Professional Documents
Culture Documents
Giáo Trình Môi Trư NG Và Con Ngư I
Giáo Trình Môi Trư NG Và Con Ngư I
CHƯƠNG 2: CÁC NGUYÊN LÝ SINH THÁI ÁP DỤNG CHO KHOA HỌC MÔI
TRƯỜNG
2.1. YẾU TỐ SINH THÁI VÀ QUY LUẬT SINH THÁI
2.1.1. Yếu tố sinh thái
Yếu tố sinh thái là những yếu tố cấu trúc lên môi trường tự nhiên, được xem xét trong mối
quan hệ với một sinh vật cụ thể. Yếu tố sinh thái chia thành hai loại: Vô sinh và hữu sinh. Tổ
hợp các yếu tố sinh thái tạo ra điều kiện cần cho sự tồn tại và phát triển của sinh vật gọi là tổ
sinh thái của sinh vật đó.
Một số yếu tố sinh thái thay đổi theo không gian một cách có quy luật và có tính chu kỳ. Chu
kỳ sơ cấp của yếu tố sinh thái là ngày, tuần trăng, mùa, năm, nhiều năm, kỳ con nước,... chu
kỳ thứ cấp của yếu tố sinh thái phát sinh dưới tác động của các chu kỳ sơ cấp. Theo nguyên tắc
chung thì các yếu tố có chu kỳ thứ cấp làm biến đổi độ phong phú của loài.
Sinh vật sống phụ thuộc vào hàm lượng. trạng thái của từng yếu tố sinh thái và phạm vi chống
chịu của chúng đối với tổ hợp các yếu tố sinh thái. Mức độ tác động của từng yếu tố sinh thái
lên sinh vật phụ thuộc bản chất, cường độ, tần số và thời gian tác động. Tác động của yếu tố
sinh thái lên sinh vật gây ra hệ quả ở những mức độ khác nhau như làm thay đổi tập tính, thay
đổi sức sinh sản, mức để tử vong của quần thể, thay đổi số lượng quần thể, cấu trúc quần xã,
loại trừ loài ra khỏi vùng phân bố, huỷ diệt sự sống.
2.1.2. Quy luật sinh thái
- Quy luật tác động đồng thời: Nhiều yếu tố sinh thái có thể tác động đồng thời lên một
hoạt động sống của sinh vật, và ngược lại một yếu tố sinh thái cũng có thể tác động lên
nhiều hoạt động sống của khác nhau của sinh vật. Sự tác động đồng thời của nhiều yếu tố
sinh thái, trong nhiều trường hợp, gây nên những hậu quả không giống như khi tác động
riêng lẻ.
- Quy luật tác động qua lại: Tác động của các yếu tố sinh thái lên sinh vật và phản ứng của
sinh vật là một quá trình qua lại. Cường độ tác động, thời gian tác động, phương thức tác
động khác nhau sẽ dẫn tới những hệ quả và phản ứng khác nhau. Xu thế chủ đạo là sự biến
động của ngoại cảnh quyết định xu thế chung của sinh vật, còn tác động trở lại của sinh vật
đến môi trường chỉ là phụ.
- Định luật tối thiểu (Liebig, 1840): Một số yếu tố sinh thái cần phải có mặt ở mức tối
thiểu để sinh vật có thể tồn tại trong đó. Ví dụ, cây trồng muốn sống cần một lượng tối
thiểu chất B trong đất. Chất có hàm lượng tối thiểu sẽ điều khiển năng suất, xác định sản
lượng và tính ổn định của mùa màng theo thời gian.
- Định luật giới hạn sinh thái (Shelford, 1913): Năng suất của sinh vật không chỉ phụ
thuộc vào sức chịu đựng tối thiểu mà còn phụ thuộc vào sức chịu đựng tối đa hàm lượng
của một nhân tố sinh thái nào đó. Nghĩa là, một số yếu tố sinh thái cần phải có mặt với một
giới hạn nhất định để sinh vật có thể tồn tại trong đó.
Phạm vi biến động của một nhân tố mà cơ thể có thể chịu đựng được gọi là phạm vi chấp
nhận, hay miền giới hạn sinh thái. Vượt quá miền giới hạn này (thiếu hay thừa) sinh vật sẽ
chết.
Nếu loài có miền giới hạn sinh thái rộng đối với nhân tố sinh thái nảy, nhưng lại có miền giới
hạn sinh thái hẹp đối với một nhân tố sinh thái khác, thì vùng phân bố của loài được quyết
định bởi nhân tố sinh thái có miền giới hạn hẹp nhất. Loài có miền giới hạn sinh thái rộng đối
với mọi nhân tố sinh thái sẽ có vùng phân bố rộng.
Khi có một nhân tố sinh thái trở nên không tối ưu cho loài thì phạm vi chống chịu đối với các
nhân tố sinh thái khác có thể bị thu hẹp. Trong mỗi hệ sinh thái thường có một hoặc vài nhân
tố vô sinh hạn chế sự phát triển của một loài nào đó, gọi là nhân tố hạn chế. Đối với các hệ
sinh thái ở nước thì nhiệt độ, ánh sáng và độ muối thường là yếu tố hạn chế.
- Giới hạn sinh thái: là khoảng giá trị xác định của một nhân tố sinh thái của môi trường mà
trong đó sinh vật có thể tồn tại và phát triển ổn định theo thời gian.
- Trong giới hạn sinh thái có điểm giới hạn trên (max), điểm giới hạn dưới (min), và khoảng
cực thuận (khoản tối ưu) và các khoản chống chịu. Vượt ra ngoài các điểm giới hạn, sinh vật
sẽ chết.
• Khoản tối ưu: là khoản của các nhân tố sinh thái ở mức độ phù hợp, đảm bảo cho loài sinh
vật thực hiện các chức năng sống tốt nhất
• Khoảng chống chịu: là khoảng các nhân tố sinh thái gây ức chế cho hoạt động sinh lý của
sinh vật.
2.1.3. Yếu tố sinh thái vô sinh và tác động của nó tới sinh vật
2.1.3.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố sinh thái giới hạn. Phổ nhiệt độ tự nhiên rất rộng, nhưng đa số các loài chỉ
tồn tại được trong khoảng 0 – 50°C. Sinh vật được chia thành:
- Theo khả năng chống chịu: nhóm rộng nhiệt và nhóm hẹp nhiệt (trong nhóm hẹp nhiệt phân
nhóm ưa lạnh và ưa nóng).
- Theo nhiệt độ cơ thể, sinh vật được chia thành nhóm đồng nhiệt và nhóm đẳng nhiệt.
=> Nhiệt độ là yếu tố chi phối phân sự bố địa lý, ảnh hưởng đến quá trình sinh lý, sinh hóa, tập
tính của sinh vật.
2.1.3.2. Ánh sáng
Ánh sáng là yếu tố sinh thái giới hạn đối với cây trồng.
Ánh sáng giúp cho cây xanh thực hiện chức năng quang hợp và nhiều quá trình tự nhiên khác
như phong hóa vật lý, tạo nhiệt độ, khí hậu,tuần hoàn nước,...
Hai nhóm thực vật:
- Cây ưa sáng (gồm những thực vật có cường độ quang hợp cực đại khi cường độ chiếu sáng
lớn, như cây gỗ ở rừng thưa, cây bụi ở savan, bạch đàn, phi lao, lúa, đậu
phộng …)
- Cây ưa bóng (gồm những thực vật có cường độ quang hợp cực đại khi cường độ chiếu sáng
thấp, như lim, vạn niên thanh, lá dong, ràng ràng …).
=> Ánh sáng tạo nên các đặc điểm thích nghi về hình thái, giải phẫu và sinh lý ở các sinh vật.
2.1.3.3. Nước và độ ẩm
- Nước là yếu tố sinh thái sống còn, chi phối sự hình thành và phân bố của các hệ sinh thái.
- Nước là nơi khởi nguồn của sự sống và là nơi khởi nguồn sống và môi trường sống của các
loài thủy sinh.
- Nước là thành phần cơ bản của chất sống .
- Nước hòa tan được nhiều vật chất, giúp cung cấp chất dinh dưỡng, chuyển vận vật chất
trong cơ thể và đào thải chất dư thừa độc hại cho sinh vật.
Theo giới hạn ẩm thích hợp: Ẩm hẹp và ẩm rộng.
Theo sự phụ thuộc vào nước:
- Nhóm sinh vật ở nước như cá, thực vật thủy sinh
- Sinh vật ưa ẩm cao như lúa, cói
- Sinh vật ưa ẩm vừa như tếch, bạch đàn, trầu không
- Nhiều sinh vật sống trên cạn khác, chịu hạn như cây mọng nước (xương rồng, cây bỏng, thầu
dầu), cây lá cứng (trúc đào, phi lao), tiêu giảm lá (cành giao).
2.1.3.4. Các chất khí
• Các chất khí trong khí quyển có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hấp thụ nhiệt và ảnh
hưởng đến nhiệt độ khí quyển.
• Nhìn chung các khí O3 có khả năng hấp thụ mạnh các tia tử ngoại trong khi các khí CO2 và
hơi nước lại hấp hấp thụ mạnh các tia bức xạ hồng ngoại
Thành phần các chất khí trong khí quyển đã ổn định trong thời kỳ dài, với 78% N2, 21% O2,
0,03% CO2 và một số chất khác.
Chất khí hòa tan trong nước: Khả năng hòa tan các chất khí trong nước phụ thuộc vào đặc
điểm của nó, nhiệt độ, áp suất khí quyển, độ muối và thành phần của các chất khí khác.
- Mức độ đồng đều của các chất khí hòa tan trong nước phụ thuộc đặc điểm hình thái thủy vực,
khả năng xáo trộn của nước và đặc điểm nguồn cấp chất khí đó cho nước.
2.1.3.5. Các muối dinh dưỡng
- Các khoáng có vai trò quan trọng trong đời sống sinh vật, giúp điều hòa các quá trình
sinh hóa, áp suất thẩm thấu của dịch mô và các hoạt động chức năng khác, nhất là của hệ tim
mạch, tạo ra môi trường cho các quá trình sinh hóa nội bào.
