu Hạo – Chuyên Húc
b. Hoàng Đế – Chuyên Húc – Đế Cốc – Đế Nghiêu – Đế Thuấn.
c. Thiếu Hạo – Chuyên Húc – Đế Cốc – Đế Nghiêu – Đế Thuấn.
3
. Từ Nguyên: Bộ Bạch, tập Ngọ, tr. 1045.
4
. Từ Nguyên: Bộ Bạch, tập Ngọ, tr. 987.
5
. Phan Huy Lê – Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn – Lương Ninh: Lịch sử Việt Nam. Nxb Đại
học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1985, tr. 287.
16
Lý Nam Đế còn là vị vua đầu tiên của nước ta đặt niên hiệu là Thiên Đức 帝
帝. Sử Trung Quốc chép Lý Bí tự xưng Việt Đế, và đặt niên hiệu là Đại Đức 帝 帝.
Nhưng ngày nay chúng ta có thể khẳng định vua Lý Nam Đế đặt niên hiệu là
Thiên Đức, vì các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy những đồng tiền Thiên
Đức đúc thời Tiền Lý.

Chúng ta cần biết rằng việc các bậc đế vương ở phương Đông (Trung Quốc,
Việt Nam, Triều Tiên…) đặt ra “niên hiệu”, mục đích không chỉ giới hạn ở việc
đánh dấu năm ở ngôi, mà vì niên hiệu chính thức, ngoài ghi năm ra, còn mang
nhiều hàm nghĩa khác.

Trong lịch sử Trung Quốc, vị vua đầu tiên đặt niên hiệu là Hán Võ Đế (140
– 87 tr. Cn), đó là niên hiệu Kiến Nguyên 帝 帝 (có nghĩa là “Mở đầu”).

Hàm nghĩa của niên hiệu có rất nhiều nghĩa như: Đánh dấu thời gian bắt
đầu lên ngôi như: Kiến Nguyên của Hán Võ Đế, Thủy Nguyên của Hán Chiêu Đế,
Bản Thủy của Hán Tuyên Đế, Sơ Nguyên của Hán Nguyên Đế… của Trung Quốc.
Niên hiệu Kiến Tân của Trần Thiếu Đế, Nguyên Hòa của Lê Trang Tông… của
Việt Nam. Ghi lại điều may mắn như: Hán Võ Đế thấy ngôi sao lớn, đổi niên hiệu
thành Nguyên Quang (134-129 tr. Cn), vua Lý Thánh Tông (1054-1072) của Việt
Nam, vào năm Mậu Thân (1068), thấy châu Chân Đăng dâng 2 con voi trắng, nhân
đó đổi niên hiệu là Thiên huống bảo tượng (nghĩa là: Trời cho voi quý)… Nhưng
phần lớn niên hiệu đều có ý nghĩa tô điểm thêm cho sự thái bình, biểu thị vận nước
hưng thịnh, hoàng vị đời đời vững chắc như: Vạn Lịch, Càn Long, Gia Khánh,
Đạo Quang… của Trung Quốc, hay: Hưng Long (Trần Anh Tông), Đại Khánh
(Trần Minh Tông), Đại Bảo (Lê Thái Tông), Thái Hòa (Lê Nhân Tông), Hồng Đức
(Lê Thánh Tông), Bảo Hưng (Nguyễn Quang Toản), v.v.. của Việt Nam.

Vậy niên hiệu Thiên Đức 帝 帝 có ý nghĩa gì?

Chúng tôi cho rằng đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, vua Lý Nam Đế lựa
chọn niên hiệu này, ít nhất có mấy nghĩa dưới đây:

- Người được Trời ban Đức lớn.

- Người có Đức lớn được Trời lựa chọn làm Hoàng đế phương Nam.

- Người có Đức của bậc Thiên tử…

17
Chúng ta nên nhớ rằng, trước Lý Bí xưng là Nam Việt Đế và đặt niên hiệu
Thiên Đức, hơn 40 năm, vào năm 502, Tiêu Diễn (tức Lương Vũ Đế) sáng lập
Vương triều Lương (502-557) đã đặt niên hiệu là Thiên Giám 帝 帝 (có nghĩa:
được Trời soi xét đến). Như vậy, ta càng thấy niên hiệu Thiên Đức của Lý Nam Đế
có ý đối chọi lại với niên hiệu Thiên Giám của Lương Vũ Đế.

Lý Nam Đế đặt quốc hiệu nước ta lúc bấy giờ là Vạn Xuân 帝 帝 và tổ chức
cơ cấu triều đình mới, tuy rằng còn khá sơ sài, nhưng ngoài Hoàng đế đứng đầu,
bên dưới đã có 2 ban văn, võ. Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ,
Triệu Túc làm Thái phó… Triều đình Vạn Xuân là mô hình, lần đầu tiên, được Việt
Nam thâu hóa và áp dụng, của một cơ cấu Nhà nước mới, theo chế độ trung ương
tập quyền. Lý Nam Đế cho xây một đài Vạn Xuân để làm nơi văn vũ bá quan triều
hội. Lúc này, Phật giáo đang phát triển mạnh ở nước ta cũng như ở Trung Hoa.
Giới tăng ni là tầng lớp trí thức đương thời, chắc chắn đã ủng hộ Lý Nam Đế. Theo
Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền, còn được lưu giữ tại đình Giang Xá, huyện Hoài
Đức, Thành phố Hà Nội, thì Lý Bí từ hồi nhỏ đã được “bán” cho ngôi chùa Hương
Ấp, quê hương ông. Sau đó, khi chừng 12, 13 tuổi, Lý Bí lại được sư thầy là Phổ
Tổ Thiền sư đưa về tu tập đến hơn 10 năm tại chùa Linh Bảo (hay chùa Giang Xá),
gần với ngôi đình Giang Xá nói trên. Có lẽ, vì vậy, mà một người trong hoàng tộc
nhà Tiền Lý và làm tướng cho Lý Nam Đế đã mang một cái tên đượm màu sắc
sùng bái Phật tổ: đó là Lý Phật Tử (nghĩa là: Người họ Lý là con của Đức Phật).

III. Lý Nam Đế là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất
nước của vùng đất Hà Nội cổ

Ngày nay, chúng ta có khá nhiều bằng cứ để chứng minh Lý Nam Đế và các
vị thủ lĩnh người Việt khác của Vương triều Tiền Lý là những người đầu tiên nhận
ra vị trí quan trọng của miền đất Hà Nội cổ. Chúng ta đều biết “Tam giác châu Bắc
Bộ” có 2 đỉnh:

- Đỉnh thứ nhất là Việt Trì.

- Đỉnh thứ hai là Hà Nội (trong đó có Thăng Long – Hà Nội và cả Cổ Loa –


Đông Anh).

Vùng đất Hà Nội, nơi hợp lưu của các dòng sông lớn nhỏ: sông Cái, sông
Đuống, sông Nhuệ, sông Tô…

18
Trước hết là những chứng cứ trong các bộ thư tịch cổ: Trần thư1 ghi rõ:
Năm 545, Lý Nam Đế đã dựng thành lũy ở cửa sông Tô Lịch để chống cự với quân
xâm lược nhà Lương do Trần Bá Tiên cầm đầu. Sau khi bị thất trận ở cửa sông Tô,
Lý Nam Đế mới lui giữ thành Gia Ninh ở Bạch Hạc, Việt Trì. Thành do Lý Nam
Đế xây dựng là công trình quân sự đầu tiên ở vùng nội thành Hà Nội cổ mà sử
sách biết đến. Nó cho ta khả năng nhận định rằng Lý Nam Đế đã nhận rõ tầm quan
trọng về vị trí địa – quân sự của miền Hà Nội gốc.
Tiếp đó là Tùy thư2 cũng chép: Năm 602, để phòng giữ cuộc xâm lược đại
quy mô của nhà Tùy (581-618), tướng Lý Phật Tử đã củng cố 3 ngôi thành cổ,
thành thế chân vạc:

- “Thành cũ của Việt Vương”, tức thành Cổ Loa: bấy giờ do Lý Phật Tử
đóng giữ.

- Thành Long Biên: do con người anh Lý Phật Tử là Lý Đại Quyền đóng
giữ.

- Thành Ô Diên: có thể là thành cổ Chu Diên của Thi Sách ở Hạ Mỗ (Đan
Phượng – Hà Nội) do biệt tướng Lý Phổ Đỉnh đóng giữ.

Những chứng cứ khá hiếm hoi của thư tịch cổ được bổ sung bởi các tài liệu
di tích đền, chùa và truyền thuyết. Giữa lòng Hà Nội có một di tích và danh thắng
nổi tiếng: Chùa Trấn Quốc 帝 帝 帝 (Trấn Quốc tự). Sách Thiền Uyển tập anh ngữ
lục (Ghi lời của các bậc anh tú trong vườn Thiền – đời Trần), trong truyện Thiền
sư Vân Phong ( ? – 957), cho biết chùa này có tên là Chùa Khai Quốc 帝 帝 帝 (Khai
Quốc tự). Tấm bia Trấn Quốc tự bi ký (Văn bia chùa Trấn Quốc) do Trạng Nguyên
khoa Đinh Sửu (1637) Nguyễn Xuân Chính soạn cho biết: Chùa xưa vốn ở bãi
sông Nhị Hà (tức sông Hồng), dựng từ đời Lý Nam Đế gọi là chùa Khai Quốc.
Khoảng niên hiệu Hoằng Định thứ 16 (1615) đời vua Lê Kính Tông (1600-1619),
dân phường An Hoa (Yên Phụ) sợ đê lở, chùa đổ, mới dời chùa vào bán đảo Kim
Ngư ở Hồ Tây tại vị trí hiện nay. Sau này, Vua Lê, Chúa Trịnh đổi tên thành chùa
Trấn Quốc.

1
. Trần thư 帝 帝: Tác giả là Diêu Tư Liêm, đời Đường (618-907) soạn, gồm 36 quyển, chép lịch sử
nhà Trần (558-589), thời Nam Bắc triều, Trung Quốc.
2
. Tùy thư 帝 帝: Tác giả Ngụy Trưng, đời Đường (618-907) soạn, gồm 85 quyển, chép lịch sử nhà
Tùy (581-618).
19
Lý Nam Đế xây dựng ngôi chùa thờ Đức Phật lại ban tên là Chùa Khai
Quốc (tức Chùa Mở nước) hẳn không phải là điều ngẫu nhiên. Chúng ta biết rằng
Đức vua vốn đã từng là người tu hành đạo Phật, và chắc hẳn trong cuộc khởi nghĩa
lật đổ ách thống trị hà khắc của Thái thú Tiêu Tư, nhà Lương vào đầu năm 542, Lý
Nam Đế đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của giới tăng ni, phật tử. Xin lưu ý
rằng, cũng ở thời Tiền Lý, vào năm 580, Thiền sư Tìniđalưuchi (Vinitaruci) ( ? –
594), học trò của Thiền sư Tăng Xán, vị Tổ thứ 3 của Thiền tông Trung Hoa 1 đã
sang nước ta. Thiền sư Tìniđalưuchi dừng trụ ở chùa Pháp Vân (Bắc Ninh), và
sáng lập nên dòng phái Thiền tông đầu tiên của Việt Nam 2. Dòng phái Thiền tông
này còn phát triển rực rỡ ở vào thời Lý – Trần, thế kỷ XI-XIII.

Hiện nay, tại xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội có một cái
đầm rộng, xưa mang tên đầm Vạn Xoan. “Xoan” tức là Xuân, đọc theo âm cổ dân
gian3. Tương truyền bên bờ đầm Vạn Xoan ấy, khi xưa là nơi thiết lập triều đình
Vạn Xuân của vua Lý Nam Đế. Năm 1962, Sở Văn hóa Hà Nội tìm thấy một tấm
bia cổ bên bờ đầm Vạn Xoan, ghi niên hiệu nhà Lương (503-557), tức thời Tiền
Lý.

Với một số chứng cứ kể trên, rõ ràng còn khá ít ỏi và còn cần điều tra xác
minh thêm, nhưng vẫn cho phép chúng ta đoán nhận rằng miền Hà Nội cổ, với ba
trung tâm: Cửa sông Tô Lịch, Thành Cổ Loa (Đông Anh) và đầm Vạn Xoan
(Thanh Trì), đã giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử Việt Nam, thời Tiền Lý nửa
cuối thế kỷ VI.

1
. Thiền tông Trung Hoa: Một tông phái của Phật giáo Đại thừa tại Trung Quốc. Thiền tông sinh ra
vào khoảng thế kỷ VI-VII, khi Bồ Đề Đạt Ma đưa phép Thiền của Đạo Phật Ấn Độ vào Trung
Quốc, hấp thụ một phần nào đạo Lão.
Thiền tông Trung Hoa có 6 vị Tổ:
1. Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma – 470-543)
2. Huệ Khả (487-593)
3. Tăng Xán (? 6-6)
4. Đạo Tín (580-651)
5. Hoằng Nhẫn ( ? - ?)
6. Huệ Năng (638-713)
2
. Thiền tông Việt Nam hình thành bởi 3 dòng phái:
1. Thiền phái thứ nhất do Thiền sư Tìniđalưuchi truyền vào năm 580.
2. Thiền phái thứ hai do Thiền sư Vô Ngôn Thông truyền vào năm 820.
3. Thiền phái thứ ba do Thiền sư Thảo Đường truyền vào năm 1069.
3
. Ca dao có câu: Trai ba mươi tuổi đang xoan (xuân)
Gái ba mươi tuổi đã toan về già.
20
Khởi nghĩa Lý Bí năm 542 lật đổ ách thống trị của nhà Lương, thành lập
Vương triều Tiền Lý tồn tại được khoảng gần 60 năm (544-602). Cho dù Đức vua
Lý Nam Đế bị mất ở động Khuất Lão vào mùa xuân tháng 3 năm Mậu Thìn (548),
nhưng người xưa từng căn dặn: “Chớ đem thành bại luận Anh hùng!”. Bậc Anh
hùng như Đức vua Lý Nam Đế một khi đứng trước việc “Đại nhân – Đại nghĩa =
đánh giặc – cứu nước”, thì Người có kể chi thành hay bại, miễn là khởi binh đánh
cho lũ cướp nước, biết được lòng quả cảm, ý chí sắt đá của người Việt phương
Nam.

Để tạm kết luận bài viết này, tôi xin dẫn Lời Phê của vua Tự Đức (1848-
1883) như sau:

“Nam Đế nhà Tiền Lý dẫu sức không địch nổi giặc Lương, đến nỗi công
cuộc không thành, nhưng đã biết nhân thời cơ vùng dậy, tự làm chủ lấy nước mình,
đủ làm thanh thế mở đường cho nhà Đinh, nhà Lý sau này. Vậy việc làm của Lý
Nam Đế há chẳng hay lắm sao?”1.

Hà Nội, ngày 22 tháng 8 năm 2012

N.M.T.

1
. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Nxb Giáo dục, H. 1998,
tập 1, tr. 173.
21
SỰ NGHIỆP ĐÁNH GIẶC NGOẠI XÂM CỦA LÝ BÍ

PGS. TS. Lê Đình Sỹ

(Đại tá, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)

Sự nghiệp chống ngoại xâm của Lý Bí (Lý Nam Đế) trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, thành lập nhà nước Vạn
Xuân độc lập (từ năm 542 đến năm 543) và giai đoạn lãnh đạo cuộc kháng chiến
chống quân Lương xâm lược (trong các năm 545 và 546).

Bấy giờ, nhà Lương (Trung Quốc) thống trị đất Việt. Cả Giao Châu dưới
quyền cai trị của Vũ lâm hầu Tiêu Tư. Tiêu Tư là tôn thất nhà Lương và họ Tiêu là
một trong những cự tộc phương Bắc dời về Nam, uy quyền rất lớn. Đó là một Thứ
sử khét tiếng tàn bạo. Chính sử Trung Quốc như Lương thư, Trần thư đều công
nhận rằng, Tiêu Tư là một kẻ “tàn bạo, mất lòng dân”. Tướng nhà Lương, Trần Bá
Tiên, khi đem quân đàn áp phong trào nhân dân ở phương Nam cũng phải thừa
nhận nguyên nhân của các cuộc “phản loạn” ở đây là do “tội ác của các tôn thất”,
trong đó có quan Thứ sử.

Nhân lúc mâu thuẫn giữa nhân dân với chính quyền đô hộ rất sâu sắc, Lý Bí
liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền đất nước ta đồng thời nổi dậy chống
Lương. Lương thư chép: “Lý Bí đã liên kết với hào kiệt vài châu đồng thời làm
phản”. Trước hết, đó là Tinh Thiều, người cùng quê với Lý Bí. Vốn rất giỏi văn
chương, Tinh Thiều đã lặn lội sang tận kinh đô Nam Kinh xin đầu quan, nhưng Lại
bộ thượng thư nhà Lương lúc đó là Sài Tốn cho rằng họ Tinh không phải là vọng
tộc, chỉ thuộc loại “hàn môn” (bình dân), nên xếp ông giữ chức Quảng Dương môn
lang, tức chức quan canh cổng. Tinh Thiều lấy làm tủi thẹn, về quê, cùng Lý Bí
mưu tính tập hợp lực lượng chống chính quyền đô hộ. Tham gia cuộc khởi nghĩa
Lý Bí, có thủ lĩnh Chu Diên (vùng Đan Phượng, Hoài Đức, nay thuộc ngoại thành
Hà Nội) tên là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục. Sách Đại Việt sử ký toàn thư
chép: “Vua (Lý Nam Đế) bấy giờ làm chức giám quân ở châu Cửu Đức, nhân liên
kết với hào kiệt mấy châu, đều hưởng ứng. Có Triệu Túc, tù trưởng ở Chu Diên

22
phục tài đức của vua, bèn dẫn đầu đem quân theo” 1. Phạm Tu cũng là một tướng
tài của Lý Bí có mặt ngay từ buổi đầu khởi nghĩa. Các sách Đại Việt sử ký toàn
thư, Việt điện u linh, Đại Nam nhất thống chí và thần tích, bi ký, truyền thuyết ở
làng Giá, tức làng Cổ Sở (Yên Sở, Thanh Trì, Hà Nội) đều phản ánh Phạm Tu (có
thể cũng là Lý Phục Man) đã cùng dân làng tham gia cuộc khởi nghĩa giải phóng
đất nước. Về sau, nhân dân ở làng Giá mở Hội Giá để nhớ lại sự kiện đó. Lễ “niệm
quân” của ngày hội ấy cho thấy, không phải chỉ có Phạm Tu tham gia cuộc khởi
nghĩa, mà đông đảo dân làng Giá đã vùng dậy với người anh hùng của quê hương,
góp phần tạo nên thắng lợi của sự nghiệp khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo. Lý Bí khi
lên ngôi đã đánh giá rất cao công lao của Phạm Tu và gả con gái cho ông.

Sử cũ không chép rõ Lý Bí đã chiếm được các quận huyện, đánh đuổi bọn
quan lại phương Bắc như thế nào. Chỉ biết rằng, đó là một cuộc khởi nghĩa rộng
lớn, đã liên kết được đông đảo các hào kiệt và dân chúng các châu, nhanh chóng
giành thắng lợi. Lý Bí đã không gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ nào của bọn quan
lại đô hộ. Sử cũ cho biết, nghe tin Lý Bí nổi dậy, Vũ lâm hầu Tiêu Tư sợ hãi,
không giám chống cự, vội sai người đem vàng bạc, của cải đút lót cho Lý Bí rồi
chạy trốn về Việt Châu (bắc Hợp Phố) và Quảng Châu 2. Quan Thứ sử Tiêu Tư bỏ
trốn thì hẳn bọn quan lại khác trong chính quyền đô hộ cũng chạy theo; số còn lại
đầu hàng nghĩa quân.

Nổi dậy từ tháng Chạp năm Đại Đồng thứ 7, tức tháng 1 năm 542, không quá
ba tháng, nghĩa quân đã chiếm được thành Long Biên (Bắc Ninh). Bè lũ đô hộ đã
bị quét sạch trước khí thế tiến công và nổi dậy khắp nơi của nhân dân ta.

Sau những giờ phút kinh hoàng buổi đầu, chính quyền nhà Lương lập tức có
phản ứng đối phó, nhanh chóng tổ chức phản công lại nghĩa quân. Lương thư chép
rằng: “Tháng ba năm Đại Đồng thứ 8 (4-542) (vua Lương) sai thứ sử Việt Châu là
Trần Hầu, thứ sử La Châu là Ninh Cự, thứ sử An Châu là Lý Trí, thứ sử Ái Châu là
Nguyễn Hán, cùng đi đánh Lý Bí ở Giao Châu” 3. Sự phản ánh này của Lương thư
cho thấy, phía nam Giao Châu lúc đó còn thuộc quyền thống trị của nhà Lương.

1
. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Nxb. Khoa học xã hội, H. 1993, tr.179.
2
. Theo Lương thư, Trần thư, Tục tư trị thông giám. Lương thư chép: Tiêu Tư chạy về Hợp Phố;
một số sách khác chép: Tiêu Tư chạy về Quảng Châu.
3
. Lương thư, q.3, t.11b.
23
Trong ba tháng đầu của cuộc khởi nghĩa, Lý Bí và nghĩa quân mới làm chủ được
mấy châu phía Bắc thuộc vùng Bắc Bộ ngày nay.

Sử sách không ghi chép chi tiết về cuộc phản công của nhà Lương và chúng ta
cũng không biết được cuộc chiến đấu của nghĩa quân ra sao; song điều chắc chắn
là cuộc phản công đó đã hoàn toàn thất bại, bởi vì nhà Lương đã phải tổ chức một
cuộc phản công lần thứ hai vào cuối năm 542 đầu năm 543. Có lẽ sau khi đánh tan
cuộc phản công thứ nhất và đánh bại được đạo quân của Thứ sử Ái Châu Nguyễn
Hán, nghĩa quân đã vượt Ái Châu tiến thẳng vào giải phóng Đức Châu, nơi Lý Bí
đã làm quan trong một thời gian, đã có uy tín đối với các hào kiệt và nhân dân
vùng này. Ta có thể khẳng định điều đó, vì như sự phản ánh của sách Đại Việt sử
ký toàn thư, mùa Hè năm 543 khi Lâm Ấp đưa quân vào cướp Cửu Đức đã bị đại
tướng Phạm Tu đánh tan1. Sách Tư trị thông giám của Tư Mã Quang (q.158) ghi:
“Mùa Hè tháng tư, vua Lâm Ấp tiến công Lý Bí, viên tướng của Lý Bí là Phạm Tu
đã phá quân Lâm Ấp ở Cửu Đức”. Như vậy, sau khi đánh tan cuộc phản công lần
đầu của quân Lương, nghĩa quân cơ bản đã làm chủ đất nước. Nghĩa quân của Lý
Bí đã kiểm soát được cả vùng đồng bằng Bắc Bộ, cả vùng Ái Châu (Thanh Hóa),
Đức Châu (Hà Tĩnh), vùng An Châu (Quảng Ninh) và cả vùng bán đảo Hợp Phố ở
phía Bắc.

Bị thua đau, vua Lương lại sai Thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, Thứ sử Tôn
Châu là Lư Tử Hùng thống lĩnh binh mã, một lần nữa tiến sang Giao Châu để tiêu
diệt nghĩa quân của Lý Bí. Sự kiện này diễn ra vào đầu năm 543. Sử của ta chép:
“Mùa Đông, tháng 12 (khoảng tháng 1-543), Lương Đế sai Tôn Quýnh và Lư Tử
Hùng sang lấn”2.

Bấy giờ, bọn Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng thấy cuộc phản công lần trước đã
thất bại và uy thế của nghĩa quân càng rầm rộ, nên e ngại, dùng dằng không chịu
tiến quân, lấy cớ là mùa Xuân ẩm ướt, lam chướng, xin đợi đến sang Thu hẵng
khởi binh. Nhưng thứ sử Quảng Châu là Tiêu Ánh không nghe, Vũ lâm hầu Tiêu
Tư cũng sốt ruột thúc giục, cho nên bọn Tôn Quýnh bất đắc dĩ phải động binh.

Chủ động đánh giặc, Lý Bí đã bày quân mai phục, thực hiện một trận tiêu diệt
lớn ở vùng cực bắc Giao Châu. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt ở Hợp Phố. Quân

. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr.179.


1

. Như trên.
2

24
Lương 10 phần chết tới 7, 8 phần; bọn sống sót tan vỡ tán loạn tướng sĩ ngăn cấm
không được. Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đại bại, dẫn tàn quân chạy về Quảng
Châu.

Tiêu Tư dâng sớ về triều, vu cho Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đã “giao thông


với giặc, dùng dằng không tiến quân”. Thấy quân lính bị thiệt hại quá nhiều, giận
vì không tiêu diệt được Lý Bí, Lương Vũ Đế xuống chiếu bắt cả hai viên tướng
cầm đầu phải chết ở Quảng Châu. Về sự kiện này, sách Đại Việt sử ký toàn thư
chép rằng: “Quýnh lấy cớ là chướng khí mùa Xuân đương bốc, xin đổi mùa Thu.
Bấy giờ Thứ sử Quảng Châu là Tân dụ hầu không cho; Vũ lâm hầu Tư cũng thúc
giục. Bọn Tử Hùng đi đến Hợp Phố, 10 phần chết 6, 7 phần, quân tan vỡ mà trở về.
Tư tâu vua rằng Quýnh và Tử Hùng dùng dằng không chịu đi. Lương Đế bắt bọn
họ đều phải tự tử”1.

Sau khi đánh tan được quân xâm lược phía Bắc, Lý Bí phải lo ngay việc đối
phó với nước Lâm Ấp ở phía Nam. Biên giới phía Nam lúc đó sát với Hoành Sơn
(Quảng Bình). Vua Lâm Ấp Rudravarman I nhân cơ hộ ở Giao Châu bọn quan đô
hộ bị đuổi, nên đã đem binh thuyền đánh phá, xâm lấn Đức Châu (5-543). Lúc đó,
như các tài liệu dẫn ở phần trên thì, Lý Bí đã cử đại tướng Phạm Tu đưa quân vào
đánh tan quân Lâm Ấp ở Cửu Đức, vua Lâm Ấp phải chạy trốn.

Đất nước đã được giải phóng. Biên giới phía Bắc và phía Nam đều tạm thời ổn
định. Cuộc khởi nghĩa Lý Bí đã hoàn toàn thắng lợi. Đó là cuộc khởi nghĩa toàn
dân, xuất phát từ địa phương Thái Bình (khoảng các huyện Quốc Oai – Phúc Thọ,
Hà Nội ngày nay), phát triển rộng ra cả nước và giành được độc lập tự chủ. Nửa
cuối thế kỷ VI quả là một thời điểm đột phá lớn trong lịch sử hơn nghìn năm chống
Bắc thuộc của nhân dân ta. Nó tiếp tục và phát huy truyền thống đấu tranh giành
độc lập mà Hai Bà Trưng đã phất ngọn cờ đầu tiên chống ách đô hộ. Nó như một
mốc son đánh dấu lịch sử bởi một cuộc khởi nghĩa lớn và tiếp sau đó là một thời
kỳ độc lập khoảng 50 năm.

Việc Lý Bí khởi nghĩa thành công, thành lập nhà nước Vạn Xuân độc lập,
ngang nhiên xưng đế (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu riêng… là sự ngang nhiên thách
thức đối với Lương Vũ Đế. Tuy nhiên, sau khi Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng bị bức
tử vì lý do đánh Lý Bí bị thất bại, em Tử Hùng là Tử Lược, có gia thuộc ở Giang
1
. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr.179.
25
Nam là Đỗ Thiên Hợp và em Đỗ Năng Minh giúp sức, đã liên kết với cháu của
Tôn Quýnh nổi dậy báo thù, bắt viên đô đốc Giang Nam là Thẩm Khởi, rồi tiến
đánh Quảng Châu. Vì Quảng Châu náo động, nhà Lương phải lo tập trung lực
lượng đàn áp, nên chưa tổ chức phục thù Lý Bí ngay được. Thứ sử Quảng Châu là
Tiêu Ánh hợp quân với Trần Bá Tiên đánh tan bọn Tử Lược, giết được Đỗ Chiêm
Hợp, buộc Đỗ Thiên Ánh phải hàng. Mùa Đông năm 544, Tiêu Ánh chết, nhà
Lương cử Lan Khâm thay làm Thứ sử Quảng Châu chuẩn bị binh lực đánh Lý Bí.
Tuy nhiên, Nam Anh đã giết Lan Khâm để đoạt chức thứ sử đó.
Đầu năm 545, nhà Lương bắt đầu tổ chức cuộc chiến tranh xâm lược Vạn
Xuân nhằm chinh phục lại Giao Châu mà chúng vẫn cho là “thuộc quốc” cũ.
Dương Phiêu được cử làm Thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên – viên tướng vũ dũng
tuy xuất thân từ “hàn môn” nhưng do vừa lập công đánh bọn Tử Lược, dẹp yên
Quảng Châu, được cử làm Tư mã Giao Châu, lĩnh chức Thái thú Vũ Bình, cùng tổ
chức cuộc chinh phục Vạn Xuân. Trong quá trình đàn áp Quảng Châu, Trần Bá
Tiên thu nạp được nhiều quân vũ dũng, khí giới đều tốt; vì thế Dương Phiêu rất
mừng, giao cho giữ chức kinh lược sứ, phụ trách tác chiến.
Sử sách không ghi chép cụ thể số quân nhà Lương trong cuộc Nam chinh
này là bao nhiêu. Chỉ biết đạo quân tiến đánh Vạn Xuân gồm nhiều bộ phận hợp
thành: quân triều đình dưới quyền chỉ huy của Dương Phiêu, đạo quân riêng của
Trần Bá Tiên lúc đánh Quảng Châu đã có tới 3.000 người thiện chiến, quân của
mấy thứ sử kề cận Giao Châu cũng được lệnh tập trung về Phiên Ngung (Quảng
Châu)..
Dương Phiêu họp tất cả các tướng sĩ hỏi mưu kế. Lúc đó có một số tướng
nghe tiếng Lý Bí đã sợ nên bàn lùi, như Tiêu Bột, Thứ sử Định Châu; một số tướng
khác thì ngần ngại… Trần Bá Tiên chủ chiến, hung hăng chủ trương kiên quyết
tiến binh, nói rằng: “Giao Châu làm phản, tội do ở người tông thất, để mấy châu
hỗn loạn trốn tội đã nhiều năm nay. (Thứ sử) Định Châu (Tiêu Bột) chỉ muốn trận
yên trước mắt, không nghĩ đến kế lớn. Đã vâng chiếu đi đánh kẻ có tội, phải nên
liều sống chết, há nên dùng dằng không tiến để nuôi cho thế giặc thêm mạnh mà
làm ngăn trở quân mình hay sao?” 1. Bá Tiên hiếu chiến, đầy tham vọng, luôn kích
động Dương Phiêu, nên được cử làm tướng tiên phong, đem quân đi trước.

. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr.180.


1

26
Biết tin quân Lương sắp sang, Lý Nam Đế càng gấp rút xây dựng lực lượng,
huy động quân đội, đắp thành lũy, tăng cường bố phòng, sẵn sàng đánh giặc.

Từ Phiên Ngung, quân Lương tiến theo đường biển vào Vạn Xuân. Tháng 7-
545, quân xâm lược tiến sâu vào nội địa nước ta ở lưu vực sông Hồng. Lý Nam Đế
thân dẫn ba vạn quân trấn giữ Chu Diên (mạn Hưng Yên), thiết lập chiến lũy, bố trí
thành thế trận phòng ngự lớn để chặn đánh quân của Trần Bá Tiên ở đây. Vì quân
giặc mới vào khí thế đương hăng, liên tục công phá thành Chu Diên; vì tương quan
lực lượng không có lợi cho quân ta nên Lý Bí bị thua, phải lui giữ cửa sông Tô
Lịch, dựng thành lũy để chống lại quân Lương.

Chiếm được Chu Diên, Trần Bá Tiên kéo đại quân đến bao vây, tiến công
thành Tô Lịch. Theo Trần thư, quân đội Vạn Xuân có khoảng vài vạn người giữ
thành ở cửa sông Tô Lịch, chiến đấu rất ác liệt, đánh bại nhiều đợt tiến công của
quân Lương. Tuy nhiên, thành đất, lũy tre gỗ không mấy kiên cố mà quân Lương
lại dũng mãnh tiến công ráo riết, thế trận của quân Vạn Xuân dần dần bị vỡ, Lý
Nam Đế buộc phải rút lui khỏi kinh đô, ngược dòng sông Hồng, lên giữ thành Gia
Ninh trên miền đồi núi trung du, ngã ba sông Trung Hà – Việt Trì.

Theo thần tích, trong cuộc kháng chiến do Lý Nam Đế lãnh đạo, cuộc chiến ở
cửa sông Tô Lịch hết sức quyết liệt. Lão tướng Phạm Tu (có tài liệu cho là Lý
Phục Man), người đứng đầu hàng võ quan trong triều đình Vạn Xuân, đã chiến đấu
rất anh dũng và hy sing ngày 20 tháng bảy năm Ất Sửu ( 8-545).

Hạ được thành Tô Lịch, Trần Bá Tiên thúc quân tiến lên truy kích quân ta rồi
bao vây và tiến công thành Gia Ninh, đồng thới cử người báo tin thắng trận cho
chủ tướng Dương Phiêu. Dương Phiêu liền đem hậu quân từ tuyến sau, theo đường
thủy, ngược dòng sông Hồng lên tiếp ứng.

Gia Ninh là một chiến thành lớn, Lý Nam Đế tập trung lực lượng quyết tâm
bảo vệ. Dựa vào thành, quân ta cố sức cầm cự với giặc trong suốt mùa khô năm
545. Sau ba tháng tiến công liên tục, Trần Bá Tiên không thể chiếm được thành,
quân sĩ bị chết rất nhiều, nhưng y vẫn không chịu từ bỏ kế hoạch đánh chiếm Gia
Ninh. Sang tháng 2-546, có quân chủ lực của Dương Phiêu phối hợp, bao vây,
công phá, quân giặc đã hạ được thành Gia Ninh của Lý Nam Đế vào ngày 25-2-
546. Theo Lương thư, năm Trung Đại Đồng thứ nhất, mùa Xuân tháng giêng ngày

27
Ất Sửu, phá thành Gia Ninh. Các sách Lương thư và Tư trị thông giám đều chép
việc phá thành Gia Ninh là do Thứ sử Giao Châu là Dương Phiêu chỉ huy. Từ khi
Trần Bá Tiên tới Giao Châu (7-545) đến khi thành Gia Ninh bị hạ (2-546) là tám
tháng. Đó là cả một quá trình chiến đấu cầm cự của quân đội Vạn Xuân với quân
Lương tại đây. Lực lượng quân sự do Trần Bá Tiên chỉ huy không đủ sức tiêu diệt
quân của Lý Nam Đế tại Gia Ninh, mà chỉ bao vây trong một thời gian dài, khiến
cho quân Lương lúc đó như Bá Tiên nói: “tướng sĩ đều mệt mỏi”. Và đến tháng 2-
546, đợi khi đại quân của Dương Phiêu đến, quân Lương mới đủ lực lượng để
công phá và hạ được thành Gia Ninh.

Thành Gia Ninh bị vỡ, Lý Nam Đế cùng một số binh tướng tổ chức phá vây,
kéo quân lên động Khuất Lão ở Tân Xương (tức miền đồi núi Phú Thọ trên lưu
vực sông Lô). Quân Lương đóng lại ở cửa sông Gia Ninh.

Lý Nam Đế dựa vào núi rừng Tây Bắc, ngoài số binh tướng còn lại sau trận
thất thủ Gia Ninh, ông đã mộ thêm quân, nhiều người Việt đủ các thành phần dân
tộc đã hăng hái gia nhập quân đội, tình nguyện đánh giặc cứu nước. Quân đội của
Lý Nam Đế dựng lán trại trong rừng, hạ cây, xẻ ván đóng thuyền bè, chuẩn bị cho
một hình thức kháng chiến mới.

Sau một thời gian chỉnh đốn lại lực lượng, tháng 10-546, Lý Nam Đế kéo
quân ra hạ thủy trại tại hồ Điển Triệt. Lực lượng quân đội lúc đó đông tới ba, bốn
vạn, sĩ khi rất hăng. Sách Việt sử thông giám cương mục chép: “Lý Bôn lại đem
quân từ trong xứ người Lão ra, đóng đồn ở hồ Điển Triệt. Quân Lương sợ cứ đóng
ở cửa hồ, không dám tiến”1.

Quân Lương từ Gia Ninh, ngược dòng sông Lô tiến lên hồ Điển Triệt, định
đánh phá doanh trại của Lý Nam Đế. Nhưng căn cứ Điển Triệt rất hiểm yếu, khó
đánh, khí thế quân của Lý Nam Đế lại đang hồi phục, dũng cảm đánh chặn địch cả
dưới nước lẫn trên bộ. Thấy tình thế khó khăn, Dương Phiêu và Trần Bá Tiên chỉ
dừng lại ở ngoài cửa hồ, không dám tiến sâu thêm. Sách Đại Việt sử ký toàn thư
chép: “Mùa Thu, tháng tám, vua lại đem hai vạn quân từ trong đất Lão ra đóng ở
hồ Điển Triệt, đóng nhiều thuyền, chật cả mặt hồ. Quân Lương sợ, cứ đóng lại ở
cửa hồ không dám tiến vào”2.

. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập I, Nxb. Giáo dục, H.1998, tr.171.
1

2
. Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr.180.
28
Trước tình hình ấy, Trần Bá Tiên họp các tướng bàn đánh. Bá tiên nói: “Quân
ta ở đây đã lâu, tướng sĩ mỏi mệt, vả lại thế cô không có tiếp viện. Tiến sâu vào
trong lòng nước người, nếu một khi đánh mà không thắng, thì đừng có mong sống
sót. Nay nhân lúc bọn họ vừa thua luôn, lòng người chưa vững, mà người di Lão ô
hợp, dễ bề đánh giết, chính nên cùng ra tay liều chết, cố sức đánh lấy, không có cớ
gì mà dừng lại, thì lỡ mất thời cơ”. Tuy vậy, các tướng vẫn im lặng, không ai dám
hưởng ứng.

Rất tiếc, Lý Nam Đế đã bỏ mất thời cơ này. Đáng lẽ, nhân lúc địch đang lúng
túng, hoang mang và chưa có kế sách đối phó, quân ta tổ chức phản công hoặc
đánh úp chúng, để giành thế chủ động, thì hẳn cục diện sẽ có lợi, bởi vì lúc ấy khí
thế trong quân đã khá hơn. Có lẽ sau mấy lần thất bại liên tiếp, Lý Nam Đế đã có
phần e ngại, thiếu quyết đoán; khiến Trần Bá Tiên có thời gian dò biết tình hình
bên ta để nhân sơ hở của quân ta mà tiến công trước?

Chủ trương trên của Trân Bá Tiên không được các tướng ủng hộ. Cả hai bên
đều án binh bất động. Nhưng bỗng trời đổ mưa lớn, khiến nước sông dâng cao,
tràn cả vào hồ, thuyền lớn của địch có thể dễ dàng cơ động; còn căn cứ của Lý
Nam Đế trở thành một cô đảo giữa vùng sông nước mênh mông… Lợi dụng nước
lớn mưa nhiều, đang đêm Trần Bá Tiên ra lệnh tiến công. Các thuyền lớn của địch
nối nhau xung trận, trống đánh quân reo, ào ào tiến vào hồ Điển Triệt. Lý Nam Đế
và quân đội bị tập kích bất ngờ, không kịp phòng bị, hàng quân tan vỡ, không thể
chống đỡ nổi. Sử chép: “Đêm hôm ấy nước sông lên mạnh, dâng cao bảy thước,
tràn đổ vào hồ. Bá Tiên đem quân bản bộ theo dòng nước tiến trước vào. Quân
Lương đánh trống reo hò mà tiến. Vua vốn không phòng bị, vì thế quân tan vỡ,
phải lui giữ ở trong động Khuất Lão”1.

Đó là trận đánh cuối cùng của Lý Nam Đế. Bị thất bại, Lý Nam Đế dùng
thuyền sang bên hữu ngạn sông Lô, bí mật chạy vào động Khuất Lão. Tinh Thiều
và nhiều tướng sĩ đã chiến đấu anh dũng và hy sinh trong trận hồ Điển Triệt. Và
sau thất bại này, quân ta bị tổn thất nặng; Lý Nam Đế giao quyền cho đại tướng
Triệu Quang Phục, con của Thái phó Triệu Túc điều khiển việc binh. Hai năm sau,
Lý Nam Đế mất , đó là năm 548.

1
. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.180.
29
Nguyên nhân thất bại trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân
Lương của Lý Nam Đế có nhiều cách giải thích khác nhau. Sử thần Lê Văn Hưu
bàn rằng: “Ba vạn quân đều sức thiên hạ không ai địch nổi. Nay Lý Bí có năm vạn
quân mà không giữ được nước, thế thì Bí kém tài làm tướng chăng? Hay là quân
lính mới họp không thể đánh được chăng? Lý Bí cũng là bậc tướng trung tài, ra
trận chế ngự quân địch giành phần thắng không phải là không làm được, nhưng bị
hai lần thua rồi chết, bởi không may gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh
vậy”1. Đó cũng là một cách giải thích. Thực ra, trong chiến tranh giữ nước, Lý
Nam Đế đã không có cách đánh thích hợp trong điều kiện phải lấy nhỏ đánh lớn,
yếu chống mạnh. Trên thực tế chiến đấu chống quân Lương, Lý Nam Đế chỉ dựa
vào quân đội mới được tổ chức, co cụm ở một số thành lũy để cố thủ, không dựa
vào dân, không dựa vào các làng xã để kháng chiến lâu dài, khi có điều kiện thì
không tận dụng được thời cơ đánh giặc, vì thế lực lượng suy yếu dần và thất bại.

Tuy nhiên, sự nghiệp của Lý Nam Đế, trong đó có sự nghiệp đánh giặc ngoại
xâm của ông thật vĩ đại. Lý Bí và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo là một là một
nhân vật, một sự kiện đặc biệt thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc. Lịch sử đã
ghi nhận những cống hiến lớn lao của ông. Nhân dân thương nhớ đã lập nhiều đền
thờ để tưởng niệm và ghi nhới công lao của người anh hùng dân tộc Lý Nam Đế.

1
. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.182.
30
ĐÃ PHÁT HIỆN ĐƯỢC DẤU TÍCH “ĐẠI BẢN DOANH LÝ NAM ĐẾ”

Ở LƯU XÁ (HUYỆN HOÀI ĐỨC – HÀ NỘI)

Minh Tú

(Phòng Văn hóa – Thể thao và Du lịch huyện Hoài Đức – Hà Nội)

Gần đây, sau thời gian khảo cứu các quần thể di tích Lý Nam Đế cùng các
nhân vật, sự kiện lịch sử có liên quan, chúng tôi được biết Lý Bí đã chọn ngày Giỗ
Tổ Hùng Vương (ngày Mười tháng Ba năm Nhâm Tuất – 10-4-542) làm ngày khởi
nghĩa, địa điểm xuất quân bắt đầu từ chùa Linh Bảo, làng Giang Xá…

Sau đó, chúng tôi nghĩ đến việc tìm kiếm “Bản doanh” của Lý Bí đi đôi với
việc làm thủ tục đề nghị Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công nhận các loại hình
di tích.

Khi trở lại làng Lưu Xá (Hoài Đức), chúng tôi được biết đình làng cũng thờ
Lý Nam Đế làm thần Thành hoàng như làng Giang Xá (liền bên cạnh).

Qua việc khai thác sử liệu được biết 2 làng có 2 đình nhưng chung 1 đền
thờ Lý Nam Đế, đền có tên là “Thượng Đẳng Linh Từ”. Chúng tôi gợi ý các cụ
cho xem những “vật báu” của Nhà Thánh, cuối cùng các cụ đã chấp thuận, để được
công nhận đình làng là Di tích Lịch sử - Văn hóa1.

Trong số những vật báu đó, đáng lưu ý nhất là tấm bản đồ cổ đã phác họa
lại “Đại bản doanh của Lý Nam Đế”. Trước hết, nói về ngôi đình được xây dựng
lại ngay chính giữa Đại bản doanh, trên giữa thượng cung thờ Long ngai thần vị,
đầu đội mũ “Kính thiên” (mũi chỉ trời). Trong lòng thần vị mang dòng chữ vàng
khắc nổi trên nền sơn son đỏ tươi: “Đương cảnh, Quốc vương thiên tử Lý Nam Đế
- Hoàng Đế bệ hạ - Thần vị”. Cửu đình hướng về xứ: “Kinh Bắc xuất Thánh minh,
khởi Giáp Tý, chung Mậu Thìn, Nhất thống sơn hà, khai đỉnh nghiệp”…

Để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa chống quân Lương ở giữa thế kỷ thứ VI
toàn thắng, ngay sau Tết Nguyên Đán năm Canh Thân (540), Lý Bí chỉ để một số
1
. Chúng tôi là người trực tiếp quản lý Di tích, được phép xem những thứ đó (như trong Luật Di
sản mà Chủ tịch nước đã ký).
31
tướng lĩnh cùng quân sĩ bí mật chốt lại ở các căn cứ địa, chủ yếu như Giã Năng,
Chu Diên, Liêu Đỗng, Tân Xương, Gia Ninh, Giang Tây… Số còn lại được ông
điều quân từ các nơi về đóng “Đại bản doanh” ở địa phận làng Lưu Xá (nay thuộc
xã Đức Giang, huyện Hoài Đức – Hà Nội). Sau khi đóng “Đại bản doanh” ở Lưu
Xá, Lý Bí đã xây dựng hàng loạt những cơ sở hoạt động quân sự của nghĩa quân,
dưới hình thức chùa chiền để che mắt quân Lương như chùa Rộc, chùa Đúc, chùa
Giáo (còn có tên là Linh Giáo tự). Chùa Đúc là nơi đúc và sản xuất các loại vũ khí
như: gươm, giáo mác, khiên, mộc… Chùa Giáo là nơi tập luyện gươm giáo. Tương
truyền rằng: Thời đó Lý Bí thường đóng vai “chú tiểu” hàng ngày từ chùa Linh
Bảo ở làng Giang Xá sang đánh trống ở chùa Rộc (làng Lưu Xá). Nghĩa quân nghe
theo hiệu lệnh trống của thủ lĩnh mà luyện tập gươm giáo ở chùa Giáo. Gò Lương
– Y: là nơi để kho lương thực và trạm quân y (nay gọi là xóm Gạo); Gó Khảm –
Mộc: là nơi đặt những bộ phận của xưởng công binh; vườn Quán: là nhà bếp và
nhà ăn; gò Yên Ngựa; là nơi buộc ngựa của các tướng lĩnh từ các nơi về họp bàn
việc quân (khu nhà mẫu giáo ngày nay); hồ Quần Ngựa: là nơi tắm của ngựa (ngay
trước cửa đình); gò Mũi Mác: là trạm tiền tiêu canh gác của “Đại bản doanh”; gò
Trống Cờ: là nơi treo trống, cắm cờ; gò Tấu Thư: là nơi tiếp nhận những thư tín từ
các nơi gửi về; Gò Nghiên – Bút: là nơi để các nghiên bút mực; gò Ấn: là nơi đóng
dấu ấn tín của “Đại bản doanh”; gò Văn triều Hoàng đế: là nơi Lý Nam Đế ký
những văn bản, chiếu chỉ của Quốc triều Vạn Xuân (sau ngày lên ngôi Hoàng đế
có những lần ông hành quân qua đây và đóng quân tại nơi này ít ngày và thăm dân
2 làng). Những dấu tích các đường hào, đường lũy vẫn còn để lại quanh làng Lưu
xá đến ngày nay. Còn Cầu Thần: bắc qua dòng Tiểu Giang, chảy trước cửa ngôi
“Thượng Đẳng Linh Từ” mà nhân dân quen gọi là Quán Giang, là nơi khi còn là
“chú tiểu”, Lý Bí thường hay đi lối này về chùa Linh Bảo. Lúc đóng “Đại bản
doanh” ở Lưu Xá, ông cũng qua lại lối này về chùa cho thuận tiện, kín đáo.

Sau khi lên ngôi Hoàng đế vào ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (20-2-
544), Lý Nam Đế cũng đã hành quân qua đây, vì lẽ đó mà địa phương đã dựng lại
“Cầu Thần” để chiêm ngưỡng tưởng niệm. Cây cầu xưa bằng gỗ. Để được bền lâu
hơn, nhân dân đã dựng lại cầu toàn bằng đá xanh theo nguyên hình mẫu cũ: cầu
dài 4,27 m, rộng 2,4 m, mặt cầu hơi uốn cong, lát 13 phiến đá to ghép xoi mộng,
có 12 cột và 4 xà đục chạm 4 đầu rồng thời Lý 1. Các dấu tích “Đại bản doanh” Lý
. Sự tích này còn được ghi lại đầy đủ trong “Thần Kiều bi ký” (Bia viết về Cầu Thần).
1

32
Nam Đế ở Lưu Xá (Hoài Đức – Hà Nội) vẫn được thờ phụng tôn nghiêm cho đến
ngày nay.

33
VÀI NÉT VỀ TỔ CHỨC QUAN LẠI CỦA TRIỀU ĐÌNH NHÀ TIỀN LÝ

VÀ SỰ THÀNH LẬP NƯỚC VẠN XUÂN

PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ

(Viện Sử học)

Về cuộc khởi nghĩa của Lý Bí các bộ chính sử nước ta đều ghi chép tương
đối nhất quán: Đầu năm 542, Thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm hầu Tiêu Tư, vì hà
khắc tàn bạo, mất lòng người. Lý Bí vốn nhà hào trưởng, thiên tư lỗi lạc, làm quan
không được vừa ý, lại có Tinh Thiều là người giỏi mưu lược cũng bất bình với
triều đình nhà Lương nên theo Lý Bí mưu việc dấy binh. Lúc bấy giờ, Lý Bí làm
chức Giám quân ở châu Cửu Đức (Nghệ Tĩnh), nhân đó liên kết với hào kiệt mấy
châu, đều hưởng ứng.

Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh chóng và không gặp phải sự kháng cự
nào của bọn đô hộ Trung Hoa. Tiêu Tư vội sai người mang vàng bạc, của cải đút
lót cho Lý Bí rồi chạy trốn về Việt Châu. Tháng 4 năm 542, vua Lương sai Thứ sử
Việt Châu là Trần Hầu, Thứ sử La Châu là Nịnh Cự, Thứ sử An Châu là Lý Trí và
Thứ sử Ái Châu cùng hợp binh đánh Lý Bí nhưng bị Lý Bí tổ chức nghĩa quân
phản kích khiến quân Lương hoàn toàn thất bại. Nghĩa quân thắng lớn và nắm
quyền làm chủ đất nước, từ đồng bằng Bắc bộ tới vùng Đức Châu (Nghệ Tĩnh) ở
phía nam và vùng bán đảo Hợp Phố.

Bị thua đau, nhà Lương tổ chức cuộc phản công lần thứ hai, sai Thứ sử Cao
Châu là Tôn Quýnh và Thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng điều khiển binh mã sang
trấn áp nhưng đã bị Lý Bí chủ động tổ chức một trận chiến lớn ngay trên miền cực
bắc Châu Giao. Cuộc chiến diễn ra ở Hợp Phố. Quân giặc, 10 phần chết tới 7,8
phần, số còn lại tan vỡ.

Sau khi đánh lui hai đợt phản công của quan lại nhà Lương, Lý Bí lại phải
đối phó với cuộc xâm lấn của Lâm Ấp ở phía nam. Tháng 5 năm 543, vua Lâm Ấp
nhân cơ hội Lý Bí đang dồn quân đối phó ở biên giới phía bắc, đã đem quân đánh

34
phá Đức Châu (Nghệ Tĩnh). Lý Bí đã cử tướng Phạm Tu mang quân vào phương
nam đánh tan quân Lâm Ấp.

Mùa xuân năm Giáp Tý (544), Lý Bí xưng lên ngôi, xưng là Nam Việt đế,
đặt niên hiệu là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân (với mong muốn xã tắc truyền
được đến muôn đời). Đặt trăm quan, xây điện Vạn Xuân để làm nơi triều hội, lấy
Triệu Túc làm Thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ 1. Cuộc
khởi nghĩa của Lý Bí và sự ra đời của nhà nước Vạn Xuân được các sử gia đời sau
bình phẩm khá sâu sắc. Sử thần Ngô Thì Sĩ viết: “Tiền Nam Đế là một nhà hào tộc
khởi binh, có Tinh Thiều giúp việc mưu mô, có Triệu Túc chủ việc quân ngũ. Châu
quận hưởng ứng, hào kiệt đồng tâm, trục xuát được Tiêu Tư, đánh duổi được Tử
Hùng, lại phá được quân Lâm Ấp ở Cửu Đức. Uy binh vang dội, thế mạnh dần lên,
rồi lên ngôi vua xưng là Nam Việt. Có nơi triều hội, có tướng võ tướng văn, quy
mô dựng nước hoàn chỉnh có thể coi được … Từ sau khi Hai Bà Trưng mất tới đây
là 490 năm nội thuộc làm châu phụ biên, một khi vùng lên chống chọi với binh
hung tướng mạnh của Tam Ngô, khiến cho người trong nước có chỗ nương nhờ,
quốc thống có nơi hệ thuộc…”.

Sử thần Nguyễn Nghiễm bình rằng: “Tiền Lý Nam Đế trỗi dậy nơi đất
khách, hăng hái mưu khôi phục đất nước, văn thì đã có Tinh Thiều bày mưu kế, võ
dũng thì đã có Triệu Túc ra chiến trường, vì thế mà đuổi được Tiêu Tư về phương
Bắc, dẹp được Lâm Ấp ở phương Nam, dựng đô, đặt quốc hiệu, khôi phục bờ cõi
nước ta. Nếu không phải là người văn võ toàn tài thì chưa dễ đã làm được…”2

Theo ghi chép của sử cũ thì mô hình tổ chức của bộ máy nhà nước Vạn
Xuân tương đối rõ ràng, gồm hai ban văn võ, đầy đủ bách quan, có đài Vạn Thọ
làm nơi triều hội…. Tuy nhiên, xét bối cảnh lịch sử lúc ấy thì việc đặt trăm quan là
cách ghi chép của sử thần đời sau chứ chắc hẳn cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước
của triều đình Vạn Xuân còn quá đơn giản và có lẽ phỏng theo hình thức nhà nước
phong kiến Trung Hoa. Trong triều đình Vạn Xuân buổi đầu, chính sử chỉ chép tên
một số nhân vật như Triệu Túc (Thái phó), Tinh Thiều (tướng văn), Phạm Tu
1
. Trong nội dung trên có một số chi tiết ghi chép thiếu nhất quán trong các bộ sử. Đại Việt sử ký
Toàn thư và Đại Việt sử ký tiền biên ghi là dựng điện Vạn Thọ; Khâm định Việt sử thông giám
cương mục (tr.169) và Việt sử cương mục tiết yếu (tr.40-41) ghi là dựng điện Vạn Xuân và dưa
ra giả định : « nay ở xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, có hồ Vạn Xuân, còn gọi là đầm Vạn Phúc.
Vậy điện Vạn Xuân có lẽ ở đấy ».
2
. Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb KHXH, Hà nội, 1997, tr.110-111.
35
(tướng võ) và Triệu Quang Phục (Tả tướng). Theo sắp xếp thứ tự thì Triệu Túc
đứng đầu bách quan với chức Thái phó. Vào thời điểm lập quốc, do phải đối phó
với quân Lương đang chuẩn bị kéo sang xâm lược và lo dẹp yên các cuộc nổi dậy
của một số tù trưởng địa phương nên Triệu Túc được giao toàn quyền về quân đội 1,
dưới ông là các tướng Phạm Tu, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử…

Chính sử không ghi chép cụ thể về chức quan của Phạm Tu nhưng qua một
số tài liệu khác cho biết ông từng giữ chức Thiếu úy, Thái úy. Căn cứ vào các
nguồn tài liệu địa phương, đặc biệt là tài liệu văn bia và Thần tích cho biết Phạm
Tu chính là Lý Phục Man. Năm 542, quân Lâm Ấp cướp phá Cửu Đức (miền Nghệ
Tĩnh), Phạm Tu được Lý Bí cử làm tướng cầm quân tiến đánh quân Lâm Ấp. Khi
thắng trận trở về, ông được Lý Bí ban cho họ Lý, tên là Phục Man. Lý Phục Man
được thờ làm Thành hoàng làng Cổ Sở (Hoài Đức). Làng Cổ sở về sau đổi tên
thành làng Yên Sở. Sách Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Sơn Tây) cho biết về vị
Thần được thờ ở đền thần Yên Sở như sau: “Thần người xã này, lúc còn trẻ, võ
nghệ hơn người, thờ Lý Nam Đế, nhiều lần lập công lớn, nổi tiếng trung liệt, được
làm Đại tướng quân, lãnh hai miền Đỗ Động và Đường Lâm. Người Di, Lão phải
xa lánh, dân địa phương được yên. Lại nhiều lần đánh phá Lâm Ấp, Nam Đế khen
thưởng. Vì công lao chinh phục Man di, nên cho tên là Phục Man họ Lý, thăng
Thiếu úy, cho được tham dự quân cơ…”2. Lý Phục Man được thờ ở đình Yên Sở
(nay là làng Đắc Sở hay còn gọi là Quán Giá, Đình Giá). Thần tích làng Yên Sở lại
cho biết, sau khi chiến thắng quân Lâm Ấp, Phạm Tu được Lý Bí ban cho tên họ là
Lý Phục Man, gả cho công chúa Phương Dung làm vợ và phong chức Thái úy.

Triệu Quang Phục là con Thái phó Triệu Túc. Khi Lý Nam Đế chạy về động
Khuất Lão đã “giao cho đại tướng là Triệu Quang Phục giữ việc nước điều quân
đánh Trần Bá Tiên”. Trong kỷ Triệu Việt Vương, Ngô Thì Sĩ cũng cho biết chức của
Triệu Quang Phục là Tả tướng quân. Chức này của Triệu Quang Phục cũng được Lý
Tế Xuyên chép ở mục Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế trong Việt điện u linh3. Ngoài
ra, trong bộ máy quan lại triều đình Vạn Xuân còn có các chức Biệt súy hạt Biệt

1
. Trong Việt điện u linh có chép về sự kiện Lý Bí đem quân dẹp cuộc nổi loạn ở Bình Lâm (vùng
Hà Trung, Thanh Hóa) được Bà Triệu ứng mộng phò giúp (Việt điện u linh trong Tổng tập tiểu
thuyết chữ Hán Việt Nam, tập I, Nxb Thế Giới 1997, tr. 62
2
. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2006, tr.
277.
3
. Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập I, Nxb Thế Giới, 1997, tr. 62.
36
tướng (Lý Phổ Đỉnh), Kiếp súy (Lý Thiên Bảo) và Chỉ huy sứ đại tướng. Về chức
Chỉ huy sứ đại tướng được chép trong Thần tích về một bộ tướng của Lý Bí.

Trong thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa, khi còn là Giám quân ở Cửu Đức, Lý Bí
ra sức tuyên truyền, chiêu tập và vận động nhân dân cùng các hào kiệt trong vùng.
Chính vì vậy mà ảnh hưởng và uy tín của ông rất lớn. Khi Lý Bí khởi nghĩa, nhiều
hào kiệt miền Cửu Đức đã đem quân theo ông chiến đấu. Thần phả đình Yên Đê,
xã Kim Chung, huyện Hoài Đức kể lại một trường hợp như sau1:

Ở quận Cửu Đức xưa, có gia đình hai vợ chồng Trịnh Đoan và vợ là Đào
Hiểu, sinh được một người con trai tên là Trịnh Đô. Trịnh Đô thông minh, có
tài. Năm 17 tuổi đã rất giỏi võ nghệ, sức địch nổi muôn người. Năm 20 tuổi, bố
mẹ đều mất. Trịnh Đô đem quân theo Lý Nam Đế, được phong là Chỉ huy sứ
đại tướng. Trịnh Đô cũng đã tham gia cuộc kháng chiến giữ nước, chống quân
Trần Bá Tiên.

Sau hai lần phản công đều thất bại, nhà Lương huy động một lực lượng lớn
sang chinh phạt Giao Châu. Nhân dân Vạn Xuân lại tiếp tục chiến đấu dưới sự
lãnh đạo của Lý Nam Đế. Hai bên kịch chiến, Lý Nam Đế bị thua, phải lui về miền
sông Tô Lịch, cuối cùng phải chạy về động Khuất Lão ở vùng Tân Xương2.

Năm 548, Lý Nam Đế mất. Anh ruột của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo chạy vào
Cửu Chân cùng với Lý Thiên Long đem hai vạn quân tiến đánh Đức Châu rồi tiến ra
vùng châu Ái, nhưng bị Trần Bá Tiên đánh bại. Lý Thiên Bảo phải lui lên vùng thượng
du Thanh Hóa ngày nay, xưng là Đào Lang vương, đóng ở động Dã Năng. Sự kiện này
được Trần thư chép lại: "... Anh Lý Bí là Thiên Bảo trốn vào Cửu Chân cùng với
kiếp súy là Lý Thiên Long và hai vạn quân còn sót, giết thứ sử Đức Châu là Trần
Văn Giới, tiến vây Ái Châu..." 3. Triệu Quang Phục đóng quân ở đầm Dạ Trạch.
Năm 555, Đào Lang vương mất ở Dã Năng, không có con, mọi người lại suy tôn
Lý Phật Tử lên nối ngôi, Sử cũ chép là kỷ Hậu Lý Nam Đế.

1
. Đỗ Văn Ninh (chủ biên) : Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ X, Nxb KHXH, Hà Nội,
2001, tr.335.
2
. Ngày nay trên địa bàn huyện Tam Nông (tỉnh Phú Thọ) còn có đền thờ Lý Bí. Tương truyền,
ông mất ở đây. Có ý kiến cho rằng nơi đây chính là địa bàn động Khuất Lão.
3
. Nguyễn Văn Tố: Đại Nam dật sử - Sử ta so với sử Tàu, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, 1997,
tr.506.
37
Năm 557, Lý Phật Tử đem quân xuống phía Đông đánh nhau với Triệu
Quang Phục ở huyện Thái Bình nhiều lần mà không phân thắng bại. Sau hai bên
giảng hòa, chia địa giới ở bãi Quân Thần, Lý Phật Tử về đóng đô ở thành Ô Diên.
Năm 570, Lý Phật Tử thôn tính được Triệu Quang Phục, vẫn xưng là Nam Đế, giữ
nguyên quốc hiệu là Vạn Xuân. Hậu Lý Nam Đế rời đô từ thành Ô Diên về Phong
Châu (tức Việt Vương thành, thành Cổ Loa), giao thành Ô Diên cho Lý Phổ Đỉnh
quản giữ.

Triều đình Vạn Xuân dưới triều Hậu Lý Nam Đế đóng đô tại thành Ô Diên (nay
thuộc làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng). Trong khu vực thành cổ Ô Diên xưa hiện còn
các di tích như đình Vạn Xuân, miếu Hàm Rồng, đền Văn Hiến (thờ Tô Hiến Thành) và
đền Chính khí (tương truyền nằm trong phủ đệ của Hoàng tử Bát Lang).

Đình Vạn Xuân là một ngôi đình cổ còn khá nguyên vẹn, đã được xếp hạng
Di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1991. Hiện nay, tại đình còn một tấm
bia khắc năm Vĩnh Trị 4 (1679) và cuốn Thần phả do Nguyễn Bính soạn năm
1572. Nội dung Thần phả cho biết : Hậu Lý Nam Đế giao cho nhân dân làng Hạ
Mỗ lập miếu thờ trên phủ đệ cũa của Hoàng tử Lý Bát Lang trong khu vực thành Ô
Diên sau khi Hoàng tử qua đời. Đó chính là miếu hàm Rồng.

Trong đình còn lưu lại một số câu đối đáng chú ý :

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝 帝 帝

帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝

Nam Đế Lý triều quốc hiệu Vạn Xuân, diên đình lưu thánh tích

Ô Diên cảnh thắng đô thành nhất thế, quán tự hiển thần linh.

Tạm dịch:

Triều Lý Nam Đế nước Vạn Xuân, ngôi đình lớn còn lưu thánh tích

Đất Ô Diên thắng cảnh một thuở là kinh đô, việc thờ tự mãi linh thiêng

Tài liệu sớm nhất ở nước ta chép về thành cổ Ô Diên có lẽ là An Nam chí lược
của Lê Trắc (biên soạn ở Trung Quốc khoảng đầu thế kỷ XIV). Trong mục Sự chinh
phạt của các triều đại trước, Lê Tắc có chép về thành Ô Diên như sau: “Năm Nhân
Thọ thứ 2 (602), Lý Phật Tử làm loạn, chiếm thành cũ của Việt Vương [tức thành Cổ

38
Loa]. Người con của anh là Đại Quyền chiếm thành Long Biên; còn tướng là Lý Phổ
Đỉnh chiếm cứ thành Ô Diên…1

Trong Việt điện u linh - tác phẩm của Lý Tế Xuyên được biên soạn xong
vào năm Khai Hựu nguyên niên (1329) đời Trần Hiến Tông, ở mục truyện Triệu
Việt vương và Lý Nam Đế cũng có đoạn chép về thành Ô Diên như sau: “… Nam
Đế đã thôn tính xong Triệu Việt Vương, bèn thiên đô đến Lộc Loa và Vũ Ninh,
phong anh là Xương Ngập làm Thái Bình Hầu giữ thành Long Biên, phong Đại
tướng là Lý Tấn Đỉnh làm An Ninh Hầu giữ thành Ô Diên…” 2. So với một số tài
liệu chính sử sẽ dẫn dưới đây thì Việt điện u linh chép tên vị tướng giữ thành Ô
Diên là An Ninh Hầu Lý Tấn ( 帝 ) Đỉnh chưa không phải Lý Phổ ( 帝 ) Đỉnh như
phần nhiều các tài liệu khác.

Nguyễn Trãi trong Dư địa chí (biên soạn năm 1434) khi chép về thời Tiền
Lý cũng cho biết: “Tiền Lý gọi nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên, Triệu gọi
nước là Việt Triệu, đóng đô ở Chu Diên. Đào Lang gọi nước là Dã Năng, Hậu Lý
đóng đô ở Ô Diên rồi rời sang Phong Châu”. Nguyễn Trãi cho biết thêm: Ô Diên
thì ngày xưa thuộc Từ châu, bây giờ là huyện Từ Liêm 3. Tác giả Đặng Xuân Bảng
trong Sử học bị khảo cho rằng: “… sông Ô Diên (tức là Nhị Hà, Ô Diên là tên
huyện thời Hán, nay là đất huyện Từ Liêm) tức là sông Hát và cũng là tên khác của
Nhị Hà4.

Nửa cuối thế kỷ XV, Ngô Sĩ Liên biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư kỷ Triệu
Việt vương có chép về thành Ô Diên như sau: “Đinh Sửu, năm thứ 10 (557)… Lý
Phật Tử đem quân xuống miền Đông, đánh nhau với vua [Triệu Việt vương] ở
huyện Thái Bình, năm lần giáp trận, chưa phân thắng phụ mà quân của Phật Tử hơi
lùi, ngờ là vua có thuật lạ, mới giảng hòa xin thề. Vua nghĩ rằng Phật Tử là họ của
Nam đế không nỡ cự tuyệt, bèn chia địa giới ở bãi Quân Thần (nay là hai xã
Thượng Cát, Hạ Cát thuộc huyện Từ Liêm) cho ở phía tây của nước, [Phật Tử] dời

1
. Lê Tắc: An Nam chí lược, Nxb Thuận Hóa - Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, 2002,
tr. 117.
2
. Lý Tế Xuyên: Việt điện u linh trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập I, Nxb Thế
giới, Hà Nội 1997, tr. 64.
3
. Nguyễn Trãi toàn tập (Dư địa chí), Nxb KHXH, Hà Nội 1976, tr. 214.
4
. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. Viện sử học & Nxb Văn hóa -Thông tin, Hà Nội 1997, tr.
263.
39
đến thành Ô Diên (tức là xã Hạ Mỗ huyện Từ Liêm ngày nay, xã ấy nay có đền thờ
thần Bát Lang, tức đền thờ Nhã Lang)1 .

Thế kỷ XVIII, sử gia Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký tiền biên, khi chép về
kỷ Hậu Nam Đế cho biết thêm về thành Ô Diên cũng như các sự kiện lịch sử diễn
ra trong thế kỷ VI và đầu thế kỷ VII: “Vua [Lý Phật Tử] đã diệt được Triệu, vẫn
xưng hiệu là Nam Đế, đóng đô ở Ô Diên, rồi rời về Phong Châu…. Nhâm Tuất,
năm thứ 47 (602), Nam Đế sai con của anh mình là Đại Quyền giữ thành Long
Biên, biệt súy là Lý Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên” 2.

Sử gia Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, phần Phong vực (trấn Sơn Tây)
khi chép về huyện Từ Liêm có đoạn viết: “Hai xã Thượng Cát và Hạ Cát, theo Sử
ký chép là chỗ phân chia địa giới giữa Triệu Việt vương và Hậu Lý Nam Đế, lúc
ấy gọi tên là Quân Thần châu. Xã Hạ Mỗ theo sử nói tức là thành Ô Diên, chỗ ở
của Triệu Việt vương. Trong xã ấy có đền thờ Bát Lang, tức Lý Nhã Lang, con rể
Triệu Việt vương3.

Sang thế kỷ XIX, các sử thần triều Nguyễn khi biên soạn Khâm định Việt sử
thông giám cương mục cũng chủ yếu dựa vào Sử cũ mà chép về sự kiện tranh chấp
quyền lực giữa Triệu Việt vương và Lý Phật tử. Từ năm 557, sau khi hai bên giảng
hòa, Lý Phật tử về đóng ở thành Ô Diên. Năm 570, sau khi diệt nhà Triệu, Lý Phật
Tử tự xưng đế mới rời đô từ thành Ô Diên sang Phong Châu. Theo nhiều tài liệu
cho biết thì thành Phong Châu tức Việt Vương thành, hay thành Cổ Loa 4, còn
thành Ô Diên thì giao cho biệt tướng là Lý Phổ Đỉnh trong giữ5.

Sách Đại Nam nhất thống chí được biên soạn vào cuối thời Tự Đức triều
Nguyễn xếp thành cổ Ô Diên vào mục Cổ tích c\của tỉnh Hà Nội. Sách ấy chép:
“Thành cổ Ô Diên: ở địa phận huyện Từ Liêm, sau kh [Hậu] Lý Nam Đế giảng hòa

1
. Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký Toàn thư, tập I, Nxb KHXH, Hà Nội 1967, tr.
122.
2
. Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký Tiền biên, Nxb KHXH, Hà Nội 1997, tr. 109 - 110.
3
. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2997, tr. 334.
4
. Như Toàn thư, An Nam chí lược, An Nam chí nguyên, Phương dư kỷ yếu … Thời Đường, Cổ
Loa thuộc đất Phong Châu.
5
. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tập I, Nxb Giáo dục,
Hà Nội 1998, tr. 177.
40
với Triệu Quang Phục, dời đến ở đây. Lúc Triệu Quang Phục lên ngôi cũng đóng ở
đây. Nhà Đường, năm Vũ Đức thứ 4, đặt làm huyện Ô Diên, nay là xã Hạ Mỗ”1.

Mặc dù tài liệu chính sử và địa lý học lịch sử chỉ ghi chép đôi dòng vắn tắt
nhưng cũng đã khẳng định sự hiện diện của thành cổ Ô Diên từ thế kỷ thứ VI.
Thành cổ Ô Diên đã có một thời gian khoảng hơn 1 thập kỷ (từ năm 557 đến năm
570) là nơi đóng đô của triều Hậu Lý. Từ năm 570 đến 602, thành Ô Diên do
tướng Lý Phổ Đỉnh đóng giữ và là một trong những căn cứ kháng chiến chống
quân Lương đầu thế kỷ VI. Đặc biệt thành Ô Diên có quan hệ mật thiết với Cổ Loa
thành và thành Long Biên thời bấy giờ. Cổ Loa thành thì đã rõ, thời ấy thuộc đất
Phong Châu, còn Long Biên thành vốn là lỵ sở của Giao Châu từ thời Ngô đến
năm Trường Khánh thứ 4 (821) đời Đường, tổng cộng là 586 năm2.

Như vậy, thành Ô Diên chủ yếu gắn với triều Hậu Lý Nam Đế. Mặc dù bị thất
bại trong cuộc kháng chiến chống quân Tùy nhưng vai trò của Lý Phật Tử và triều Hậu
Lý Nam Đế trong tiến trình lịch sử dân tộc cũng được sử gia Ngô Thì Sĩ đánh giá cao:
“Hậu Nam Đế là bậc tông phiên nổi lên nối giữ nghiệp cũ của Đào Lang vương, thu
thập nắm tàn quân của Dã Năng, đánh 5 trận ở Thái Bình, chia bờ cõi với Triệu [Việt
Vương], rồi từ Đào Giang rời nước về Ô Diên, tiêu diệt nhà Triệu mà lên thay, kế tục
chính thống nhà Lý, rửa được cái nhục trước đây ở động Khuất Liêu (Lão), rạng rỡ ấp
mới ở Phong Châu, dựng lại cơ nghiệp, có điều đáng khen đấy…”3.

Năm 602, nhà Tùy sai Lưu Phương làm Giao Châu đạo Hành quân tổng
quản thống lĩnh 27 doanh quân sang xâm lược. Lý Phật Tử chống không nổi, xin
hàng, bị đưa về Trung Quốc rồi mấy ở đó. Lý Phổ Đỉnh giữ thành Ô Diên chống
lại Lưu Phương nhưng cũng thất bại. Nước ta lại chịu ách đô hộ của phong kiến
phương Bắc.

Như vậy, quốc hiệu Vạn Xuân không chỉ tồn tại dưới triều Lý Nam Đế
(544-548) mà còn kéo dài đến hết triều Hậu Lý Nam Đế (557-602), tổng cộng gần
nửa thế kỷ4.

1
. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, tập 3 (tỉnh Hà Nội), Nxb Thuận Hóa, tr.
224
2
. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo, Sđd, tr. 258.
3
. Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký Tiền biên, Sđd tr. 112.
4
. Theo Nguyễn Trãi thì Triệu Quang Phục xưng vương, gọi nước là Việt Triệu. Như vậy quốc
hiệu Vạn Xuân chỉ gắn với Tiền Lý Nam Đế và Hậu Lý Nam Đế.
41
VẤN ĐỀ QUÊ HƯƠNG CỦA LÝ NAM ĐẾ - MỘT NGHI ÁN LỊCH SỬ

CẦN ĐƯỢC LÀM SÁNG TỎ

PGS.TS. Nguyễn Minh Tường

(Viện Sử học )

Trong lịch sử Việt Nam, có không ít những danh nhân, mặc dù công lao rất
to lớn đối với tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, nhưng quê hương của
họ ở đâu, vẫn là một câu hỏi chưa có đáp án? Khoảng trên nửa thế kỷ lại đây, giới
sử học Việt Nam từng nhiều lần trao đổi xem: Quê hương của Lý Nam Đế, của Lý
Thái Tổ, của Nguyên Phi Ỷ Lan, v.v… đích thực là vùng đất nào? Theo như hiểu
biết của chúng tôi, các vấn đề trên, cho đến nay vẫn chưa có sự đồng thuận cao
trong giới sử học nước nhà.

Chúng tôi muốn trao đổi thêm về quê hương của Lý Nam Đế là do vừa qua
trong nhiều chuyến đi điền dã thực tế đến các địa điểm như huyện Phổ Yên, Thái
Nguyên; huyện Hoài Đức, Hà Nội và huyện Thái Thụy, Thái Bình, v.v… chúng tôi
đã thu thập được một số tư liệu quý, để có thể đưa ra kết luận: đâu đích thực là quê
hương Lý Nam Đế?

I. Những ghi chép về quê hương Lý Nam Đế trong thư tịch cổ

Nước Việt Nam phải đến thời kỳ chế độ quân chủ độc lập, khoảng hai triều
đại Lý (1009-1225) và Trần (1225-1400) mới có cơ quan giữ trách nhiệm về việc
chép sử.

Quyển lịch sử đầu tiên có lẽ là bộ Sử ký của Đỗ Thiện thời Lý. Nhưng sách
này hiện không còn, chúng ta chỉ còn biết được một vài đoạn dẫn lại trong Việt
điện u linh tập của Lý Tế Xuyên, soạn năm 1329 hay Lĩnh Nam chích quái của
Trần Thế Pháp, soạn khoảng năm từ 1370 đến 1400.

Đến thời Trần, việc chép sử được tổ chức chu đáo hơn. Quốc sử viện được
thành lập. Sử gia Trần Tấn soạn sách Việt chí. Ông nguyên làm chức Tả tàng, sau
giữ chức Hàn trưởng đời Trần Thái Tông (1225-1258). Năm 1272, Lê Văn Hưu
dựa vào Việt chí, soạn lại thành bộ Đại Việt sử ký, gồm 30 quyển, chép các sự kiện
42
lịch sử từ Triệu Đà (179 tr. Cn – 136 tr. Cn) đến Lý Chiêu Hoàng (1224-1225). Lê
Văn Hưu là người Thanh Hóa, đỗ Bảng nhãn năm 1247, giữ chức Hàn lâm viện
Học sĩ kiêm chức Quốc sử viện Giám tu. Đại Việt sử ký là một bộ sử biên niên, đến
nay không còn nguyên vẹn nữa. Bóng dáng của nó chỉ còn thấy trong 8 quyển đầu
bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, hoàn thành vào năm 1479.

Do đó, để nghiên cứu những sự kiện lịch sử trong thời kỳ Bắc thuộc nói
chung, và nhà Tiền Lý (544-602) nói riêng, từ trước đến nay, các nhà sử học phần
lớn đều phải dựa vào thư tịch cổ của Trung Quốc. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là các
thư tịch cổ của Trung Quốc ghi chép về: Nhà Tiền Lý, do tác giả đứng trên lập
trường của kẻ xâm lược, nên không thiếu những sự xuyên tạc, bóp méo sự thực
lịch sử và nhận định sai trái. Hơn nữa, các tác giả ở quá xa đối với sự kiện mà họ
không được chứng kiến trực tiếp, nên nhiều khi ghi chép một cách chung chung có
tính chất phỏng đoán, mơ hồ, v.v…

Những ghi chép trong chính sử Trung Quốc về quê hương Lý Nam Đế
không phải là ngoại lệ.

Lương thư chép: “Năm Đại Đồng thứ 7 (541), thổ dân ở Giao Châu là Lý
Bôn đánh Thứ sử là Tiêu Tư… Vua Lâm Ấp phá Đức Châu đánh Lý Bôn. Bôn sai
tướng võ là Phạm Tu đánh vua Lâm Ấp ở Cửu Chân. Vua Lâm Ấp thua chạy…”1.

Trần thư chép: “Trước đây Tiêu Tư làm Thứ sử Giao Châu vì khắc bạc mất
lòng dân; thổ nhân là Lý Bôn liên kết với hào kiệt vài châu, đồng thời làm
phản…”2.

Sách Việt kiệu thư của Lý Văn Phượng cũng chép: “Về đời nhà Lương, năm
Đại Đồng thứ 7 (541), ở Giao Chỉ có Lý Bôn, đời đời là nhà hào hữu, làm quan bất
đắc chí, gặp Thứ sử Châu Giao là Tiêu Tư, tước Vũ Lâm hầu, vì khắc bạc, mất
lòng dân. Bấy giờ Lý Bôn coi Đức Châu, nhân liên kết hào kiệt vài châu làm phản.
Tiêu Tư đem của lo lót với Lý Bôn, để chạy về châu Quảng”3.

Như vậy, ta thấy ba bộ sử trên của Trung Quốc đều không ghi chép gì về
quê hương cụ thể của Lý Nam Đế. Các sách trên chỉ ghi chép chung chung rằng:
“Lý Bôn (Lý Bí) là thổ dân ở Giao Châu”.
1
. Lương thư, quyển 3, tờ 9 – 11.
2
. Trần thư, quyển 1, tờ 1b.
3
. Lý Văn Phượng: Việt kiệu thư, quyển 3, tờ 30b – 32a.
43
Về vấn đề này, chính sử của nước ta ghi chép cũng thiếu sự nhất quán.

Việt sử lược là bộ sử được viết vào khoảng sau năm “Xương Phù nguyên
niên, Đinh Tỵ” (tức năm 1377), chỉ chép: “Hầu Tư1, Thứ sử đời Lương Võ Đế
(502-549)… Người trong châu là Lý Bí làm phản, giữ thành Long Biên, tự xưng là
Nam Việt Đế, đặt trăm quan, cải nguyên là Thiên Đức, quốc hiệu là Vạn Xuân” 2.
Đáng tiếc, bộ Việt sử lược này đã qua sự “hiệu đính” của Tiền Hi Tộ, một nhà
nghiên cứu đời Càn Long (1736-1795), nhà Thanh, nên bị bóp méo theo lập trường
của bọn xâm lược phương Bắc, khi chép về: Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí, lại gọi là:
“Lý Bí làm phản (?)”, v.v…

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua họ Lý, tên húy là Bí, người Thái Bình,
phủ Long Hưng. Tổ tiên là người Bắc, cuối thời Tây Hán, khổ về việc đánh dẹp,
mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam”3.

Như vậy, Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử đầu tiên của nước ta chép
về quê hương của Lý Nam Đế là “Thái Bình, phủ Long Hưng”. Đại Việt sử ký toàn
thư là bộ sử mẹ, nên các bộ sử chép sau này, đều căn cứ vào nó, để đưa ra nhận
định tương tự.

Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ chép: “Vua họ Lý, húy là Bôn 帝 4,
người Long Hưng, Thái Bình. Tổ tiên là người phương Bắc. Cuối thời Tây Hán,
cực khổ vì chiến tranh, lánh nạn sang ở đất Nam. Đến đời thứ 7 thành người
phương Nam. Vua đuổi được Thái thú phương Bắc, dẹp xong Lâm Ấp bèn xưng là
Nam Đế, ở ngôi được 8 năm, mất ở động Khuất Lão5, không rõ tuổi thọ…”6.

Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú cũng chép theo sử cũ:
“Tiền Lý Nam Đế. Họ Lý, tên Bôn, là người ở làng Thái Bình, quận Long
Hưng…”7.

1
. Hầu Tư: tức Tiêu Tư, tôn thất nhà Lương, tước Vũ Lâm hầu. Hầu Tư là nói tắt của Vũ Lâm
hầu Tiêu Tư.
2
. Việt sử lược. Nxb Thuận Hóa, Huế - 2005. Bản dịch của Trần Quốc Vượng, tr. 31.
3
. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, H. 1998, tập 1, tr. 178.
4
. Chữ Bôn 帝, còn có âm là Bí. Ở đây dịch giả dịch là Lý Bôn, nhiều văn bản khác thường dịch là
Lý Bí. Nhưng tên Bí mới là tên chính, vì nhiều địa phương ở nước ta kỵ húy vua Lý Nam Đế,
gọi “quả bí” chệch thành “quả bầu”.
5
. Nguyên văn chép động “Khuất Liêu”, chúng tôi sửa lại là Khuất Lão cho đúng với tên gọi địa
phương.
6
. Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên. Nxb Khoa học xã hội, H. 1997, tr. 101.
7
. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb Sử học, H. 1960, tập 1, tr. 155.
44
Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép: “Tổ tiên Lý Bôn gốc ở
phương Bắc (Trung Quốc), cuối đời Tây Hán, tránh loạn sang phương Nam, đến
Lý Bôn là đời thứ 7 đã thành người Phương Nam. Lý Bôn tài kiêm văn, võ làm
quan triều Lương, coi đạo quân Cửu Đức. Vì bất đắc chí, nên về Thái Bình khởi
binh…”1. Lời chua của các sử thần triều Nguyễn về đất Thái Bình như sau: “Sử cũ 2
chép: Lý Bôn, người Thái Bình, thuộc Long Hưng. Nay xét: tên Thái Bình đặt từ
năm Vũ Đức thứ 4 (621) triều Đường, tên Long Hưng đặt từ đời Trần (1225-1400).
Đời Lương không có tên đất này. Sử cũ chỉ theo đó mà truy gọi thôi. Bây giờ ở xã
Tử Đường, huyện Thụy Anh, phủ Thái Bình, tỉnh Nam Định, còn có đền thờ Lý
Bôn”3.

Thực ra, những ghi chép trên đây về Lý Nam Đế của sử thần triều Nguyễn
có một vài sai xót, như chép: “Tổ tiên Lý Bôn gốc ở phương Bắc, cuối đời Tây
Hán, tránh loạn sang ở phương Nam, đến Lý Bôn là 7 đời đã thành người phương
Nam”. Nguyên văn câu này trong Đại Việt sử ký toàn thư chép: 帝 帝 帝帝帝 帝帝帝 帝帝帝
帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝. Phiên âm: Đế tính Lý,
húy Bôn, Long Hưng, Thái Bình nhân dã. Kỳ tiên Bắc nhân, Tây Hán mạt, khổ ư
chinh phạt, tị ư Nam thổ, thất thế toại vi Nam nhân… 4. Câu văn trên cho thấy, vào
cuối đời Tây Hán (206 tr. Cn – 8 s. Cn), tức khoảng từ năm 8 đến 25 5, tổ tiên Lý Bí
từ Trung Quốc chạy loạn sang Giao Châu, đến đời thứ 7 thì thành người phương
Nam. Chứ không phải “đến Lý Bôn là 7 đời” như Khâm định Việt sử thông giám
cương mục chép nhầm. Vì như chúng ta đều biết chữ Thế 帝 (nghĩa là Đời) là một
chữ dạng Hội ý của Tam thập 帝 帝, tức 30 năm. Trước đây người ta thường tính 1
đời là khoảng từ 25 đến 30 năm. Nếu nói từ “cuối đời Tây Hán đến Lý Bôn là 7
đời” (7 x 30 = 210 năm), thì sai quá! Thực tế, nếu tính từ năm 25 s. Cn, tức cuối
đời Tây Hán, đến Lý Bí khởi nghĩa, năm 542, là 517 năm, như vậy phải là khoảng
17 đời (17 x 30 = 510 năm). Chúng tôi không rõ vì sao các sử thần triều Nguyễn
lại “tính toán” sai đến vậy!?.

1
. Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Nxb Giáo dục, H. 1998, tập 1, tr. 167.
2
. Sử cũ: ở đây chỉ Đại Việt sử ký toàn thư.
3
. Tử Đường: nay là thôn Tử Các, thuộc xã Thụy Hòa, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
4
. Phần chữ Hán: Ngoại kỷ toàn thư, quyển 4, tờ 14b, trong Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa
học xã hội, H. 1998, tập 4, tr. 70 (phần chữ Hán).
5
. Năm 25 s. Cn: Lưu Tú, tức Hán Quang Võ Đế diệt nhà Tân của Vương Mãng, khôi phục triều
Hán. Sử gọi nhà Hậu Hán, hay Đông Hán (25 – 220).
45
Cái sai thứ hai trong Lời chua của các tác giả bộ Khâm định Việt sử thông
giám cương mục là căn cứ vào câu Sử cũ (tức Đại Việt sử ký toàn thư) chép: “Lý
Bôn người Thái Bình, thuộc Long Hưng”, rồi suy đoán: “Bây giờ ở xã Tử Đường,
huyện Thụy Anh, phủ Thái Bình, tỉnh Nam Định còn có đền thờ Lý Bôn”, như một
sự định hướng dư luận: “Lý Bôn quê ở xã Tử Đường” (tức thôn Tử Các, xã Thụy
Hòa, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ngày nay).

Điều sai lầm trên đây đã được Nhà sử học Đặng Xuân Bảng (1828-1910)
đính chính trong bộ Việt sử cương mục tiết yếu (nghĩa là: “Tóm tắt những điều cốt
yếu trong bộ “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”). Sách Việt sử cương
mục tiết yếu chép: “Tân Dậu (541) (Lương, Đại Đồng năm thứ 7). Mùa Đông, Lý
Bí người Giao Chỉ khởi binh đuổi Thứ sử nhà Lương là Tiêu Tư (tông thất nhà
Lương) chiếm giữ Long Biên… Bí có tài văn võ, làm quan cho nhà Lương, coi
quận Cửu Đức (nay là đất Hà Tĩnh), vì không đắc chí, trở về Thái Bình (đất này
đến nhà Đường (618-907) mới đặt, sử ghi lại. Theo Đường thư: Phủ đô hộ An
Nam, qua Thái Bình của Giao Chỉ hơn 100 dặm 1 (tức 50 km – TG), đến Phong
Châu, thì Thái Bình, nằm trên con đường mà từ Phủ đô hộ đến Phong Châu phải đi
qua đó: Thái Bình là các phủ Quảng Oai, Quốc Oai của Sơn Tây và Ứng Hòa của
Hà Nội ngày nay – TG nhấn mạnh)2.

Thiết tưởng, chúng ta cũng cần biết rằng: Đặng Xuân Bảng không chỉ là
một nhà sử học uyên bác, mà còn là nhà nghiên cứu xuất sắc về Địa lý học – Lịch
sử. Ngoài bộ Việt sử cương mục tiết yếu kể trên, Đặng Xuân Bảng còn là tác giả
một công trình sử học tiêu biểu khác là: Sử học bị khảo. Sử học bị khảo là công
trình chuyên khảo về 3 vấn đề: Thiên văn, Địa lý và Quan chế. Học giả Đào Duy
Anh trong Lời dẫn sách Đất nước Việt Nam qua các đời từng cho rằng: “Địa lý
khảo thượng hạ” [của Đặng Xuân Bảng] có những tài liệu rất có giá trị về địa lý
học – lịch sử của nước ta”. Và: “Tác phẩm của Đặng Xuân Bảng có thể xem là một
công trình nghiên cứu địa lý học – lịch sử quan trọng nhất trong học giới nước ta
thời phong kiến…”3.

1
. Một dặm: bằng khoảng 500 m.
2
. Đặng Xuân Bảng: Việt sử cương mục tiết yếu. Nxb Khoa học xã hội, H. 2000. Bản dịch của
Hoàng Văn Lâu, tr. 40.
3
. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb Văn hóa - Thông tin, H. 2005, tr. 6, 12.
46
Điểm qua những ghi chép về quê hương của Lý Nam Đế trong thư tịch cổ
của Trung Quốc và Việt Nam, cho thấy có hai quan điểm:

- Huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (Khâm định Việt sử thông giám cương
mục).

- Huyện Quảng Oai, Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, huyện Ứng Hòa tỉnh Hà Nội
(Việt sử cương mục tiết yếu).

Dưới đây, chúng tôi xin chứng minh cả hai quan điểm trên đều thiếu chứng
cứ nên không đủ sức thuyết phục.

II. Nhận định về quê hương Lý Nam Đế của các nhà sử học từ đầu thế
kỷ XX đến nay

Tính từ đầu thế kỷ XX, người đầu tiên phủ nhận thuyết Lý Bí quê tại tỉnh
Thái Bình là tác giả Trần Trọng Kim trong bộ Việt Nam sử lược. Việt Nam sử lược
được Trần Trọng Kim biên soạn vào năm 1919, và được ấn hành lần thứ nhất năm
1921. Trong Việt Nam sử lược, về vấn đề quê hương Lý Nam Đế, Trần Trọng Kim
viết: “Ở huyện Thái Bình có một người tên là Lý Bôn - 帝 帝, tài kiêm văn võ, thấy
nước mình, trong thì quan lại Tàu làm khổ, ngoài thì người Lâm Ấp cướp phá, bèn
cùng với những người nghĩa dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư - 帝 帝 về Tàu, rồi
chiếm giữ lấy thành Long Biên…”1. Ở phần chú thích: “Huyện Thái Bình”, Trần
Trọng Kim viết: “Cứ theo sách Khâm định Việt sử (tức Khâm định Việt sử thông
giám cương mục – TG), thì huyện Thái Bình, thuộc về Phong Châu ngày trước,
nay ở vào địa hạt tỉnh Sơn Tây, nhưng mà không rõ là chỗ nào, chứ không phải là
phủ Thái Bình ở Sơn Nam mà bây giờ là tỉnh Thái Bình (TG nhấn mạnh)2.

Trong bộ Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, xuất bản lần thứ
nhất năm 1955, GS. Đào Duy Anh cũng phủ nhận thuyết Lý Bôn là người tỉnh
Thái Bình. GS. Đào Duy Anh viết: “Lý Bôn là người huyện Thái Bình (khoảng
Ứng Hòa tỉnh Hà Đông và Quốc Oai tỉnh Sơn Tây ngày nay), có tài văn võ…”3.
Khoảng 20 năm sau, khi công bố công trình Đất nước Việt Nam qua các đời vào
năm 1975, GS. Đào Duy Anh có “điều chỉnh” giới hạn phạm vi “huyện Thái Bình”

1
. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược. Nxb Văn hóa – Thông tin, H. 1999, tr. 61.
2
. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược. Sđd, tr. 61.
3
. Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX. Nxb Văn hóa – Thông tin, H.
2002, tr. 135.
47
quê của Lý Nam Đế “vào khoảng các huyện Quốc Oai, Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây”1.
Qua đó, chúng ta thấy 2 học giả uyên bác, vừa là 2 nhà sử học, lại vừa là 2 nhà
nghiên cứu địa lý học – lịch sử hàng đầu trong học giới nước ta là Đặng Xuân
Bảng và Đào Duy Anh đều phủ nhận quê hương Lý Nam Đế là tỉnh Thái Bình, và
đều cho rằng các huyện Quốc Oai, Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây (tức Sơn Tây trước đây
và Hà Nội ngày nay) mới là quê hương của vị vua sáng lập nên nhà Tiền Lý.

Năm 1960, hai tác giả Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn biên soạn xong bộ
giáo trình Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - Tập I, được Nhà xuất bản Giáo
dục ấn hành trong năm ấy, cũng chép: “Lý Bí là người Châu Giao, đó là theo thư
tịch Trung Quốc. Theo thư tịch Việt Nam, Lý Bí là người Long Hưng, Thái Bình” 2.
Ở phần chú thích, Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn tin theo sách Khâm định Việt
sử thông giám cương mục cũng cho rằng quê hương Lý Bí: “Nay ở xã Tử Đường,
huyện Thụy Anh, Thái Bình còn đền thờ Lý Bí”3.

Năm 1971, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức biên soạn và ấn hành
bộ Lịch sử Việt Nam - Tập I, chép lịch sử nước ta từ thời đại Hùng Vương đến giữa
thế kỷ XIX. Mặc dù, trong Lịch sử Việt Nam - Tập I, không thấy ghi tên cụ thể ai là
tác giả, nhưng trong học giới, hầu như mọi người đều biết: Người chịu trách nhiệm
soạn Đề cương khoa học là GS. Nguyễn Khánh Toàn, bấy giờ đang giữ chức Chủ
nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, người trực tiếp biên soạn là GS. Phan
Huy Lê và GS. Trần Quốc Vượng. Ở tiểu mục: Khởi nghĩa Lý Bí, GS. Phan Huy
Lê và GS. Trần Quốc Vượng cũng nhận định: “Lý Bí quê ở Long Hưng (tỉnh Thái
Bình)”4.

Đáng chú ý, vào đầu năm 1980, Nhà sử học Đỗ Đức Hùng ở Viện Sử học đã
tiến hành một cuộc điền dã dài ngày ở các thôn: Tử Các, Các Đông xã Thái Hòa và
Thái Thượng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, nơi có đền thờ Lý Bí. Kết quả của
cuộc điền dã nghiên cứu này, đã được Đỗ Đức Hùng công bố trong luận văn khoa
học công phu và nghiêm túc: Về tên đất Thái Bình, quê hương của Lý Bôn trong

1
. Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. Nxb Văn hóa - Thông tin, H. 2005, tr. 83.
2
, 3. Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn: Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - Tập I. Nxb Giáo
dục, H. 1960, tr. 142. Lúc sinh thời GS. Trần Quốc Vượng cho chúng tôi biết: Chương thứ 6:
Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí và sự thành lập nhà nước Vạn Xuân (542-548) – Vấn đề nhà Tiền Lý
(548-602), là do chính ông chấp bút.
4
. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam - Tập I. Nxb Khoa học xã hội, H. 1971,
tr. 113.
48
cuộc khởi nghĩa chống quân Lương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 191,
tháng 3-4 năm 1980. Trong luận văn trên, tác giả Đỗ Đức Hùng cho biết: “Khảo
sát trực tiếp ở Thái Bình, chúng tôi thấy hai thôn: Tử Các, Các Đông xã Thái Hòa
và Thái Thượng huyện Thái Thụy, nơi có đền thờ Lý Bôn, đều là miền đất mới
khai phá… Điều đáng chú ý là Ngọc phả của đình [Tử Các] không chép đây là quê
Lý Bí mà chỉ kể rằng Lý Bí đi đánh giặc ở Hợp Phố có đi qua đây, cắm sinh từ để
đóng quân, nên dân làng thờ. Đình làng là một kiến trúc Lê, do một người làng này
đỗ Tiến sĩ thời Lê bỏ tiền ra giúp dân dựng… Từ thực tế trên, chúng ta rút ra 2
điểm:

1. Không có huyện Thái Bình và địa danh Thái Bình trên vùng đất tỉnh Thái
Bình ngày nay, từ thời Tiền Lý đến thế kỷ X.

2. Ngọc phả đền thờ Lý Bí và truyền thuyết dân gian ở vùng này không nói
đây là quê hương của Lý Bí…” 1. Sau khi phủ nhận tỉnh Thái Bình là quê hương
của Lý Bí, ở cuối luận văn: “Về tên đất Thái Bình, quê hương của Lý Bôn…”, Nhà
sử học Đỗ Đức Hùng viết: “… Từ những cứ liệu trên, chúng tôi cho rằng quê
hương Lý Bôn là huyện Thái Bình, có ít nhất từ thế kỷ thứ VII, dưới thời thuộc
Đường. Căn cứ vào vị trí các địa điểm thờ Lý Bôn và truyền thuyết dân gian ở
vùng này, chúng tôi giới hạn huyện Thái Bình thuộc vùng đất Giao Châu xưa (thế
kỷ VI), nay là đất các huyện Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất và Ba Vì (tỉnh Hà
Sơn Bình)…”2.

Như vậy, từ đầu thế kỷ XX cho đến đầu thập niên 80 của thế kỷ này, trong
giới nghiên cứu sử học, dường như vẫn có hai ý kiến về quê hương của Lý Nam
Đế là: huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và các huyện Hoài Đức, Quốc Oai, tỉnh Hà
Tây cũ (nay thuộc Hà Nội). Nhưng ý kiến các huyện Hoài Đức, Quốc Oai (Hà Tây
cũ) có vẻ được nhiều nhà sử học thừa nhận hơn.

Từ đầu những năm 80 đến khoảng thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ý kiến nhận
định quê hương của Lý Nam Đế thuộc đất tỉnh Hà Tây cũ được nhiều nhà sử học
thừa nhận như một sự khẳng định. Khi viết chương 7: Khởi nghĩa Lý Bí. Nhà nước
Vạn Xuân (542-602) trong bộ Lịch sử Việt Nam - Tập I: Từ Nguyên thủy đến thế kỷ
X (do GS. Phan Huy Lê chịu trách nhiệm tổ chức biên soạn), GS. Trần Quốc

1
, 2. Đỗ Đức Hùng: Về tên đất Thái Bình, quê hương của Lý Bôn trong cuộc khởi nghĩa chống
quân Lương. Nghiên cứu Lịch sử số 191, tháng 3-4 năm 1980.
49
Vượng đã thay đổi nhận định về quê hương Lý Bí so với ý kiến trước trong bộ
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - Tập I, vừa nhắc ở trên. GS. Trần Quốc
Vượng thừa nhận đã “Tham khảo Đỗ Đức Hùng: Về tên đất Thái Bình, quê hương
của Lý Bôn…”, cho nên, ông viết: “Lý Bí xuất thân từ một hào trưởng địa phương.
Theo sử cũ (tức Đại Việt sử ký toàn thư – TG), quê ông ở huyện Thái Bình (có lẽ ở
phía trên thị xã Sơn Tây, bên hai bờ sông Hồng…)1.

Đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, một ý kiến hoàn toàn mới được tác giả
Minh Tú công bố trong bài Về Lý Nam Đế trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 254,
tháng 1 năm 1991. Trong luận văn của mình, tác giả Minh Tú dựa vào bản Ngọc
phả2 của hai làng Giang Xá, Lưu Xá, cũng như Văn bia tại đền Giang Xá (xã Đức
Giang, huyện Hoài Đức, Hà Nội) viết về vị thần Thành hoàng Lý Nam Đế, để đi
tới nhận định:

“Tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền chép vùng quê Lý Nam Đế là ở châu
Giã Năng, xứ Kinh Bắc… Châu Giã Năng bao gồm một phần đất của huyện Sóc
Sơn, Hà Nội và huyện Phổ Yên, tỉnh Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên – TG)
ngày nay. Trên bản đồ, còn thấy cả “Thái Bình”, nằm trong xã Tiên Phong, thuộc
huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên cũ, cách Phố Cò 4 km về hướng Đông Nam,
gồm thị xã Sông Công, tỉnh Bắc Thái ngày nay”. Như vậy, tác giả Minh Tú là
người đầu tiên nhận định “Thái Bình” là quê hương Lý Nam Đế được chép trong
sử cũ, không phải nằm ở trên đất huyện Hoài Đức, Quốc Oai… tỉnh Hà Tây cũ,
càng không phải là đất huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, mà ông khẳng định nó
thuộc xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

Ý kiến trên đây của tác giả Minh Tú, được nhà giáo Nguyễn Hữu Khánh,
người quê ở huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, khẳng định thêm một lần nữa.
Trong bài Tìm hiểu thêm về châu Giã Năng và ấp Thái Bình thời Lý Bí, đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 295, tháng 11-12 năm 1997, tác giả Nguyễn Hữu
Khánh viết: “Chúng tôi xin bổ sung thêm tư liệu để khẳng định ý kiến đúng đắn
của nhà nghiên cứu Minh Tú và mạnh dạn vạch ra vị trí chính xác của 2 địa danh:
châu Giã Năng và ấp Thái Bình thời Lý Bí… Do đó, một lần nữa chúng ta có thể
1
. Phan Huy Lê – Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn – Lương Ninh: Lịch sử Việt Nam - Tập I: Từ
Nguyên thủy đến thế kỷ X. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, In lần thứ hai, H. 1985, tr.
284, 285.
2
. Ngọc phả: có tên là Việt thường thị Tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền, do Đông các Đại học
sĩ Nguyễn Bính soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572).
50
khẳng định được rằng quê hương Lý Bí đích thực là ở ấp Thái Bình, châu Giã
Năng, mà trung tâm là vùng đất huyện Phổ Yên (Thái Nguyên) ngày nay.

Tuy nhiên, ý kiến của hai tác giả Minh Tú và Nguyễn Hữu Khánh trên đây
có lẽ chưa gây được sự chú ý của giới nghiên cứu và vì thế cũng chưa được mọi
người trong giới học thuật đồng tình. Những ý kiến phản bác lại quan điểm của
Minh Tú và Nguyễn Hữu Khánh tiếp tục xuất hiện, nhất là đối với các nhà nghiên
cứu sử học quê ở tỉnh Thái Bình.

Người đầu tiên đặt lại vấn đề: Quê hương Lý Bí thuộc tỉnh Thái Bình là tác
giả Phạm Thị Nết. Trong bài Lý Bí (? – 548) đăng trong sách Danh nhân Thái
Bình được Sở Văn hóa – Thông tin Thái Bình, xuất bản năm 2002, Phạm Thị Nết
viết: “Sử cũ chép: Lý Bí người Thái Bình, thuộc Long Hưng, vậy là Thái Bình
nào?... Sách Cương mục (tức Khâm định Việt sử thông giám cương mục – TG) có
chép: xã Tử Đường, huyện Thụy Anh, phủ Thái Bình, tỉnh Nam Định (nay thuộc
tỉnh Thái Bình) có đền thờ Lý Bôn. Tử Đường nằm ở giữa hai con sông lớn: Diêm
Hộ và Trà Lý, cách Thị trấn Diêm Điền khoảng 2 km (nay thuộc xã Thái Đô,
huyện Thái Thụy). Cuốn Thần tích trong đền thờ Lý Bôn cho biết: Khi mang quân
đi đánh giặc ở Hợp Phố, Lý Bí đã đóng đại bản doanh ở đây. “Tử Đường” có nghĩa
là “lầu tía”… Sách Đại Nam nhất thống chí – Tập III, mục Đền miếu, cũng có
chép: Ở xã Hậu Tái, huyện Thư Trì và xã Tử Đường, huyện Thụy Anh có đền thờ
Lý Bôn… Rõ ràng, trên vùng đất “Thái Bình, thuộc Long Hưng” xưa vẫn còn giữ
được nhiều dấu vết của cuộc khởi nghĩa Lý Bí. Qua khảo sát thực tế và những ghi
chép của sử sách đã trình bày ở trên, chúng tôi đồng ý với ý kiến của đa số các nhà
nghiên cứu đã cho rằng Lý Bí quê ở Long Hưng (tỉnh Thái Bình ngày nay) là
đúng”1.

Lập luận của tác giả Phạm Thị Nết trong bài Lý Bí ( ? - 548), vừa dẫn ở
trên, về “Quê hương Lý Bí ở tỉnh Thái Bình”, theo chúng tôi là không khoa học, vì
thế thiếu sức thuyết phục. Lập luận của Phạm Thị Nết có những điểm sơ hở dưới
đây:

1. Quá tin ở lời chua của sử thần triều Nguyễn trong bộ Khâm định Việt sử
thông giám cương mục: “Bây giờ ở xã Tử Đường, huyện Thụy Anh, phủ Thái

1
. Phạm Thị Nết: Lý Bí ( ? – 548). Trong sách Danh nhân Thái Bình, Sở Văn hóa – Thông tin
Thái Bình XB, 2002, từ tr. 21 đến tr. 46.
51
Bình, tỉnh Nam Định, còn có đền thờ Lý Bôn”, để đi tới khẳng định: “Phủ Thái
Bình là tỉnh Thái Bình”. Tác giả Phạm Thị Nết quên mất một điều này: Sử thần
triều Nguyễn thời Tự Đức (1848-1883) không phải các nhà nghiên cứu về các vấn
đề thuộc địa danh học – lịch sử, cho nên ý kiến của họ chỉ có giá trị tham khảo mà
thôi. Trong khi đó các tác giả có uy tín trong lĩnh vực này như: Đặng Xuân Bảng
trong Việt sử cương mục tiết yếu, Đào Duy Anh trong Lịch sử Việt Nam, từ nguồn
gốc đến thế kỷ XIX (mà chúng tôi đã dẫn ở trên), v.v…, thì bị Phạm Thị Nết cố tình
bỏ qua…

2. Phạm Thị Nết căn cứ vào sách Đại Nam nhất thống chí và một vài bản
Thần phả (xã Tử Đường, xã Hậu Tái….) cho thấy “trên vùng đất “Thái Bình thuộc
Long Hưng” xưa vẫn còn giữ được nhiều dấu vết của cuộc khởi nghĩa Lý Bí”…, từ
đó mà khẳng định: “Lý Bí quê tỉnh Thái Bình ngày nay”, thì thật là… quá dễ dãi!
Mọi người đều biết một điều đơn giản dưới đây: “Nhiều dấu vết của cuộc khởi
nghĩa Lý Bí” với “Quê hương của Lý Bí” là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau, làm
sao đánh đồng làm một được?

Dường như để củng cố thêm cho thuyết “Quê hương Lý Bí ở tỉnh Thái
Bình” của Phạm Thị Nết trên đây, hai tác giả Phạm Minh Đức – Bùi Duy Lan (từ
đây xin gọi tắt là PMĐ – BDL) cho công bố tác phẩm: Thái Bình với sự nghiệp
dựng nước Vạn Xuân vào năm 2008. Cuốn sách này, chúng tôi mới được biết đến
vào đầu tháng 7 năm 2012 vừa qua.

Chúng tôi xin nói qua vì sao và do nguyên nhân nào, mà chúng tôi cần phải
tìm hiểu sách Thái Bình với sự nghiệp dựng nước Vạn Xuân của Phạm Minh Đức –
Bùi Duy Lan? Đó là vì vào khoảng cuối tháng 6 năm 2012, Nhà sử học Dương
Trung Quốc – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
nhận được công văn của Huyện ủy – UBND huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, đề
nghị các nhà sử học làm rõ cho vấn đề “Quê hương của Lý Nam Đế ở huyện Phổ
Yên”, như các tác giả Minh Tú và Nguyễn Hữu Khánh từng công bố trên Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử trước đây. Với tư cách là chuyên gia nghiên cứu lịch sử thời kỳ
này, chúng tôi (PGS.TS. Nguyễn Minh Tường) được ông Dương Trung Quốc, mời
sang Văn phòng Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam để trực tiếp gặp Ban Lãnh đạo
Huyện ủy huyện Phổ Yên, đại diện là Ths. Nguyễn Văn Khoa – Bí thư Huyện ủy
và giao nhiệm vụ tổ chức Hội thảo khoa học: “Một số vấn đề về Vương triều Tiền

52
Lý và quê hương của Lý Nam Đế” (Nhân kỷ niệm 1470 năm cuộc khởi nghĩa Lý
Bí – 542-2012).

Là người chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của cuộc Hội thảo nói trên,
chúng tôi đã cố gắng hết sức đọc các tài liệu về Vương triều Tiền Lý nói chung và
về vấn đề quê hương của Lý Nam Đế nói riêng. Ngoài ra, chúng tôi còn tổ chức
cho các nhà khoa học tham gia Hội thảo đi điền dã trong nhiều ngày tại các huyện:
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên; huyện Hoài Đức, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà
Nội và huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình… với mục đích thu thập các tư liệu mới,
hoặc kiểm chứng những điều các tác giả đi trước viết về Vương triều Tiền Lý và
quê hương của Lý Nam Đế.

Bây giờ xin trở lại cuốn sách: Thái Bình với sự nghiệp dựng nước Vạn
Xuân của hai tác giả PMĐ – BDL nói trên. Trước hết phải nói ngay rằng, chúng tôi
đã đọc tác phẩm trên khá kỹ để xem những lập luận và chứng cứ về “Quê hương
Lý Bí ở tỉnh Thái Bình” của hai tác giả, có thật sự đủ sức thuyết phục không? Tuy
nhiên, sau khi đọc xong, chúng tôi nhận thấy hai tác giả PMĐ - BDL cũng mắc
phải những sai xót về nhận định như Phạm Thị Nết mà chúng tôi đã chỉ ra ở trên.

Trong khuôn khổ của một bài luận văn ngắn, chúng tôi xin được trao đổi
với PMĐ và BDL riêng về vấn đề “Quê hương của Lý Bí” mà thôi. Về vấn đề này,
hai tác giả PMĐ – BDL phạm phải một số sai xót sau đây:

1. Sử dụng tài liệu thiếu khách quan

Hai tác giả PMĐ – BDL chỉ sử dụng những tư liệu và thư tịch của các tác
giả nào có lợi, giúp phục vụ cho lập luận của mình, nhằm chứng minh: “Lý Bí quê
ở tỉnh Thái Bình”, mà cố ý bỏ qua các thư tịch của các tác giả khác như: Đặng
Xuân Bảng và Đào Duy Anh đã kể trên khi họ nhận định: “Thái Bình xưa là mấy
huyện Quốc Oai, Hoài Đức, Ứng Hòa…”, nghĩa là “có hại” cho hai vị!