- Cơ thể sinh vật có chứa khoảng 74 nguyên tố hóa học khác nhau. Các nguyên tố đa
lượng là C, H, O, N, P, S có mặt trong thực vật với hàm lượng chiếm khoảng 95% sinh khối.
Chất dinh dưỡng vi lượng (Mn, Fe,Cl, Zn), có mặt trong thực vật với hàm lượng nhỏ, thường
cung cấp ion làm chất xúc tác trong các phản ứng hóa học.
- Theo mức dinh dưỡng, nước được phân loại thành nghèo dinh dưỡng không tính Canxi
(Oligotrophe), nghèo muối khoáng kể cả Canxi nhưng giàu chất mùn (Ditrophe), và đầy đủ
hoặc nhiều chất dinh dưỡng (Eutrophe)
2.1.4. Yếu tố sinh thái hữu sinh và ảnh hưởng của nó tới sinh vật
Tác động của yếu tố sinh thái hữu sinh:
Sinh vật sản xuất: phổ biến nhất là các loại thực vật quang hợp, như cây xanh, tảo dưới nước,
vi khuẩn có khả năng quang hợp…
Sinh vật tiêu thụ: chủ yếu là các sinh vật dị dưỡng, bao gồm: động vật ăn thực vật, động vật ăn
thực vật, động vật ăn mùn, bã.
Sinh vật phân giải: chủ yếu là nấm và các loại vi khuẩn, có nhiệm vụ phân hủy chất hữu cơ
thành vô cơ cần thiết cho sự phát triển hệ sinh thái.
2.1.4.1. Các kiểu quan hệ trực tiếp giữa hai cá thể sinh vật
Các sinh vật khi sống trong cùng một sinh cảnh có thể có nhiều mối quan hệ trực tiếp sau: -
Bàng quan hay Trung lập: không có quan hệ trực tiếp, không ảnh hưởng đến nhau.
- Hợp sinh: cùng có lợi nhưng không nhất thiết phải sống cùng nhau.
- Cộng sinh: cùng có lợi trong mối cộng sinh bắt buộc.
- Hội sinh: một bên có lợi, một bên không bị ảnh hưởng.
- Ký sinh: một bên có lợi và một bên có hại.
- Vật dữ và con mồi: sinh vật này là nguồn thức ăn của sinh vật khác.
- Cạnh tranh: cả hai cùng thiệt hại, xảy ra khi điều kiện sống không đáp ứng nhu cầu của
sinh vật. Có 2 dạng: cạnh tranh cùng loài và cạnh tranh khác loài.
2.1.4.2. Ảnh hưởng tương hỗ giữa động thực vật
- Mối quan hệ giữa động vật và thực vật có hai mặt, vừa có lợi và vừa có hại: Thực vật là
nguồn thức ăn và cơ sở tạo nơi ở của động vật. Một vài loài thực vật cũng ăn động vật, hoặc
gây bệnh cho chúng.
- Động vật là tác nhân giúp thực vật thụ phấn, phát tán hạt giống, có vai trò kép kín chu trình
sinh địa hóa, duy trì và phát triển hệ sinh thái. Động vật ăn thức ăn có chọn lọc có thể trở
thành tác nhân mới cho sự cạnh tranh.
2.2. QUẦN THỂ
2.2.1. Khái niệm và đặc trưng của quần thể
Quần thể là một tập hợp gồm các cá thể cùng loài, phân bố trong sinh cảnh xác định thuộc
vùng phân bố của loài, chúng khác nhau về kích thước, lứa tuổi, cấu trúc, sự phân bố không
gian, khả năng sinh sản và sự tăng trưởng của quần thể. Mỗi quần thể đều có khả năng tự trao
đổi thông tin di truyền duy trì cấu trúc của quần thể.
Quần thể sinh vật có 3 cách phân bố trong không gian: Phân bố theo nhóm, phân bố đều và
phân bố ngẫu nhiên.
Các quần thể khác nhau cũng có cấu trúc khác nhau về thành phần các nhóm tuổi, tỷ lệ giới
tính. Cấu trúc tuổi và giới tính có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ sinh tử và biến động số
lượng cá thể trong quần thể.
Quần thể có đặc tính đa dạng di truyền. Trong một quần thể, không thể có hai cá thể giống
hệt nhau, làm cơ sở cho chọn lọc tự nhiên, lai tạo giống và cơ hội cho cạnh tranh sinh tồn.
Mỗi quần thể có các đặc trưng kích thước (số lượng, mật độ...), tốc độ tăng trưởng, mức độ
biến động riêng.
Các nhân tố có ảnh hưởng đến quần thể gồm nhóm có khả năng làm tăng quy mô và nhóm làm
giảm quy mô quần thể. Nhóm làm tăng quy mô như thay đổi các nhân tố vô sinh tạo thuận lợi
cho tăng trưởng quần thể; tăng sinh, giảm tử, tăng nhập, giảm xuất cư, tăng khả năng cạnh
tranh, trốn tránh, tự bảo vệ, tìm thức ăn, tăng nguồn thức ăn. Nhóm làm giảm quy mô quần thể
như tăng tử, giảm sinh, tăng xuất cư, giảm nhập cư, các nhân tố vô sinh, hữu sinh bất lợi, tăng
bệnh tật, thiếu thức ăn, nơi ở , điều kiện khí hậu khắc nghiệt, môi trường ô nhiễm...
2.2.3. Nhịp điệu sinh học
Quang chu kỳ, tức độ dài ngày:
Độ dài ngày tại các thời điểm trong năm ở mỗi địa điểm nhất định luôn không đổi. Độ dài
ngày tác động vào các thụ quan cảm giác như mắt động vật hoặc qua sắc tố chuyển hóa trong
lá cây. Các thụ quan lại kích thích hoạt động của hoocmôn hoặc men tạo phản ứng sinh lý,
phản ứng tập tính. Quang chu kỳ là rơle thời gian điều khiển sự phát triển và ra hoa của cây
trồng, điều khiển sự thay lông, tích mỡ, di cư, sinh sản ở chim và động vật có vú, sự sinh sản
của côn trùng.
Đồng hồ sinh học
Một số hoạt động của cơ thể có nhịp điệu nhất định, được xem là bị chi phối bởi một đồng hồ
sinh học nào đó. Có hai giả thuyết: Đồng hồ đo thời gian nội sinh - là cấu trúc bên trong có
khả năng đo thời gian và không cần bất kỳ tín hiệu nào từ bên ngoài, Đồng hồ bên trong hoạt
động theo tín hiệu từ bên ngoài. Theo Brown, sinh vật cảm nhận được sự dao động ngày đêm
của từ trường Trái đất và chúng điều hoà sinh lý theo nguồn thông tin này.
2.3. QUẦN XÃ
2.3.1. Quần xã và các đặc trưng cơ bản của quần xã
Quần xã là một tập hợp các sinh vật của nhiều loài khác nhau (ít nhất là 2 loài) cùng sống
trong một sinh cảnh xác định, giữa chúng có những mối quan hệ trao đổi vật chất và năng
lượng với nhau thông qua chuỗi thức ăn và mạng lưới thức ăn. Tên gọi của quần xã được lấy
theo đặc trưng ổn định nhất trong các yếu tố như tên của loài chiếm ưu thế, tên môi trường vô
sinh. Quần xã có các đặc trưng cơ bản sau:
- Là một tổ hợp nhiều quần thể, nhưng chỉ có một số ít loài chiếm ưu thế, có số lượng nhiều,
có vai trò quyết định bản chất, năng suất của nó. Mỗi quần xã đều có tính đa dạng loài. Mức
độ đa dạng loài được thể hiện qua chỉ số Shanon. (SGK/31)
Về không gian:
- Sự phân bố quần xã theo chiều đứng, theo chiều ngang.
Về dinh dưỡng:
- Sinh vật tự dưỡng
- Sinh vật dị dưỡng
- Sinh vật phân hủy
Tập hợp các sinh vật kế tiếp nhau, trong đó loài đứng trước là thức ăn cho loài đứng sau, tạo
thành chuỗi thức ăn.
• Quần xã chia ra các bậc dinh dưỡng:
- Vật sản xuất (dinh dưỡng bậc 1)
- Động vật ăn cỏ (dinh dưỡng bậc 2)
- Động vật ăn động vật (dinh dưỡng bậc 3),...
• Tương quan giữa các sinh vật theo các bậc dinh dưỡng hoặc trong một chuỗi thức ăn được
biểu hiện bằng tháp sinh thái.
• Có 3 loại tháp sinh thái:
- Tháp khối lượng
- Tháp năng lượng
- Tháp số lượng.
Quần xã có khả năng tự điều chỉnh thích nghi.
Do đó khi môi trường có những biến đổi trong một phạm vi hạn chế nhất định, quần xã có thể
thích nghi được mà không bị biến đổi.
Trạng thái phát triển cao ổn định và phù hợp với môi trường của quần xã gọi là đỉnh cực.
2.3.2. Diễn thể quần xã (SGK/34)
- Diễn thế nguyên sinh xảy ra ở những nơi trước đó chưa có quần xã nào tồn tại, ví dụ như
vùng đất mới hình thành, bãi bồi,...
- Diễn thế thứ sinh xảy ra tại những nơi đã từng có quần xã tồn tại.
➔ Diễn thế thứ sinh xảy ra theo chiều hướng tích cực: làm đa dạng sinh học tăng, sinh khối ngày
càng lớn, chuỗi và mạng thức ăn, phân bố cá thể, phân hóa tổ sinh thái ngày càng phức tạp,
khả năng tự phục hồi cân bằng ngày càng lớn, tính bền vững ngày càng cao.
➔ Diễn thế theo chiều hướng tiêu cực: có xu hướng giảm đa dạng sinh học, giảm sinh khối, đơn
giản hóa về cấu trúc và do vậy tính ổn định bền vững của quần xã giảm.
2.4. HỆ SINH THÁI
2.4.1. Khái niệm
Hệ sinh thái là một hệ thống thống nhất bao gồm các quần xã sinh vật và các yếu tố môi
trường, trong đó giữa chúng có sự tương tác lẫn nhau thông qua quá trình trao đổi vật chất và
năng lượng trong một sinh cảnh xác định. Nói cách khác, hệ sinh thái là một hệ thống thống
nhất giữa các sinh vật và môi trường. Hệ sinh thái có kích thước lớn nhỏ khác nhau tùy thuộc
vào đối tượng nghiên cứu. Sinh quyển là một hệ sinh thái tự nhiên hoàn chỉnh khổng lồ. Đại
dương là một hệ sinh thái lớn. Khu rừng, hồ nước là những hệ sinh thái vừa. Bể cá cảnh cũng
có thể được xem là hệ sinh thái rất nhỏ.
Cấu trúc một hệ sinh thái bao gồm 4 hợp phần cơ bản là vật sản xuất, vật tiêu thụ, vật phân
hủy và môi trường vô sinh.
- Vật sản xuất chủ yếu là các loài thực vật có khả năng quang hợp và tổng hợp các chất hữu cơ
từ các chất vô cơ
- Vật tiêu thụ bao gồm các động vật
- Vật phân hủy là các vi sinh vật.
- Vật chất đi từ môi trường ngoài vào cơ thể các sinh vật, rồi từ sinh vật này sang sinh vật kia
theo chuỗi thức ăn, rồi lại từ các sinh vật phân hủy thành các chất vô cơ đi ra môi trường (còn
gọi là vòng tuần hoàn sinh-địa-hoá).
2.4.2. Vòng tuần hoàn vật chất và dòng năng lượng trong hệ sinh thái
- Sự trao đổi vật chất trong hệ sinh thái thực chất là các quá trình tổng hợp, sử dụng và phân
huỷ các chất hữu cơ. Các quá trình này xảy ra kế tiếp nhau liên tục tạo ra vòng tuần hoàn khép
kín vật chất. Sự nhiễu loạn một giai đoạn nào đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến giai đoạn kia.
Vật chất vô cơ bao gồm các chất khoáng, nước, CO2, từ môi trường bên ngoài được các vật
sản xuất sử dụng, dưới tác động của ánh sáng mặt trời để tạo ra các chất hữu cơ. Vật tiêu thụ
sử dụng các chất hữu cơ này như là nguồn thức ăn và chuyển hoá, tích luỹ trong cơ thể chúng.
Đến lượt mình, vật phân huỷ sẽ phân giải các xác chất hữu cơ thành các chất vô cơ giải phóng
vào môi trường kết thúc một chu trình vật chất trong hệ sinh thái. Sự chuyển giao vật chất giữa
các sinh vật trong hệ sinh thái được thực hiện thông qua chuỗi thức ăn và mạng lưới thức ăn.
Trong tự nhiên, vật chất được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần tạo thành vòng tuần hoàn vật
chất hay vòng tuần hoàn các chất dinh dưỡng trong hệ sinh thái. Trong đó, một loại vật chất
bất kỳ đều có 2 giai đoạn: Tồn tại ngoài môi trường và ở trong cơ thể sinh vật.
Mở rộng vòng tuần hoàn vật chất trong hệ sinh thái trên phạm vi toàn cầu, ít nhất cũng trên
một phạm vi rộng lớn ta có các chu trình sinh - địa - hoá.
Chu trình sinh địa hoá của các nguyên tố trong tự nhiên được chia làm 2 loại: Chu trình chủ
yếu bao gồm chu trình của các nguyên tố C, P, N, S và nước. Chu trình sinh địa hoá của các
nguyên tố còn lại là thứ yếu.
Dòng năng lượng đi qua hệ sinh thái là tổng số năng lượng mà cây xanh tích lũy được từ Mặt
trời (GPP) để tổng hợp chất hữu cơ, được sử dụng để duy trì các quá trình sống của toàn hệ
sinh thái, kể cả vật tiêu thụ và phân huỷ.
2.4.3. Cân bằng và diễn thế sinh thái
Cân bằng là trạng thái mà hệ sinh thái tồn tại ổn định theo thời gian, ổn định về số lượng và
cấu trúc, có cân bằng giữa thành phần vô sinh và hữu sinh, chu trình vật chất và năng lượng
không có những biến động lớn về sự đa dạng sinh học và các yếu tố môi trường.
Tự lập lại cân bằng là khả năng của hệ sinh thái tự thiết lập lại cân bằng cũ khi chịu những
tác động biến đổi của các yếu tố môi trường.
Hệ sinh thái càng đa dạng loài cao sẽ càng có độ ổn định cao.
Diễn thể sinh sinh thái thực chất là diễn thế của các quần xã sinh học đồng thời với những
biến đổi của các yếu tố môi môi trường, nó là một quá trình diễn biến có định hướng và có thể
dự báo được.
Diễn thế sinh thái bao gồm quá trình diễn thế nguyên sinh và diễn thế thứ sinh. Diễn thế
nguyên sinh là sự hình thành một hệ sinh thái ở những nơi mà chưa từng có hệ sinh thái xuất
hiện, ví dụ như sự hình thành các hệ sinh thái rừng ngập mặn trên một vùng bãi bồi ngập mặn
ven biển mới được hình thành. Còn diễn thế thứ sinh là diễn thể xảy ra trên cơ sở của các diễn
thể nguyên sinh, hay ở những nơi đã có các hệ sinh thái tồn tại.
Trong quá trình diễn thế thứ sinh có thể xảy ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Diễn
thị theo chiều hướng tích cực có xu hướng làm tăng sự đa dạng sinh học, tăng mức độ phức
tạp của cấu trúc hệ sinh thái, tăng sinh khối, chuỗi thức ăn và mạng lưới thức ăn cũng phức tạp
hơn, và khả năng tự phục hồi cân bằng ngày càng lớn, tính bền vững ngày càng cao. Ví dụ như
từ các vùng đất sau nương rẫy biến đổi dần hình thành các rừng thưa và sau cùng là rừng rậm.
Diễn thế theo chiều hướng tiêu cực sẽ diễn ra theo xu hướng ngược lại, ví dụ từ hệ sinh thái
rừng biến thành hệ sinh thái cây bụi - cỏ.
Diễn thế sinh thái thực chất là diễn thế của các quần xã sinh học đồng thời với những biến đổi
của các yếu tố môi trường, nó là một quá trình diễn biến có định hướng và dự báo được.
Chương 5
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
5.1. TÀI NGUYÊN SINH VẬT
5.1.1. Khái niệm về tài nguyên sinh vật
- Sinh quyển trải dài từ đáy biển sâu khoảng 11.000 m đến các đỉnh núi cao tới khoảng
9.000 m. Dưới đáy sâu nhất của đại dương, sự sống cũng rất nghèo nàn. Sự sống chủ
yếu chỉ tập trung trong phạm vi từ 200m dưới mặt biển đến 6.000 m trên mặt biển.
- Sự sống có 5 khả năng đặc thù cơ bản khác với các vật không sống, bao gồm khả năng
tái sinh, tự tạo ra các vật thể giống mình; khả năng trao đổi chất, tiếp nhận năng lượng
và vật chất, tổng hợp chất mới, phân giải tạo chất mới và năng lượng, khả năng tăng
trưởng theo thời gian; khả năng bị kích thích, tức khả năng tiếp nhận các thông tin dưới
dạng tín hiệu vật lý, hoá học và phản ứng với các thông tin này bằng sự thay đổi trong
chính mình, và khả năng thích nghi để phù hợp với môi trường.
5.1.2. Hiện trạng và giá trị của đa dạng sinh học
- Tài nguyên sinh vật hay đa dạng sinh học bao gồm đa dạng gen, đa dạng loài, đa dạng
hệ sinh thái, là sản phẩm của các quá trình biến dị di truyền, chọn lọc thích nghi, cạnh
tranh, tiến hoá trong điều kiện môi trường và các nhân tố sinh thái vô sinh, hữu sinh đa
dạng biến động có tính đa dạng và duy nhất, không tái lập.
- Đa dạng sinh học là cơ sở đảm bảo khép kín chu trình sinh - địa - hoá, tạo cân bằng sinh
thái, bảo vệ môi trường; cung cấp tài nguyên thiên nhiên và các giá trị thẩm mỹ, tín
ngưỡng, giải trí... cho con người, và là cơ sở cho nền văn minh nhân loại phát triển. Mỗi
hệ sinh thái tự nhiên là cơ sở cho hình thành một nền văn hoá bản địa riêng. Hệ tự nhiên
càng phân hóa và đặc thù thì hệ xã hội càng có bản sắc riêng. Khi đa dạng sinh học suy
giảm, cơ sở cho sự sinh thành và bảo tồn đa dạng văn hoá bị tổn thương, gây nguy cơ
giảm đa dạng văn hoá.
5.1.2.1 Đa dạng gen
- Gen hoang dại là sản phẩm của điều kiện tự nhiên đa dạng và có giá trị tự thân nhất định
mà con người có thể đã biết hoặc chưa biết. Đối với những giá trị còn chưa biết, con
người chỉ có thể khám phá ra và có cách sử dụng nó khi nghiên cứu đầy đủ về nó, vì thế
nó cần được bảo vệ, bảo tồn để làm cơ sở cho nghiên cứu và sử dụng trong tương lai.
Một số loài sinh vật được thuần chủng và nuôi dưỡng nhân tạo trong thời gian dài sẽ bị
thoái hoá giống và có thể dùng giống hoang dại lại với giống đã thuần dưỡng cùng loài,
hoặc dùng công nghệ biến đổi gen để tạo ra những giống mới có khả năng chống chịu
với môi trường cao hơn.
5.1.2.3. Đa dạng hệ sinh thái
- Nhiệt độ và lượng mưa là hai nhân tố sinh thái vô sinh quan trọng tạo ra sự phân hoá
sinh quyển thành các sinh đới. Sinh đới là những vùng rộng lớn với những đặc thù nhất
định về khí hậu, hệ thực vật, hệ động vật và kiểu đất. Trong mỗi sinh đới có thể có một
số hệ sinh thái ổn định cùng tồn tại và tương tác với nhau. Trên Trái đất có 12 sinh đới,
mỗi sinh đới có thể rộng hàng triệu km2, có thể trải ra trên nhiều lục địa và bao gồm
nhiều hệ sinh thái độc lập.