2. Sử dụng tư liệu và nhận định của cùng tác giả thiếu khoa học

Thí dụ như nhận định của GS. Trần Quốc Vượng chẳng hạn. Hai tác giả
PMĐ – BDL chỉ sử dụng ý kiến của GS. Trần Quốc Vượng vào năm 1960, khi ông
nói: “Lý Bí quê ở tỉnh Thái Bình”, còn cố ý bỏ qua “ý kiến sửa sai” của Trần Quốc
Vượng vào năm 1985, khi viết: “Lý Bí quê ở đôi bờ sông Hồng” (tức tỉnh Hà Tây
cũ và Hà Nội ngày nay), trong Lịch sử Việt Nam!
53
3. Khẳng định mà không đưa ra tư liệu để chứng minh

Ở trang 43 sách Thái Bình với sự nghiệp dựng nước Vạn Xuân, hai tác giả
PMĐ – BDL viết: “Một truyền thuyết khác không có văn bản nhưng phổ cập trong
vùng Tử Đô, Văn Hàn, Hổ Đôi, Quang Lang, Vạn Xuân ở huyện Thái Bình (Thụy
Anh, Thái Thụy) qua lời kể: Khi phu nhân (tức Thân mẫu của vua Lý Nam Đế -
TG) sắp đến ngày sinh, có việc gấp cần đến ấp Vạn Xuân (trang ấp của Lý Thiên
Bảo), đến chùa ấp Quang Lang gặp mưa giông, trời lại sắp tối, bèn vào chùa xin
trú qua đêm. Lão tăng sai vãi chùa lo chỗ ăn nghỉ cho khách chu đáo. Đêm ấy bà
Lê thị trở dạ, lão tăng bối rối (vì mình là tăng, không được tiếp cận sản phụ) vội
sai tiểu tìm người đến đỡ sản phụ. Đến giờ Thìn, xuất hiện rồng vàng giáng xuống,
bà Lê thị sinh con trai, đó là vua Tiền Lý Nam Đế…” 1. Nhằm để tăng tính thuyết
phục của truyền thuyết trên đây, hai tác giả PMĐ – BDL còn chú thích thêm:
“Truyền thuyết còn kể: khi Lý Bí dựng cờ khởi nghĩa, qua đất Tử Đường (cùng
hương Thái Bình), rồng đá tự nhiên bay đến quân doanh Sơn Đường – Tử Các.
Năm Giáp Tý (542), Lý Bí xưng đế, dựng chùa Khai Quốc ở Long Biên, cho sửa
lại chùa Quang Lang, ban tên: Hưng Quốc tự…”2. Trong số ảnh minh họa, chúng
tôi đặc biệt chú ý tới ảnh “Chùa Hưng Quốc (xã Thụy Hải, Thái Thụy) – tương
truyền vua Lý Nam Đế đã sinh ra ở đây”3.

Những thông tin trên của hai tác giả PMĐ – BDL, khiến cho chúng tôi thấy
cần phải kiểm chứng: Chẳng lẽ vua Lý Nam Đế, thực sự được sinh ra trên đất
Thụy Hải, Thái Thụy, Thái Bình sao?

Để làm rõ điều này, vào ngày 22-7-2012, chúng tôi tổ chức một đoàn cán
bộ4 về trực tiếp khảo sát ngôi chùa Hưng Quốc và đình Tử Các ở huyện Thái Thụy,
tỉnh Thái Bình. Tại đình Tử Các (thôn Thụy Các, xã Thụy Hòa, huyện Thái Thụy),

1
. Phạm Minh Đức – Bùi Duy Lan: Thái Bình với sự nghiệp dựng nước Vạn Xuân. Trung tâm
UNSCO thông tin tư liệu lịch sử văn hóa Việt Nam – XB, H. 2008, tr. 43.
2
. Như trên, tr. 44.
3
. Như trên, tr. 32.
4
. Đoàn cán bộ khoảng 15 người, gồm có:
a. Cán bộ Viện Sử học do PGS.TS. Nguyễn Minh Tường – Trưởng đoàn.
b. Cán bộ huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên do Ths. Nguyễn Văn Khoa – Bí thư Huyện
ủy, Trưởng đoàn.
c. Bà Vũ Thị Thảo - Ủy viên Hội đồng quản trị Công ty Đầu tư và Phát triển Yên Bình.
Đại diện phía nhà tài trợ cho cuộc Hội thảo về Vương triều Tiền Lý…
d. Ông Trần Văn Sáu – Thư ký cho ông Trần Văn Sen – Anh hùng Lao động, Tổng Giám
đốc Công ty Bia Hương Sen – Đại Việt, Thái Bình.
54
chúng tôi được cụ Đinh Văn Binh (Thủ từ của đình) tiếp và cho phép nghiên cứu
những chứng tích liên quan tới vua Lý Nam Đế. Chúng tôi có đặt câu hỏi: “ Ở đây
có phải quê hương của Lý Bí không?”, thì đều nhận được câu trả lời: “Nhân dân
chúng tôi không dám nhận đây là đất sinh ra vua Lý Nam Đế!”.

Tại chùa Hưng Quốc, chúng tôi được các vị sau đây tiếp:

- Ông Nguyễn Xuân Lạc (61 tuổi) – Trưởng ban Quản lý Di tích Lịch sử của
thôn Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, Thái Bình.

- Cụ Mai Thành (73 tuổi) – Đại diện các cụ cao niên trong thôn.

- Vì sư thày trụ trị chùa đang đi “Nghỉ hạ”, nên bà vãi chùa cũng trực tiếp
ngồi trao đổi cùng đoàn.

Thay mặt đoàn, chúng tôi cảm ơn sự tiếp đón chân tình, chu đáo của các cụ,
các ông vừa nói trên, sau đó, đặt câu hỏi:

“- Các cụ cho biết những truyền thuyết hoặc tư liệu gì có được, mà liên
quan tới việc vua Lý Nam Đế sinh ra tại chùa Hưng Quốc của thôn ta?”.

Trước câu hỏi ấy, cụ Mai Thành thay mặt địa phương trả lời chúng tôi đại ý
như sau:

“- Địa phương chúng tôi không lưu truyền truyền thuyết nói trên. Còn nơi
nào có truyền thuyết: Chùa Hưng Quốc ở đây là nơi sinh ra vua Lý Nam Đế là
không chính xác. Không có chứng cứ lịch sử nào có thể chứng minh cho truyền
thuyết ấy. Thôn Quang Lang của chúng tôi là vùng đất bồi ven biển, sớm nhất thì
cũng chỉ mới hình thành trong khoảng 1000 năm lại đây. Thế mà vua Lý Nam Đế
sống và hoạt động cách ngày nay tới gần 1500 năm rồi, thì sao vua có thể sinh ra
tại mảnh đất này được?”.

Chúng tôi hỏi thêm các cụ, các ông, các bà có mặt trong buổi nói chuyện
xem có ai có ý kiến gì khác không? Thì được mọi người trả lời cùng tán đồng với ý
kiến trên của cụ Mai Thành. Vì vấn đề tế nhị, chúng tôi không nhắc đến tên hai tác
giả PMĐ – BDL là những người công bố truyền thuyết “Vua Lý Nam Đế sinh ra
tại chùa Hưng Quốc”, nhưng chúng tôi cảm nhận được rằng cụ Mai Thành cũng
biết rõ truyền thuyết nói trên, chúng tôi “đọc được” ở sách nào!

55
Nhân đây, chúng tôi xin đính chính sai lầm của hai tác giả PMĐ – BDL khi
viết: ở trang 44, 45: “Lý Bí – Bậc Tiêu Tào cái thế trong thế kỷ VI” rằng: “… Riêng
sách Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên nhận xét vua rõ hơn: “Vua nếp nhà hào
trưởng, có tài lạ hơn người, thường có cái phong độ của Tiêu Tào””. Nguyên văn
câu trên ở Viện điện u linh tập như sau: “帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝帝
帝 帝 帝 帝 帝 帝” (Phiên âm: “Ngã Giao Châu, Thái Bình huyện hữu Lý Bí giả. Thế vi
hào hữu, kỳ tài xuất nhân. Thường hữu Tiêu Tào khí độ”. Dịch nghĩa: Bấy giờ ở
Thái Bình, xứ Giao Châu ta, có Lý Bí gia tư hào hữu, có tài lạ hơn người, thường
có cái phong độ của Tiêu Tào). Theo hai tác giả PMĐ – BDL: “Tác giả (tức Lý Tế
Xuyên – TG) đã so sánh Lý Nam Đế với 2 nhân vật lừng danh trong lịch sử cổ đại
Trung Quốc là: Thái úy Tiêu Hà nhà Hán và Phụ chính Tướng quốc Tào Tháo (Sic)
nhà Ngụy Hán”1.

Điều sai xót của hai tác giả PMĐ – BDL là ở chỗ quá tin vào trí nhớ của
mình, mà không chịu tra cứu sử sách.

Sách Từ Nguyên viết: “帝 帝: 帝 帝 帝帝帝 帝 帝帝帝 帝 帝: 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝” (Phiên


âm: Tiêu Tào vị Tiêu Hà, Tào Tham dã. Đỗ Phủ thi: Chỉ huy nhược định thất Tiêu
Tào. Dịch nghĩa: Tiêu – Tào là nói về Tiêu Hà, Tào Tham vậy. Thơ Đỗ Phủ có câu:
Chỉ huy như thể không có Tiêu Hà, Tào Tham)2.

Về Tiêu Hà, sách Từ Nguyên cho biết: “Tiêu Hà là người đất Bái, thời Hán,
giúp Hán Cao Tổ (Lưu Bang) yên định thiên hạ. Khi Hán Cao Tổ vào cửa quan
Hàm Cốc (tức vào chiếm đất Tần), một mình Tiêu Hà thu thập sách vở và bản đồ
của nước Tần. Thời kỳ Lưu Bang còn làm Hán vương, Tiêu Hà được cử làm Thừa
tướng (tức Tể tướng). Khi Lưu Bang đánh nhau với Hạng Vũ, Tiêu Hà thường giữ
đất Quan Trung, cung cấp quân lính và lương thảo. Khi Lưu Bang yên định được
thiên hạ, luận công phong thưởng, Tiêu Hà được xếp vào loại có công bậc nhất,
phong tước Tán hầu. Mọi luật lệ của nhà Hán, phần lớn do Tiêu Hà định ra” 3.

Còn về Tào Tham, sách Từ Nguyên viết: “Tào Tham, là người đất Bái, thời
Hán sơ, cùng với Tiêu Hà phò tá Hán Cao Tổ yên định thiên hạ, được phong tước
Bình Dương hầu. Ban đầu, Tào Tham giữ chức Thừa tướng nước Tề, sau khi Tiêu

1
. Phạm Minh Đức – Bùi Duy Lan. Sđd, tr. 45.
2
. Từ Nguyên, bộ Thảo, tập Thân, tr. 1300.
3
. Từ Nguyên, bộ Thảo, tập Thân, tr. 1299.
56
Hà chết, vào làm Thừa tướng nhà Hán, ông đều tuân theo những luật lệ trước đó
do Tiêu Hà đặt ra”1.

Vì hai vị là những bậc thừa tướng tài giỏi mà người sau (Tào Tham) kế thừa
phép tắc của người trước (Tiêu Hà), nên người Trung Quốc có thành ngữ “Tiêu
quy, Tào tùy” - 帝 帝帝帝 帝, nghĩa là: Phép tắc của Tiêu Hà đặt ra trước, lại được Tào
Tham theo đó mà thi hành.

Qua những tư liệu và chứng cứ mà chúng tôi thu thập được tại huyện Thái
Thụy, tỉnh Thái Bình nói chung và tại chùa Hưng Quốc, thôn Quang Lang, xã
Thụy Hải, huyện Thái Thụy nói riêng, chúng ta thấy những nhận định về: “Lý Bí
quê tại tỉnh Thái Bình ngày nay” là không khoa học, do vậy không đủ độ tin cậy.

Có lẽ ai cũng hiểu điều đơn giản dưới đây: dù người dân ở đâu trên mảnh
đất hình chữ S này, cũng đều có quyền tự hào về vị Anh hùng dân tộc – Đức vua
Lý Nam Đế. Không một ai có quyền bỏ qua các thao tác khoa học rồi tạo nên
“những bằng chứng giả” để tự nhận rằng: Lý Nam Đế là Danh nhân của riêng
“quê hương tôi”!
Để làm rõ vấn đề “quê hương Lý Nam Đế ở huyện Thái Bình xưa (tức
huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội) ngày nay, chúng tôi đã về thôn Ngọc Than, xã
Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội, nơi có ngôi đình thờ vua Lý Nam Đế làm thần
Thành hoàng. Chúng tôi được các cụ có tên dưới đây tiếp đón:
- Cụ Đỗ Hữu Sách (75 tuổi) – Chi Hội trưởng người Cao tuổi của thôn
Ngọc Than.
- Cụ Tào Văn Chính (78 tuổi) – Trưởng ban khánh tiết.
- Cụ Nguyễn Duy Gia (71 tuổi) – Thủ từ đình Ngọc Than.
- Cụ Bùi Viết Lợi (70 tuổi) – Quản đình Ngọc Than.
Được hỏi làng Ngọc Than có phải quê hương của vua Lý Nam Đế không?
Thì các cụ đều trả lời: “Làng chúng tôi không phải là quê hương của Đức vua Lý
Nam Đế!”.
III. Những chứng cứ về quê hương Lý Nam Đế tại xã Tiên Phong,
huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên

. Từ Nguyên, bộ Viết, tập Thân, tr. 717.


1

57
Theo sự chỉ dẫn của Đặng Xuân Bảng và Đào Duy Anh, chúng tôi đã nhiều
lần điền dã trên mảnh đất huyện Thái Bình xưa, nay là các huyện Hoài Đức, Quốc
Oai, Chương Mỹ… của thành phố Hà Nội. Điều đáng nói đầu tiên là: Đây là mảnh
đất có khá nhiều làng xã thờ vua Lý Nam Đế làm thần Thành hoàng. Trong số đó,
cần kể tới một vài ngôi đình, đền thờ Lý Nam Đế dưới đây:

- Đình, đền thờ Lý Nam Đế ở thôn Giang Xá, huyện Hoài Đức.

- Đình, đền thờ Lý Nam Đế và Phạm Tu ở thôn Ngọc Than, xã Ngọc Mỹ,
huyện Quốc Oai.

- Đình thờ Lý Nam Đế, ở làng Hạ Mỗ, tổng Thượng Hội, phủ Hoài Đức,
tỉnh Hà Đông…

Mật độ khá dày của các đình, đền thờ vua Lý Nam Đế tại vùng đất Xứ Đoài
cũ, tự nó đã nói lên rằng: Mảnh đất này gắn bó nhiều với vị vua sáng lập nhà Tiền
Lý (544-602).

Chúng tôi đặc biệt chú ý tới cụm di tích, bao gồm: Đình – Đền thờ Lý Nam
Đế và ngôi chùa Linh Bảo (còn gọi là chùa Giang Xá) ở thôn Giang Xá. Tại đây
còn bảo lưu được nhiều chứng tích, di vật và truyền thuyết liên quan tới vua Lý
Nam Đế.

Đình Giang Xá thờ Lý Nam Đế làm thần Thành hoàng. Tại đây còn lưu giữ
được bản Ngọc phả ghi chép về tiểu sử, hành trạng của Lý Nam Đế, có tên là: Việt
Thường thị Tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền (gọi tắt là Lý Nam Đế Ngọc phả
cổ truyền) và 22 đạo sắc phong của triều đình quân chủ Việt Nam phong cho Đức
vua Lý Nam Đế. Đạo sắc sớm nhất là: Sắc phong năm Cảnh Trị thứ 8 (1670) đời
vua Lê Huyền Tông; Đạo sắc muộn nhất là: Sắc phong năm Khải Định thứ 9
(1924) đời vua Khải Định.

Về quê hương của Lý Nam Đế, Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền chép: “帝 帝
帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝帝帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝帝帝 帝… 帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝帝帝 帝
帝帝帝 帝帝帝 帝 帝 帝… 帝 帝 帝 帝 帝 帝…” (Phiên âm: Thời hữu Kinh Bắc xứ, Dã Năng
châu địa hữu nhất bộ trưởng gia, tính Lý, húy Toản 1, thú thê Ái Châu chi nhân, tính
Lê, húy Oanh2… Thời chí Quý Mùi niên, cửu nguyệt, thập nhị nhật, Thìn thời, sinh

1
. Chữ 帝 này còn đọc là Toàn.
2
. Chữ 帝 này còn đọc là Oánh.
58
hạ nhất nam… nãi mệnh danh viết húy Bí1…; Dịch nghĩa: Thời bấy giờ, tại đất
châu Dã Năng, xứ Kinh Bắc, có một gia đình Trưởng bộ là họ Lý, tên húy là Toản,
lấy vợ người Ái Châu2 họ Lê, tên húy là Oanh… Cho tới giờ Thìn (khoảng từ 7 giờ
đến 9 giờ sáng) ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi3… bèn đặt tên cho con là Bí…).

Như vậy, bản Ngọc phả của đình Giang Xá do Đông các Đại học sĩ Nguyễn
Bính soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) đã chính thức xác nhận: Lý
Nam Đế không phải người quê ở vùng đất này. Và khẳng định quê của Đức Vua là
xứ Kinh Bắc. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục vào năm Quang
Thuận thứ 10 (1469) đời vua Lê Thánh Tông định bản đồ trong nước. Chia cả
nước làm 12 xứ Thừa tuyên (gọi tắt là Xứ). Trong đó Xứ Kinh Bắc - 帝 帝 帝 (Kinh
Bắc xứ) gồm có 4 phủ: 1. Phủ Từ Sơn, 2. Phủ Thuận An, 3. Phủ Lạng Giang, 4.
Phủ Bắc Hà. Phủ Bắc Hà quản lãnh 3 huyện: Kim Hoa, Hiệp Hòa và Yên Việt.
Phạm vi của 2 huyện Kim Hoa và Hiệp Hòa gồm đất các huyện Sóc Sơn (Hà Nội),
Hiệp Hòa (Bắc Giang) và một phần phía Nam của huyện Phổ Yên (các xã: Tiên
Phong, Tân Hương, Đồng Tiến, Đông Cao, Tân Phù, Thuận Thành…) của tỉnh
Thái Nguyên4.

Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền còn cho ta biết: Thân phụ của Lý Nam Đế
mất lúc Vua mới 5 tuổi, chỉ 2 năm sau thì thân mẫu Vua cũng qua đời. Anh em nhà
Vua phải sống nhờ gia đình người chú ruột. Thời bấy giờ trong thôn ấp có một vị
sư pháp danh là Pháp Tổ Thiền sư, trụ trì tại ngôi chùa ở bản châu thấy Vua tuy
tuổi còn nhỏ, nhưng tư chất thông minh hơn người, nên nói với ông chú Vua xin
nhận Vua làm con nuôi. Từ đó, Lý Nam Đế theo Thiền sư tu đạo Phật tại chùa ở
trong châu ấp.

Thông tin trên đây gợi cho chúng ta hướng tìm đến được quê hương của Lý
Nam Đế. Nguyên văn của câu: “Pháp tổ Thiền sư trụ trì ngôi chùa ở bản châu”
trong Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền là: 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 (Phiên âm:
Pháp tổ Thiền sư trụ trì tại bản châu ấp chi tự). Vậy, chùa Châu Ấp (hay chùa
Hương Ấp) hiện ở đâu…? Hiện nay tại làng Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ
Yên, tỉnh Thái Nguyên có một ngôi chùa mang tên Hương Ấp tự 帝 帝 帝 (Chùa
1
. Chữ 帝 này còn đọc là Bôn.
2
. Nguyên chú: sau này đổi thành Thanh Hoa.
3
. Tính theo Can – Chi: thì năm Quý Mùi là năm 503.
4
. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Nxb Giáo dục, H.
1998, tập 1, tr. 1076, 1077.
59
Hương Ấp). Vào khoảng đầu tháng 7 năm 2012, một Đoàn cán bộ nghiên cứu của
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, gồm có: Viện Sử học, Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, Viện Nghiên cứu Lịch sử Quân sự Việt Nam… 1 đã trực tiếp về nghiên cứu
ngôi chùa Hương Ấp này. Tại chùa Hương Ấp và vùng đất xung quanh còn khá
nhiều di tích và địa danh lịch sử liên quan tới vua Lý Nam Đế 2.

Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền cho biết: Lý Nam Đế tu tại chùa Hương Ấp
được chừng 4 năm, đến năm 13 tuổi thì theo Phổ Tổ Thiền sư về tu hành tại chùa
Giang Xá (Linh Bảo tự), thuộc huyện Hoài Đức, Hà Nội.

Nhân dân làng Giang Xá nói chung và nhà sư trụ trì cùng với phật tử chùa
Giang Xá nói riêng, từ lâu rồi, vẫn coi ngôi chùa Hương Ấp ở xã Tiên Phong là
chốn Tổ. Đó là nơi mà sư thầy Phổ Tổ Thiền sư từng tu hành, trước khi về trông
coi chùa Giang Xá. Hơn thế nữa, chùa Hương Ấp còn là nơi mà Đức vua Lý Nam
Đế lần đầu tiên “xuống tóc”, quy y theo Đạo Phật. Cách đây gần chục năm, khoảng
năm 2004, một đoàn tăng ni, phật tử của chùa Giang Xá đã hành hương về thăm lại
chùa Hương Ấp xưa. Hôm gặp chúng tôi vào khoảng đầu tháng 7 năm 2012, bà vãi
trông nom chùa Giang Xá còn vui vẻ kể về chuyến hành hương đầy ý nghĩa ấy…

Điều đáng chú ý: quê hương của vua Lý Nam Đế ở xã Tiên Phong, huyện
Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, còn được khẳng định thêm một lần nữa trong bản
Thần tích của làng Hạ Mỗ, thuộc tổng Thượng Hội, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông 3.
H. Maspéro trong Etudes d’Histoire d’Annam (Nghiên cứu Lịch sử Việt Nam) cho
biết: “Trong Thần tích của làng Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm (Hà Đông), Lý Bí được coi
là gốc tích tại Cổ Pháp”4. Có điều H. Maspéro đã mắc sai lầm chủ quan khi nhận
xét: “… Điều đó khiến ta nghĩ đến một sự nhầm lẫn giữa ông (tức vua Lý Nam Đế
- TG) và người sáng lập triều Lý ở thế kỷ XI (tức Lý Công Uẩn – Thái Tổ nhà Hậu
Lý – TG)”5.

1
. Đoàn cán bộ gồm khoảng 12 - 13 người: PGS.TS. Nguyễn Minh Tường, PGS.TS. Tạ Ngọc
Liễn, PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Chi, PGS.TS. Lê Đình Sỹ, PGS.TS. Nguyễn Tá Nhí,
PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ, PGS.TS. Đinh Khắc Thuân, TS. Nguyễn Hữu Tâm, TS. Trương
Thị Yến…
2
. Xem thêm bài của Phạm Văn Kính: Về mối quan hệ giữa chùa Giang Xá, Hoài Đức, Hà Nội
với chốn Tổ: Chùa Hương Ấp, Phổ Yên…
3
. Hạ Mỗ: hiện nay là xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.
4
. H. Maspéro – Etudes d’Histoire d’Ananam. I. BEFEO, 1916. Trích theo Nguyễn Văn Huyên:
Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam – Tập I. Nxb Khoa học xã hội, H. 1995, tr. 290.
5
. BEFEO, 1916. Sđd.
60
Thực ra, H. Maspéro hơi chủ quan và coi thường những người soạn Thần
tích làng Hạ Mỗ, (Có thể là Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính ở thế kỷ XVI, hoặc
Quản giám Bách thần Nguyễn Hiền ở thế kỷ XVIII – đều là các vị quan thông thạo
sử sách ở bộ Lễ!). Liệu Nguyễn Bính và Nguyễn Hiền hay một vị nhà Nho nào
khác, có thể nhầm lẫn một kiến thức lịch sử quá sơ đẳng mà không phân biệt được
giữa vị sáng lập nhà Tiền Lý là Lý Bí ở thế kỷ thứ VI với người sáng lập nhà Hậu
Lý là Lý Công Uẩn ở thế kỷ XI không?

H. Maspéro không biết rằng sự trùng tên thôn, xã là một hiện tượng rất bình
thường trong lịch sử Việt Nam. Thí dụ theo sách Địa danh và tài liệu lưu trữ về
làng xã Bắc Kỳ, thì:

“Thôn Cổ Pháp: 帝 帝 帝 có 2 nơi:

1. “Thôn Cổ Pháp: thuộc xã Ức Tài, tổng Mặc Xá, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải
Dương”1.

2. “Thôn Cổ Pháp: thuộc xã Tiên Thù, tổng Tiên Thù, huyện Phổ Yên, tỉnh
Thái Nguyên”2.

“Xã Cổ Pháp: 帝 帝 帝 có 3 nơi:

1. “Xã Cổ Pháp: thuộc tổng Tư Mại, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang” 3.

2. “Xã Cổ Pháp: thuộc tổng Yên Phù, huyện Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương”4.

3. “Xã Cổ Pháp: thuộc tổng Thanh Mai, huyện Quảng Oai, phủ Quảng Oai,
tỉnh Sơn Tây”5.

Qua những tư liệu và chứng cứ chúng tôi đã dẫn ở trên, chúng ta thấy rằng:
“Làng Cổ Pháp” mà H. Maspéro nói “được coi là gốc tích của Lý Bí”, chỉ có thể là
làng Cổ Pháp thộc xã Tiên Thù, tổng Tiên Thù, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.
Hiện nay, làng Cổ Pháp – “gốc tích của Lý Bí”, thuộc xã Tiên Phong, huyện Phổ
Yên, tỉnh Thái Nguyên.

1
. Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ. Nxb Văn hóa – Thông tin, H. 1999, tr. 349.
2
. Như trên. Sđd, tr. 804.
3
. Như trên. Sđd, tr. 31.
4
. Như trên. Sđd, tr. 337.
5
. Như trên. Sđd, tr. 747.
61
* *

Để tạm kết bài luận văn này, chúng tôi xin rút ra đây mấy nhận xét và kiến
nghị như sau:

1. Việc xác định nơi đâu là quê hương đích thực của Đức vua Lý Nam Đế là
trách nhiệm của giới sử học Việt Nam không chỉ đối với lịch sử, mà còn là nhiệm
vụ cấp thiết cần làm rõ một nghi án lịch sử trước nhân dân, nhất là trước thế hệ trẻ
hôm nay và cả ngày mai…

Lương tâm của những người làm công tác nghiên cứu lịch sử không cho
phép bất kỳ ai cố tình bóp méo lịch sử, hoặc vô tình làm biến dạng sự thật lịch sử.
Người phương Tây từng nói: “Cái gì của Xêda1 hãy trả lại cho Xêda!”. Câu nói ấy,
hàm ý: nếu cái gì thuộc về ai, thuộc về đâu… cuối cùng cũng phải tôn trọng lịch sử
mà trả về đúng với chỗ của nó.

Chúng tôi cho rằng đã đến lúc cần phải: “Trả” Đức vua Lý Nam Đế về với
quê hương đích thực của Người là thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên,
tỉnh Thái Nguyên!

2. Chúng tôi vẫn thừa nhận đất tỉnh Thái Bình hiện nay có nhiều di tích lịch
sử gắn với vua Lý Nam Đế, nhưng đó chỉ là những di tích liên quan tới những
cuộc chiến sự dưới thời Tiền Lý. Nhân dân các xã có đình, đền thờ Lý Nam Đế ở
Thái Bình từ xưa đến nay, chưa bao giờ tự nhận là quê hương của Người.

Cổ kim đông tây đều nói: “Cái gì mà nhà sử học vì một lý do nào đó chép
sai, thì cuối cùng nhân dân sẽ sửa cho đúng đắn!”. Chúng tôi nghĩ đó là bài học
thấm thía đối với người cầm bút chép sử!

3. Đất “huyện Thái Bình” xưa được sử cũ chép là quê hương của vua Lý
Nam Đế, nay là các huyện Hoài Đức, Quốc Oai, Phúc Thọ thuộc tỉnh Hà Tây cũ
(Hà Nội nay), là có lý do. Theo Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền, vua Lý Nam Đế
từng tu hành tại chùa Linh Bảo (hay chùa Giang Xá), tới hơn 10 năm, rồi mới ra
làm quan với nhà Lương. Vì bất đắc chí, Vua về “huyện Thái Bình” để phất cờ
khởi nghĩa. Chúng ta đều biết muốn phát động một cuộc khởi nghĩa, thì phải hội
được rất nhiều điều kiện, nhưng có 2 điều kiện đầu tiên cần phải tính đến, đó là:

1
. C. J. Xêda (Caius Julius Caesar: 101 - 44 tr. Cn): Danh tướng, nhà hoạt động chính trị, Hoàng
đế Rôma thời cổ đại.
62
“Nghĩa binh” và “Lương thực”. Chúng tôi cho rằng: vào giữa thế kỷ VI, đất
“huyện Thái Bình”, nơi vua Lý Nam Đế từng sinh sống trong hơn 10 năm đáp ứng
tốt hơn 2 điều kiện nói trên, so với đất quê hương của Người là Cổ Pháp – một
vùng trung du bán sơn địa.

Sử cũ của nước ta đã nhầm khi nghĩ rằng nơi vua Lý Nam Đế lựa chọn để
khởi nghĩa là quê hương của Người!

4. Trong một tương lai gần, chúng tôi xin trân trọng đề nghị Nhà nước ta
cùng các cơ quan hữu quan cần xây dựng một Ngôi đền thờ Đức vua Lý Nam Đế
trên đất quê hương của Người: thôn Cổ Pháp, xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh
Thái Nguyên.

Chúng tôi thiết nghĩ ở tại nơi Vĩnh hằng xa xôi kia chắc chắn Đức vua Lý
Nam Đế sẽ mỉm cười và nói: “Ta hài lòng với việc làm của các con cháu lắm!”.

Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2012

NMT

63
VÀI NÉT VỀ HUYỆN PHỔ YÊN TRONG LỊCH SỬ

VÀ TẤM LÒNG CỦA ĐẢNG BỘ, NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC TRONG HUYỆN

VỚI VIỆC XÁC ĐỊNH QUÊ HƯƠNG VUA LÝ NAM ĐẾ

Thạc sĩ Nguyễn Văn Khoa

(Tỉnh ủy viên – Bí thư Huyện ủy – Chủ tịch


HĐND huyện Phổ Yên)

Lý Bí - vua Lý Nam Đế (504-548) là vị Anh hùng dân tộc, người có công lãnh
đạo nhân dân ta khởi nghĩa đánh đổ ách đô hộ của Nhà Lương (năm 542), lập nên
Nhà nước Vạn Xuân độc lập. Cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo là cuộc trỗi dậy
phản kháng mãnh liệt của nhân dân ta sau 294 năm kể từ khi cuộc khởi nghĩa Bà
Triệu thất bại (năm 248). Trong lịch sử Việt Nam, cuộc khởi nghĩa Lý Bí đã để lại
dấu ấn đậm nét trong chặng đường lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm bền bỉ, dài
lâu, gian khổ và bất khuất của dân tộc. Lý Bí là người đầu tiên xưng Hoàng đế
sánh ngang hàng, làm đối trọng với các Hoàng đế Trung Hoa ở phương Bắc, thể
hiện tư duy chiến lược về chính trị, ý chí quật cường, khát vọng độc lập và tư
tưởng tự tôn dân tộc của ông.

Tên tuổi, sự nghiệp của vua Lý Nam Đế gắn với các địa danh, các sự kiện
lịch sử cụ thể đã được ghi rõ trong chính sử (thông sử). Song về thân thế, quê gốc
chính xác của vua Lý Nam Đế, từ nhiều năm nay vẫn là câu hỏi lớn đặt ra đối với
các nhà sử học và kể cả mọi người dân Việt Nam. Các sách sử của Trung Quốc và
Việt Nam đều không khẳng định chính xác hoặc đề cập chung chung như: Lý Bí,
“Thái Bình nhân”, Lý Bí người Thái Bình, khoảng, có lẽ...Đã để lại một nghi vấn
lịch sử cần được làm sáng tỏ.

Từ trước đến nay, vấn đề này đã thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của
các nhà sử học với nhiều sử liệu, tài liệu nghiên cứu lịch sử, tư liệu cá nhân với
mong muốn làm rõ đâu là quê hương của Anh hùng dân tộc Lý Bí. Trên cơ sở
những chứng cứ lịch sử xác thực, một số nhà sử học, nhà nghiên cứu lịch sử cho
rằng quê hương gốc của Lý Bí là ở ấp Thái Bình, châu Giã Năng, xứ Kinh Bắc, mà
64
ngày nay thuộc xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Những cứ liệu
lịch sử đó, đã làm tăng thêm niềm tự hào của nhân dân các dân tộc trong huyện về
mảnh đất Phổ Yên giàu truyền thống lịch sử của mình, mảnh đất đã sản sinh cho
dân tộc người anh hùng với tài năng xuất chúng đã đi vào sử xanh và làm rạng
danh quê hương xứ sở.

Tồn tại trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước cùng dân tộc,
vùng đất Phổ Yên tiếp giáp với trung tâm bộ máy hành chính cai trị của các thế
lực phong kiến phương Bắc, kinh qua thời kỳ đen tối, uất hận nhất trong lịch sử
dân tộc - thời Bắc Thuộc. Sang thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ, ông cha ta đã
từng coi Phổ Yên là “phên giậu” phía Bắc của kinh thành Thăng Long, là điểm
xuất phát, triển khai chống giặc ngoại xâm ở vùng biên ải. Đồng thời, Phổ Yên
cũng tiếp nhận được những ảnh hưởng về kinh tế, văn hóa…của đất Kinh kỳ ngàn
năm văn hiến. Nhân dân các dân tộc Phổ Yên luôn luôn vun đắp cho mình những
truyền thống tốt đẹp: Cần cù trong lao động sản xuất, dũng cảm trong đấu tranh
giữ nước, thông minh, sáng tạo trong học tập để xây dựng và bảo vệ quê hương.
Qua chiều dài lịch sử, nhiều sự kiện nổi bật, nhiều chiến tích vẻ vang, nhiều con
người tiêu biểu đã góp phần làm nên lịch sử hào hùng của ông cha, truyền thống
tốt đẹp của quê hương.

Phổ Yên là huyện trung du nằm ở phía Nam tỉnh Thái Nguyên, là cửa ngõ nối
liền vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với vùng rừng núi phía Bắc bao la, hiểm
trở. Phổ Yên nằm trong giới hạn địa lý có tọa độ từ 21 019’ đến 21034’ độ vĩ Bắc,
105040’ đến 105056’ độ kinh Đông, phía Tây giáp huyện Tam Đảo (tỉnh Vĩnh
Phúc), phía Bắc, Tây Bắc giáp thành phố Thái Nguyên, huyện Đại Từ và thị xã
Sông Công (tỉnh Thái Nguyên), phía Đông và Đông Bắc giáp các huyện Hiệp Hòa
(tỉnh Bắc Giang) và Phú Bình (tỉnh Thái Nguyên), phía Nam giáp huyện Sóc Sơn
(thành phố Hà Nội), Huyện lỵ Phổ Yên đặt tại thị trấn Ba Hàng, cách tỉnh lỵ Thái
Nguyên 26 km về phía Nam và cách thủ đô Hà Nội 56 km về phía Bắc.

Huyện Phổ Yên có tổng diện tích tự nhiên 256,68 km 2 (trong đó, diện tích đất
nông nghiệp: 124,99km2, bằng 48,69% tổng diện tích tự nhiên, diện tích đất lâm
nghiệp: 73,68 km2, bằng 28,7 % tổng diện tích tự nhiên, diện tích đất nuôi trồng
thủy sản là 3,26 km2, diện tích đất phi nông nghiệp là 51,67 km2, diện tích đất chưa
sử dụng là 3,09 km2).

65
Phổ Yên có 2 con sông chính chảy qua: Sông Cầu bắt nguồn từ huyện Chợ
Đồn (tỉnh Bắc Cạn), chảy qua các huyện Bạch Thông, Chợ Mới (tỉnh Bắc Cạn),
Phú Lương, Đồng Hỷ, thành phố Thái Nguyên, Phú Bình về Phổ Yên. Trên địa bàn
Phổ Yên, sông Cầu chảy theo hướng Bắc - Đông Nam, lưu lượng nước mùa mưa
lên tới 3.500m3/giây.

Sông Công: Xưa còn gọi là sông Giã (Giã Giang), sông Mão có lưu vực 951
km2, bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá (huyện Định Hóa), chảy qua huyện Đại Từ, thị
xã Sông Công về Phổ Yên. Sông Công chảy qua địa bàn huyện Phổ Yên khoảng
25 km, nhập vào sông Cầu ở thôn Phù Lôi, xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên. Năm
1975, 1976, hồ Núi Cốc được xây dựng tạo ra nguồn dự trữ nước và điều hòa dòng
chảy của sông. Cảng Đa Phúc trên sông Công là cảng lớn nhất tỉnh Thái Nguyên…

Vùng phía Tây Phổ Yên có dãy núi Tam Đảo đón gió Đông Nam nên lượng
mưa ở lưu vực sông Công rất lớn. So với lũ sông Cầu, lũ sông Công lớn và đột
ngột hơn, thường xảy ra vào mùa nóng (từ tháng 5 đến tháng 10) lên nhanh, xuống
nhanh và biến động lớn, biên độ lũ từ 5m đến 7m. Đặc biệt, ở các xã ven dãy núi
Tam Đảo (Phúc Thuận, Thành Công, Vạn Phái) thường xảy ra những trận mưa lớn
trong phạm vi hẹp, gây lũ quét. Đoạn hạ lưu sông Công (từ xã Nam Tiến xuống
thôn Phù Lôi xã Thuận Thành) có 15 km đê ở hai bên sông.