- Sinh đới đồng rêu vùng cực: Phân bố trong vùng khí hậu lạnh, nhiều băng tuyết, chỉ có
3 tháng mùa hè băng tan là mùa sinh trưởng của cây. Đa dạng sinh học nghèo nhưng có
nhiều loài đặc hữu. Phía Bắc có thẩm rêu và địa y hỗn hợp với vùng than bùn Carex,
Eriophorum. Phía Nam thực bì phát triển hơn, có các cây bụi thấp hỗn hợp với vùng
than bùn Sphagnum. Động vật có vài chục loài thú, đặc biệt có tuần lộc, cáo xanh, gấu
bắc cực..., vài chục loài chim như cánh cụt và các loài chim vãng lai; các loài bò sát, ếch
nhái rất hiếm.
- Sinh đới rừng phân hóa theo vĩ độ thành rừng ôn đới, rừng nhiệt đới, theo lượng mưa
thành rừng mưa ẩm, rừng khô hạn, theo đặc tính sinh thái thành rừng lá kim, rừng lá
rụng, rừng thường xanh, ... Nhìn chung đa dạng sinh học của rừng, sinh khối và năng
suất sơ cấp rất cao. Tuy nhiên mỗi hệ sinh thái rừng phân bố trong các điều kiện địa lý,
khí hậu đặc thù, nên thường có các sinh vật đặc hữu. Đặc trưng của một số loại thảm
rừng chính trên thế giới như sau:
- Rừng lá kim (taiga): Năng suất thấp do có thời gian sinh trưởng ngắn. Phân bố rộng ở
Bắc Mỹ, châu Âu, Nga, Bắc Trung Quốc và các vùng núi cao nhiệt đới. Cây chủ yếu là
thông, linh sam... Bắc Mỹ, Mexico có nhiều thông đỏ, thông núi, quota cổ thụ... Động
vật có nhiều thú lớn như gấu, chó sói, hươu Bắc Mỹ... Thú có lông nhiều, đẹp, nên bị
săn bắn mạnh. Chim định cư ít, chủ yếu là các loài ăn hạt.
- Rừng rụng lá Ôn đới: Phân bố thấp hơn, gần vùng nhiệt đới hơn; có nhiều ở vùng
Đông Bắc Mỹ, châu Âu, một phần Nam Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc... Diện tích
rừng ngày nay, chủ yếu là rừng thứ sinh. Rừng rụng lá ổn. đới có động vật giới phong
phú hơn rừng lá kim. Thú sống trên cây có sóc, trên mặt đất có hươu, lợn rừng, dê. Các
loài gặm nhấm có nhiều và là thức ăn của thú ăn thịt cỡ nhỏ như cáo và chốn Chim ăn
sâu bọ và ăn thịt | cũng khá nhiều. Côn trùng gây hại gỗ phong phú.
- Rừng rậm nhiệt đới: Phân bố kéo dài thành một vành đai không liên tục quanh xích
đạo, nơi có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, nhiệt độ ít dao động. Rừng mưa nhiệt phân bố
chủ yếu ở lưu vực sông Amazon (Nam Mỹ), vùng Trung Phi, vùng Nam Á và Đông
Nam Á Động vật phong phú, có nhiều loài sống trên cây. Thú gồm nhiều loài khỉ và
hầu, gặm nhấm, cây cao và một số loài ăn kiến. Các loài chim phong phú, phần lớn màu
sắc rực rỡ, nhiều loài ăn quả. Bò sát và ếch nhái, động vật không xương sống rất phong
phú, nhiều côn trùng.
- Sinh đới đỉnh núi cao: Phân bố trên các đỉnh núi cao có nhiệt độ thay đổi mạnh giữa
ngày và đêm, càng lên cao càng lạnh và áp suất thấp. Nhiệt độ trung bình ban đêm
xuống thấp là nhân tố sinh thái quan trọng nhất của sinh đới này. Thực vật ít phong phú,
chủ yếu là các loài thực vật phân hóa theo đai cao và hướng đón ánh sáng mặt trời Động
vật cũng ít đa dạng, phân hóa theo thảm thực vật và độ cao
- Sinh đới thảo nguyên: Thảo nguyên phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới có mùa khô kéo
dài. Thực bì gồm cây cỏ hoà thảo có bộ rễ phát triển. Động vật có các loài ăn cỏ, các
loài sống trong hang như chuột, rắn… và các loài thú lớn như sơn dương, lừa, ngựa
hoang, bò... và các loài thú ăn thịt khác. Sinh đới này nghèo sinh khối, thích hợp cho
chăn nuôi,
- Sinh đới Savan: Phát triển ở vùng nhiệt đới bán khô hạn, được chia thành xavan cây
cỏ, cây bụi, cây gỗ hoặc cây rừng. Thực bì có các tầng cỏ dại, các cây gỗ lớn như keo,
bao báp. Savan châu Mỹ có nhiều xương rồng, xavan châu Úc có nhiều bạch đàn. Động
vật ưu thế có kiên, môi, các loài ăn cỏ, đà điểu và thú ăn thịt cỡ lớn như sư tử, hổ báo …
- Sinh đới sa mạc: Phát triển ở những vùng khó hạn, lượng mưa rất thấp, thực bì rất
nghèo. Thực vật bao gồm một số loài cây hàng năm có thời kỳ sinh trưởng ngắn, nhóm
cây nhiều năm có khả năng thích nghi cao với điều kiện khô hạn. Động vật nghèo, gôm
vài loài thú sống trong hang hoặc vãng lai, một số loài côn trùng cánh cứng, bọ ngựa,
thằn lằn...
- Sinh đới thuỷ sinh: gồm sinh đới nước ngọt, nước lợ, nước mặn. Môi trường nước có
đặc điểm là áp suất tăng theo độ sâu, nhiệt độ, ánh sáng giảm theo độ sâu, hàm lượng
các chất khí hoà tan, muối dinh dưỡng phân hóa theo độ sâu và chế độ thuỷ lực. Do đó,
trong sinh đới thuỷ sinh có nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau như hệ sinh thái nước
chảy, nước đứng, hệ sinh thái cửa sông, hệ sinh thái đất ướt ngập triều, rừng ngập mặn,
hệ sinh thái rạn san hô...
Giải pháp bảo vệ đa dạng sinh học bao gồm việc thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên, các
vườn Quốc gia nhằm bảo vệ các hệ sinh thái đặc biệt; bảo vệ các loài quý hiếm và có nguy cơ
bị tuyệt chủng. Khai thác sử dụng hợp lý, khoa học các giá trị đa dạng sinh học, bao gồm cả đa
dạng gen, loài và hệ sinh thái.
Các loại khu bảo vệ tài nguyên sinh học:
1- Khu dự trữ sinh quyển - thế giới, có diện tích rộng, có các giá trị đa dạng sinh học
cao, được quy hoạch ở cấp quốc tế để bảo vệ nguyên dạng các loài động thực vật, đa
dạng gen đang trong quá trình tiến hoá, phục vụ cho cả các mục tiêu giáo dục, nghiên
cứu.
2- Vườn quốc gia, là những khu tự nhiên khá rộng lớn, có các giá trị đa dạng sinh
học cao, độc đáo, có tầm quan trọng đặc biệt, được bảo vệ nguyên trạng, đồng thời
phục vụ nghiên cứu, du lịch sinh thái.
3- Khu bảo tồn thiên nhiên là những khu vực được quy hoạch quản lý nhằm đảm
bảo các điều kiện cần thiết bảo vệ các cá thể và những nhóm loài mang tính quốc gia
hoặc những đặc tính vật chất của môi trường, có thể được phép thu hoạch một số loại
tài nguyên đã được kiểm tra.
4- Di sản thiên nhiên, văn hoá, thế giới, di tích lịch sử, văn hoá, môi trường quốc
gia, là những khu vực được quản lý vì những mục tiêu khác nhau, nhưng các giá trị tự
nhiên cũng được quy định bảo vệ.
3.2.1. Thời kỳ tiền sản xuất nông nghiệp (từ khởi thuỷ đến 8.000 năm TCN)
Xem slide của cô
3.2.2. Thời kỳ cách mạng nông nghiệp (8.000 TCN đến 1650)
Xem slide của cô
Tác động đến môi trường giai đoạn này rất đa dạng về hình thức, tăng cường về mức độ, mở
rộng về không gian và gây nhiều hệ quả nghiêm trọng. Hoạt động đáng kể nhất là sự phá rừng
lấy đất làm nông nghiệp, lấy củi đun, làm thay đổi cơ bản lớp phủ bề mặt và các quá trình tự
nhiên diễn ra trên nó. Canh tác nông nghiệp không hợp lý (như đốt nương làm rẫy trên đất dốc,
tưới không khoa học...) gây suy thoái nhiều miền đất. Chiến tranh liên miên phá huỷ nhiều vùng
sinh thái, hạn chế sự phát triển của xã hội, tác động rất bất lợi tới môi trường.
3.2.3. Thời kỳ từ cách mạng công nghiệp đến hết Chiến tranh thế giới thứ
hai (1650 - 1945)
Xem slide của cô
Tác động của dân số đến môi trường giai đoạn này là sự mở rộng các hành vi, tăng mạnh
cường độ tác động so với giai đoạn trước trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, khai khoáng,
phá rừng, chiến tranh... Ô nhiễm môi trường xuất hiện ở nhiều nơi, đặc biệt là đô thị, khu công
nghiệp, mỏ... Suy thoái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên có dấu hiệu báo động.
3.2.4. Thời kỳ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến nay
Xem slide của cô
Dòng di cư nông thôn - thành phố tiếp tục diễn biến phức tạp do chênh lệch về thu nhập,
điều kiện sống và lao động, gây ảnh hưởng đáng kể cho cộng đồng cả nơi đi và nơi đến.
Những nhân tố xã hội chính tác động tới phân bố dân số là tính chất của nền sản xuất,
trình độ của lực lượng sản xuất, lịch sử khai thác lãnh thổ, chính sách kiểm soát dân số tự
nhiên và gia tăng dân số cơ học.
Dân cư Việt Nam phân bố rất không đều, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nguồn tài
nguyên, điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử khai thác vùng.
Chương 4: NHU CẦU VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU CỦA
CON NGƯỜI
4.1. Nhu cầu và hoạt động đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm
4.1.2. Nhu cầu và hiện trạng tiêu thụ lương thực và thực phẩm
Theo FAO, trung bình nhu cầu thức ăn của con người tính theo năng lượng là 2.300
Calo/ngày.
4.1.3.1. Sản xuất và đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm trên thế giới
4.1.3.2. Cách mạng xanh và vấn đề giải quyết lương thực trên thế giới
Cách mạng xanh (Green Revolution) được sử dụng với nghĩa tổng quát để chỉ sự phát triển
quan trọng trong việc sản xuất lương thực bắt đầu từ việc tạo ra các giống cây trồng có năng
suất cao từ những thập kỷ 60 của thế kỷ XX.
Nội dung cơ bản của cách mạng xanh là tạo ra nhiều giống mới có năng suất cao, áp dụng các
giống mới đồng bộ với tổ hợp các biện pháp khoa học kỹ thuật, đặc biệt là phân bón, thuỷ lợi
và thuốc bảo vệ thực vật để phát huy hết khả năng cho năng suất cao của các giống mới. Kết
quả là đã tạo ra bước phát triển quan trọng để giải quyết lương thực cho loài người. Giống cây
mở đầu cho cuộc cách mạng xanh là ngô, sau đó là lúa mì và lúa. Giống mới có đặc điểm chung
là năng suất cao, thân thấp nên phần thu hoạch (hạt) chiếm tỷ lệ Cao trong sinh khối, thời gian
sinh trưởng ngắn hơn các giống cây truyền thống, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng vụ và đa
canh.
Tuy nhiên cách mạng xanh cũng nhanh chóng bộc lộ những hạn chế, nhất là những vấn
đề về môi trường:
- Giống cây trồng mới chỉ phát huy tác dụng khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết
cho nó. Do vậy trong cách mạng xanh cần phải áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật tương
ứng như cung cấp đầy đủ phân bón, thuỷ lợi, thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Đây là nền nông nghiệp có
đầu tư cao nên khó áp dụng ở những nơi nghèo đói, thiếu vốn đầu tư cũng như các vật tư kỹ
thuật khác.
- Các giống cây trồng địa phương với nguồn gen di truyền quý giá có chất lượng tốt và
tính thích ứng cao với điều kiện tự nhiên bị loại bỏ
79
dân. Thay vào đó là các giống mới ít thích ứng với điều kiện môi trường địa phương, dễ bị sâu
bệnh và thường có chất lượng kém.
- Do sử dụng nhiều phân bón hoá học và các loại thuốc bảo vệ thực vật, cơ giới hoá, thuỷ lợ
hoá nên dẫn đến làm ô nhiễm môi trường và gây thoái hoá đất, hiệu quả của quá trình sản xuấ
giảm dần.
4.1.4. Những vấn đề về lương thực, thực phẩm trong tương lai
Những người theo quan điểm bi quan cho rằng dân số tăng nhanh và nhu cầu ngày càng
cao của con người sẽ dẫn đến nghèo đói, suy dinh dưỡng, làm cho số người chết tăng, ảnh
hưởng tiêu cực đến dân số thế giới, đặc biệt ở các nước nghèo.
Những người theo quan điểm lạc quan cho rằng chúng ta có khả năng giải quyết vấn đề
cung cấp lương thực thông qua việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để tăng năng suất
cây trồng và nâng cao sản lượng lương thực thế giới.
4.2. CÁC NỀN NÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG TỚI MÔI TRƯỜNG
4.2.2. Nền nông nghiệp trồng trọt chăn thả truyền thống
Nền nông nghiệp trồng trọt chăn thả truyền thống được đánh dấu bằng việc xã hội loài
người thay thế các hoạt động hái lượm săn bắt ngoài tự nhiên bằng các hoạt động trồng trọt và
chăn nuôi với các giống cây Con đã được thuần hoá.
Theo FAO (1982), du canh là hình thức canh tác trong đó thời gian trồng trọt tương đối
ngắn nối tiếp với thời gian bỏ hoang hoá đất tương đối dài. Quy trình canh tác chủ yếu bao gồm
các bước phát chặt và đốt cây trên một diện tích rừng nhất định, sau đó gieo trồng cây lương
thực một vài năm, thậm chí chỉ vài vụ cho đến khi độ phì của đất giảm, năng suất cây trồng thấp
thì đất sẽ được bỏ hoang hoá để tái sinh rừng tự nhiên. Quá trình này lại được lặp lại trên một
mảnh đất khác. Năng suất cây trồng du canh thấp, nên khả năng đáp ứng nhu cầu lượng thực
hạn chế.
Du canh không chỉ bao hàm sự di chuyển địa điểm canh tác từ nơi này đến nơi khác mà
thường còn kèm theo sự tái định cư tạm thời các hộ gia đình nên nhu cầu sử dụng đất thường
khá lớn, các điều kiện sống không ổn định và đảm bảo.
Định canh là hình thức canh tác nông nghiệp trong đó trồng trọt và chăn nuôi được duy
trì ổn định trên những diện tích nhất định. Định canh cũng là điều kiện tiên quyết cho định cư,
tạo cơ sở đảm bảo những điều kiện sống tốt hơn cho con người, giảm đáng kể tỷ lệ tử vong. Tuy
nhiên, khi dân số đông và ngày càng tăng, nông nghiệp định canh truyền thống cũng đã không
đủ khả năng cung cấp lương thực thực phẩm cho con người.
Thành quả lớn nhất của nền nông nghiệp truyền thống là đã tạo ra một tập đoàn các
giống cây trồng vật nuôi đa dạng, phong phú, đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm, dược liệu
quan trọng cho loài người và hình thành hệ thống kinh nghiệm, kỹ thuật canh tác thích nghi cao
ở nhiều vùng sinh thái khác nhau.
Mục tiêu cơ bản của nền nông nghiệp công nghiệp hoá là tạo ra một năng suất cao đủ đáp ứng
nhu cầu lương thực cho một dân số đông.
Làm mất đi và lãng quên dần các giống cây trồng vật nuôi truyền thống ở địa phương.
Làm mất cân bằng dinh dưỡng và làm thoái hoá đất, làm suy thoái môi trường, gây thoái hoá
đất, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Nông nghiệp công nghiệp hoá chỉ chú trọng đến năng suất và lợi nhuận mà ít chú ý đến nhu cầu
bảo vệ sức khoẻ của người tiêu dùng. Sản phẩm của nền nông nghiệp công nghiệp hoá thường
có chất lượng không cao, ăn không ngon, hoa quả chứa nhiều nước, khó bảo quản.
4.2.5. Phát triển nông nghiệp nông thôn và các vấn đề môi trường
Nông dân có truyền thống sử dụng các chất hữu cơ, phân chuồng, phân bắc trong trồng trọt,
do vậy họ có những kinh nghiệm truyền thống sử dụng hợp lý chúng. Tuy nhiên, khi thiếu nhân
lực và thời gian, các Công đoạn sử lý phân rác thường không được chú ý, thậm chí nông dân
dùng cả phân tươi để tưới rau, hoa... hệ quả là gây ô nhiễm môi trường và các nông sản.
Thuốc trừ sâu bảo vệ thực vật được sử dụng ở nước ta hiện nay thuộc các nhóm thuốc trừ sâu,
trừ nấm, trừ cỏ, kích thích sinh trưởng, diệt chuột, khử trùng... gồm khoảng 450 hoạt chất với
nhiều tên thương mại.
4.3. NHÀ Ở VÀ MÔI TRƯỜNG
4.3.1. Du cư và định cư
Từ khi con người sống định cư thì các điểm dân cư bắt đầu được hình thành. Sau đó
chúng phát triển thành các kiểu quần cư khác nhau phụ thuộc vào điều kiện sản xuất hoặc các
hình thái kinh tế cụ thể. Có 2 kiểu quần cư chính có sự khác nhau cơ bản về chức năng cũng
như mức độ tổ chức và tập hợp dân cư là quần cư nông thôn và quần cư thành phố.
Các quân cư thành phố có đặc điểm chung là sự tập trung cao dân số, sự phát triển
mạnh của các ngành nghề không lấy đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu. Quần cư thành phố cũng
có kiểu kiến trúc quy hoạch đặc biệt. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và công trình văn hoá xã hội phát
triển.
4.4.2. Nguồn gốc của đô thị hoá và công nghiệp hoá
Có thể nói một cách ngắn gọn, đô thị hoá là quá trình gia tăng dân số cùng với sự phát triển
kinh tế và xã hội của các thành phố. Về mặt hình thái đô thị và khu công nghiệp thường có hình
thù rõ rệt và có vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện cho đô thị có khả năng khai thác tài nguyên
và thực phẩm từ các vùng xung quanh. Đô thị và nông thôn tuy có sự khác biệt rõ rệt nhưng vẫn
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
4.4.3. Đô thị hoá và công nghiệp trên thế giới
4.5. NHU CẦU VĂN HÓA, THỂ THAO, DU LỊCH VÀ TÁC ĐỘNG TỚI MÔI
TRƯỜNG
Quan hệ xã hội của con người luôn phát triển và ngày càng đa dạng phức tạp. Con người có các
nhu cầu và quan hệ xã hội cơ bản sau đây:
- Quan hệ cùng dòng giống, đây là quan hệ gia đình, bao gồm gia đình hạt nhân (vợ, chồng và
các con chưa trưởng thành) và gia đình mở rộng mà thường gọi là họ hàng. Những mối quan hệ
này cũng rất đa dạng nhưng nhìn chung nặng về tình cảm. Văn hoá Việt Nam Cổ truyền rất coi
trọng về tình và nghĩa.
- Quan hệ cùng nơi cư trú, thường gọi là quan hệ xóm làng gồm các mối quan hệ xã hội của
những người hàng xóm hay những người cùng sống trong những địa bàn dân cư nhất định như
cùng khu nhà, đường phố, thôn xóm... Mối quan hệ này mang tính chất tương trợ giúp đỡ nhau
trong cuộc sống.
Quan hệ cùng lợi ích gồm các mối quan hệ của những người có chung mục đích nào đó. Thường
là quan hệ giai cấp, quan hệ nghề nghiệp, cùng giới tính... Nhìn chung các mối quan hệ giữa con
người với nhau là rất đa dạng, phức tạp và ràng buộc. Mỗi người đều có nghĩa vụ và quyền lợi
nhất định và mỗi người đều có trách nhiệm tôn trọng và thực hiện các mối quan hệ trong cộng
đồng.