Vùng phía Nam huyện Phổ Yên (gồm các xã: Thuận Thành, Trung Thành, Tân
Phú, Đông Cao, Tiên Phong, Nam Tiến, Tân Hương) nằm kẹp giữa vùng đê sông
Công và sông Cầu nên khi mưa lớn hoặc, hoặc khi nước sông Cầu dâng cao,
thường bị úng, lụt. Như để bù đắp những thiệt hại gây ra cho cuộc sống con người,
dòng sông Cầu và sông Công đã ban tặng cho mảnh đất này những hạt phù sa màu
mỡ cho sự sống sinh sôi nảy nở từ bao đời nay.

Ao hồ: Phần lớn là nhỏ, độ sâu từ 1m đến 2 m, nằm rải rác ở các xóm, xã trong
huyện, tập trung nhiều ở những xóm, xã có mật độ dân số lớn.

Hồ Suối Lạnh: Nằm trên địa bàn xã Thành Công, là hồ nhân tạo lớn nhất
huyện Phổ Yên.

Đặc điểm nổi bật của giao thông huyện Phổ Yên là có đường Quốc lộ số 3,
tuyến đường sắt Hà Nội - Thái Nguyên chạy dọc từ Nam lên Bắc và bến cảng Đa
Phúc, mang lại cho huyện nhiều thuận lợi về kinh tế - xã hội…

66
Vùng đất Phổ Yên được hình thành và có địa danh khá sớm. Thời các vua
Hùng dựng nước vùng đất ngày nay gọi là huyện Phổ Yên thuộc bộ Vũ Định của
nước Văn Lang, thời An Dương Vương thuộc nước Âu Lạc, thời thuộc Hán thuộc
huyện Long Biên, quận Giao Chỉ. Từ thế kỷ V đến thế kỷ VI (thời thuộc nhà
Lương, nhà Tùy), vùng đất này là trung tâm của châu Giã Năng. Thời kỳ phong
kiến độc lập tự chủ, địa danh Phổ Yên nhiều lần được chia tách, sáp nhập cùng với
địa danh Thái Nguyên. Thời nhà Lý (thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIII), nước ta được
chia thành 24 lộ, trong đó có vùng đất Thái Nguyên được gọi là châu Thái Nguyên
và châu Vũ Lặc. Đến thời Trần, vùng đất Phổ Yên thuộc trấn Thái Nguyên

Huyện Phổ Yên thời nhà Trần gọi là huyện Yên Định, là 1 trong 11 huyện của
trấn Thái Nguyên. Năm Khải Đại thứ 2 (1404), đời nhà Hồ, Thái Nguyên được đổi
thành phủ, bao gồm 14 huyện, trong đó có các huyện: Phú Lương, Tư Nông, Vũ
Lễ, Đồng Hỷ, Vĩnh Thông, Tuyên Hóa, Lộng Thạch, Đại Từ, Cảm Hóa, Thái
Nguyên…Đến năm Vĩnh Lạc thứ 17 (1419), ở phủ Thái Nguyên, nhà Minh sáp
nhập các huyện Tư Nông vào huyện Yên Định, huyện Đồng Hỷ vào huyện Phú
Lương, huyện Đại Từ vào huyện Tuyên Hóa…Thời Lê sơ, huyện Yên Định đổi
thành huyện Phổ Yên. Theo sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV) thì
huyện Phổ Yên nằm trong phủ Phú Bình, có 23 xã...

Năm Quang Thuận thứ 7 (1466) vua Lê Thánh Tông định bản đồ cả nước, chia
nước thành 12 đạo thừa tuyên. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), thừa tuyên Thái
Nguyên lại đổi thành thừa tuyên Ninh Sóc, kiêm quản 3 phủ, 8 huyện, 7 châu…
Riêng huyện Phổ Yên (thuộc phủ Phú Bình, thừa tuyên Ninh Sóc) có 21 xã...Từ
năm 1483 thuộc xứ Thái Nguyên, từ năm 1533 thuộc trấn Thái Nguyên. Theo sách
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840) thì Thái Nguyên
có 9 huyện là: Bình Tuyền, Phổ Yên, Đồng Hỷ, Tư Nông, Văn Lãng, Đại Từ, Định
Hóa, Võ Nhai và Phú Lương. Riêng Phổ Yên có 6 tổng, 24 xã. Thế kỷ XVIII, vùng
đất phía nam và Đông Nam huyện Phổ Yên thuộc huyện Thiên Phúc (trước là Tân
Phúc) và một số làng xã thuộc huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc. Đầu
thế kỷ XIX, vùng đất từ giữa về phía Tây và Tây Bắc của huyện tương đối ổn định.
Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX từ Nghệ Tĩnh trở ra” đã ghi:
Huyện Phổ Yên có 5 tổng, 24 xã, phường. Riêng phía Đông Nam của huyện có sự
thay đổi. Năm 1807, thời Gia Long cắt phần đất phía Nam về phủ Đa Phúc (tổng

67
Thượng Giã), năm Gia Long thứ 12 (1813), trấn lỵ Thái Nguyên chuyển từ Bình
Kỳ thuộc tổng Thượng Giã lên xã Đồng Mỗ huyện Đồng Hỷ (nay là thành phố
Thái Nguyên). Năm 1831, vua Minh Mệnh cải cách hành chính, đổi trấn thành
tỉnh, trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên (là 1 trong 18 tỉnh của
miền Bắc nước ta lúc đó). Tỉnh Thái Nguyên có 2 phủ là Phú Bình và Thông Hóa.
Huyện Phổ Yên thuộc phủ Phú Bình, huyện lỵ đặt ở xã Lợi Xá (tổng Hoàng Đàm).
Từ năm Tự Đức thứ 4 (1851), huyện Phổ Yên do Tri phủ Phú Bình kiêm lý, lỵ sở
trước đặt ở xã Lợi Xá, nay bỏ. Huyện hạt Phổ Yên cách Tây phủ thành 32 dặm,
phía Đông giáp thôn Cầu Đông, xã Nghĩa Hưng (huyện Tư Nông), phía Tây giáp 2
xã Mi Khưu, Đăng Cao (huyện Bình Xuyên) và xã Ký Phú (huyện Đại Từ), phía
Bắc giáp xã Niệm Quang (huyện Đồng Hỷ), phía Nam giáp xã Nam Lý (huyện
Kim Anh) và xã Đông Cao (huyện Đa Phúc), thuộc tỉnh Bắc Ninh. Đông - Tây
cách nhau 77 dặm, Nam - Bắc cách nhau 63 dặm. Huyện được chia làm 6 tổng
gồm 24 xã, 1 trang, 1 phường:

1. Tổng Hoàng Đàm gồm 5 xã: Hoàng Đàm, Lợi Xá, Sơn Cốt, Đắc Hiền, Cốt
Ngạnh.

2. Tổng Thượng Vụ gồm 4 xã: Thượng Vụ, Thượng Nhân, Đan Hạ, Hạ Đạt.

3. Tổng Thượng Kết gồm 3 xã: Thượng Kết, Hạ Kết, Cát Nê.

4. Tổng Thống Thượng gồm 6 xã, 1 trang: Xã Thống Thượng, Trung Năng,
Phúc Thuận, Thao Đẳng, Kim Bảng, Thống Hạ và trang Tân Yên.

5. Tổng Vạn Phái gồm 3 xã: Vạn Phái, Nông Vụ, Hạ Vụ.

6. Tổng Nhã Luật, gồm 3 xã, một phường: Xã Nhã Luật, Dương Luật, Thanh
Lộc và phường Đại Hữu (Thủy Cơ).

Theo Đồng Khánh dư địa chí, vào thời Đồng Khánh (1886-1888) nhà Nguyễn,
huyện Phổ Yên, thuộc phủ Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, có 6 tổng gồm 26 xã,
trang, các tổng Tiên Thù, Tiểu Lễ (huyện Hiệp Hòa), Thượng Giã (huyện Thiên
Phúc) - phần đất cực Nam và Đông Nam huyện Phổ Yên ngày nay thuộc về phủ
Bắc Hà, tỉnh Bắc Ninh. Như vậy, từ cuối thế kỷ XIX về trước, vùng đất phía Đông
Nam của Phổ Yên, theo sông Cầu, từ Tiên Phong, Đồng Tiến xuống đến Tân
Hương, Đông Cao, Tân Phú, Thuận Thành, Trung Thành ngày nay vẫn phụ thuộc

68
phủ Bắc Hà hoặc phủ Đa Phúc của trấn Kinh Bắc. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822),
trấn Kinh Bắc đổi gọi là trấn Bắc Ninh.

Dưới thời Pháp thuộc từ tháng 10-1890 đến tháng 9-1892, huyện Phổ Yên
nằm trong phủ Phú Bình, thuộc tiểu Quân khu Thái Nguyên - Đạo quan binh I Phả
Lại. Từ tháng 10-1892, Phổ Yên là một huyện thuộc phủ Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên. Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp bỏ đơn vị
hành chính cấp phủ. Phổ Yên là một huyện thuộc tỉnh Thái Nguyên gồm 6 tổng,
với 24 làng. Năm 1918, Phổ Yên là một phủ (trong số 2 phủ, 3 huyện, 3 châu của
tỉnh Thái Nguyên), gồm 8 tổng với 36 làng. Đến năm 1932, Phổ Yên có 7 tổng, 38
làng…

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, địa giới của huyện Phổ Yên có sự điều
chỉnh cho phù hợp với yêu cầu tình hình đặt ra của cuộc kháng chiến chống Pháp
và thực tế địa phương. Các tổng cũ bị giải thể, nhiều làng xã được gộp lại thành
lập các xã mới, mang tên mới như: Tổng Thượng Giã (cắt phần Đình Thông, Kim
Ngưu sang huyện Đa Phúc) còn lại lấy tên là xã Trung Thành (đến 1954 lại tách ra
thành 2 xã Trung Thành và Thuận Thành). Tổng Tiểu Lễ bị giải thể, các xã Vân
Phú, Tiểu Lễ, Đông Cao, Phù Hương…nhập lại thành xã mới là Tân Tiến (đến
1954 lại tách thành 3 xã: Tân Phú, Đông Cao, Tân Hương). Tổng Nghĩa Lương cũ
chuyển thành xã Tiến Bộ (sau đổi là Hồng Tiến)… Trên tinh thần đó, lần lượt các
xã mới ra đời như: Hợp Thành, Thành Công, Nam Tiến, Đồng Tiến, Tiên Phong,…

Ngày 2-4-1985, các xã Phúc Tân, Bá Xuyên, Tân Quang, Bình Sơn tách khỏi
huyện Đồng Hỷ sáp nhập vào huyện Phổ Yên.

Ngày 11-4-1985, thị trấn Mỏ Chè và xã Cải Đan, Bá Xuyên, Tân Quang tách
khỏi huyện Phổ Yên để thành lập thị xã Sông Công.

Ngày nay, huyện Phổ Yên có 15 xã: Thuận Thành, Trung Thành, Tân Phú,
Đông Cao, Tân Hương, Tiên Phong, Đồng Tiến, Hồng Tiến, Nam Tiến, Đắc Sơn,
Vạn Phái, Thành Công, Minh Đức, Phúc Thuận, Phúc Tân cùng 3 thị trấn là: Ba
Hàng (huyện lỵ), Bắc Sơn, Bãi Bông.

Cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc, huyện Phổ Yên từ lâu đã là nơi làm
ăn, sinh sống của đồng bào nhiều dân tộc. Dưới thời Pháp thuộc, sau khi thực dân
Pháp đẩy mạnh khai thác thuộc địa, cướp đất, lập đồn điền, mộ lao động từ các

69
tỉnh miền xuôi lên, năm 1932 dân số Phổ Yên là 14.183 người. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, dân số Phổ Yên là 28.400 người. Sau hòa bình lập lại
(tháng 7-1954, toàn huyện có 7.252 hộ, với 34.234 nhân khẩu, năm 2011, dân số
toàn huyện gần 139.000 người. Phổ Yên là địa bàn cư trú lâu đời của nhiều dân tộc
khác nhau như: Kinh, Sán Dìu, Tày, Dao, Nùng, Mường và một vài dân tộc thiểu
số khác. Trừ người Dao sống chủ yếu ở các xã chân dãy núi Tam Đảo, còn người
các dân tộc khác thường sống xen kẽ với nhau. Có bộ phận là dân phu tuyển mộ
thời Pháp thuộc, có bộ phận là đồng bào các tỉnh: Hà Nam, Thái Bình, Hà Đông…
di cư, phiêu tán đến sinh cơ lập nghiệp.

Nhân dân các dân tộc Phổ Yên vốn có truyền thống lịch sử, văn hóa từ lâu đời.
Ngay từ khoa thi đầu tiên của khoa cử Nho học (năm 1075) đến khoa thi cuối cùng
của nhà Lê Trung Hưng (năm 1788), trong số 10 người của đất Thái Nguyên đỗ
tiến sĩ (học vị cao nhất dưới thời phong kiến), huyện Phổ Yên có 2 người là
Nguyễn Cấu (đỗ khoa Quý Mùi - 1463 và Đỗ Cận (đỗ khoa Mậu Tuất - 1478. Toàn
huyện có 53 khu di tích lịch sử văn hóa đã được kiểm kê. Khu di tích lịch sử cách
mạng xã Tiên Phong, khu di tích lịch sử và đền Lục Giáp (xã Đắc Sơn) đã được Bộ
Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Lễ hội đền Giá
(Đông Cao) tổ chức vào ngày 6 tháng Giêng (âm lịch) hàng năm để tưởng niệm
Thánh Gióng và Mạnh Điền Quốc vương (là những người có công đánh đuổi giặc
Ân đời Hùng Vương thứ 6). Hội đền Lục Giáp (Miếu Vật), xã Đắc Sơn tổ chức
vào ngày 15 tháng Ba (âm lịch) hàng năm để tưởng niệm các danh nhân Dương Tự
Minh, Lưu Nhân Chú, Đỗ Cận. Bên cạnh đó, nhân dân các dân tộc Phổ Yên còn
tích cực đóng góp sức người, sức của trong các cuộc kháng chiến, các cuộc khởi
nghĩa lớn chống ngoại xâm của dân tộc:

- Thế kỷ XI, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, nhân dân Phổ Yên đã trực
tiếp tham gia xây dựng phòng tuyến phía Bắc sông Cầu - một phòng tuyến kéo dài
qua địa phận huyện Phổ Yên ngày nay và trực tiếp chiến đấu góp phần cùng quân
đội triều đình nhà Lý đánh tan quân xâm lược Tống ngay trên mảnh đất quê
mình…

- Thế kỷ XII, nhân dân Phổ Yên đã cùng Dương Tự Minh (thủ lĩnh phủ Phú
Lương) chăm lo xây dựng phủ Phú Lương ngày càng phồn thịnh, chiến đấu bảo vệ
giữ yên bờ cõi khu vực phía Bắc Đại Việt…

70
- Đầu thế kỷ XV, hàng trăm người dân Phổ Yên đã cùng tướng quân Lưu Nhân
Chú tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo và chiến đấu đến ngày
thắng lợi…

- Cuối thế kỷ thứ XV, Đỗ Cận (người làng Thống Thượng nay thuộc xã Minh
Đức, huyện Phổ Yên) đỗ tiến sĩ, được bổ nhiệm làm Tham nghị xứ Quảng Nam, đã
cho thợ giỏi dùng gỗ tốt đục đẽo, chạm khắc thành khung ngôi đền, mang về quê
dựng thay thế ngôi miếu nhỏ thờ thần linh của dân làng vùng Sơn Cốt. Đền được
nhân dân vùng Sơn Cốt và nhân dân vùng Lục Giáp thờ cúng, ghi nhận và tưởng
nhớ công lao của vị Anh hùng dân tộc Dương Tự Minh, Tướng quân Lưu Nhân
Chú và Tiến sĩ Đỗ Cận…

- Từ năm 1740 đến năm 1750, nhân dân Phổ Yên tham gia nghĩa quân do
Nguyễn Danh Phương chỉ huy chống lại triều đình nhà Lê – Trịnh mục nát…

- Phổ Yên còn là địa bàn hoạt động của nghĩa quân Nông Văn Vân chống lại
triều đình nhà Nguyễn (1833-1835)…

- Trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái
Nguyên (1917), Phổ Yên trở thành nơi hoạt động bí mật, tiếp tế hậu cần cho nghĩa
quân và anh em binh lính người Việt, hơn nữa Phổ Yên còn là nơi diễn ra nhiều
trận đánh ác liệt gây cho địch thiệt hại không nhỏ về sinh lực.

- Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã mở đầu một thời đại mới của cách mạng
Việt Nam. Kể từ đây cuộc đấu tranh của nhân dân Phổ Yên luôn gắn liền với vai
trò lãnh đạo và những thắng lợi vẻ vang của Đảng và nhân dân cả nước. Từ khi có
Đảng, nhân dân các dân tộc trong huyện luôn phát huy truyền thống yêu nước,
truyền thống đấu tranh của dân tộc, một lòng một dạ theo Đảng. Vì vậy, Phổ Yên
được Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ tin tưởng

- Trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Phổ Yên lật đổ chính quyền
địch, thành lập chính quyền cánh mạng ngày 21-8 và là một trong những địa
phương giành thắng lợi sớm nhất trong cả nước...

- Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Phổ Yên được Trung ương chọn làm
An toàn khu II, một căn cứ bí mật nằm ngay trong lòng địch. Tại đây, các cơ quan
của Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc Kỳ, các đồng chí Trường Chinh (Tổng Bí thư
71
Đảng), đồng chí Hoàng Quốc Việt, đồng chí Hoàng Văn Thái và nhiều đồng chí
cán bộ tiền bối của Đảng đã đến ở và làm việc tại Phổ Yên. Nhân dân Phổ Yên còn
tích cực đóng góp sức người, sức của phục vụ kháng chiến. Tính riêng trong quá
trình chuẩn bị cho chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Phổ Yên đã huy động 17.212
lượt người đi dân công hỏa tuyến, được Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Thái
Nguyên tặng 3 cờ danh dự, 3 cá nhân được tặng huân chương, 302 cá nhân khác
được tặng bằng khen. Tính chung trong 9 năm kháng chiến (1945-1954), Phổ Yên
đã có 1.031 người tòng quân giết giặc, 451 người đã anh dũng hy sinh ngoài mặt
trận được Đảng, Nhà nước, Tổ quốc ghi công là liệt sĩ…

- Trong 10 năm trực tiếp kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975), quân
và dân Phổ Yên đã động viên 4.997 con em ưu tú của mình vào bộ đội đánh Mỹ,
có 1.124 người đã anh dũng hy sinh được công nhận là liệt sĩ. Với khẩu hiệu
“Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, trung bình mỗi năm,
nhân dân Phổ Yên đã đóng góp cho tiền tuyến 12.000 tấn lương thực, 350 tấn thịt
lợn và thịt trâu, bò...

- Trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (tháng 2-1979), huyện Phổ Yên
tuyển quân vượt chỉ tiêu 2%, huy động 3 tiểu đoàn dân quân du kích, tự vệ đi xây
dựng phòng tuyến biên giới, được Bộ Tư lệnh Quân khu I và Ủy ban nhân dân tỉnh
Bắc Thái (cũ) tặng bằng khen…

Do nhân dân các dân tộc huyện Phổ Yên đã có thành tích xuất sắc trong công
cuộc đấu tranh giải phóng đất nước và xây dựng quê hương. Đảng, Nhà nước đã
tuyên dương nhân dân và lực lượng vũ trang huyện Phổ Yên, nhân dân và lực
lượng vũ trang xã Tiên Phong danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
thời kỳ kháng chiến chống Pháp”. Nhân dân và lực lượng vũ trang xã Trung Thành
được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ”. Bên cạnh đó còn có 01 đồng chí được tuyên
dương danh hiệu “Anh hùng lao động”, 02 đồng chí được tuyên dương danh hiệu
“Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”. Toàn huyện có 18 mẹ được Đảng, Nhà
nước phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” cùng nhiều phần thưởng
cao quý khác…

Có được những thành tích vẻ vang đó là do nhân dân trong toàn huyện đã
đoàn kết một lòng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng mà trực tiếp là Đảng bộ
72
huyện. Kể từ khi Chi bộ Đảng đầu tiên được thành lập (tháng 10-1945), từ một Chi
bộ ban đầu chỉ có 06 đảng viên. Đến nay Đảng bộ huyện Phổ Yên đã không ngừng
lớn mạnh trên cả 3 mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức lãnh đạo nhân dân
các dân tộc trong huyện thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị do Đảng bộ
đề ra về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh. Hiện
nay huyện có 61 Tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Huyện ủy với 317 Chi bộ và 6968
đảng viên. Đây sẽ là lực lượng tiên phong trong quá trình lãnh đạo nhân dân trên
toàn huyện thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng huyện nhà trở thành Thị xã
Công nghiệp vào năm 2015.

Phát huy truyền thống văn hóa, lịch sử tốt đẹp của dân tộc “Ăn qủa nhớ người
trồng cây”, kính trọng, tôn thờ các vị anh hùng dân tộc có công lao với non sông
đất nước. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Phổ Yên xuất phát từ tình cảm
biết ơn và lóng kính trọng đối với vị Anh hùng dân tộc Lý Nam Đế, từ tinh thần
trách nhiệm với lịch sử nước nhà, nhiều năm nay vẫn tin tưởng và kiên trì sưu tầm
các nguồn sử liệu, tài liệu liên quan gửi tới các nhà sử học, các cơ quan khoa học
mong được làm sáng tỏ.

* Về sử liệu truyền miệng: Từ rất lâu, nhân dân vùng đất Thái Bình, châu Giã
Năng (nay là 2 xã Tiên Phong, Đồng Tiến) vẫn truyền ngôn cho con cháu về một
ngôi đền thờ ở ấp Thái Bình - xã Đồng Tiến. Ngôi đền lập bên cạnh một cái ao
hình chữ nhật, xung quanh đền có 4 cây thông to rất đẹp, trong đền có một tấm bia
đá khắc chữ Hán, tương truyền là thờ đức vua Lý Nam Đế. Trải qua chiều dài thời
gian dài và chiến tranh, loạn lạc, 4 cây thông được người dân hạ xuống đóng bàn
ghế cho lớp học, tấm bia đá bị thất lạc. Sau đó nhân dân trong vùng xây dựng lại
một ngôi đền thờ 3 gian gần ao hình chữ nhật và núi Chương. Hỏi người dân ở gần
ngôi đền về nhân vật được thờ trong đền là ai thì họ chỉ biết là đền thờ Lý Thành
Hoàng. Ở xã Tiên Phong cũng dựng ngôi đền đặt tên là Đền Mục với một số hiện
vật tương truyền là thờ đức vua Lý Nam Đế. Ngoài ra còn có chùa Hương Ấp,
tương truyền là nơi thờ vị Pháp tổ thiền sư có công nuôi dưỡng, truyền dạy chú
tiểu Lý Bí, chùa được trùng tu vào thời nhà Mạc. Năm 1947, do chiến tranh chùa
bị sập, những năm 90 của thế kỷ XX, chùa được trùng tu lần thứ 2 và vẫn trên nền
cũ gồm rất nhiều đá ong cùng các hiện vật liên quan. Bên cạnh đó, tại 2 xã Tiên
Phong, Tân Hương còn một loạt địa danh - lịch sử liên quan đến sự nghiệp đánh

73
giặc cứu nước của vua Lý Nam Đế như: “Cánh đồng Tráng” là nơi vua Lý Nam
Đế chiêu mộ thanh niên trai tráng để tuyển quân chuẩn bị khởi nghĩa, Gò Đống,
Gò Nghiên, “Bãi Quần ngựa” là nơi vua Lý Nam Đế luyện binh mã, Đồi Khao
vương (người dân địa phương đọc chệch đi là Đồi Cao vương) - một quả đồi đẹp,
rộng và bằng phẳng tương truyền là nơi vua Lý Nam Đế khao quân sau khi đánh
giặc trở về…

* Về sử liệu thành văn: Nhiều năm qua, nhân dân Phổ Yên đã sưu tầm, tập
hợp được hoặc phát hiện được các nguồn sử liệu sau:

1. Bản Ngọc phả - Thần phả của Đại học sĩ Nguyễn Bính (Dịch thuật Minh
Tú);

2. Báo Nhân dân, ngày 19-2-1991;

3. Báo Quân đội nhân dân, ngày 3-2-1991;

4. Báo Nhân dân, (Số Tân xuân 20-2-1994);

5. Báo Nhân dân cuối tuần số 44 (770), ngày 2-11-2003;

6. Hồ sơ di tích Giang Xá 5-9-1989;

7. Nghiên cứu lịch sử số 254, tháng 1-1991;

8. Báo Nhân dân chủ nhật 8-6-1986;

9. Báo Hà Nội mới 15-7-1980;

10. Báo Hà Nội mới 18-6-1989;

11. Bài nghiên cứu của nhà văn Nguyễn Khôi ngày 25-8-2009;

12. Phiên âm Ngọc phả Lý Nam Đế năm Mậu Dần;

13. Bài Đông xướng (tế đền Lý Nam Đế);

14. Bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Khánh đăng trên Tạp chí Thể
thao, Văn hóa, Du lịch Thái Nguyên số tháng 7, 8-2011;

15. Các bài viết của nhà nghiên cứu Minh Tú;
16. Địa chí Thái Nguyên (trang 138-141);
17. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (Viện sử học - tháng 6-1997 của nhiều nhà
nghiên cứu);
74
18. Bài viết của Giáo sư Trần Quốc Vượng và Đinh Văn Nhật, Bùi Thiết về
Lý Bí.
19. Bia đá, hoành phi, câu đối, thơ ca ngợi công đức Lý Nam Đế, các sắc
phong của nhà nước phong kiến Việt Nam qua các thời kỳ tại Đền, Miếu, Chùa
Giang Xá - Hoài Đức - Hà Tây.
Một chi tiết hết sức quan trọng là bà con nhân dân ở Hoài Đức - Hà Tây (nay
là Hà Nội) cũng xác định Tiên Phong - Phổ Yên là quê gốc của vua Lý Nam Đế và
đã nhiều lần tổ chức đoàn lên thắp hương tại Đền Mục - nơi thờ vua Lý Nam Đế.
Cụ thể là:
- Năm 1991 sau khi có thông tin về vua Lý Nam Đế từ Giang Xá - Hoài Đức
- Hà Tây. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Phổ Yên hết sức phấn khởi, thắp
lên tia hy vọng được lịch sử công nhận và đem được tên tuổi của vua Lý Nam Đế
về với quê hương Phổ Yên.
- Tháng 1-2003: Một đoàn cán bộ và nhân dân xã Tiên Phong gồm 16 người
về Thị trấn Trôi (Hà Tây) thăm “Đại bản doanh” của Lý Bí ở làng Giang Xá - Thị
trấn Trôi, thăm đền thờ và chùa Linh Bảo.
- Tháng Giêng năm 2004: Đoàn đại biểu của xã Tiên Phong tiếp tục về gia
đình nhà nghiên cứu Minh Tú, ở Thị trấn Trôi để trao đổi và thăm đình làng Giang
Xá.
- Tháng 10-2004: Đoàn cao niên, kỳ lão của Thị trấn Trôi gồm 84 người lên
Phổ Yên, thăm lãnh đạo xã Tiên Phong và lên chùa Hương Ấp, Đền Mục và thắp
hương tưởng nhớ Đức vua tại quê hương.
- Tháng Giêng năm 2006: Đoàn cán bộ và nhân dân xã Tiên Phong với hơn
10 người tiếp tục về thăm lại Giang Xá.
Từ đó trở về sau này giữa nhân dân Giang Xá - Hoài Đức - Hà Tây và nhân
dân Phổ Yên hình thành mối giao tình đặc biệt. Hằng năm đã thành nếp, cứ vào
ngày 12 tháng Giêng (là ngày vua Lý Nam Đế dấy binh) và ngày 12-9 (âm lịch) là
ngày sinh của Người, nhân dân 2 địa phương: Nhân dân Giang Xá - Hoài Đức - Hà
Tây và nhân dân Phổ Yên thường có lời mời thăm viếng lẫn nhau.
Đặc biệt, ngày 18-3-1999 ông Trương Công Phận đại diện Chi ủy, Chi bộ,
ông Nguyễn Văn Thanh đại diện chính quyền, ông Đoàn Văn An đại diện Hội
người cao tuổi đã thay mặt lãnh đạo và nhân dân miền An Thái (tức ấp Thái Bình -
75
xã Đồng Tiến - huyện Phổ Yên), đã viết đơn đề nghị gửi đến: Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Thái Nguyên, Huyện ủy, Ủy ban nhân
dân, Phòng Văn hóa - Thể thao huyện Phổ Yên và Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã
Đồng Tiến. Qua nội dung trong đơn, cán bộ nhân dân ấp Thái Bình đề nghị các cấp
lãnh đạo trong và ngoài tỉnh, các nhà nghiên cứu làm rõ thân thế, sự nghiệp, quê
hương Anh hùng dân tộc Lý Bí (vua Lý Nam Đế).

Xuất phát từ thực tiễn trên và thể theo nguyện vọng của nhân dân, Ban
Thường vụ Huyện ủy Phổ Yên (khóa XXVII) đã ban hành Chỉ thị số 28-CT/HU
ngày 20-2-2009 yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng
viên, các cơ quan chuyên môn, nhân dân các dân tộc trong huyện tích cực sưu tầm
các sử liệu liên quan đến Anh hùng dân tộc Lý Bí. Đồng thời có Công văn số 443 -
CV/HU ngày 30-6-2009 kính gửi Tỉnh ủy Thái Nguyên đề nghị tỉnh chỉ đạo các
Sở, Ban, Ngành phối hợp giúp đỡ. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ XXVIII này đã cụ thể
hóa chủ trương trên bằng việc ngày 25-4-2012, Ban Thường vụ Huyện ủy Phổ Yên
đã ban hành: Kế hoạch, Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo, Tổ công tác nghiên
cứu, tìm hiểu, làm rõ thân thế, sự nghiệp của Anh hùng dân tộc Lý Bí (vua Lý Nam
Đế) trên địa bàn huyện Phổ Yên để hướng tới đề nghị sự cộng tác giúp đỡ của các
cá nhân, cơ quan liên quan. Đặc biệt trong tháng 7-2012, với sự cộng tác, phối
hợp, giúp đỡ của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và Viện Sử học đã cùng các
đồng chí trong Thường trực, Ban Thường vụ Huyện ủy và đại diện các phòng, ban,
ngành liên quan tiến hành một số chuyến điền dã về những địa phương nằm trong
không gian nghiên cứu vấn đề như: Hà Tây, Phú Thọ, Hưng Yên, Thái Bình…
nhằm xác minh và thu thập thêm sử liệu phục vụ cho Hội thảo.

Với mong muốn của nhân dân 2 địa phương là: Phổ Yên - Thái Nguyên - quê
gốc của vua Lý Nam Đế và Hoài Đức - Hà Tây (Hà Nội) - quê hương thứ 2, nơi
Người dựng nghiệp, bằng sự kính trọng vị Anh hùng dân tộc Lý Bí, cùng những
thông tin, những nguồn sử liệu, tài liệu có được, hơn nữa đây là trách nhiệm lớn
với lịch sử nước nhà, với tổ tiên, dân tộc, kính mong các nhà sử học, nhà nghiên
cứu, các cơ quan chuyên môn, các đại biểu tham dự Hội thảo trên tinh thần công
tâm, khách quan, khoa học xem xét, nghiên cứu, đi đến thống nhất để khẳng định
chính xác: Quê hương Anh hùng dân tộc Lý Bí (vua Lý Nam Đế) là ở: thôn Cổ
Pháp - xã Tiên Phong - huyện Phổ Yên - tỉnh Thái Nguyên./.

76
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÙA BẢO PHÚC (HOÀI ĐỨC, HÀ NỘI)

VỚI CHỐN TỔ: CHÙA HƯƠNG ẤP (PHỔ YÊN, THÁI NGUYÊN)

Phạm Văn Kính


(Viện Sử học)

Dựa vào cuốn Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền (thường
được gọi tắt là Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền), tác giả Minh Tú đã công bố quê
gốc của vua Lý Nam Đế là ở châu Giã Năng xứ Kinh Bắc, trên báo Nhân Dân
ngày 8-6-1986. Từ nguồn thông tin này, nhà giáo, nhà nghiên cứu địa lý học lịch
sử Đinh Văn Nhật đã dành ra 2 năm để nghiên cứu thư tịch, khoanh vùng điều tra
điền dã, đối chiếu bản đồ… và cuối cùng đã công bố một luận văn khoa học trên
Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 1 năm 1989 với tiêu đề Đi tìm quê hương Lý Bí.
Với luận văn này, tác giả Đinh Văn Nhật đã xác định được địa điểm của địa danh
Thái Bình được ghi trong sử sách và châu Giã Năng, thuộc xứ Kinh Bắc ghi trong
Ngọc phả. Tác giả viết: “Chúng tôi đã khảo sát vùng Giã Năng và tìm thấy một
xóm có tên là Thái Bình ở tọa độ 21º25′ - 105º55′, cách Phố Cò 4 km về đông nam
và cách Chợ Chã, Hà Châu trên sông Cầu 5 km về Tây Bắc, tức là chỉ cách thị xã
Sông Công, khu công nghiệp mới mở tháng 4-1985, vài ba km về hướng Đông
Nam”. Và “Từ những điều trình bầy trên, chúng tôi thấy bước đầu có thể kết luận
rằng Thái Bình không phải là địa danh một huyện như sử cũ ghi. Dựa vào kết quả
nghiên cứu của địa lý học lịch sử cho biết vào cuối thế kỷ V – đầu thế kỷ VI, Lý Bí
đã sinh sống trong một điền trang lớn mang tên là trang Thái Bình, trên đất Giã
Năng thuộc quận Vũ Bình, vùng bắc ngã ba sông Công và sông Cầu, nay là huyện
Phổ Yên tỉnh Bắc Thái”1.

Theo hướng nghiên cứu của Đinh Văn Nhật, tác giả Minh Tú cũng tiến
hành điều tra điền dã và đối chiếu bản đồ và đã chỉ ra địa điểm Thái Bình một cách
cụ thể hơn: “Trên bản đồ còn thấy cả “Thái Bình” nằm trong xã Tiên Phong huyện
Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên (chúng tôi nhấn mạnh) cũ, cách Phố Cò 4 km về hướng
đông - nam, gồm thị xã Sông Công tỉnh Bắc Thái ngày nay” 2. Còn về địa điểm,

. Đinh Văn Nhật: Đi tìm quê hương gốc của Lý Bí. NCLS, số 1-1989, tr. 80, 81.
1

2
. Minh Tú: Về Lý Nam Đế. NCLS, số 1-1991, tr. 64.
77
vùng đất châu Giã Năng thì cũng tương tự như bài viết của Đinh Văn Nhật 2. Ý
kiến của các tác giả Đinh Văn Nhật và Minh Tú về vị trí của 2 địa danh Thái Bình
và Giã Năng đã được nhà giáo Nguyễn Hữu Khánh, quê ở Phổ Yên, Thái Nguyên
khẳng định thêm một lần nữa trong bài Tìm hiểu thêm về châu Giã Năng và ấp
Thái Bình thời Lý Bí, đăng trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 6 năm 1997.

Lần theo sự chỉ dẫn của các nhà nghiên cứu trên (Minh Tú, Đinh Văn Nhật,
Nguyễn Hữu Khánh), đầu tháng 7-2012, chúng tôi tiến hành cuộc điều tra điền dã
tại xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

Tiên Phong hiện nay vẫn còn mang đậm dấu ấn của một làng Việt cổ bậc
thềm, nhưng bằng phẳng, thoáng đãng, ruộng đồng rộng lớn mầu mỡ phì nhiêu,
cây cối rừng rú sầm uất, phong cảnh hữu tình thơ mộng. Chứng tỏ vùng đất này từ
xa xưa còn người đã dày công khai phá, dựng xây. Rất tiếc là trong cuộc “tiêu thổ
kháng chiến” năm 1947 tất cả những công trình kiến trúc tôn giáo như đình chùa
miếu mạo ở đây đã bị phá hủy hoàn toàn 1. Thần tích, Thần sắc, Gia phả, Ngọc phả,
Sắc phong, Hoành phi, Câu đối… cũng không còn. Do đó việc khôi phục lại diện
mạo của làng xã cổ xưa gặp phải muôn vàn khó khăn. May thay, trong ký ức dân
gian và những địa danh cổ đã giúp chúng ta hiểu biết ít nhiều về vùng đất địa linh
nhân kiệt này.