Quan hệ xã hội là cơ sở cho công tác tổ chức xã hội theo những định hướng nhất định một cách
mềm dẻo. Nó chi phối hệ xã hội trong nhiều
mối quan hệ, đặc biệt là trong hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tác động
đến môi trường. Quan hệ xã hội ràng buộc các cá nhân trong một định hướng chung, như cách
thức khai thác và sử dụng tài nguyên, cách thức ứng xử với nhau và với các vấn đề môi trường vì
những lợi ích chung nhất định. Quan hệ xã hội có thể trở thành công cụ hữu hiệu cho Công tác
bảo vệ môi trường.
4.5.3. Nhu cầu thể thao, du lịch và tác động tới môi trường
Du lịch sinh thái là một hình thức du lịch mới, được phát triển trên cơ sở các nguyên tắc đạo
đức của phát triển bền vững. Du lịch sinh thái là hoạt động du lịch về với thiên nhiên hoang dã
mà không gây ô nhiễm môi trường, không làm tổn thương hệ tự nhiên và xã hội bản địa, hoạt
động phục vụ du lịch có sự tham gia tích cực của người địa phương để khai thác tối ưu các giá
trị văn hoá truyền thống và tạo cơ hội tăng thu nhập, phát triển cho họ, lợi nhuận từ du lịch phải
được sử dụng nhằm mục tiêu bảo tồn, phát huy các giá trị địa phương truyền thống và phục vụ
cộng đồng tại chỗ.
Các nguyên tắc du lịch bền vững
Để du lịch thực sự có lợi cho tất cả những ai có liên quan, gồm các người chủ, người lao
động, khách du lịch và “chủ nhà” một cách bền vững và lâu dài, ngành phải hoà nhập với các
hoạt động khác, là một phần của chương trình phát triển kinh tế tổng hợp của vùng. Du lịch
bền vững đòi hỏi hiểu biết và tôn trọng cơ sở nguồn tài nguyên du lịch: 1- Khai thác trong khả
năng cho phép của tài nguyên thiên nhiên nhằm đảm bảo hiệu suất cũng như sự sinh tồn của
chúng trong tương lai, không tiêu hao chúng quá mức; 2- Nhìn nhận sự đóng góp của công
đồng địa phương cùng với các tập quán và lối sống của họ như là tài nguyên du lịch, đảm bảo
các nền văn hoá và các dân tộc được kính trọng, tuân thủ nguyên tắc rằng người địa phương
phải được tham gia vào việc ra kế hoạch và thực hiện hoạt động du lịch, hưởng các nguồn lợi
kinh tế từ hoạt động du lịch một cách công bằng.
Những nguyên tắc của du lịch bền vững: 1- Sử dụng nguồn lực (tài nguyên thiên nhiên, văn
hoá và xã hội) đúng cách: 2- Giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải để tránh chi phí tốn kém
cho việc phục hồi tổn hại môi trường và đóng góp cho chất lượng du lịch; 3- Duy trì và tăng
Cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá và xã hội làm chỗ dựa sinh tồn cho công nghiệp
du lịch; 4. Hợp nhất du lịch vào quá trình quy hoạch chiến lược cấp quốc gia và địa phương, có
tiến hành đánh giá tác động Môi trường: 5 - Hỗ trợ kinh tế địa phương và có tính đến giá trị và
chi phí môi trường; 6- Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phương để vừa nâng cao chất
lượng du lịch vừa tạo việc làm và thu nhập cho công đồng: 7- Lấy ý kiến quần chúng và các
đối tượng có liên quan để cùng giai toi các màu tuần tiên an về quyền lợi; 8- Đào tạo cán bộ có
lông ghép nhận thức u lịch bền vững vào thực tiễn công việc; 9- Tiếp thị du lịch một cách có
trách nhiệm, cung cấp cho khách những thông tin đầy đi để nâng cao ý thức của khách đối với
môi trường, đồng thời tăng sự hài lòng của khách; 10- Nghiên cứu phát triển du lịch để mang
đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho ngành và khách du lịch.
(Nguồn: Bên kia chân trời xanh, Các nguyên tắc du lịch bền vững. WWF
UK, 1992.)
Nguồn phát sinh các chất gây ô nhiễm có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo. Các hiện tượng tự nhiên như
núi lửa, dông. bão, lốc, lũ bùn đá, lũ quét, lũ lụt,... các quá trình thối rữa xác động thực vật ... vừa trực
tiếp tạo ra, vừa góp phần phát tán các vật chất gây ô nhiễm vào môi trường. Nguồn nhân tạo các chất
gây ô nhiễm xuất phát từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, sinh
hoạt, vui chơi giải trí... Nguồn thải công nghiệp thường mang tính điểm, tập trung, cường độ, tổng
lượng lớn, nông nghiệp và sinh hoạt mang tính diện, giao thông vận tải mang tính tuyến. Trong công
nghệ đốt, đối với cùng một nhiên | liệu đầu vào, tuỳ thuộc nhiệt độ đốt, cấu tạo lò đốt, khí thải có
thành phần và nồng độ chất ô nhiễm sẽ khác nhau. Đốt trong điều kiện thông khí tốt sinh CO., đốt
trong điều kiện thiếu khí sinh CO... Lò đốt kín ít phát tán tro bụi hơn lò đốt thoáng. Dùng xăng pha
chì trong các động cơ đốt trong thì khí thải sẽ có chì... Đặc điểm chung của các quá trình thải nhân tạo
hiện nay là lượng và cường độ thải lớn, tập trung, thay đổi theo thời gian, chất thải đa thể, đa dạng.
Thể tồn tại: các chất gây ô nhiễm có thể tồn tại ở thể rắn, lỏng, khí, có thể chuyển hoá từ thế này sang
thể khác. Các chất thải ở một thể này, gia nhập vào môi trường ở các thể còn lại sẽ gây ra vấn đề môi
trường nhất định, ví dụ như chất rắn, bụi gia nhập vào môi trường lỏng hoặc khí sẽ trở thành nhân tố
gây ô nhiễm bụi, đục...
Tính độc: Nhiều nguyên tố hoặc hợp chất có tính độc, ví dụ như DDT, axit, chất phóng xạ, kim loại
nặng...
Tính trơ, Khả năng tồn tại bền vững trong môi trường, ít tham gia vào các quá trình lý hoá học trong
tự nhiên nhưng có nguy cơ tích luỹ cao và gây tác hại trong môi trường khi vượt quá ngưỡng cho
phép, ví dụ như CFC...
Tính kém bền vững hoá học: Khả năng dễ biến đổi trong môi trường thành những chất khác có nguy
cơ gây độc cao hơn. Đặc điểm, tốc độ phản ứng hoá học biến đổi chất và sản phẩm cuối phản ứng phụ
thuộc vào chất tham gia phản ứng và các điều kiện môi trường. Do vậy, trong những điều kiện môi
trường khác nhau, cùng một chất gia nhập có thể gây nên những hệ quả môi trường khác nhau.
6.1.3. Khả năng đồng hoá chất gây ô nhiễm của môi trường
Khả năng tự làm sạch của môi trường có điều kiện. Khi các điều kiện đó tồn tại, thì khả năng làm
sạch môi trường nhờ cơ chế tự nhiên đó được thực hiện. Ví dụ khi có gió, dòng chảy thì vật chất gây
ô nhiễm sẽ phát tán, nhờ đó có thể pha loãng...
Khả năng đồng hóa của môi trường có giới hạn về lượng, do vậy, khi bị tiếp nhận một lượng thải quá
lớn, sẽ diễn ra hai khả năng:
1- Môi trường không thể đồng hoá hết, phần còn tồn dư sẽ gây ô nhiễm môi trường;
2- Phần tồn dư không những gây ô nhiễm môi trường mà còn làm tổn thương, huỷ hoại chức năng
tự làm sạch của môi trường, khiến môi trường hoàn toàn không thể tiếp tục thực hiện chức năng
này được nữa.
Khả năng tự động hoá của môi trường có giới hạn về chất. Thông thường những chất từ tự nhiên, gần
với tự nhiên sẽ dễ được môi trường đồng hoá, làm sạch; những chất nhân tạo, đặc biệt là các hợp chất
hoá học tổng hợp, khó được môi trường đồng hoá, nên sẽ tồn lại và tích luỹ trong môi trường ngày
càng nhiều hơn, gây ô nhiễm môi trường.
Hệ thống tự nhiên có tính thống nhất, liên hoàn. Khi một bộ phận, một thành tố của môi trường bị suy
thoái, ô nhiễm, sẽ gây ra ô nhiễm các bộ phận còn lại.
Khi biến trình thải không trùng pha với biến trình khả năng tự làm sạch của môi trường, lượng thải
tập trung, cường độ thải quá lớn, thành phần chất thải đa dạng, tính chất phức tạp thì các hệ quả môi
trường sẽ càng lớn.
Ô nhiễm không khí là sự có mặt của các chất lạ hoặc sự biến đổi quan trọng trong thành phần khí
quyển gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và các sinh vật, gây mùi khó chịu hoặc làm giảm
tầm nhìn.
Các chất gây ô nhiễm không khí có thể có nguồn gốc trong tự nhiên hoặc do con người gây ra.
COx, có nguồn gốc từ các hoạt động tự nhiên như núi lửa, cháy rừng, phân huỷ chất hữu cơ, hô hấp...
và các hoạt động nhân tạo, như công nghiệp, nổ mìn, khai thác hầm lò và đặc biệt là từ đốt nhiên liệu
hoá thạch, sinh khối. Cá có ái lực với hemoglobin trong máu mạnh hơn O2, , nên gây hại cho sức khoẻ
ở nồng độ thấp và có khả năng gây tử vong ở nồng độ >250 ppm. Nồng độ CO2, cao trong không khí
làm giảm áp suất riêng phần của 0, CO2, >350ppm gây ảnh hưởng đến quá trình hô hấp, ở nồng độ
cao có thể gây tử vong. Sự gia tăng 10% lượng CO2, khí quyển sẽ gây tăng nhiệt độ Trái đất khoảng
0,5 °C. Hàng năm con người thải vào khí quyển khoảng 8 tỷ tấn CO2,. Từ khi bắt đầu cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất đến nay, lượng CO2, trong khí quyển tăng 25% và có nguy cơ tăng gấp 2 vào
giữa thế kỷ sau.
Trong các hợp chất NOx, chỉ có NO, NO2, và N2, có tác động bất lợi nhất tới không khí. NOx, có
nguồn gốc từ tự nhiên và nhân tạo, trong đó các nguồn tự nhiên lớn gấp 10 lần nguồn nhân tạo. NO 2,
là một khí độc màu nâu. Nguồn phát sinh NO, NO2, nhân tạo chủ yếu là từ các công nghệ cháy, nổ và
từ các quá trình sản xuất, sử dụng hợp chất chứa nitơ. Nhiệt độ đốt càng cao càng tạo ra nhiều NO,
nhưng trong tự nhiên NO dễ dàng bị oxi hoá thành NO2, NO2 gây tác động xấu đến bộ máy hô hấp, ở
nồng độ cao có thể gây tử vong. NO2, kết hợp với hơi nước trong không khí hoặc trong các niêm mạc
phổi tạo thành axit, gây tác động xấu cho bộ máy hô hấp nói riêng và gây mưa axit. Sử dụng các loại
phân đạm khoáng và các quá trình tự nhiên cung ứng 70 - 80% lượng phát thải NO2, còn lại là do các
quá trình đốt. N2O là một khí trơ, do đó nó tích lũy theo thời gian trong khí quyển. NOx, là một trong
những thủ phạm gây gia tăng hiệu ứng nhà kính.
SO2, có nguồn gốc từ các quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch có chứa lưu huỳnh và các quá trình sản
xuất, sử dụng hợp chất có lưu huỳnh. Đây là một chất khí không màu, có mùi xốc, cay, gây phản ứng
cáu giận, ngạt thở, kích thích niêm mạc mắt và đường hô hấp, ở nồng độ cao gây bỏng, tử vong, là khí
gây mưa axit. HAS là một hợp chất có mùi thối, nguồn gốc từ phân huỷ yếm khí chất hữu cơ.
O3, có nhiều trong tầng đối lưu là chất khí gây ô nhiễm. Nồng độ ozon từ 0,3 - 8ppm gây bất lợi cho
sức khỏe con người, ở nồng độ 0,2 ppm Ozon gây nguy hại cho cà chua, thuốc lá, đậu Hà Lan và
nhiều loại cây trồng khác. Ozon có tác động bất lợi đến các vật liệu sợi, đặc biệt là sợi bông, nilon, sợi
nhân tạo, màu thuốc nhuộm, làm gia tăng quá trình lão hoá cao su
Hyđrocacbon gây ô nhiễm không khí đáng kể nhất là CH2 và C4H. CH, phát sinh từ các quá trình
sinh học biến đổi chất hữu cơ, như quá trình lên men hoá đường ruột của các động vật và người, đặc
biệt là ở động vật nhai lại như trâu bò, phân giải kỵ khí trong các vùng đất ngập nước và từ các quá
trình sản xuất công nghiệp, khai thác mỏ, cháy rừng và đốt nhiên liệu hoá thạch. Mê tan là một chất
khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh hơn cacbonic 30 lần. C,H, (benzen) trong không khí có nguồn gốc từ
các hoạt động công nghiệp, sử dụng xăng. Nó có thể tạo với không khí thành một hỗn hợp dễ nổ, gây
độc qua đường hô hấp, tiêu hoá, qua da, nồng độ C,H, > 60mg gây ngộ độc chết người. Benzen có thể
tích luỹ trong mỡ, xương, nên tác động gây độc kéo dài, dấu hiệu ngộ độc có khi xuất hiện muộn...
CFC là những hợp chất tổng hợp, dùng nhiều trong kỹ nghệ làm lạnh, bọt xốp cách nhiệt, dung môi,
chất mang... có thể tồn tại ở dạng sol khí và không sol khí. CFC tồn tại rất lâu trong khí quyển (hơn
100 năm). CFC gây tổn thương tầng ozon, tấm lá chắn tia cực tím bảo vệ Trái đất hiện nay.
Khói quang hoá thường xuất hiện ở các khu vực đô thị, bao gồm các dạng sương khói, trước hết là
NO2, và các hơi hyđrocacbon bị biến đổi do các phản ứng quang hoá ở tầng thấp của khí quyển.
Nguyên tử oxi sinh ra trong các phản ứng quang hoá từ NO2, dưới tác dụng của bức xạ Mặt trời sẽ tác
dụng với các hiđrocacbon hoạt hoá, như mêtan, etan, toluen... trong một loạt các phản ứng trung gian,
dẫn tới tiêu thụ nitơ Ôxit, tích luỹ ozon, sinh ra nitơđioxit và hàng loạt các chất ô nhiễm thứ cấp như
formanđehyt, anđehyt, peroxyaxetylnitrat (PAN – C2H3O5N). Tập hợp tất cả các chất trên gọi là khói
quang hoá. Thành phần của khí quang hoá rất phức tạp và có tính độc cao tuỳ thuộc vào thành phần
của chúng, có khả năng gây xạm lá, giòn lá, mất màu lá, hạn chế quá trình trao đổi chất của thực vật,
gây cay, đau mắt, đau đầu, ho, mệt mỏi, gây bệnh phổi... thậm chí gây tử vong đối với người.
Bụi bao gồm các hạt khoáng Vô cơ không độc, các hạt hữu cơ như phấn hoa và các chất rắn lơ lửng
có thể có tính độc như bụi chì, kim loại nặng... Bụi sinh ra từ nhiều quá trình tự nhiên và nhân tạo
khác nhau. Bụi lơ lửng có thể di chuyển qua hàng ngàn kilomet, xuyên qua biển và đại dương, ví dụ
như từ Sahara đến tận Ấn Độ. Bụi phóng xạ có nguồn gốc từ các vụ nổ hạt nhân, lắng đọng xuống
đất, tích luỹ trong sinh vật theo chuỗi thức ăn, xâm nhập vào nước và từ đó gây hại cho người.
Bụi gây nhiều bệnh nguy hiểm. Các hạt nhỏ có thể chui vào tận phế nang và tiểu phế nang, từ đó vào
phổi, gây các bệnh viêm xoang, viêm phổi, ho, hen, xuyên. Một số loại bụi có tính độc cao như bụi
amiăng, bụi chì, bụi kim loại nặng, bụi phóng xạ..., một số loại bụi có màu, gây ô nhiễm môi trường,
một số loại bụi gây dị ứng cho da hoặc cơ quan hô hấp như phấn hoa, lông súc vật... Bề mặt các hạt
bụi vô cơ không độc có thể hấp phụ các chất gây độc hại, dính bám vi sinh vật gây bệnh và trở thành
có hại cho sinh vật và con người.
Sol khí là những hạt chất lỏng hoặc rắn cực nhỏ (10-10 cm), như sương mù, khói, có thể mang điện
tích, tồn tại trong trạng thái lơ lửng, rất khó lắng đọng. Sol khí và bụi lơ lửng có tác dụng hấp thụ và
khuyếch tán ánh sáng Mặt trời, làm giảm độ trong suốt của khí quyển, giảm tầm nhìn, gây mất thẩm
mỹ, vệ sinh. Tại các thành phố lớn công nghiệp phát triển, bức xạ Mặt trời giảm so với vùng nông
thôn 15-20 % và có thể làm giảm ánh sáng tự nhiên từ 1/3 vào mùa hè, 2/3 vào mùa đông.
Vi sinh vật xâm nhập vào không khí theo nhiều con đường khác nhau, như trực tiếp từ vật và người
mang mầm bệnh, phát tán từ đất... Càng gần mặt đất vi sinh vật trong không khí càng nhiều, môi
trường không khí càng tĩnh, khả năng phát tán càng kém và tích luỹ càng cao, nguy cơ chứa nhiều vi
sinh vật gây bệnh trong không khí sẽ càng lớn. Trong mỗi m’ không khí cách mặt đất 4-5 km chỉ có
vài cá thể vi khuẩn, trong khi tại gần sát mặt đất chúng lên tới hàng vạn. Không khí vùng biển, núi
cao ít bụi và vi khuẩn gây bệnh hơn không khí ở các khu vực đô thị, nơi đông dân cư, nơi điểm nút
giao thông sẽ có nguy cơ nhiều vi sinh vật gây bệnh hơn. Các vi sinh vật gây bệnh của đa số trường
hợp nhiễm khuẩn đường hô hấp có thể bảo tồn sự sống và tính độc hại tương đối lâu trong môi trường
không khí, đặc biệt là trong những nơi tối tăm và ẩm ướt (Bảng 6.1).
Siêu vi khuẩn gây bệnh trong không khí có nhiều loại, trong đó điển hình là siêu vi khuẩn cúm. Các
siêu vi khuẩn gây bệnh sởi, đậu mùa, quai bị cũng tồn tại trong không khí và có khả năng gây thành
dịch. Vi rút viêm não động vật, vi rút cúm lợn, viêm phổi ngựa... cũng truyền nhiễm qua không khí.
Ngoài ra trong không khí còn có bào tử của nhiều loại nấm mốc, trong đó có những loại tồn tại quanh
năm.
Bức xạ cực tím UV gồm nhiều dải có bước sóng khác nhau UVC, UVB và UVA. Dải sóng cực ngắn
UVC 10 - 90 nanomét có khả năng phá huỷ AND, giảm khả năng đề kháng của cơ thể sống, dễ dàng
bị ozon bình lưu hấp thụ, chặn lại. Dải sóng ngắn trung bình UVB có bước sóng 290 - 320 nanomet,
không xuyên qua kính, một lượng ít UVB giúp tăng cường tổng hợp D3 có ích cho xương và răng,
giúp tăng sức đề kháng, lượng quá lớn gây đột biến AND, gây bệnh về da (lão hoá, ung thư), và các
bệnh về mắt. Dải sóng ngắn dài UVA có bước sóng 320 - 380 nanomet. lượng vừa phải giúp tăng
cường kiến tạo sắc tố, bảo vệ da khỏi tác động xấu của UVB, lượng quá nhiều gây đông kết chất sắc
tố.