Xã Tiên Phong, ngày xưa, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 là thôn
Cổ Pháp, xã Tiên Thù, tổng Tiên Thù, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Sau
Cách mạng tháng Tám mới đổi Tiên Thù thành Tiên Phong. Địa danh Tiên Phong
tồn tại từ đó cho đến ngày nay. Quanh vùng Tiên Phong còn có địa danh cổ như
đồi Cao Vương, chùa Hoàng Hậu, núi Chùa, giếng Chùa… Trên đất Tiên Phong
hiện đang tồn tại một ngôi Đình (Đền) và một ngôi chùa. Ngôi đền có tên là Đền
Mục. Đền này được nhân dân địa phương phát tâm xây dựng gần đây trên nền đền
cũ. Đền thờ Đức vua Lý Nam Đế. Trong đền có đặt tượng Lý Nam Đế cùng các đồ
tế khí cũng như Lộ Bố, Bát Bửu. Quy mô kiến trúc cũng như kỹ thuật xây dựng
của ngôi đền còn khá khiêm tốn đơn sơ. Tuy nhiên theo hồi cố của các vị bô lão
địa phương thì đền thờ Lý Nam Đế cổ xưa ở làng Cổ Pháp này có quy mô hoành
tráng giống hệt như đền thờ Lý Bát Đế ở Đình Bảng, Bắc Ninh. Người ta tự hào

1
. Trong cuộc tiêu thổ kháng chiến, không riêng gì ở Phổ Yên Thái Nguyên mà rất nhiều nơi,
nhất là vùng Thanh Nghệ, các đình chùa đều bị phá, sách vở có chữ Nho (chữ Hán) đều bị đốt.
78
lưu truyền từ đời này sang đời khác rằng muốn biết đền Cổ Pháp xưa như thế nào
thì hãy sang xem đền Đình Bảng. Bởi thế mới có câu: “Cổ Pháp làm sao, Xuân
Giao (tên khác của Đình Bảng” thế ấy1.

Cách Đền Mục khoảng hơn 1000 m về phía Đông Bắc là chùa Hương Ấp –
Hương Ấp tự. Chùa Hương Ấp tọa lạc trên ngọn phía tây của núi Chùa, trong
khuôn viên rộng tới 5.130,5 m2 (2).

Chùa quay theo hướng chính Tây, nhìn thẳng ra ngòi Gạo, núi Cao Vương,
cánh đồng Cháy. Phía Nam nằm song song với núi Chùa là núi Ấp. Phía Bắc dưới
chân núi là giếng Chùa, rồi núi Sen. Phía Đông, sau lưng chùa là khu dân cư của
làng Cổ Pháp.

Mô hình kiến trúc của ngôi chùa có hình chữ Đinh ( 帝), kỹ thuật xây dựng
đơn giản, mái ngói, tường đá ong, rường cột, sườn gỗ đơn sơ. Nhà Tam bảo 5 gian
dài 10,80 m, rộng 4,97 m, cao 2,35 m. Hậu cung dài 5 m, rộng 3,2 m, cao 2,39 m.
Tổng diện tích sử dụng khoảng gần 70 m2.

Cách thức bài trí trong chùa, kể từ gian Hậu cung như sau: tính từ trên
xuống dưới, từ trong ra ngoài ta thấy: lớp 1 thờ 3 vị Tam Thế Phật, lớp 2 đặt tượng
Di Đà, Địa Tạng, Ca Na Diếp, lớp 3 tượng Phật Bà Quan Âm, tượng Văn Thù Bồ
Tát, tượng Phổ Hiền Bồ Tát, tượng Nghìn mắt nghìn tay, tượng Vua cha Ngọc
Hoàng, Nam Tào Bắc Đẩu và tượng Cửu Long.

Án thờ chính điện: bên trên là 2 cây lọng, phía trong có 2 cây đèn, 2 cây
nến. Chính giữa là tượng Thích Ca Mâu Ni thời thơ ấu, phía dưới là tượng Di Lặc.
Giữa án đặt bát hương, hai bên bát hương là đôi lộc bình và đôi hạc bằng đồng.
Hai bên án là 2 tượng Hộ Pháp, bên cạnh là tượng Thánh Hiền, tượng Mục Niên.

Trong chùa chưa có bức hoành phi, đôi câu đối nào.

Tuy cách bài trí và hiện vật trong chùa còn sơ sài đơn giản, song với vị thế
của một ngôi chùa làng, cũng đủ để thiện nam, tín nữ tụng Kinh niệm Phật. Hy
vọng rằng trong tương lai không xa, tăng ni phật tử khắp nơi biết chắc đây là chốn
1
. Nhân sự kiện này, chúng tôi xin mạnh dạn đặt ra một nghi vấn, tạm gọi là nghi vấn lịch sử, để
nghiên cứu thêm. Đó là giữa họ Lý Nam Đế và Lý Công Uẩn có quan hệ gì không? Ngoài địa
danh Cổ Pháp đều có ở 2 nơi, khi Lý Công Uyển lên ngôi còn cho đổi châu Cổ Pháp thành phủ
Thiên Đức, sông Như Nguyệt cũng được gọi sông Thiên Đức – như ta đã biết Thiên Đức là niên
hiệu của Nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế.
2
. Diện tích đã được cấp “Sổ Đỏ”.
79
Tổ của chùa Giang Xá, Hoài Đức, Hà Nội sẽ hằng sản, hằng tâm để góp phần xây
dựng chùa Tổ lộng lẫy, khang trang đẹp đẽ hơn.

Vẫn theo lời kể của các cụ cao niên làng Cổ Pháp, chùa Hương Ấp xưa kia
rất cao to bề thế, và vẫn được dựng lên trên khuôn viên của chùa bây giờ. Trong
chùa có nhiều hoành phi câu đối. Rất tiếc đã quá lâu ngày không còn ai nhớ được
trọn vẹn, mà chỉ nhớ được một vế của một vài đôi câu đối. Đại loại như:

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝

Phiên âm: Tây sinh Phật giáng lâm Đông thổ, dẫn sinh linh đáo giác ngộ
môn.

Nghĩa là: Bên Tây Trúc sinh ra Phật giáng lâm sang đất cõi Đông, dẫn dắt
sinh linh đến cửa giác ngộ.

Hoặc:

帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝

Phiên âm: Thử địa tụ Thánh Minh, cổ sát do tồn di tích viễn.

Dịch nghĩa: Đất này xuất hiện đức Thánh Minh, ngôi chùa cổ vẫn còn di
tích mãi.

Xin được lưu ý ở vế câu đối này, với ý tứ ngữ nghĩa của câu chữ thì hầu như
nó đã khẳng định vua Lý Nam Đế được sinh ra ở đây, trên mảnh đất Cổ Pháp này
và Ngài đã được Pháp tổ Thiền sư khai tâm cho tại ngôi chùa cổ của làng 1.

* *

Để tìm hiểu về mối quan hệ giữa chùa Bảo Phúc với chốn Tổ, chúng tôi xin
phép được điểm sơ qua đôi nét về ngôi chùa này.

Chùa Bảo Phúc, còn được gọi là chùa Giang Xá thuộc làng Giang Xá thị
trấn Trạm Trôi huyện Hoài Đức thành phố Hà Nội. Đầu tiên chùa Bảo Phúc có tên
là chùa Linh Bảo (Linh Bảo tự), được xây dựng vào khoảng các thế kỷ đầu Công
nguyên về phía Tây làng, bên dòng sông nhỏ Giang Biên.

1
. Những tư liệu của chùa Hương Ấp do ông Nguyễn Hữu Chinh – nguyên Chủ tịch UBND xã
Tiên Phong cung cấp.
80
Vào khoảng nửa đầu thế kỷ thứ VI, một số gia đình trong làng mời được
Pháp Tổ Thiền sư – thầy nuôi và là thầy học của Lý Bí – về lập đàn cúng Tam thất
nhất dạ (21 ngày đêm). Thấy Thiền sư đức độ, dân làng cùng thỉnh ngài ở lại trụ trì
chùa Linh Bảo. Thiền sư vui vẻ nhận lời. Từ đó Thiền sư cùng chú tiểu Lý Bí ở lại
chùa Linh Bảo. Chùa Linh Bảo trờ thành nơi Lý Bí tu luyện, học hành và trưởng
thành. Do đó có thể nói chùa Linh Bảo, làng Giang Xá là quê hương thứ hai của
Lý Bí.

Đến đầu thế kỷ VII, để tránh sự tàn phá trả thù của quan lại nhà Đường, dân
làng Giang Xá đã chuyển chùa Linh Bảo ra xa khỏi làng và có lẽ cũng phải đổi tên
thành chùa Bảo Phúc (Bảo Phúc tự). Đến thời Trần chùa được làm lại theo kiểu
“nội công ngoại quốc”, trên diện tích 2 mẫu Bắc Bộ. Đến cuối thời Lê đầu thời
Nguyễn, chùa được làm lại lần nữa, nhưng quy mô nhỏ hơn, kiến trúc theo hình
chữ Đinh ( 帝 ), nhưng vẫn theo hướng Bắc như cũ. Cách bài trí tượng thờ vẫn
nguyên lối cổ, tượng Đức Ông vẫn đặt về bên phải (các chùa khác đều thờ bên
trái?), diện tích nội tự hiện nay khoảng 8 sào. Chùa đã được công nhận là Di tích
Lịch sử cấp Quốc gia năm 19931.

Trái ngược với chùa Hương Ấp, ở chùa Bảo Phúc có rất nhiều pho tượng,
đại tự, câu đối và đồ tế tự. Chẳng hạn như hệ thống các pho tượng đã được sắp xếp
bài trí một cách tuần tự từ cao xuống thấp, từ trong ra ngoài theo các lớp như sau:
Tượng Tam Thế, Tượng Di Đà ngồi giữa, Quan Thế Âm và Đại Thế Chí đứng hai
bên; Tượng Đức Thế Tôn, 2 bên cạnh là Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát;
Tượng Di Lặc và Thánh Tăng Thổ Địa; Tượng Phật Bà Quan Âm và 2 bên là Kim
Đồng, Ngọc Lữ; Tượng Ngọc Hoàng vua cha và Nam Tào, Bắc Đẩu 2 bên; lớp
tượng Cửu Long2 chính giữa; lớp tượng Thích Ca sơ sinh tay trái chỉ lên trời, tay
phải chỉ xuống đất, đứng giữa3. Sát liền với Hậu cung là 5 gian Đại bái, đặt 2
tượng Hộ Pháp (khuyến thiện và trừ ác); gian 2 bên có bàn thờ Thánh Hiền và Đức
Ông; 2 bên nữa là hệ hống Thập điện Diêm vương.

Trong chùa treo gần chục bức Đại tự. Chẳng hạn như:
1
. Tham khảo thêm: Mảnh đất con người Giang Xá do Giang Văn Thăng sưu tầm và biên soạn
năm 2002. Bản lưu hành nội bộ.
2
. Theo điển tích khi đức Thích Ca Mâu Ni vừa mới giáng sinh, có 9 con rồng phun nước tắm
cho ngài.
3
. Chỉ điển tích đức Thích Ca sơ sinh một tay chỉ lên trời một tay chỉ xuống đất và nói rằng:
“Thiên thượng, Thiên hạ duy ngã độc tôn”, nghĩa là trên trời, dưới trời, chỉ có ta là tôn quý.
81
Kỳ Huyền Hỗ 帝帝帝

Từ Quang Phổ Chiếu 帝 帝 帝 帝

Thiên Nhân Sư 帝帝帝

Bảo Phúc Tự 帝帝帝

Khí Cao Trinh Hán 帝帝帝帝

Uy Túc Phong Vân 帝帝帝帝

và cũng khoảng gần 10 đôi câu đối, phần lớn đều ca ngợi công đức của Phật Tổ và
thành quả của việc tu hành đạo Phật.

Dưới nhà Tổ cũng có 2 bức Hoành phi và 2 câu đối.

Hoành phi: Chính đại Quang Minh

帝帝帝帝

Nghĩa là: Đạo phật là quang minh chính đại.

Ưu Bát Hoa Khai

帝帝帝帝

Nghĩa là: Hoa ưu đàm (tức hoa sung)1 nở rộ.

Đôi câu đối 1:

帝 帝 帝 帝帝帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝

帝 帝 帝 帝 帝 帝帝帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝

Phiên âm:

Lý triều Thánh đế tái lai, đức trạch sơn hà Nam Bắc quốc.

Từ thị Thần tăng ứng hiện, ân quang vũ trụ cổ kim nhân.

Dịch nghĩa:

Lý Nam Việt Đế thăm lại Thầy, nghĩa nặng trùm non sông hai nước.

Đền thờ Thần tăng rõ ràng Tượng, ơn ngang trời đất chỉ một thầy.

(Cụ Giang Văn Thăng dịch)

1
. Người xưa quan niệm: Hoa ưu đàm nở là biểu hiện cho điềm lành, thiên hạ thái bình.
82
Đôi câu đối 2:

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝帝

Phiên âm:

Nhất mạch Tào Khê chấn đán biệt truyền hương hỏa dẫn.

Thiên thu Bảo Phúc bồ đề trường mậu giác hoa khai.

Tạm dịch:

Theo dòng Tào Khê một sớm, riêng truyền khói hương dài mãi

Nghìn thu Bảo Phúc chùa nay, rạng rỡ hoa giác nở khai.

Trong nhà Tổ ngoài các bức Đại tự và Câu đối còn có 3 pho tượng. Chính
giữa là tượng Phật Đạt Ma, bên phải là tượng Pháp tổ Thiền sư – người trụ trì đầu
tiên ở chùa Linh Bảo tức Bảo Phúc, thầy dạy học Lý Bí thuở thiếu thời, bên trái là
tượng tổ Thích Thanh Thuần cùng các ảnh những vị sư tăng đã trụ trì ở chùa này
viên tịch.

Đặc biệt tại chùa Bảo Phúc còn lưu giữ được bản sao Lý Nam Đế Ngọc phả
cổ truyền mà chúng tôi đã giới thiệu phần đầu. Điều đáng quý là những tư liệu do
Ngọc phả cung cấp có niên đại rất sớm, vào năm Hồng Phúc nguyên niên, đời vua
Lê Anh Tông (1572). Có thể nói từ khi cuốn Ngọc phả được phát hiện, đồng thời
với việc biết được quê hương của Lý Nam Đế ở xứ Kinh Bắc, châu Giã Năng. Như
phần trên đã trình bầy, các nhà nghiên cứu đã dày công nghiên cứu, tìm tòi và đã
chỉ ra được cụ thể làng Cổ Pháp xã Tiên Phong huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên.
Từ đó nhân dân làng Giang Xá, Tăng ni phật tử chùa Bảo Phúc luôn tâm niệm
chùa Hương Ấp làng Cổ Pháp xã Tiên Phong là chốn Tổ của mình. Vào khoảng
năm 2004 một đoàn Tăng ni phật tử, và đại diện chính quyền, nhân dân làng Giang
Xá hành hương về chốn Tổ. Sau đó hàng năm, những ngày lễ trọng ở Giang Xá,
nhất là ngày 12 tháng Giêng Âm lịch đều có thư mời khách ở Hương Ấp về dự 1.

Hy vọng rằng, sau khi chốn Tổ được công nhận chính thức thì mối quan hệ
giữa chùa Bảo Phúc với chốn Tổ Hương Ấp, cũng như mối quan hệ của quê hương

1
. Theo các cụ ở Giang Xá, ngày 12 tháng Giêng là ngày Lý Bí lên ngôi vua, và cũng là tiết đầu
Xuân năm mới.
83
thứ hai (Giang Xá) với quê gốc (Tiên Phong) của Lý Nam Đế sẽ được thường
xuyên hơn, sâu đậm hơn. Cả hai nơi cùng giúp đỡ nhau, cùng dựng xây và cùng
phát triển.

Tháng 8 năm 2012

84
MỘT SỐ KHÁC BIỆT GIỮA SỬ GIA VIỆT NAM

VÀ SỬ GIA TRUNG QUỐC KHI VIẾT VỀ LÝ NAM ĐẾ

PGS.TS. Tạ Ngọc Liễn

(Viện Sử học)

Cuộc khởi nghĩa giành quyền độc lập, tự chủ, thành lập Nhà nước Vạn
Xuân của Lý Bôn (còn gọi Lý Bí) ở thế kỷ thứ VI, sau Công nguyên, là một sự
kiện lớn, quan trọng trong lịch sử Việt Nam.

Có thể nói, ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến nay, không một công trình
nghiên cứu lịch sử nào viết về các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc thời kỳ
Bắc thuộc, lại không quan tâm đặc biệt tới sự kiện Lý Nam Đế. Còn đối với giới sử
học Trung Quốc khi viết về lịch sử Việt Nam cổ trung đại, ngoài Lã Sĩ Bằng với
cuốn Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc, tôi chỉ được đọc cuốn Việt Nam thông sử do
Quách Chấn Đạt và Trương Tiến Mai làm chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Nhân
dân Trung Quốc, xuất bản năm 2001, trong đó có phần viết về sự kiện Lý Bôn.

Khi đọc Việt Nam thông sử của Quách Chấn Đạt và Trương Tiếu Mai, rồi
đối chiếu với hai bộ thông sử Việt Nam mà tôi cho là tiêu biểu, là cuốn Việt Nam
sử lược của Trần Trọng Kim, in năm 1918 và cuốn Lịch sử Việt Nam, Tập I, của
Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội in năm 1971, tái
bản năm 1976, tôi thấy giữa các bộ sách này có những khác biệt nhau khá rõ trong
cách bình luận đánh giá, trong một số sự kiện cụ thể.

(Có lẽ tôi cũng cần nói lý do vì sao tôi chỉ chọn ba bộ sách nói trên làm đối
tượng khảo sát, đối chiếu, so sánh: Ba bộ sách trên đều là ba bộ thông sử. Tôi chỉ
muốn so sánh thông sử với thông sử, không lấy chuyên sử làm đối tượng khảo sát).

Dưới đây là những vấn đề khác biệt cần nghiên cứu, xác định rõ:

1. Lý Bôn có tổ chức trận tấn công quân Lương ở Hợp Phố không?

Trong Lịch sử Việt Nam, Tập I, của Ủy ban Khoa học xã hội, viết: “Đầu
năm 543, triều đình nhà Lương tổ chức cuộc phản công chinh phục lần thứ hai. Lũ

85
tướng tá được giao trách nhiệm tổ chức cuộc phản công này khiếp nhược trước
khí thế mạnh mẽ của cuộc khởi nghĩa, tỏ ra vô cùng hèn nhát, dùng dằng không
dám tiến quân. Chủ động đánh giặc, nghĩa quân Lý Bí tổ chức một trận tiêu diệt
chiến lớn ở bán đảo Hợp Phố (lúc ấy thuộc Châu Giao). Quân Lương mười phần
chết bảy, tám phần. Tướng chỉ huy của địch, đứa bị giết, đứa sống sót cũng bị
triều đình nhà Lương xử tội” (trang 114).

Sự kiện Lý Bôn tổ chức đánh phá quân nhà Lương tan vỡ ở Hợp Phố trong
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim không nói.

Trong Việt Nam thông sử của hai tác giả Trung Quốc là Quách Chấn Đạt và
Trương Tiếu Mai cũng không nói.

Đi tìm nguồn thư tịch cổ, chúng ta sẽ thấy Đại Việt sử ký toàn thư có ghi
như sau:

“Nhâm Tuất năm thứ 2 (542) (Nhà Lương, niên hiệu Đại Đồng thứ 8). Mùa
đông, tháng 12, Lương đế sai Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng sang lấn. Quýnh lấy cớ
là chướng khí mùa xuân đương bốc, xin đợi mùa thu. Thứ sử Quảng Châu là Tân
Dụ hầu Hoán không cho. Vũ Lân hầu Tư cũng thúc giục. Bọn Tử Hùng đi đến Hợp
Phố, 10 phần chết đến 6, 7 phần, quân tan rã mà trở về. Từ tâu vua rằng, Quýnh
và Tử Hùng dùng dằng không chịu đi. Vua bắt bọn họ đều phải tự tử” (Ngoại kỷ -
Quyển IV, Kỷ nhà Tiền Lý. Bản dịch của Viện Sử học, 1965, Tập I, trang 118).

Tôi đã đối chiếu với nguyên văn chữ Hán Đại Việt sử ký toàn thư, thấy bản
dịch vừa trích dẫn trên là chính xác.

Đọc đoạn văn trong Đại Việt sử ký toàn thư, chúng ta thấy:

- Không có câu chữ nào nói việc Lý Nam Đế đánh nhau với quân Lương ở
Hợp Phố.

- Trong văn cảnh câu văn này, chúng ta chỉ có thể hiểu khi quân Lương đi
đến Hợp Phố, gặp “chướng khí”, tức là khí độc ẩm thấp ở rừng núi làm cho con
người mắc bệnh. Nghĩa là sở dĩ quân Lương “mười phần chết đến 6, 7 phần” và
“tan rã” là do “chướng khí” gây ra, không phải do đánh nhau.

Để xác định rõ thêm trên thực tế không có chuyện Lý Nam Đế đánh tan
quân Lương ở Hợp Phố, chúng ta cần tìm hiểu địa danh Hợp Phố.

86
Theo Từ Hải và Trung Quốc địa danh đại tự điển thì Hợp Phố là tên quận,
được đặt từ đời Hán, trị sở ở Từ Văn (vào thời Trung Hoa Dân Quốc, trị sở huyện
Hải Khang, tỉnh Quảng Đông). Đến thời Đông Hán, dời trị sở về Hợp Phố. Trong
khoảng đời Lương – Trần, lại chuyển trị sở về Từ Văn. Thời Tùy Đường lại dời về
Hợp Phố… Trên bản đồ hành chính nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa in năm
1995, vẽ vị trí Từ Văn nằm gần Hải An, ở cuối Lôi Châu (từng là quận, lộ, phủ,
huyện, cũng gọi là đảo Lôi Châu), cách biển nhìn xuống là đảo Hải Nam.

Như vậy, Hợp Phố (Từ Văn) cách khu vực Hà Nội cổ, trung tâm của nước
Vạn Xuân, rất xa. Nếu muốn đánh quân nhà Lương ở Hợp Phố, thì Lý Bôn phải
mất hàng năm đóng thuyền bè, chuẩn bị lương thực, vũ khí… và để đến được Hợp
Phố nhanh nhất, quân đội của Lý Bôn phải ra Móng Cái ngày nay, qua Đông Hưng
rồi từ cửa biển Phòng Thành dong buồm, vượt biển…, một chuyện không thể thực
hiện được, nhất là trong vòng 4 – 5 tháng?

2. Tên gọi Lý Nam Đế là Lý Bôn hay Lý Bí?

- Việt sử lược của Trần Trọng Kim viết Lý Nam Đế “tên là Lý Bôn (帝 帝) và
còn ghi: “Lý Bôn có người gọi là Lý Bí”.

- Lịch sử Việt Nam, Tập I, Ủy ban Khoa học xã hội, viết: “Khởi nghĩa Lý
Bí”, tức gọi Lý Nam Đế là Lý Bí.

- Lịch sử Việt Nam, Tập I, do Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên
nghiệp xuất bản, cũng gọi Lý Nam Đế là Lý Bí: “Khởi nghĩa Lý Bí – Nhà nước
Vạn Xuân (542-602)”.

- Việt Nam thông sử của Quách Chấn Đạt và Trương Tiếu Mai gọi Lý Nam
Đế là Lý Bôn, đồng thời cũng viết: “Lý Bôn còn được gọi là Lý Bí (帝 帝)”.

Vậy, tên thật của Lý Nam Đế là Lý Bôn hay Lý Bí, cũng là vấn đề khác biệt
giữa ba bộ thông sử mà tôi đối chiếu, so sánh.

Trong Lịch sử Việt Nam, Tập I, của Ủy ban Khoa học xã hội, khi gọi tên Lý
Bí, tác giả có chú thích: “Cho đến nay, một số địa phương trên miền Bắc kiêng tên
ông, thường gọi quả bí là quả bầu” (trang 113).

- (Quả) bầu chữ Hán là Biều (帝).

87
- “Bí” cùng loại với bầu (chữ Bí có bộ thảo trên, dưới bộ Hòa với chữ Tất –
Nôm).

Trong chữ Nôm cổ, từ “bầu” xuất hiện sớm nhất mới thấy ở thơ Nôm thế kỷ
XV. Còn từ “bí” có lẽ ra đời muộn hơn, thường thấy trong ca dao thế kỷ XVIII-
XIX?

Trở lại với chữ Bôn (帝), có tài liệu viết “Bôn còn có âm là Bí”.

Tôi chỉ mới có thì giờ tra Từ Hải, thì thấy chữ 帝 có 4 âm đọc khác nhau: Bí,
Phần, Bôn, Vẫn.

Theo tôi nghĩ, có lẽ chúng ta nên thống nhất: tên Lý Nam Đế là Lý Bôn
(hoặc còn gọi Lý Bí), như tác giả Việt Nam sử lược và Việt Nam thông sử.

(Tôi vẫn thấy băn khoăn: Quách Chấn Đạt và Trương Tiếu Mai, hai sử gia
Trung Quốc, chắc hẳn là giỏi Hán ngữ cổ đại, nhưng vì sao khi nói Lý Bôn còn có
tên là Lý Bí, lại viết chữ Bí (帝) nghĩa là kín đáo, bí mật, mà không đọc Bôn là Bí?).

3. Về năm Lý Bôn khởi nghĩa

Trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim và Việt Nam thông sử của
Quách Chấn Đạt, Trương Tiếu Mai, đều viết giống nhau, cuộc khởi nghĩa Lý Bôn
nổ ra vào năm Tân Dậu (541).

Trong Lịch sử Việt Nam, Tập I, Ủy ban Khoa học xã hội, thì viết: “Mùa
xuân năm 542, đại khởi nghĩa toàn dân do Lý Bí lãnh đạo nổ ra” (tr. 115). Năm
542 là năm Nhâm Tuất.

4. Về nguyên nhân Lý Nam Đế mất

Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim cũng như Lịch sử Việt Nam, Tập I,
đều ghi Lý Nam Đế bị bệnh mất, năm 548.

Riêng Việt Nam thông sử của hai tác giả Trung Quốc đã viết: “Năm Đại
Đồng thứ 11 (545) nhà Lương, Lý Bôn chạy vào Động Khuất Liêu (nay là huyện
Hưng Yên), bị bộ hạ giết, đưa thủ cấp về kinh sư (năm đầu niên hiệu Thái Thanh
nhà Lương, 549 Công nguyên)”.

Thông tin này theo tôi là “ngụy bút”.

88
Trong Việt Nam thông sử có sự nhầm lẫn chăng khi tác giả viết về hồ Điển
Triệt: “Lý Bôn lại chạy vào trong hang tối ở Tân Xương (thuộc đất Vĩnh Phúc,
Phong Châu, sau lại dẫn hai vạn người ra đóng đồn ở hồ Điển Triệt (Dạ Trạch,
nay là huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên)…”.

Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, khi nói đến hồ Điển Triệt cũng đặt
dấu hỏi không biết ở đâu.

Trên đây là một số điểm khác nhau giữa ba bộ thông sử của sử gia Việt
Nam và sử gia Trung Quốc khi viết về cuộc khởi nghĩa Lý Bôn vào thế kỷ thứ VI
mà tôi muốn giới thiệu để đồng nghiệp tham khảo.

T.N.L.

89
CUỘC XÂM LƯỢC NƯỚC VẠN XUÂN CỦA NHÀ TÙY

PGS.TS. Nguyễn Danh Phiệt

(Viện Sử học)

Sau khi giành ngôi của con rể là vua nhà Bắc Chu, Dương Kiên (tức Tùy
Văn Đế) dời đô từ Kiến Khang (Nam Kinh) về Trường An, đổi tên nước là Tùy.
Nhà Tùy xuất hiện trong lịch sử Trung Hoa từ năm 581 đến năm 618, nắm quyền
thống trị đất nước sau 4 thế kỷ lâm vào tình trạng chia cắt, loạn lạc. 12 năm sau khi
xuất hiện, vào năm 603 nhà Tùy tiến hành xâm lược nước Vạn Xuân ở Giao Châu.
Lúc này miền đất Giao Châu mà nhà Tùy chinh phục đã có tên gọi là nước Vạn
Xuân do Lý Bí – Lý Nam Đế, đặt từ năm 544 sau khi được quyền tự chủ từ tay nhà
Lương.

Vào thời gian tiến hành xâm lược nước Vạn Xuân, nhà Tùy đang ở thế
mạnh của một vương triều cai quản cả Trung Hoa thống nhất. Tùy Văn Đế đã thực
hiện nhiều chính sách như tiếp tục thi hành chính sách quân điền, giảm tô thuế lao
dịch, thống nhất tiền tệ, mở khoa thi, do đó đất nước bắt đầu phát triển, xã hội
tương đối ổn định. Trong khi đó nước Vạn Xuân từ sau khi Lý Nam Đế mất (548),
trải qua nhiều thăng trầm: Cuộc kháng chiến do Triệu Quang Phục cầm quân đánh
thắng quân Lương, giết tướng Dương Sàn, giải phóng đất nước, chiếm lại Kinh đô
Long Biên; cuộc bất hòa giữa Lý Phật Tử và Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương)
đánh nhau ở Thái Bình năm 554 không phân thắng bại phải lấy bãi Quân Thần
(vùng Thượng Cát, Hạ Cát, Từ Liêm – Hà Nội) làm ranh giới chia đôi thế lực, Lý
Phật Tử bất ngờ đánh úp Triệu Quang Phục giành toàn quyền xưng là Nam Đế
(Hậu Lý Nam Đế). Tình trạng trên đã làm cho nước Vạn Xuân suy yếu, quyền lực
bị phân tán, quân sĩ hao mòn, kinh tế kiệt quệ. Lý Phật Tử tiến hành xây dựng đất
nước nhưng vẫn chưa kiểm soát được toàn bộ đất nước vừa trải qua nhiều biến
động.

Cũng như nhà Lương, dưới con mắt của nhà Tùy, Giao Châu là miền đất “ki
mi” nên họ tìm mọi cách, mọi cơ hội để kiểm soát chặt chẽ hơn các châu, quận ở

90
Lĩnh Nam. Nhà Tùy đặt phủ tổng quản ở đất Quế Châu để dễ bề kiểm soát. Năm
597 Linh Hồ Huy được cử làm Tổng quản Quế Châu, có toàn quyền cắt cử quan
lại từ Thứ sử trở xuống. Tuy nhiên ở Lĩnh Nam một số Thứ sử, Thái thú đã nổi lên
chống lại nhà Tùy. Tùy thư cho biết: Vào năm Khai Phong thứ 10 (590), người Vụ
Châu là Uông Văn Tiến, người Cối Kê là Cai Trí Tuệ, người Tô Châu là Thẩm
Huyền Khoái đều cử binh làm phản, tự xưng Thiên tử, đặt trăm quan. Bọn Sái Đạo
Nhân ở Lạc An… Lý Xuân (Lý Phật Tử) ở Giao Chỉ đều tự xưng là Đại đô đốc
đánh phá các châu, huyện, xuống chiếu cho chức Thượng trụ quốc, Nội sử lệnh,
Việt Quốc công, Dương Tố đi đánh dẹp. Đó là theo ghi chép của Tùy thư, trong
thực tế Dương Tố chưa hề tiến xuống Giao Châu, và Lý Phật Tử xưng là “Nam
Đế”, nghĩa là làm chủ quốc gia độc lập – nước Vạn Xuân, nằm trong vòng “cơ
mi”, bề ngoài tỏ ý thần phục Tổng quản Quế Châu của nhà Tùy. Để xiết chặt thêm
sự ràng buộc, nhà Tùy tiến thêm một bước, bắt các thủ lĩnh địa phương ở Lĩnh
Nam phải vào “chầu thiên tử”, nghĩa là phải đầu hàng, chịu nội thuộc.

Năm 602 đến lượt “Lý Súy”, tức Lý Phật Tử ở Giao Châu phải vào chầu.
Lý Phật Tử chối lại lệnh. Tùy thư chép: “Linh Hồ Huy phụng chiếu sai cừ súy Giao
Châu là Lý Phật Tử vào triều. Phật Tử muốn làm loạn, xin đến tháng Trọng đông
(tháng 11) lên đường. Bản ý của Linh Hồ Huy cũng muốn ràng buộc nên y lời xin
của Phật Tử (trích dẫn theo Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 2, tr. 172). Một mặt
chống lại lệnh vào chầu, thực chất là đầu hàng, của vua Tùy, mặt khác Lý Phật Tử
chuẩn bị quân sĩ sẵn sàng chống quân xâm lược. Lý Phật Tử chia quân đóng giữ 3
tòa thành lớn để phòng ngự:

- Sai cháu là Lý Đại Quyền giữ thành Long Biên (Bắc Ninh).

- Sai biệt tướng là Lý Phổ Đỉnh chỉ huy quân quản giữ thành Ô Diên (Hạ
Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội).

- Lý Phật Tử lĩnh đại quân tổ chức phòng ngự ở thành cũ của Việt Vương,
tức thành Cổ Loa.

Ngoài ra Lý Phật Tử còn chia quân đóng giữ một số nơi hiểm yếu trên
đường giặc có thể tiến quân sang.

Tháng Giêng năm 603, vua Tùy phong Lưu Phương làm Giao Châu đạo
hành quân Tổng quản, Kinh Đức Lượng làm Trưởng sứ, thống suất 27 quân doanh

91
(khoảng 10 vạn quân) tiến hành xâm lược nước Vạn Xuân dưới danh nghĩa đánh
dẹp cuộc phản loạn của Lý Phật Tử.

Sách Toàn thư cho hay Lưu Phương là người Tràng An, làm Thứ sử Qua
Châu, có tài thao lược, quân lệnh của Phương rất nghiêm, ai xâm phạm thì chém,
nhưng tính nhân ái, binh sĩ người nào ốm đau đều vỗ về, nuôi nấng, vì thế binh sĩ
mến đức, sợ uy (Toàn thư, tập 1, tr. 160).

Quân Tùy theo đường Vân Nam tiến vào tới Đoan Châu (huyện Quảng
Thông – Vân Nam), Kinh Đức Lượng ngã bệnh không đi nữa. Đến núi Đô Long
(?) chúng gặp quân mai phục của Lý Phật Tử. Nhưng với thế mạnh, quân đông,
chúng vượt qua được ổ mai phục, tiến vào nước Vạn Xuân. Vào sâu nội địa chúng
tập trung lực lượng vây đánh hai thành Ô Diên và Long Biên. Lý Đại Quyền ở
Long Biên và Lý Phổ Đỉnh ở Ô Diên chống không nổi phải rút về Cổ Loa.

Tại Cổ Loa, Lý Phật Tử dựa vào thành lũy kiên cố, quân đông chiến đấu
kiên cường. Quân Tùy bao vây nhiều mặt. Vừa dùng sức mạnh binh lực uy hiếp
vừa lấy “họa phúc mà dụ”, thế cùng Lý Phật Tử buộc phải đầu hàng, bị bắt đem về
Trường An.

Cuộc kháng chiến của Lý Phật Tử không thành công, nước Vạn Xuân rơi
vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc, lúc này là nhà Tùy dưới thời Tùy
Văn Đế làm vua từ năm 581 đến năm 604. Sự việc diễn ra vào năm 603./.

92
TÌM HIỂU SỰ TÍCH LÝ NAM ĐẾ

QUA CÁC CÂU ĐỐI THỜ Ở ĐỀN GIANG XÁ

PGS.TS. Nguyễn Tá Nhí

(Viện Nghiên cứu Hán Nôm)

Đền Giang Xá thờ Lý Nam Đế nằm khu đất cao giữa thôn Giang Xá xã Lưu
Xá, tổng Kim Thìa, huyện Đan Phượng trấn Sơn Tây, nay thuộc Thị trấn Trôi,
huyện Hoài Đức, Thành phố Hà Nội. Tương truyền khu đất xây đền Giang Xá này
vốn là đất chùa Linh Bảo của làng, nơi Thiền Sư Pháp Tổ trụ trì ở chùa đã đón
nhận Lý Bí về nuôi dạy nên người. Tập thần phả Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền
hiện lưu giữ ở đình Giang Xá cho biết, thân phụ vua Lý Nam Đế là Lý Toản người
ở châu Dã Năng, xứ Kinh Bắc, nay thuộc huyện Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên. Năm
mới lên 5 tuổi, thân phụ và thân mẫu nhà vua đã qua đời, nên vua Lý Nam Đế và
người anh trai là Lý Thiên Bảo được người chú đem về nuôi dưỡng. Một hôm
Thiền sư Pháp Tổ ở chùa Linh Bảo đi hành hóa thập phương, tìm đến thăm nhà
người chú. Thấy cậu bé có khí tượng phi phàm, Thiền sư đoán biết sau này ắt sẽ
làm nên, liền nói với người chú rằng: "Đứa bé này tướng mạo khôi ngô, đôi mắt
sáng quắc, lanh lẹn khác thường, sau này ắt hẳn nên người, song le nếu để gia đình
nuôi dưỡng sẽ gặp tai vạ, xin cho được đưa về chùa giáo dưỡng". Người chú liền
vui vẻ cho Lý Bí đi theo Thiền sư Pháp Tổ về chùa Linh Bảo làng Giang Xá. Ở
chùa, Lý Bí được Thiền sư giáo dưỡng rất nghiêm, ông tinh thông võ nghệ lại giỏi
văn chương, tính rất hiếu hữu, nên kết giao với bạn bè rất đông. Bấy giờ trẻ trong
làng Giang Xá thường theo ông đến chùa tu học đạo Thiền. Chúng thường hò nhau
rằng "Bon bon, theo chú tiểu con, lên chùa học đạo." Bởi lẽ chữ Bí trong tiếng Hán
còn có âm đọc là Bôn. Chính chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Lịch sử Việt
Nam, cũng gọi ông là Bôn:
Anh hùng thay ông Lý Bôn
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người.
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài
Lập nên triều Lý, sáu mươi năm liền.
93
Về sau ông tụ tập được hơn ba ngàn nghĩa sĩ, kéo về Long Biên đánh đuổi
Thứ sứ Tiêu Tư, lập ra nước Vạn Xuân. Sau khi nhà vua mất, dân làng cảm nhớ ân
đức liền cho xây dựng điện thờ ở ngay ngôi chùa cũ, còn chùa làng được dời sang
vị trí mới ở ven làng và đổi tên là chùa Bảo Phúc.

Phía trước và phía sau đền thờ có hai chiếc giếng đất, nước trong xanh mát
mẻ, người làng Giang Xá bảo đó là hai con mắt của con rồng thần từng phù hộ che
chở cho dân làng hàng ngàn năm nay.

Khu điện thờ gồm ba lớp. Lớp ngoài cùng là nhà Tiền tế gồm 5 gian, có bốn
hàng cột dọc và sáu hàng cột ngang thực sự hoành tráng, rất thuận tiện cho việc
treo câu đối thờ. Sau nhà Tiền Tế là chiếc sân nhỏ đủ để thông thoáng cho các khu
thờ cúng. Tiếp đến là tòa Đại bái gồm 3 gian 2 chái, cũng cao lớn sừng sững, cột
kèo đan xen vững chãi. Lớp sau cùng là tòa Hậu cung nơi đặt khám thờ, trong
khám có tượng vua Lý Nam Đế ngồi trên ngai oai nghiêm như ngày nhà vua thiết
triều bàn định việc nước. Cũng ở Hậu cung còn nhang án, sập gụ, long ngai, bài vị
và nhiều đồ tế khí khác. Sát vách Hậu cung bên phải có tấm bia đá hai mặt khổ
135cm x 96cm, tên bia ghi là Giang Xá từ bi ký, dựng năm Quý Sửu niên hiệu Tự
Đức thứ 6 (1853) đời Nguyễn. Nội dung văn bia tóm tắt sự tích Lý Nam Đế và ghi
rõ nghi thức thờ phụng ngài của dân làng Giang Xá. Đặc biệt ở đền Giang Xá còn
lưu giữ được nhiều câu đối thờ, treo la liệt trên các cột gỗ ở nhà Tiền tế và tòa Đại
bái.

Năm 1988 trong chuyến đi công tác thực tế cùng Đoàn công tác của Viện
Nghiên cứu Hán Nôm đến khảo sát tư liệu Hán Nôm ở đền, chúng tôi thấy trong
đền có 9 câu đối cổ, viết bằng chữ Hán theo lối Hành thư. Dòng lạc khoản trên các
đôi câu đối cho biết số câu đối này được biên soạn trong các đời vua Tự Đức
(1848-1883), Thành Thái (1889-1906), Duy Tân (1907-1915) và Khải Định (1916-
1925) đời Nguyễn.

Năm 2012 này chúng tôi lại may mắn cùng Đoàn công tác của Viện Sử học
về thăm lại đền, nhìn thấy cảnh đền vẫn uy nghiêm cổ kính như xưa, riêng câu đối
thờ treo trên các cột gỗ ở đền đã nhiều đến con số 13, nghĩa là đã có 4 đôi câu mới
bổ sung thêm.

94
Nội dung các câu đối thờ trong đền đều ca ngợi công lao đức độ của người
anh hùng dân tộc mở ra nền chính thống cho người dân đất Việt, đồng thời cũng
cầu xin ngài ban phúc ấm cho dân làng Giang Xá. Kể về sự tích vua Lý Nam Đế,
chúng ta có thể tìm thấy trong các bản Ngọc phả để ở đình làng và ở chùa Bảo
Lâm, hoặc có thể tìm đọc ngay trong văn bia Giang Xá từ bi ký để ở đền. Đọc kỹ
văn bia và các bản Ngọc phả viết về Lý Nam Đế, chúng tôi thấy các sự kiện điển
tích trong đó đều đã được phản ánh trong các câu đối thờ này, thậm chí có sự tích
trên câu đối không thấy ghi trong Ngọc phả, như sự tích Trâu đen đẻ ra trâu trắng
mà chúng tôi nói đến ở trong bài viết này. Có thể nói, người soạn thảo câu đối đã
nắm rất chắc công tích, sự nghiệp của vua Lý Nam Đế, do vậy trong bài tham luận
Hội thảo Khoa học lần này, chúng tôi xin chọn giới thiệu 5 câu đối tiêu biểu, và
xem đó là một cách tiếp cận với sự tích Lý Nam Đế thờ ở đền Giang Xá.

Xin được giới thiệu lần lượt là:

Câu 1

Văn Vũ bẩm toàn tài, phá Lâm Ấp phạt Tiêu Tư, thiết mã kim qua trường
hách dịch;

Sơn hà khai nhất thống, bất sĩ Lương, xưng đế Việt, Nam châu Bắc quận
chấn uy thanh.

帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝

帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝帝

Nghĩa là:

Văn võ đủ cả toàn tài, phá Lâm Ấp đuổi Tiêu Tư, ngựa sắt gươm vàng vẫn
còn hiển hách;

Non sông mở nền chính thống, bỏ nhà Lương, xưng đế Việt, châu Nam,
quận Bắc lừng lẫy uy danh.

Câu đối đã tóm lược khá đầy đủ sự tích đánh giặc bảo vệ đất nước của
người anh hùng dân tộc Lý Bí gần đầy đủ như lời nhà Sử học Ngô Sĩ Liên ghi
trong sách Đại Việt sử ký toàn thư:

"Vua có tài văn võ, trước làm quan với nhà Lương, gặp thời loạn lạc trở về
thái bình. Bấy giờ bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc, quân Lâm Ấp cướp phá ngoài
95
biên. Vua dấy binh đánh đuổi được, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long
Biên".

Về sự kiện Bất sĩ Lương (không làm quan với nhà Lương), được sách Đại
Nam quốc sử diễn ca ghi nhận:

Vốn xưa nhập sĩ nhà Lương,

Binh qua gặp lúc phân nhương lại về.

Còn sự kiện, bọn thú lệnh tàn bạo hà khắc mà sách Đại Việt sử ký toàn thư
nói đến, đó là lý do khiến Lý Nam Đế không làm quan với nhà Lương, lại được
sách Thiên Nam ngữ lục chỉ ra tường tận chi tiết hơn.

Hiếp uy thảm khốc nước Nam,

Miệng khoe rằng phải, dạ làm trái ngang

Trời hờn đất ghét chẳng thương

Một mình bùi béo, bốn phương gầy mòn.

Câu 2

Cửu Đức như Giang Xá trụ Thiền

Vạn Xuân khải thái bình thăng đế.

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝

Nghĩa là:

Từ đất Cửu Đức đến tu đạo Thiền ở làng Giang Xá

Lập nước Vạn Xuân mở đời thái bình lên ngôi hoàng đế.

Nước Vạn Xuân là quốc hiệu do vua Lý Nam Đế đặt ra, đã được các nhà sử
học đời sau rất quan tâm, nên nhiều công trình sử học đều thấy nhắc đến. Đặc biệt
nhiều nhà thơ vịnh sử đã có sử dụng trong thi tập của mình, như Tiến sĩ Đặng
Minh Khiêm nói đến trong sách Thoát Hiên vịnh sử thi.

Trường khu Bắc lỗ loát Nam quân,

Bốc thế chung kỳ lịch Vạn Xuân.

96
Nhất đán hồ trung thiên thất hiểm,

Hoàn tương đại nghiệp phó năng thần.

Nghĩa là:

Phá tan giặc Bắc đuổi Nam quân,

Dựng nước những mong được Vạn Xuân.

Một thưở giữa hồ trời chẳng giúp

Đành đem đại nghiệp gửi hiền thần.

Về tên đất Cửu Đức, theo sách Khâm Định Việt sử thông giám cương mục
chỉ dẫn thì Cửu Đức là tên quận Cửu Đức do nhà Ngô đặt ra trên khu vực đất đai
của Việt Thường thị, cai quản 8 huyện. Trải các đời Tấn, Tống, Tề vẫn giữ tên
quận, sang đời nhà Lương mới đổi làm huyện Cửu Đức cho lệ thuộc vào quận
Nhật Nam. Do vậy có ý kiến cho rằng Lý Bí từng làm quan với nhà Lương, có thể
là ở huyện Cửu Đức này. Thế nhưng thần tích lại cho thấy Lý Bí từ đất Dã Năng về
tu ở chùa Giang Xá theo Thiền sư Pháp Tổ, nên cũng có ý kiến cho rằng đất Cửu
Đức chính là Dã Năng. Chúng tôi cũng ngả về cách hiểu thư hai này.

Câu 3

Bạch ngưu vãng sự khai thiên vận

Đan Phượng sùng từ hiển địa linh.

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝

Nghĩa là:

Việc xưa trâu trắng mở ra thiên vận

Đền lớn Đan Phượng tỏ rõ đất thiêng.

Sự tích trâu trắng nói đến trong câu đối này, không tìm thấy trong các bộ sử
lớn như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Thiên
Nam ngữ lục, Việt sử diễn âm, cũng không tìm thấy trong các bản thần tích lưu giữ
ở đình làng, chỉ riêng sách Đại Nam sử ký quốc ngữ lưu giữ ở Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, ký hiệu Ab.6 có chép:

97
Vận trời ví đã mở mang

Cũng nên chế độ hưng vương một đời.

Thịnh suy nào biết cơ trời,

Trâu ai có chữ vẽ vời trên vai.

Chữ rằng “nhật phụ mộc lai”,

Sấm văn rành rỡ đôi bài chưa phân.

Ai ngờ Lương lại phát quân

Sai quan Tư mã là Trần Bá Tiên.

Ở phần chú giải bằng Hán văn, sách viết: "Thị thời hắc ngưu bạch độc hữu
văn: nhật phụ mộc lai, tức Trần tự dã, ứng Trần Bá Tiên lai xâm" (Nghĩa là: Thời
bấy giờ có con trâu đen sinh ra con nghé trắng trên mình nghé con có hoa văn hiện
thành hình chữ nhật phụ mộc lai, tức là chữ Trần, ứng vào sự việc Trần Bá Tiên
kéo quân sang xâm lược).

Sự kiện này cũng thấy chép trong sách Đại Nam quốc sử diễn ca của Phạm
Đình Toái:

Vạn Xuân mới đặt quốc danh,

Cải nguyên Thiên Đức, đô thành Long Biên.

Lịch đồ vừa mới kỷ niên,

Hưng vương khí tượng cũng nên một đời.

Quân Lương đâu đã đến ngoài,

Bá Tiên là tướng đeo bài chuyên chinh.

Cùng nhau mấy trận giao binh,

Thất cơ Tô Lịch, Gia Ninh đôi đường.

Thu quân vào ở Tân Xương,

Để cho Quang Phục chống Lương mặt ngoài.

Mới hay nhật phụ mộc lai,

Sấm văn trước đã an bài những khi.


98
Câu 4
Nhất đẳng anh hùng, Bắc nhi Lương, Nam nhi Việt;
Lũy triều bao tặng, sinh vi đế, một vi thần.
帝 帝 帝 帝 北 帝 帝 帝 帝 帝
帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝
Nghĩa là:
Anh hùng bậc nhất đất Bắc là nhà Lương, cõi Nam là nước Việt;
Nhiều đời phong tặng lúc sống làm hoàng đế, khi mất là linh thần.
Hiện ở đình làng Giang Xá còn giữ được 22 đạo sắc phong của các vị
Hoàng đế đời Lê Trung Hưng và đời Nguyễn. Đạo sắc có niên đại sớm nhất ghi
vào năm Cảnh Trị thứ 8 (1670) đời vua Huyền Tông nhà Lê; đạo muộn nhất ghi
năm Khải Định thứ 9 (1924) đời vua Hoằng Tông nhà Nguyễn. Đặc biệt trong số
các đạo sắc phong đó có niên đại ghi năm Quang Trung thứ 3 (1792) và năm Cảnh
Thịnh thứ 1 (1793) đời Tây Sơn. Kiểm tra kĩ về niên đại của 22 đạo sắc phong này,
chúng tôi mới hiểu câu "Lũy triều bao tặng" của tác giả soạn thảo câu đối là hoàn
toàn chuẩn xác. Xin xem cụ thể như sau:
- Đời Lê có các Hoàng đế:
Huyền Tông với niên hiệu Cảnh Thịnh 8 (1670).
Gia Tông với niên hiệu Dương Đức 3 (1674).
Hy Tông với niên hiệu Chính Hòa 5 (1684).
Dụ Tông với niên hiệu Vĩnh Thịnh 6 (1710).
Duy Phường với niên hiệu Vĩnh Khánh 2 (1730).
Hiển Tông với niên hiệu Cảnh Hưng 1 (1740).
Cảnh Hưng 28 (1767, gồm 2 đạo), Cảnh Hưng 44 (1783, gồm 2 đạo), Mẫn
Đế với niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787).
- Đời Tây Sơn có:
Quang Trung 3 (1792).
Cảnh Thịnh 1 (1793).

99
- Đời Nguyễn có:

Gia Long 9 (1810).

Minh Mệnh 2 (1821).

Thiệu Trị 2 (1842, gồm 2 đạo).

Tự Đức 3 (1850), Tự Đức 33 (1880).

Đồng Khánh 2 (1887).

Duy Tân 3 (1909).

Khải Định 9 (1924).

Mỗi lần mở hòm sắc tuyên đọc sắc văn, nhìn vào hàng chữ còn như mới
nguyên, ai nấy đều tưởng tượng ra công đức cao vời của Đức vua Lý Nam Đế.

Câu 5

Lý gia nhất thống dư đồ thủy

Giang chử thiên thu miếu mạo tân.

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝

帝 帝 帝 帝 帝 帝 帝

Nghĩa là:

Nhà Lý bắt đầu mở ra dư đồ nhất thống,

Miếu thờ bên bến sông ngàn thu vẫn mới.

Miếu thờ bên bến sông là chỉ vào ngôi đền Giang Xá này. Nếu tính từ ngày
vua Lý Nam Đế mất cũng đã hơn một ngàn năm rồi. Đó là truyền thuyết dân gian,
còn nếu dựa vào chứng cứ lịch sử như sắc phong thần do triều Lê ban tặng lưu giữ
ở đình, thì ngôi đền Giang Xá cũng đã có lịch sử hơn 300 năm rồi. Do vậy vế đối
ghi "Giang chử thiên thu miếu mạo tân" là rất đáng tin cậy.

Từ Giang chử ở vế đối này là chỉ vào bến sông của làng Giang Xá. Đó là
lưu vực dòng sông Nhuệ thời xưa. Các chứng tích lịch sử hiện còn cho thấy dòng
sông Nhuệ chảy qua hai tỉnh Hà Nam, Hà Nội bây giờ vốn phát nguyên từ cửa Hạ
Mỗ thông với sông Hồng, rồi chảy qua các làng xã Tân Hội, Tân Lập, Giang Xá,

100
Tây Đam, Phú Diễn rồi xuôi xuống Tây Mỗ, Cầu Đơ... Đến cuối thế kỷ XIX,
người Pháp cho khơi cửa sông Chèm, và lấp cửa Hạ Mỗ. Do vậy các khúc sông
Nhuệ còn lại ở Giang Xá, Tây Đam hiện nay gợi lại một vùng sông nước thuyền bè
xuôi ngược ở khu vực Giang Xá.

Năm đôi câu đối tiêu biểu nêu ra ở trên gần như đã khái quát đầy đủ công
lao hiển hách của vua Lý Nam Đế thưở nào. Khách đến thăm đền, chẳng cần tốn
sức lần tìm Ngọc phả, Thần tích, cũng chẳng cần tốn công đọc bia tìm chữ, mà chỉ
cần quan chiêm tham khảo các câu đối thờ ở đền Giang Xá, thì đã nắm bắt đầy đủ
sự tích của vua Lý Nam Đế rồi. Có điều là các câu đối này đều viết bằng chữ Hán,
nên chăng Ban quản lí đền Giang Xá cho dịch ra chữ Quốc ngữ và lập sơ đồ chỉ
báo, như thế sẽ tiện lợi cho khách viếng thăm nhà đền tìm hiểu sự tích được nhiều
hơn.

Tài liệu tham khảo

1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, 1993.

2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, 1998.

3. Tuyển tập thơ Hồ Chí Minh, Nxb. Văn học, 2008.

4. Di tích Hà Tây, Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây, 1998.

5. Việt sử diễn âm, Ab. 8

6. Thiên Nam ngữ lục, Ab. 478.

7. Đại Nam sử ký quốc ngữ, Ab.6

8. Đại Nam quốc sử diễn ca, Ab.1.

9. Nam thiên quốc ngữ thực lục, Ab.337.

101
THƯ TỊCH CỔ TRUNG QUỐC VIẾT VỀ LÝ BÍ

VÀ CUỘC KHỞI NGHĨA DO LÝ BÍ LÃNH ĐẠO

TS. Nguyễn Hữu Tâm

(Viện Sử học)

I. Những tư liệu chép về Lý Bí và khởi nghĩa Lý Bí năm 542 trong các


thư tịch cổ Trung Quốc

I.1. Sách Lương thư, Lương kỷ 14, quyển 158, Cao Tổ Vũ hoàng đế 14,
niên hiệu Đại Đồng thứ 7 (Tân Dậu, năm 541).

Tháng 12, Lý Bôn ở Giao Chỉ đời đời là Hào hữu (Hào trưởng) làm quan
bất đắc chí. Có Tinh Thiều, là người giỏi về từ chương, đến (kinh đô) xin tuyển
làm quan, Thượng thư Lại bộ là Sái (Thái) Tốn cho rằng họ Tinh trước không có ai
làm quan, cho giữ chức Quảng Dương môn lang. Thiều lấy làm nhục. Bôn cùng
với Thiều trở về làng xóm, mưu nổi loạn. Gặp khi Vũ lâm hầu Tiêu Tư tàn bạo, hà
khắc, mất lòng dân chúng. Lúc này, Lý Bôn đang là Giám quân ở Đức châu (châu
Cửu Đức), liền liên kết với hào kiệt ở các châu cùng nhau làm phản. Tiêu Tư đưa
hối lộ cho (Lý) Bôn, chạy trốn về Quảng Châu. Nhà vua bèn sai Tiêu Tư cùng Thứ
sử Cao Châu là Tôn Quýnh, Thứ sử Tân châu là Lư Tử Hùng đem quân sang đánh.
Tư là con của (Tiêu) Khôi.

Sách Lương thư, Lương kỷ 15, Cao Tổ Vũ hoàng đế 15, niên hiệu Đại
Đồng thứ 11 (Ất Sửu, năm 545).

Mùa hè tháng 5, Lương Vũ đế sai Thứ sử Giao Châu là Dương Phiêu đi


đánh dẹp Lý Bôn, cho Trần Bá Tiên giữ chức Tư mã, lệnh cho Thứ sử Định Châu
là Tiêu Bột dẫn quân hội họp tại Tây Giang. Bột biết quân lính sợ đi xa đánh trận,
liền dụ dỗ (quân lính), khéo léo nói với Dương Phiêu dừng quân không tiến nữa.
Phiêu tập hợp các tướng lĩnh đến hỏi kế sách. Trần Bá Tiên nói: ''Giao Chỉ nổi
loạn, tội đáng trách ở các ông tôn thất, vì thế khiến cho một số châu hỗn loạn, tùy
ý bắt bớ, giết chóc người nhiều năm. Thứ sử Định Châu muốn cầu an trước mắt,
không nghĩ được kế lớn. Tiết hạ (chi Dương Phiêu) là người phụng mệnh đi dẹp
102
yên kẻ có tội, phải nên bất chấp sống chết, sao có thể dừng lại không tiến được.
Như thế sẽ khiến cho kẻ địch phấn khích mà làm tiêu diệt uy phong của quân ta''.
Nói xong, Trần Bá Tiên dẫn đoàn quân của mình xuất phát đầu tiên. Dương Phiêu
cho Trần Bá Tiên làm tiên phong. Đến Giao Châu, Lý Bôn dẫn ba vạn quân kháng
cự, bị đánh thua ở Chu Diên, sau lại bị đại bại ở cửa sông Tô Lịch. Lý Bôn phải
trốn đến thành Gia Ninh, các quân lính bao vây thành. Tiêu Bột là con của Tiêu
Bính
 Sách Lương thư, Lương kỷ 15, Cao Tổ Vũ hoàng đế 15, niên hiệu Trung
Đại Đồng thứ 1 (Bính Dần, năm 546).
Mùa thu, tháng 7, Nhâm Dần, Lý Bôn lại đưa 2 vạn tướng sĩ từ trong động
Khuất Liêu (Lão) ra đồn trú tại hồ Điển Triệt, đóng hàng loạt các chiến thuyền,
chật kín trong hồ. Quân sĩ (của Bá Tiên) sợ hãi, dồn ứ ở cửa hồ, không dám tiến.
Trần Bá Tiên nói với các tướng lĩnh: ''Quân ta sang đây đã lâu ngày, tướng sĩ đều
mỏi mệt, hơn nữa lại là quân cô không có cứu viện, lại đã vào sâu trong đất tâm
phúc của người ta, nếu đánh một trận không thắng, khó lòng bảo toàn mạng sống.
Nay ta nhân giặc (chỉ quân Lý Bôn) đã mấy lần tháo chạy, lòng người chưa được
ổn định, (chúng) lại là đội quân Di, Lão ô hợp, rất dễ tiêu diệt. Chính giữa lúc này
cùng nhau quyết chiến một phen để giành chiến thắng. Vô cớ dừng lại, thời cơ sẽ
đi qua mất''. Các tướng đều im lặng không ai hưởng ứng. Đêm hôm đó, nước sông
dâng lên đến 7 trượng, tràn vào hồ. Bá Tiên thúc giục quân lính thừa cơ tiến vào,
quân lính đánh trống reo hò cùng tiến. Quân của (Lý) Bôn đại bại, lẩn vào trong
động Khuất Lão.
Sách Lương thư quyển 3, Bản kỷ đệ tam, Vũ đế hạ
Niên hiệu Đại Đồng năm thứ 7 (541), mùa xuân, tháng Giêng.
Năm đó, Thổ nhân Giao Châu là Lý Bôn tiến đánh Thứ sử Tiêu Tư, Tiêu Tư
phải hối lộ (cho Lý Bôn) mới về được Việt châu.
Niên hiệu Đại Đồng năm thứ 8 (542). mùa xuân, tháng 3, sai Thứ sử Việt
châu là Trần Hầu, Thứ sử La Châu là Ninh Cự, Thứ sử An Châu là Lý Trí, Thứ sử
Ái Châu là Nguyễn Hán, cùng nhau đi chinh phạt Lý Bôn ở Giao Châu.
Niên hiệu Đại Đồng năm thứ 9 (543). Mùa hạ, tháng 4, vua Lâm Ấp đánh
phá Đức Châu, tiến đánh Lý Bôn. Tướng của Bôn là Phạm Tu lại đánh tan vua
Lâm Ấp tại Cửu Đức, vua Lâm Ấp thua chạy.

103
Niên hiệu Thái Thanh năm thứ 2 (548), Tháng 3, ngày Kỷ Mùi, động Khuất
Lão chém được Lý Bôn, chuyển thủ cấp về Kinh sư.

I.2. Bộ Sách phủ nguyên quy, quyển 185

Trước đây, Vũ lâm hầu Tiêu Tư làm Thứ sử Giao Châu vì tham tàn mất lòng
dân chúng. Thổ nhân là Lý Bôn liên kết hào kiết mấy châu đồng thời làm phản.
Vua sai Thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, Thứ sử Tân châu là Lư Tử Hùng đem
quân sang đánh. Bọn Quýnh không tiến quân ngay, đều bị trị tội ở Quảng Châu.
Con em của Tử Hùng và con cháu của Quýnh cùng với chủ tướng của họ là Đỗ
Thiên Hợp, Đỗ Tăng Minh cùng nhau khởi binh, bắt Đô hộ Nam Giang là Thẩm
Đầu Tiến, làm loạn Quảng Châu, đêm ngày tiến đánh, khiến dân trong châu rúng
động sợ hãi, Vua đem 3000 tinh binh nhanh chóng cứu giúp, liên tiếp thắng trận,
Thiên Hợp bị trúng tên lạc chết, quan giặc đại bại. Tăng Minh đầu hàng. Lương Vũ
đế ngầm khen đặc biệt, trao cho chức Trực hợp tướng quân phong cho thực ấp Tân
An gồm 300 hộ và lại được khắc hình dâng lên nhà vua ...

Mùa đông năm đó, Tiêu Ánh chết, nhà vua làm lễ tang đưa về kinh đô, đến
núi Đại Dũ, có Chiếu cho nhà vua (Trần Bá Tiên) làm Tư mã Giao Châu kiêm lĩnh
Thái thú Vũ Bình cùng Thái thú Dương Phiêu đi đánh dẹp phương nam. Nhà vua
chiêu mộ nhiều người dũng cảm và khí giới tinh nhuệ. Dương Phiêu mừng nói: Có
thể thắng được giặc chính là Trần tư vũ, giao cho làm Kinh lược. Nhà vua đưa
quân lính xuất phát từ Phiên Ngung (Quảng Đông). Khi đó Tiêu Bột là Thứ sử
Định Châu đem quân hội tụ tại Tây Giang, Bột biết quân sĩ sợ đi chiến đấu, ngấm
ngầm dụ dỗ, khéo léo nói với Dương Phiêu (dừng chân không tiến nữa). Dương
Phiêu tập trung các tướng lĩnh hỏi mưu kế. Nhà vua (Trần Bá Tiên) nói: ''Giao Chỉ
nổi loạn, tội đáng trách ở các ông tôn thất, vì thế khiến cho một số châu hỗn loạn,
tùy ý bắt bớ, giết chóc người nhiều năm. Thứ sử Định Châu muốn cầu an trước
mắt, không nghĩ được kế lớn. Tiết hạ (chỉ Dương Phiêu) là người phụng mệnh đi
dẹp yên kẻ có tội, phải nên bất chấp sống chết. Tại sao có thể sợ hãi mấy ông tôn
thất mà coi thường phép nước được. Nay muốn đoạt người làm nhụt chúng, hà tất
phải đem quân sang Giao Châu thảo phạt hỏi tội làm gì. Đưa quân về ngay cũng có
cớ rồi vậy ''. Nói xong, Trần Bá Tiên thúc giục quân lính của mình đánh trống hò
reo xuất hành.

104
Tháng 6 năm thứ 11 (545) quan quân đến Giao Châu. Quân của Lý Bôn vài
vạn người lập thành trại đóng ở cửa sông Tô Lịch để chống lại. Dương Phiêu cho
Trần Bá Tiên làm tiên phong vây hãm. Lý Bôn vào địa giới Khuất Lão lập trại, cho
đóng nhiều thuyền chiến, chật kín trong hồ. Quân sĩ (của Bá Tiên) sợ hãi, dồn ứ ở
cửa hồ, không dám tiến. Trần Bá Tiên nói với các tướng lĩnh: ''Quân ta sang đây đã
lâu ngày, tướng sĩ đều mỏi mệt, giằng dai nhiều năm, e không phải kế sách hay.
Hơn nữa lại là quân cô không có cứu viện, lại đã vào sâu trong đất tâm phúc của
người ta, nếu đánh một trận không thắng, khó lòng bảo toàn mạng sống. Nay ta
nhân giặc (chỉ quân Lý Bôn) đã mấy lần tháo chạy, lòng người chưa được ổn định,
(chúng) lại là đội quân Di, Lão ô hợp, rất dễ tiêu diệt. Chính giữa lúc này cùng
nhau quyết chiến một phen giành chiến thắng. Vô cớ dừng lại, thời cơ sẽ đi qua
mất''. Các tướng đều im lặng không ai hưởng ứng. Đêm hôm đó, nước sông dâng
lên đến 7 trượng, tràn vào hồ, nước chảy xiết mạnh. Bá Tiên thúc giục quân lính
thừa cơ tiến vào, quân lính đánh trống reo hò cùng tiến. Quân của (Lý) Bôn đại
bại, lẩn vào trong động Khuất Lão. Chém được Lý Bôn trong hồ, truyền đưa thủ
cấp về Kinh sư. Năm đó là năm Thái Thanh thứ nhất (547).

Anh trai của Lý Bôn là Thiên Bảo trốn vào đất Cửu Chân, cùng với Lý
Thiệu Long thu thập hơn hai vạn quân lính giết Thứ sử Đức Châu là Trần Văn
Nhung, tiến quân bao vây Ái Châu. Nhà vua lại đem quân đánh dẹp, được phong
làm Trấn viễn tướng quân, Đốc hộ Tây Giang, Thái thú Cao Yếu, phụ trách mọi
việc quân của 7 quận.

I.3. Sách Trần thư, Diêu Tư Liêm người đời Đường soạn

Bản kỷ đệ nhất, Cao Tổ thượng

Đầu đời Đại Đồng, Tân Du hầu Tiêu Ánh làm Thái thú Ngô Hưng, rất quý
trọng Cao Tổ (chỉ Trần Bá Tiên), thường nhìn Cao Tổ nói với liêu thuộc: người
này đường đường làm tướng triển vọng to lớn''. Đến khi Tiêu Ánh giữ chức Thứ sử
Quảng Châu, Cao Tổ là Trung trực binh Tham quân, trấn giữ theo phủ. Tiêu Ánh
sai Cao Tổ chiêu tập sĩ nhân lên đến nghìn người, vẫn giao cho Cao Tổ là Giám
quân của quận Tống Long... Trước đây, Vũ lâm hầu Tiêu Tư làm Thứ sử Giao
Châu vì tham tàn mất lòng dân chúng. Thổ nhân là Lý Bôn liên kết hào kiệt mấy
châu đồng thời làm phản. Vua sai Thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, Thứ sử Tân

105
châu là Lư Tử Hùng đem quân sang đánh. Bọn Quýnh không tiến quân ngay, đều
bị trị tội ở Quảng Châu.

Mùa đông năm đó, Tiêu Ánh chết. Năm sau, nhà vua làm lễ tang đưa về
kinh đô, đến núi Đại Dũ, có Chiếu cho nhà vua (Trần Bá Tiên) làm Tư mã Giao
Châu kiêm lĩnh Thái thú Vũ Bình cùng Thái thú Dương Phiêu đi đánh dẹp phương
nam. Nhà vua chiêu mộ nhiều người dũng cảm và khí giới tinh nhuệ. Dương Phiêu
mừng nói: Có thể thắng được giặc chính là Trần tư vũ, giao cho làm Kinh lược.
Nhà vua đưa quân lính xuất phát từ Phiên Ngung (Quảng Đông). Khi đó Tiêu Bột
là Thứ sử Định Châu đem quân hội tụ tại Tây Giang, Bột biết quân sĩ sợ đi chiến
đấu, ngấm ngầm dụ dỗ (binh lính), khéo léo nói với Dương Phiêu (dừng chân
không tiến nữa). Dương Phiêu tập trung các tướng lĩnh hỏi mưu kế. Nhà vua (Trần
Bá Tiên) nói: Giao Chỉ nổi loạn, tội đáng trách ở tôn thất, vì thế khiến cho một số
châu hỗn loạn, tùy ý bắt bớ, giết chóc người nhiều năm. Thứ sử Định Châu muốn
cầu an trước mắt, không nghĩ được kế lớn. Ông là người phụng mệnh đi dẹp yên
kẻ có tội, phải nên bất chấp sống chết, sao có thể dừng lại không tiến được. Như
thế sẽ khiến cho kẻ địch phấn khích mà làm tiêu diệt uy phong của quân ta. Nói
xong, Trần Bá Tiên thúc giục quân lính của mình đánh trống hò reo xuất hành.

Tháng 6 năm thứ 11 (545) quan quân đến Giao Châu. Quân của Lý Bôn vài
vạn người lập thành trại đóng ở cửa sông Tô Lịch để chống lại. Dương Phiêu cho
Trần Bá Tiên làm tiên phong vây hãm. Lý Bôn vào địa giới Khuất Lão lập trại, cho
đóng nhiều thuyền chiến, chật kín trong hồ. Quân sĩ (của Bá Tiên) sợ hãi, dồn ứ ở
cửa hồ, không dám tiến. Trần Bá Tiên nói với các tướng lĩnh: ''Quân ta đã già,
tướng sĩ đều mỏi mệt, giằng dai nhiều năm, e không phải kế sách hay. Hơn nữa lại
là quân cô, không có cứu viện, lại vào sâu trong đất tâm phúc của người ta, nếu
đánh một trận không thắng, khó lòng bảo toàn mạng sống. Nay ta nhân giặc (chỉ
quân Lý Bôn) đã mấy lần tháo chạy, lòng người chưa được ổn định, (chúng) lại là
đội quân Di, Lão ô hợp, rất dễ tiêu diệt. Chính giữa lúc này cùng nhau quyết chiến
một phen giành chiến thắng. Vô cớ dừng lại, thời cơ sẽ đi qua mất''. Các tướng đều
im lặng không ai hưởng ứng. Đêm hôm đó, nước sông dâng lên đến 7 trượng, tràn
vào hồ, nước chảy xiết mạnh. Bá Tiên thúc giục quân lính thừa cơ tiến vào, quân
lính đánh trống reo hò cùng tiến. Quân của (Lý) Bôn đại bại, lẩn vào trong động

106
Khuất Lão. Chém được Lý Bôn trong hồ, truyền đưa thủ cấp về Kinh sư. Năm đó
là năm Thái Thanh thứ nhất (547).

Anh trai của Lý Bôn là Thiên Bảo trốn vào đất Cửu Chân cùng với Lý
Thiệu Long thu thập hơn hai vạn quân lính giết Thứ sử Đức Châu là Trần Văn
Nhung, tiến quân bao vây Ái Châu. Nhà vua lại đem quân đánh dẹp, được phong
làm Trấn viễn tướng quân, Đốc hộ Tây Giang, Thái thú Cao Yếu, phụ trách mọi
việc quân của 7 quận.

Sách Trần thư, Diêu Tư Liêm người đời Đường soạn

Liệt truyện đệ nhị, phần viết về Đỗ Tăng Minh như sau: Đỗ Tăng Minh, tên
tự là Hoằng Chiếu, người Quảng Lăng, Lâm Trạch...Khi Thổ hào Giao Châu là Lý
Bôn làm phản, đuổi đánh Thứ sử Tiêu Tư, Tư chạy về Quảng Châu. Nhà vua lệnh
cho Tử Hùng và Thứ sử Cao Châu Tôn Quýnh đi dẹp Bôn. Khi đó vào mùa xuân,
cỏ cây đã sinh sôi, chướng khí đang thịnh, Tử Hùng xin đợi mùa thu sẽ đi dẹp Bôn,
Thứ sử Quảng Châu là Tiêu Du hầu Tiêu Ánh không cho, Tiêu Tư lại thúc giục
thêm, bọn Tử Hùng bất đắc dĩ phải tiến quân. Đến Hợp Phố, số chết chiếm đến 6, 7
phần 10, quân lính lại sợ ra trận nên tan vỡ tán loạn, ra lệnh cấm cũng không được,
bọn Tử Hùng đành phải dẫn số quân còn lại lui về. Tiêu Tư dâng bản khải lên vua
cho rằng Tử Hùng cùng Tôn Quýnh thông đồng với giặc, dừng lại không tiến,
Lương Vũ đế ban sắc (bọn Tử Hùng) phải chết ở Quảng Châu.

II. Vài nhận xét từ những ghi chép của thư tịch Trung Quốc

- Từ những thông tin từ sử sách Trung Quốc ghi chép, có thể đưa ra mấy
nhận xét sau:

1. Lý Bôn (Bí) là người bản địa của Giao Châu, biểu hiện cụ thể qua các
cụm từ mà thư tịch cổ Trung Quốc sử dụng như: Giao Châu thổ nhân (người bản
địa Giao Châu), Giao Chỉ nhân (người Giao Chỉ)

2. Lý Bôn (Bí) thuộc tầng lớp cự tộc địa phương, chiếm cứ một vùng đất
Giao Châu, được ghi chép là: Hào trưởng, Hào hữu.

3. Lý Bôn (Bí) đã tiến hành cuộc khởi nghĩa chống lại ách thống trị của
vương triều phương Bắc đặt tại Giao Châu vào tháng Giêng năm Đại Đồng thứ 7
(tháng 2 năm 542), đánh đuổi Thứ sử Tiêu Tư phải chạy về Quảng Châu. Trong

107
quá trình diễn ra cuộc khởi nghĩa, Lý Bôn đã liên kết được với các Hào trưởng địa
phương của Giao Châu để tập hợp lực lượng tiến đánh giặc ngoại xâm. Số lượng
quân khởi nghĩa đông đảo lên đến hàng chục vạn người, chỉ tính riêng tại ngôi
thành ở cửa sông Tô Lịch (hiện thuộc Hà Nội), đã có vài vạn nghĩa binh tham gia
lập thành trại để chiến đấu...

4. Quân khởi nghĩa đã giành được nhiều thắng lợi. Khí thế hùng mạnh của
quân khởi nghĩa trong trận đầu ra quân đầu năm 542, khiến cho Thứ sử Tiêu Tư
hoảng loạn, khiếp nhược phải dùng hình thức hối lộ, để thoát thân bỏ chạy về
nước.

Sau đó, mùa hè tháng 4 năm 542, vương triều Lương phái quân đội chính
quy hòng nhanh chóng dập tắt cuộc khởi nghĩa, nhưng các viên tướng được triều
đình cử đi đã sợ hãi, lấy cớ do khí hậu lam chướng, không chịu tiến binh. Sau đó,
các viên tướng chỉ huy đều bị xử trảm tại Quảng Đông.

Sau lần đầu chinh phục bị thất bại, triều Lương tức tốc tiến hành một cuộc
tấn công lần thứ hai ngay trong năm 542. Vào tháng Chạp năm 542 (tức vào tháng
2 năm 543), Thái thú Dương Phiêu cùng với Trần Bá Tiên làm Tư mã Giao Châu
kiêm lĩnh Thái thú Vũ Bình và Thứ sử Định Châu Tiêu Bột dẫn quân sang đánh Lý
Bôn. Thứ sử Tiêu Bột biết được lòng quân không muốn chinh chiến, bản thân Tiêu
Bột cũng là một viên tướng sợ chiến tranh, vì vậy đã tìm cách trì hoãn cuộc tấn
công. Sau này do thúc giục của triều đình và những tên tướng hiếu chiến, đội quân
này bất đắc dĩ mới dám xông ra trận. Mặc dù tướng chỉ huy đã hết sức ngăn cấm,
nhưng cũng không thể nào cản được quân lính triều đình hoang mang, bỏ chạy.
Các tướng sau khi thua trận đổ trách nhiệm cho nhau, Thái thú Tiêu Tư cho rằng:
hai tướng chỉ huy '' thông đồng với giặc, giùng giằng không tiến''. Các sử gia của
Trung Quốc ra sức biện hộ cho thất bại đau đớn này, giải thích bằng các nguyên
nhân: thời tiết và khí hậu lam chướng ở phương nam đã ảnh hưởng lớn đến quá
trình tiến quân nhưng cũng vẫn phải ghi lại một phần sự thực trong các bộ Quốc
sử. Trần thư chép: ''Đến Hợp Phố, số chết chiếm đến 6, 7 phần 10, quân lính lại sợ
ra trận, nên tan vỡ tán loạn, ra lệnh cấm cũng không được, bọn Tử Hùng đành phải
dẫn số quân còn lại lui về''1.

. Diêu Tư Liêm: Trần thư, Liệt truyện đệ nhị, Đỗ Tăng Minh truyện.
1

108
5. Quan quân Trung Quốc khi phải tham gia chiến đấu, nhất là được biết
phải hành quân sang Giao Châu thường vô cùng sợ hãi, luôn tìm cách lẩn trốn.
Thư tịch Trung Quốc hay chép những cụm từ như: quân lính sợ ra trận, hoặc quân
lính sợ đi xa đánh trận, quân lính thì như vậy, còn đối với các viên tướng chỉ huy
cũng có thái độ lừng chừng, dây dưa kéo dài thời gian dừng chân, thậm chí còn tỏ
thái độ không hưởng ứng trước lời kêu gọi ra trận của Chủ tướng.

6. Thư tịch cổ Trung Quốc cho rằng: Lý Bôn (Bí) đã trực tiếp lãnh đạo và
anh dũng tử tiết trong trận chiến tại động Khuất Lão vào năm 548.

Tóm lại: Cuộc khởi nghĩa do Lý Bôn (Bí) lãnh đạo đầu năm 542 đã thành
công, năm 544 lập nên nhà nước Vạn Xuân, lấy niên hiệu Thiên Đức, dựng điện
Vạn Xuân, thiết lập bộ máy quan lại với các chức Thái phó, các tướng văn và võ.
Lý Bôn trở thành vị Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Việt Nam với tên gọi là Nam
Việt đế. Cuộc khởi nghĩa sau này tuy không duy trì được thành quả đạt được,
nhưng nó mãi mãi là một mốc son sáng chói trong tiến trình lịch sử dựng nước và
giữ nước hào hùng của Việt Nam. Sự xuất hiện của Lý Bôn với nhà nước Vạn
Xuân trên đất nước ta hồi thế kỷ thứ VI, đã khẳng định sự trưởng thành lớn mạnh
của dân tộc. Từ đó, đặt nền móng vững chắc để từng bước tiến tới hoàn thành công
cuộc giải phóng dân tộc, mở ra một Kỷ nguyên độc lập tự chủ với chiến thắng
Bạch Đằng vang dội của Ông tổ trung hưng Ngô Quyền vào giữa thế kỷ thứ X.

Nhâm Thìn, Quí Hạ (2012)

Viết tại Hà Thành, Quan Nhân thư trai

109
THỬ XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ ĐIỆN VẠN XUÂN

CỦA VƯƠNG TRIỀU TIỀN LÝ

Phạm Văn Kính


(Viện Sử học)

Trong Kỷ nhà Tiền Lý, mục Tiền Lý Nam Đế sách Đại Việt sử ký toàn thư
viết: “Bấy giờ các thú lệnh (nhà Lương – TG) tàn bạo hà khắc, người Lâm Ấp
cướp biên giới, vua Lý Nam Đế - TG) dấy binh đánh đuổi, xưng làm Nam Đế, đặt
quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên” (TG nhấn mạnh)1, vẫn sách trên, ở
một đoạn khác viết cụ thể hơn: “Giáp Tý, Thiên Đức năm thứ 1 (544) (Lương Đại
Đồng năm thứ 10). Mùa xuân, tháng Giêng, vua nhân đánh thắng được giặc, tự
xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đổi niên hiệu, đặt ra trăm quan, dựng quốc hiệu là
Vạn Xuân là ý mong muốn xã tắc truyền đến muôn đời vậy. Dựng điện Vạn Thọ để
làm nơi triều hội”2. Sách Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ cũng chép “vua
xây điện Vạn Thọ để làm nơi triều hội”3. Sách Việt sử thông giám cương mục của
Quốc sử quán triều Nguyễn lại chép: “Năm Giáp Tý (544)… Mùa Xuân tháng
Giêng Lý Bôn tự xưng là Nam Việt Đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, tên nước là
Vạn Xuân… có ý mong xã tắc lâu dài đến muôn đời, dựng điện Vạn Xuân để làm
chỗ triều hội”4. Trong Lời chua sách này viết: “Vạn Xuân: Theo sách Thái Bình
hoàn vũ ký của Nhạc Sử triều Tống, huyện Long Biên có đài Vạn Xuân. Đài này
của Lý Bôn ở Giao Chỉ làm năm Đại Đồng triều Lương. Nay ở xã Vạn Phúc,
huyện Thanh Trì có hồ Vạn Xuân, còn gọi là Đầm Vạn Phúc. Vậy điện Vạn Xuân
có lẽ ở đây”4. Sách Sử học bị khảo của Đặng Xuân Bảng – người cùng thời với
Quốc sử quán triều Nguyễn – đã khẳng định: “Long Biên đời Ngô (và cả Tống, Tề,
Lương, Tùy nữa – chúng tôi thêm vào – TG) cũng có ở Hà Nội (sách Thái Bình
hoàn vũ ký chép rằng: Huyện Long Biên có đài Vạn Xuân, sông Ô Diên ở huyện
Từ Liêm ngày nay, đài Vạn Xuân ở huyện Thanh Trì ngày nay…)” 5. Như vậy cả 2
bộ sách này đều viết là đài hoặc điện Vạn Xuân, ngược lại với 2 bộ sách trước đều
1
. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, H. 1973, tập I, tr. 117.
2
. Như trên.
3
. Ngô Thì Sĩ: Đại Việt sử ký tiền biên. Nxb Khoa học xã hội, H. 1997, tr. 102.
4
. Việt sử thông giám cương mục. Nxb Văn Sử Địa, H. 1957, tập II, tr. 2.
5
. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. Nxb Văn hóa Thông tin, H. 1997, tr. 323.
110
cho là điện Vạn Thọ. Chúng tôi cho rằng dùng Vạn Xuân đúng hơn là Vạn Thọ.
Bởi vì tác giả sách Cương mục và Sử học bị khảo đều tham khảo và dẫn sách Thái
Bình hoàn vũ ký của Nhan Sử - một học giả đời Tống, gần với thời điểm diễn ra
sự việc hơn. Do đó có thể khẳng định điện Vạn Xuân – theo thư tịch – là ở đầm
Vạn Xuân thuộc địa phận xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Vấn đề còn lại
là cần phải kiểm chứng trên thực địa.

* *

Xã Vạn Phúc là một trong mười sáu đơn vị hành chính của huyện Thanh
Trì. Từ trung tâm Hà Nội theo Quốc lộ 1A về phía Nam, qua thị trấn Văn Điển,
khoảng 13 km, rẽ sang trái theo đường Ngũ Hiệp, Đông Mỹ, đến Bến xe Bus Vạn
Phúc trên đê sông Hồng, rẽ phải qua đê 2 km là đến trung tâm xã Vạn Phúc. Hoặc
từ trung tâm Bến xe Bus Trần Khánh Dư, lên xe số 48 đi theo đường đê sông Hồng
khoảng hơn 10 km đến bến Vạn Phúc (bến cuối cùng của tuyến xe này), rồi rẽ đến
Vạn Phúc như trên.

Vạn Phúc thuộc loại “nhất xã nhất thôn”, bởi thế gọi là làng Vạn Phúc hoặc
xã Vạn Phúc đều được. Trước kia, thời phong kiến còn đi kèm thêm chữ “châu”,
chẳng hạn theo Đồng Khánh dư địa chí ghi Thanh Trì huyện, Vạn Phúc châu tổng,
Vạn Phúc châu xã1. Xin được lưu ý rằng “châu” ở đây là châu thổ, châu bãi chứ
không phải là đơn vị cấp hành chính như châu, huyện.

Vạn Phúc là một hiện tượng ít thấy trong cơ cấu làng xã ở đồng bằng Bắc
Bộ Việt Nam. Dòng sông Nhị Hà (sông Hồng) chảy xuyên qua làng, chia làng
thành 2 phần ở 2 bên dòng sông. Phần chính của làng (xã) nằm phía hữu ngạn, bao
gồm các khu dân cư, đất canh tác, bãi tha ma, chợ búa, các công trình tôn giáo,
chiếm khoảng 87% tổng diện tích (547 ha)2. Còn lại khoảng 13% tổng diện tích
nằm phía tả ngạn là đất bãi, đất cấy trồng. Toàn bộ diện tích của xã ở cả 2 bên sông
đều nằm ngoài đê sông Hồng. Do địa hình đặc thù của nó, nên Vạn Phúc được tiếp
giáp với nhiều địa phương nhất. Phần hữu ngạn sông Hồng, phía Tây giáp 2 xã
Đông Mỹ và Duyên Hà cùng huyện, phía Nam giáp xã Ninh Sở huyện Thường
1
. Đồng Khánh dư địa chí. Nxb Thế giới, H. 2003, tập I, tr. 18.
2
. Số liệu này không cố định, có xu hướng tăng lên do đất bồi. Chẳng hạn năm 1920 được bồi
thêm 108 mẫu gọi là Bãi Non. Nhưng cũng có khi bị sụt lở. Năm 1971 lũ cuốn trôi Đình Thượng,
năm 1989 dân Vạn Phúc mới dựng lại.
111
Tín. Phần bên tả ngạn, phía Đông Bắc và Bắc giáp các làng Chữ Xá, Sen Hồ thuộc
xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, phía Đông giáp các xã Liên Nghĩa và Thắng Lợi,
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Vạn Phúc là một làng Việt cổ, được thành lập từ rất lâu đời, có thể là từ đời
các vua Hùng dựng nước. Thần Thành hoàng là Uy Mang Đại vương. Tương
truyền rằng Uy Mang là anh em sinh đôi của vua Hùng Nghị Vương thứ 18. Trên
đường du ngoạn (hẳn đường thủy – sông Hồng) đến địa phận Vạn Phúc thấy phong
cảnh đẹp, bèn dừng lại dựng trại, lập nên làng ấp. Khi qua đời, dân lập đền thờ làm
Thành hoàng, và được phong là Thượng đẳng thần.

Thời Bắc thuộc, Vạn Phúc thuộc địa phận huyện Ô Diên, rồi thuộc lỵ sở
huyện lỵ Long Biên – thành Long Biên, rồi là vùng phụ cận của thành Tống Bình
và sau cùng là ngoại vi thành Đại La.

Vạn Phúc không những chỉ là một vùng đất cổ phụ cận của nơi phồn hoa đô
hội, mà còn nằm vào vị trí giao thông thủy bộ rất thuận tiện. Ngoài đường sông
Hồng, rất có thể còn có các dòng sông khác như sông Tô Lịch, sông Nhuệ, sông
Kim Ngưu chảy qua, hoặc gần kề. Theo sự chỉ dẫn của Đặng Xuân Bảng ta thấy
“Hà Nội có sông Nhị Hà… lại chảy xuôi đến phía Đông tỉnh thành (Hà Nội) thì
chia một chi phía Tây gọi là sông Tô Lịch, chảy vào sông Nhuệ, lại chảy theo
hướng Nam đến huyện Thanh Trì, chia một chi phía Đông gọi là sông Đại Bi, lại
chảy theo hướng Nam đến huyện Thượng Phúc (tức huyện Thường Tín ngày nay)
thì chia một chi phía Đông gọi là sông Kim Ngưu… Sông Nhuệ từ huyện Từ Liêm
tỉnh Hà Nội chảy vào Linh Đàm rồi theo hướng Đông Nam chảy qua các huyện
Thanh Oai, Thanh Trì đến ngã ba Hà Liễu thì có sông Tô Lịch, từ sông Nhị Hà
chia ra qua các huyện Vĩnh Thuận, Từ Liêm, Thanh Trì từ phía Đông nhập
vào…”1. Như vậy các dòng sông trên đều chảy qua huyện Thanh Trì, mà xã Vạn
Phúc thuộc huyện Thanh Trì nên không ít thì nhiều cũng có ảnh hưởng. Tương
truyền rằng xưa kia có sông Ngưu Chuẩn – một nhánh của sông Tô Lịch chảy qua
làng dưới chân đồi Chùa, nhưng bị lấp từ đời nào không rõ. Hiện nay vẫn còn dấu
vết của dòng chảy, mà theo các cụ ở địa phương đó là một đoạn của sông Tô Lịch.
Bắt đầu từ chùa Vạn Phúc – tên chữ là Chung Linh tự qua Đông Mỹ, Ngũ Hiệp
đến trạm bơm Yên Sở ngày nay. Có lẽ sau khi bị Trần Bá Tiên chiếm lại thành

. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. Sđd, tr. 174-175.


1

112
Long Biên, thì Lý Nam Đế “dời thành đến ở Ô Diên, tức là… ở huyện Từ Liêm
ngày nay”1. Đóng ở thành Ô Diên, Lý Nam Đế đã 2 lần đánh nhau với Trần Bá
Tiên trên sông Tô Lịch. Sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 545, Lý Bôn
cùng nghĩa quân đánh nhau với quân xâm lược nhà Lương ở miền Hà Nội và đã
dựng thành ở sông Tô Lịch để chống cự với quân địch. Thành của Lý Bôn lập tại
đây chỉ là thành lũy quân sự, dựng tạm thời trong lúc chiến tranh…” 2. Dựa vào sự
bố trí các khu vực đóng quân: Ô Diên – Từ Liêm của Lý Nam Đế và Vạn Xuân,
Long Biên – Thanh Trì3 của Trần Bá Tiên, chúng tôi phỏng đoán thành lũy do Lý
Nam Đế dựng lên trên sông Tô Lịch chính là đoạn sông đã bị vùi lấp vừa nói ở
trên.

Trở lại với địa danh Vạn Xuân. Trước hết nói về hồ, đầm Vạn Xuân. Theo
ký ức của nhân dân Vạn Phúc, nhất là các cụ cao niên 4 đều thừa nhận từ xa xưa ở
đây có hồ Vạn Xuân, cũng được gọi là hồ Vạn Phúc hay Vạn Phước. Có người còn
cho rằng trước kia xã có tên là Vạn Xuân rồi sau đó mới đổi thành Vạn Phúc.
Chúng tôi tìm trong thư tịch không thấy có địa danh Vạn Xuân ở vùng này, mà có
2 nơi liên quan đến Nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế. Đó là xã Vạn Xuân ở
huyện Lập Thạch, gần hồ Điển Triệt – nơi trú quân nhà Tiền Lý, tỉnh Vĩnh Phúc.
Và xã Vạn Xuân ở tổng Vạn Xuân huyện Thụy Anh, phủ Thái Bình, trấn Sơn Nam
Thượng là đất “thang mộc” của Lý Thiên Bảo. Hiện nay trong địa bàn xã Vạn
Phúc vẫn còn nhiều hồ nhỏ, nước trong vắt. Có lẽ do những chỗ hồ Vạn Xuân cũ
còn sót lại. Vẫn liên quan đến hồ Vạn Xuân còn có chùa Thiên Linh hay chùa Bụt
Mọc. Tương truyền rằng vào đời vua Lý Thái Tổ (1009-1028), sau một trận lũ lụt,
có một pho tượng từ đâu trôi dạt vào hồ Vạn Xuân. Dân làng liền thắp hương cầu
khấn, pho tượng lập tức dừng lại. Nhà vua biết tin, sức cho dân làng Vạn Phúc
dựng Tiên Linh tự trên gò đất cao sát ngay cạnh hồ, nơi pho tượng dừng lại. Tựu

1
. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo. Sđd, tr. 346.
2
. Nhiều tác giả (Trần Huy Liệu chủ biên): Lịch sử Thủ đô Hà Nội. Nxb Sử học, H. 1960, tr. 13.
3
. Trong khi tìm hiểu về vị trí thành Long Biên, các tác giả Lịch sử Thủ đô Hà Nội (đã dẫn) viết:
Có ý kiến Long Biên ở Quế Dương, Võ Giàng Bắc Ninh; Long Biên ở Yên Phong Bắc Ninh, có ý
kiến cho Long Biên thuộc huyện Thanh Trì – Hà Nội (chúng tôi nhấn mạnh). Theo chúng tôi các
giả thiết trên đều có cơ sở.
4
. Trong cuộc điều tra điền dã tại Vạn Phúc, chúng tôi được sự giúp đỡ tận tình của Đảng ủy,
UBND xã, đặc biệt đồng chí Bí thư Đảng ủy Đinh Văn Minh , các cụ Chử Văn Bảo 82 tuổi Thôn
2, cụ Nguyễn Hữu Sướng 82 tuổi, Thủ từ đình Vạn Phúc, cụ Nguyễn Văn Bàn 78 tuổi – Quản lý
Nghĩa trang xã Vạn Phúc. Xin chân thành cám ơn.
113
trung lại trên địa bàn xã Vạn Phúc hiện nay, xưa kia đã từng tồn tại một cái hồ,
hoặc đầm lớn, có tên là Vạn Xuân.

Quan sát kỹ địa hình xã Vạn Phúc, tuy là một triền đất bãi ven sông, nhưng
cũng có nhiều gò, hoặc bãi đất cao có thể dựng được đài (Tòa nhà cao có thể quan
sát được xuống dưới và chung quanh) hoặc một cung điện để làm nơi triều hội…
Chẳng hạn những khu đất hiện nay có các công trình kiến trúc tôn giáo: Đình
Thượng, Đình Chính, chùa Tiên Linh, chùa Chung Linh, hoặc Khu chợ đầm nối
Thôn 1 và Thôn 2, hoặc Khu lò mổ liên hợp huyện Thanh Trì, v.v… Trong số đó
chúng tôi thấy khu vực mà ngôi Đình Chính hiện đang tọa lạc (thuộc Thôn 1) là
đắc địa hơn cả.

Tóm lại, từ thư tịch đến điều tra điền dã, chúng tôi thấy sử cũ ghi chép Lý
Nam Đế xây điện Vạn Xuân trên đất xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì có căn cứ.
Điện Vạn Xuân từ thuở xa xưa ấy rất có thể đã dựng trên nền đất Thôn 1 của bản
xã./.

114
VĂN BẢN THẦN TÍCH

“VIỆT THƯỜNG THỊ TIỀN LÝ NAM ĐẾ NGỌC PHẢ CỔ TRUYỀN”

PGS.TS. Đinh Khắc Thuân

(Viện Nghiên cứu Hán Nôm)

Tại đình làng Giang Xá huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội, hiện có hai bản
thần tích về Lý Nam Đế, vị Hoàng đế của nước Vạn Xuân. Đó là bản "Việt
Thường thị Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền". Ngoài ra, ở đền làng này cũng
có một bia đá khắc sự tích Thần theo bản Ngọc phả cổ truyền này.

1. Văn bản Ngọc phả cổ truyền

Hai văn bản thần tích ở làng Giang Xá đều có tên gọi là "Việt Thường thị
Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền". Một bản được chép lại vào năm 1989, nhân
khi đình làng đón nhận bằng xếp hạng di tích. Vì thế ở trang bìa, ghi rõ là: Sự tích
thần phổ (bằng chữ Hán) năm 1989. Hai bên ghi chữ Nôm: Năm Kỷ Tỵ khai sự
tích thần phổ thời lịch ngày 1 tháng 9 nhuận; và năm Dương Lịch 1989 được Di
tích lịch sử liệt hạng. Thực ra, dòng này mới được ghi thêm vào năm 1989, còn nội
dung chính là văn bản được sao từ trước, có bìa cậy, khá cổ kính.

Đầu đề văn bản có tên "Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ
truyền". Sách chép trên giấy dó khổ khá dài trên 20cm, gồm 16 trang, mỗi trang 8
dòng, mỗi dòng 25 chữ. Trang cuối sách ghi: Ngày 10 tháng giêng năm Hồng Phúc
nguyên niên (1572), Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn,
nguyên bản tại Hùng Vương điện.

Một bản khác chép trên giấy dó khổ ngắn hơn, gồm 30 trang, mỗi trang 6
dòng, mỗi dòng 13 chữ, tổng cộng trên 2000 chữ Hán. Chữ viết chân phương. Ở tờ
bìa chỉ ghi hai chữ: Sự tích, trang trong cũng ghi "Việt Thường thị Tiền Lý Nam
Đế ngọc phả cổ truyền". Trang cuối cũng có lạc khoản là "Hồng Phúc nguyên niên
chính nguyệt sơ thập nhật (ngày 10 tháng giêng năm Hồng Phúc nguyên niên:
1572), Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn, nhưng không
ghi là bản sao từ điện Hùng Vương như bản trên.
115
Trong văn bản, có địa danh xứ Thanh Hoa chưa được thay bằng tỉnh Thanh
Hóa thời Nguyễn. Thêm nữa, chữ Thời vẫn viết bình thường không phải thay bằng
chữ Thìn vì kiêng húy vua Tự Đức (Hồng Nhậm). Điều đó chứng tỏ đây là bản sao
từ văn bản thời Lê.

Nhìn chung sự tích Thần được văn bản hoá thành những bản Thần tích hay
Ngọc phả khá muộn. Hiện nay trong kho Thần tích ở Thư viện Viện Nghiên cứu
Hán Nôm có tới 568 cuốn. Trong đó, những bản Thần tích sớm nhất hiện biết là
một số bản được biên soạn dưới niên hiệu Hồng Đức (1470-1497), thời Lê sơ.
Chẳng hạn bản Thần tích Hùng Vương do Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Cố
biên soạn vào năm Hồng Đức thứ nhất (1470) 1. Tiếp đó là hàng loạt bản Thần tích
khác do Đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên
(1572), mà sau đó được Quản giám bách Thần Nguyễn Hiền sao và nhân bản vào
những năm Vĩnh Hựu thứ 2 và 3 (1736, 1737). Cuối cùng là việc sao chép và lưu
giữ Thần tích tại đền Hùng vào niên hiệu Tự Đức thời Nguyễn.

Như vậy là hai văn bản Thần tích của Thần làng Giang Xá xuất hiện từ hai
nguồn văn bản khác nhau. Một là được sao chép từ đền Hùng vào thời Nguyễn,
còn một không phải là bản sao từ đền Hùng mà là bản sao chép từ trước vốn có ở
làng từ thời Lê. Tuy nhiên, cả hai văn bản đều không có sự khác biệt nhiều.

2. Nội dung văn bản Tải bản FULL (241 trang): https://bit.ly/3fQM1u2
Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ
Nội dung văn bản Thần tích đình làng Giang Xá ghi lại chi tiết sự tích vị
Thần làng này là Lí Bí, vị Hoàng đế sáng lập nước Vạn Xuân vào thế kỷ thứ VI.
Nội dung cơ bản được dịch như sau:

Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ lục

Xưa nước Việt ta, các đời truyền rằng, khi đó thuộc vào thời nhà Lương, có
Thứ sử Vũ Lâm hầu làm Thứ sử Giao Châu, tính tàn bạo, tham tàn, tửu sắc vô độ,
tài hóa, nhân tâm không phục, anh hùng hào kiệt đều ta thán.

Khi đó có gia trưởng một bộ thuộc đất châu Dã Năng xứ Kinh Bắc, họ Lý
húy Toản, lấy vợ người Châu Ái sau đổi là Thanh Hoa là Lê Thị Oanh. Nhà họ Lý

1
. Ngoài một số Thần tích do Nguyễn Cố soạn ra, còn có nhiều văn bản khác do Lê Tung biên
soạn cùng thời kì này, như Thần tích làng Nội Xá (Hà Nội, AE a2/53), làng Đông Xá (Hưng Yên,
AE a3/46), làng Dị Nậu (Hà Nội, AE a9/32).
116
luôn làm điều thiện, nhân đức, đúc chuông, tạo tượng đều có tâm, giúp kẻ yếu cứu
người nguy khốn, giúp người nghèo, nuôi dưỡng người già.

Khi đó, Lý công tuổi ngoài bốn mươi, Thái bà họ Lê tuổi ngoài 30 mà vẫn
chưa một lần sinh nở. Một hôm Thái bà nằm nghỉ ở ngoài sảnh đường thiếp đi,
bỗng thấy trời đất tối đen, ngước nhìn thấy từ trên trời có đám mây ngũ sắc trong
đó có hai rồng, một màu trắng, một màu vàng, cùng tranh giành sao Thái dương.
Sao Thái dương bỗng nhiên dáng xuống miệng Thái bà, rồng vàng dáng thẳng
xuống bụng Thái bà. Thái bà bỗng tỉnh dậy, biết đó là giấc mộng, liền nói với Thái
ông. Thái ông nói rằng theo như báo mộng thì tất thị nhà ta có phúc lớn, trời ban
hiền nhân, đất sinh tuấn kiệt, thiện thay, thiện thay.

Nói xong, tự nhiên Thái bà như đã có thai. Vào giờ Thìn ngày 12 tháng 9
năm Quý Tỵ sinh hạ 1 nam. Thần tướng lẫm liệt, diện mạo khác thường, mày như
mày vua Nghiêu, mắt như mắt vua Vũ, lưng như lưng vua Thang, quả là không
phải người thường. Khi sinh có mây sa sầm, mưa gió nổi lên, hương thơm đầy
phòng, khí lành tràn ngập trong phòng. Tải bản FULL (241 trang): https://bit.ly/3fQM1u2
Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ
Xuân qua đông tới, đến lúc 3 tuổi, đã thông âm luật, cha mẹ liền đặt tên là Bí.
Khi vua 5 tuổi, vô cùng thông minh, khí tượng siêu quần, ăn nói lưu loát, chơi đùa
với trẻ trong thôn ấp luôn có mưu lạ, thuật kỳ. Vua tuổi tuy còn nhỏ, nhưng tư chất
hơn người, thông minh khoan hòa, hiếu đễ dung nghi, nghiêm cẩn, anh hùng.

Lý công một hôm tức ngày 30 tháng 2, bỗng không bệnh mà mất. Thái bà
hành lễ chọn đất trong ấp an táng. Khi đó vua mới 7 tuổi, thái bà cũng lại cùng tạ
thế vào ngày mồng 10 tháng giêng. Vua có người anh là Lý Bảo, 13 tuổi, anh em
hành lễ an táng mẹ, cúng giỗ phần mộ, gia cảnh cùng quẫn, phải sống nhờ nhà
người chú. Khi này có nhà sư hiệu Pháp Tổ Thiền sư trụ trì tại chùa trong ấp, thấy
vua diện mạo khác thường, có khí chất lẫm liệt. Thiền sư nói với người chú rằng
nhà ông có phúc lớn, nên hai cháu có thiên bẩm, tất về sau thành danh vậy.

Khi đó người em là Bí cầu Phật đạo dựa vào nhà chùa tế độ có biệt danh là
Thọ. Thiền sư nhận làm con nuôi. Được ba, bốn năm, vua đã 13 tuổi, lúc này
Thiền sư đến xã Lưu Xá huyện Đan Phượng phủ Quốc Oai. Làng có ba dòng họ
lớn là Lê, Nguyễn, Trần, thấy nhà sư đạo đức kinh pháp tinh thông, nên rước về
lập trai đàn phổ độ gia tiên, suốt 7 ngày đêm. Khi đó ở Giang Xá có ngôi chùa nhỏ

117
dựng ở bên sông, nhân dân thấy thiền sư đức hạnh, liền rước về ở lại trong ấp, nhờ
coi giữ cảnh chùa. Thiền sư thấy cảnh quang sáng sủa, dân thuần tục hậu, nên nhận
lời. Từ đó nhà sư về sống ở đất Giang Xá, trụ trì chùa. Nhà sư cho vua thụ giới
nhập học, vua khí bẩm thông minh, đức độ, được tú khí chung linh là do trời sinh
ra vậy. Khi đó trong chùa có Long thần chủ tể linh thông. Vua thường ngồi tọa
thiền ở chỗ Long thần. Ngày thường thấy vua đến ngồi bên tượng, tượng bỗng
nhiên bật dậy. Một hôm có kẻ gian ăn cắp áo cà sa của sư chùa, không thể tìm lại
được. Thiền sư mắng vua trông coi không cẩn thận. Vua giận, bèn đến bên tượng
Long Thần lấy bút viết lên tượng, nói: Ta nay dáng cấp Long Thần. Vua viết xong,
Long Thần biến sắc, mặt xanh như lá, chốc lát kẻ gian tự trói tay dâng áo mũ nhà
sư đến. Khi người vật trong làng không yên ổn, nhân dân tức Giang Xá lo sợ, bèn
lập đàn cầu đảo tế trời đất cầu an. Đêm hôm đó, quan viên chức sắc nhân dân trong
ấp đến tế lễ, xong việc về nhà ngủ đều mộng thấy một quan nhân mặc áo giáp ngũ
quan cầm long bào xán lạn, cưỡi một con tuấn mã màu trắng, đi sau có vài thanh
đồng, đường đường tiến thẳng vào chỗ dân cư, rồi xuống ngựa, ngồi ở giữa. Nhân
dân thưa rằng sao quan quân lại đến đây. Quan quân đáp: Ta chính là già lam long
thần chủ tể. Nay có vua là Bí đến nhậm ở chùa, ta sơ tâm bất cẩn để cho bọn trộm
vào chùa lấy cắp áo cà sa nhà sư, nên bị dáng cấp cho coi chùa. Nhân dân tỉnh dậy
biết là mộng báo, cho là chuyện lạ, liền tụ tập tại chùa nói hết chuyện báo mộng
với nhà sư. Nhà sư cùng nhân dân đến sau tượng xem, thấy quả có dòng chữ "ta là
do vua dáng cấp ở lại coi giữ chùa". Nhân dân lập tức về hành lễ. Vua tự đến xem,
nhân dân đi theo hành lễ. Long Thần thấy vua đến bỗng biến sắc, người toát mồ
hôi như tắm. Vua đứng phía sau, tẩy bỏ chữ đi. Tẩy xong, Long Thần lại biến sắc,
hoan hỉ, tượng gỗ đều như cử động, nhân dân hành lễ và được yên lành.

Lại nói, khi đó vua ở với Thiền sư tại chùa Giang Xá, được hơn 10 năm, lúc
đó vua 25 tuổi rất thông minh, trí tuệ hơn người. Vua mộ được trong huyện các xã
Lưu Xá, Giang Xá, Dã Năng, Chu Diên tuyển hơn 3 nghìn viên, hôm đó ngày 4
tháng 2, hợp binh tại chùa Giang Xá cầu đảo thiên địa bách thần âm phù. Hôm đó
ngày 10 tháng 3 vua khao quân sĩ, tả hữu văn võ, rồi tiến quân trở về châu Dã
Năng lập đồn sở cắt đất chia dân, sai tướng lĩnh lập đồn đóng chống Thái thú nhà
Lương. Vua tự xưng là Lý Nam Đế từ đó thường đánh quân Lương, giặc thua chạy
về Bắc quốc. Sau đó, quân Lương lại sai Lư Tử Hùng tiến binh. Triệu Quang Phục
sau là Triệu Việt Vương tiên phong đón giặc Lương, chém hơn nghìn tên, máu
118
chảy đầy sông. Vua sai quân đánh châu Cửu Đức, Lâm ấp, xưng Nam Việt đế,
dựng nước Vạn Xuân, bách quan hô Vạn tuế. Các đất Dã Năng, Chu Diên, Giang
Xá, Thái Bình, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương, Liêu Động, đều cho làm ấp
thang mộc. Nhân dân xin lập sinh từ, sau phụng thờ. Đất nước thanh bình 7 năm,
đến tháng 6 năm Ất Sửu, nhà Lương sai Thứ sử Trần Bá Tiên làm Tư mã đến xâm
chiếm. Vua nghe tin quân Lương kéo đến, sai 3 vạn quân ra ứng chiến. Quân giặc
đánh đến Chu Diên, vua quay về Giang Xá, hôm đó nhân dân hành lễ bái mừng,
vua dừng quân hội binh, sau ra đóng ở thành Gia Ninh. Quân Lương đánh Gia
Ninh, vua lại bỏ vào đất Liêu Trung ở Phong Châu thuộc huyện Tân Xương, quân
Lương vây cửa sông Gia Ninh, vua xuất 2 vạn người từ Liêu Động đóng đồn ở hồ
Điển Triệt. Quân Lương và vua chống lại được ngoài 5 tháng. Một hôm quân
Lương thừa cơ ban đêm nước hồ dâng cao, xuôi theo dòng nước tiến đánh. Vua
không lo phòng bị, nên quân Lương đến, liền thua rút về đồn Liêu Động. Đại
tướng Triệu Quang Phục đánh quân Lương đến năm Đinh Mão.

Ngày 2 tháng 5 ở Liêu Động vua nằm chính cung, có mấy thị vệ, bỗng mây
đen ập đến có hình như hình chó, rơi xuống biến thành người cao 1 trượng đứng
trước vua. Thế là vua hóa. Các nơi Dã Năng, Chu Diên, Giang Xá, Thái Bình,
Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương, Liêu Động, có sinh từ phụng thờ vua.

3. Về các sự kiện và địa danh được đề cập đến trong Ngọc phả cổ truyền

Các sự kiện lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Lí Bí được chép trong
Ngọc phả cổ truyền này là khá chi tiết, từ nguồn gốc họ Lý, 7 đời sống ở nước
Nam truyền đến Lí Bí, đến quê quán của Lí Bí, tuổi ấu thơ, trưởng thành, chiến
thắng quân Lương, xưng vua lập nước Vạn Xuân, đến khi bị thua trận rút về hồ
Điển Triệt, rồi mất ở đây. Chính đất Giang Xá nay thuộc huyện Hoài Đức, TP. Hà
Nội từng là nơi gắn bó với tuổi ấu thơ của Lí Bí. Lí Bí theo học Thiền sư tại chùa
làng này, sau tập hợp quân sĩ, nổi dậy chống lại quân nhà Lương giành thắng lợi.

Ngoài ra là các địa danh được đề cập trong Ngọc phả cổ truyền này liên quan
đến quê quán và đất dấy nghiệp của Lí Bí, tiêu biểu là Dã Năng, Chu Diên, Giang
Xá, Thái Bình, Giang Tây, Gia Ninh, Tân Xương, Liêu Động.

Các sự kiện lịch sử và địa danh lịch sử nêu trên đều phù hợp với chính sử.
Thực tế, các địa danh trên đều thuộc vùng đất ở hai bên sông Hồng phía trên

119
Thăng Long-Hà Nội, nay thuộc địa phận các xã huyện ở Đan Phượng, Hoài Đức
Tp. Hà Nội và Vĩnh Phúc, Phú Thọ.

Tóm lại, văn bản "Việt Thường thị Tiền Lý Nam Đế ngọc phả cổ truyền" ở
đình làng Giang Xá huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội là bản Ngọc phả được sao
chép vào thời Lê viết về sự tích Lý Nam Đế khá chi tiết và nhất quán với sử liệu
ghi trong chính sử. Tư liệu này góp phần làm rõ hơn về quê hương, tuổi ấu thơ của
Lý Bí, cũng như công cuộc chống ngoại xâm, xây dựng nhà nước Vạn Xuân hết
đỗi tự hào của dân tộc ta.

Cách đây khoảng vài chục năm, các nhà nghiên cứu như: Đinh Văn Nhật,
Minh Tú, Nguyễn Hữu Khánh… đã có phát hiện mới về quê hương của vua Lý
Nam Đế. Theo đó, thì vua Lý Nam Đế có quê gốc tại làng Cổ Pháp, xã Tiên Thù,
tổng Tiên Thù, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên (nay là thôn Cổ Pháp, xã Tiên
Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên) 1. Chúng tôi cho rằng có được kết luận
trên đây, là do các nhà nghiên cứu cơ bản đã dựa vào những thông tin của Việt
Thường thị Tiền Lý Nam Đế Ngọc phả cổ truyền. Như vậy, có thể nói tập tư liệu
mà chúng ta đang nói tới, hiện được lưu giữ tại đình Giang Xá, huyện Hoài Đức,
Thành phố Hà Nội rất có giá trị đối với việc nghiên cứu lịch sử thời cổ, trung đại
của Việt Nam./.

5287241

1
. Xem thêm bài của PGS.TS. Nguyễn Minh Tường: Vấn đề quê hương của Lý Nam Đế - Một
nghi án lịch sử cần được làm sáng tỏ, trong tập Kỷ yếu này.
120

You might also like