Lan truyền Ô nhiễm trong không khí xảy ra theo các phương khác nhau, bởi các cơ chế và nguyên
nhân khác nhau. Lan truyền theo phương ngang chủ yếu gây nên bởi gió, có tác dụng phát tán chất ô
nhiễm theo hướng gió, một mặt tạo khả năng giảm ô nhiễm tại nguồn, nhưng tăng nguy cơ ô nhiễm
theo hướng gió thôi, mở rộng vùng ô nhiễm. Nồng độ cực đại của các tác nhân gây ô nhiễm tỷ thuận
với lưu lượng phát thải, tỷ lệ nghịch với vận tốc gió và bình phương chiều cao hữu hiệu của nguồn
phát thải.
Sự lan truyền, khuếch tán các chất ô nhiễm trong không khí phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố khí
tượng, thời tiết, đặc biệt là chế độ gió, nhiệt độ và độ ẩm không khí.
Đảo nhiệt, sương khói là hiện tượng gây ô nhiễm không khí.
Mưa axit là những trận mưa có pH thấp < 5,6. Mưa axit xảy ra do sự hoà tan các khí oxit axit (CO2,
SO2, NO,) vào nước mưa. Mưa axit gây hậu quả nghiêm trọng cho các hệ sinh thái và tài nguyên
thiên nhiên. Cây côi và rừng bị tổn thương, cháy lá, rụng lá, giảm sinh khối, năng suất, chất lượng,
giảm đa dạng sinh học, đất bị chua hoá, các hệ sinh thái hổ bị tổn thương. Mưa axit làm cho kim loại
chóng bị rỉ mòn, ảnh hưởng tới tuổi thọ và chất lượng của các công trình xây dựng bằng bê tông cốt
thép, đường dây điện, huỷ hoại tượng đài, kiến trúc...
Các chất khí oxit axit có thể lắng đọng trực tiếp xuống các bề mặt, hấp phụ lên các bề mặt vật liệu
(gọi là lắng đọng axit khô), sau đó, trong điều kiện sương, mù... những hạt nước trên mặt các vật liệu
đó sẽ hoà tan những chất khí này tạo ra những giọt axit, gây hệ quả tương tự như mưa axit lỏng, quy
mô kém hơn nhưng mức độ thường xuyên hơn. Đây chính là nguyên nhân làm thủng rõ tượng đài
bằng đá hoa cương và các bề mặt bê tông. Trên thế giới, thiệt hại do mưa axit gây ra hàng năm ước
tính 1,45 tỷ USD.
Hiệu ứng nhà kính là một quá trình tự nhiên, trong đó các chất có khả năng hấp thụ sóng dài (các khí
nhà kính) ngăn cản một phần dòng năng lượng này phát tán trở lại khoảng không vũ trụ. Nhờ có hiệu
ứng nhà kính nhiệt độ Trái đất đạt được trong biên độ như hiện nay, thuận lợi cho mọi quá trình tự
nhiên như tuần hoàn nước, hoàn lưu khí quyển và các quá trình sống trên Trái đất. Thành phần các
chất khí nhà kính trong khí quyển ổn định là điều kiện quyết định đảm bảo chế độ nhiệt nói riêng và
khí hậu nói chung trên Trái đất tương đối ổn định và có tính quy luật. Gia tăng khí nhà kính trong khí
quyển làm cho cân bằng năng lượng bị phá vỡ, làm nhiệt độ Trái đất tăng so với quy luật thông
thường. Gia tăng hiệu ứng nhà kính gây tăng nhiệt độ trung bình Trái đất, làm thay đổi ranh giới các
đới khí hậu, sinh thái, nông nghiệp, dịch tễ học..., tăng tan băng ở hai cực và trên núi cao, dâng cao
mực nước biển trung bình, đe doạ nhấn chìm các vùng đất thấp ven biển. Gia tăng nhiệt độ không
đồng đều giữa các vùng địa lý làm thay đổi trường khí áp, phá vỡ quy luật sinh thành, diễn biến tự
nhiên của các hiện tượng thời tiết, gây biến động khí hậu toàn cầu, gia tăng thời tiết cực đoan, gây cản
trở cho dự báo và ứng xử tai biến, thiệt hại cho tài nguyên thiên nhiên và các quá trình sản xuất. Một
trong những hiện tượng biến động khí hậu thời tiết cực đoan quy mô lớn tác động tới nhiều người là
Elnino - Lanina kết hợp với nhiều động Nam Thái Bình Dương (SO).
Vai trò của các chất khí gây gia tăng hiệu ứng nhà kính như sau: CO2, - 50%, CFC - 20%, CH4 - 16%,
O3, - 8%, N2O - 6%. Trong thực tế, 80% CO, xả thải vào môi trường có nguồn gốc từ đột nhiên liệu
hoá thạch, còn lại là do sự phá rừng và các hoạt động khác, như đại dương bị ô nhiễm dẫn đến làm
giảm khả năng hấp thụ CO, tự nhiên. 50% NO xả thải vào môi trường có liên quan với việc đốt nhiên
liệu hoá thạch. 35% CH, xả vào môi trường có nguồn gốc từ sử dụng năng lượng (20% từ việc đốt
sinh khối, 15% từ việc khai thác khí thiên nhiên). Từ đây có thể thấy vấn để gia tăng hiệu ứng nhà
kính có mối quan hệ khăng khít, thuận chiều với tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch. Do đó, chiếm một nửa
phần nguyên nhân và việc khắc phục xả thải CO, dễ dàng và hiệu quả hơn, nên khi nói tới nguyên
nhân và giải pháp của vấn đề gia tăng hiệu ứng nhà kính người ta thường tập trung đề cập tới CO 2
Trách nhiệm của các lĩnh vực hoạt động của con người trong việc gây gia tăng hiệu ứng nhà kính
được xác định như sau: 49% do sử dụng năng lượng, 24% do hoạt động công nghiệp, 14% do phá
rừng, 13% do nông nghiệp.
Vụ rò rỉ khí MIC (Methyl Iso Cyanate) của Liên hiệp Sản xuất phân bón ở Bhopal, Ấn Độ năm 1984
làm 2 triệu người bị nhiễm độc trong đó 5.000 người chết, nhiều người bị mù... Sự cố nhà máy điện
hạt nhân Tecnobưn gây phát tán chất phóng xạ ra môi trường không khí, đất, nước, gây tử vong và
bệnh trầm trọng cho nhiều người.
Cháy rừng tại Inđônêsia năm 1997 gây ô nhiễm bụi khói tại chỗ và lan sang các quốc gia lân cận như
Malaixia, Philippin, Singapo, Brunây và Việt Nam, che khuất nắng ban ngày, cản trở tầm nhìn và gây
bệnh viêm đường hô hấp cho nhiều người.
Ô nhiễm không khí ở Việt Nam xảy ra theo quy mô địa phương. Các khu đô thị, công nghiệp bị ô
nhiễm bởi chất thải đột nhiên liệu hoá thạch, thất thoát nguyên liệu từ các công nghệ lạc hậu, chất thải
do mật độ xe có động cơ quá cao, dùng xăng pha chì, máy móc quá cũ, chất thải xây dựng và sinh
hoạt không được quản lý hợp lý, bao gồm cả ở thể rắn và lỏng. Những vùng có mật độ dân cư cao,
cây xanh ít, ô nhiễm chất hữu cơ cao, thường có nguy cơ ô nhiễm vi sinh vật gây bệnh ở mức cao.
Không khí trong nhiều căn hộ gia đình cũng không trong sạch do môi trường ô nhiễm, điều kiện vệ
sinh không đảm bảo, dùng bếp đun, nhà tiêu lạc hậu.
Ô nhiễm môi trường không khí không có biên giới hành chính, do đó các giải pháp cho vấn đề ô
nhiễm môi trường không khí phải mang tính toàn cầu, đồng bộ. Liên quan với vấn đề kiểm soát xả
thải CO, và CFC đã có Công ước khung về biến đổi khí hậu toàn cầu và Công ước về bảo vệ tầng
ozon.
Các giải pháp môi trường mang tính "hành động địa phương" bao gồm:
1- Giảm xả thải vào không khí bằng cách giảm sử dụng nhiên liệu hoá thạch, tiết kiệm tiêu thụ,
đặc biệt là tiêu thụ năng lượng, dùng công nghệ sạch, xử lý, lọc chất thải khí, tái sử dụng chất
thải, kiểm soát thải tại nguồn;
2- Phân tán chất thải từ nguồn bằng cách tăng chiều cao ống khói, thiết lập các vùng đệm, cách
ly có tính tới điều kiện phát tán chất thải tại nguồn (gió, độ cao ống khói...);
3- Quy hoạch điểm thải hợp lý, kiểm soát thải theo vùng xung quanh;
5- Xây dựng và sử dụng các công cụ luật pháp, kinh tế trong quản lý môi trường;
6- Kiểm soát đánh giá chất lượng môi trường bằng máy móc thiết bị và các dấu hiệu chỉ thị;
7- Giáo dục môi trường các cấp để thiết lập nền tảng đạo đức môi trường và các hành vi thân
thiện môi trường một cách tự giác, khoa học, hợp lý;
8- Giải quyết đồng bộ các vấn đề ô nhiễm môi trường nước và đất.
nhiễm nước là sự thay đổi thành phần và chất lượng nước không đáp ứng cho các các mục đích sử
dụng khác nhau, vượt quá tiêu chuẩn cho phép và có ảnh hưởng xấu đến đời sống con người và sinh
vật.
Nguồn gây ô nhiễm nước có thể do tự nhiên hoặc con người gây ra
Nguồn gốc tự nhiên: Nhiều quá trình xảy ra trong tự nhiên có khả năng gây ô nhiễm nước như hoạt
động của núi lửa, động đất, gió, nước sẽ hoà tan, rửa trôi, xói mòn và đưa các chất vào trong các thuỷ
vực. Sinh vật trong chu trình sinh địa hoá và trong vòng đời của mình có vai trò đáng kể trong việc
cung cấp, biến đổi hoặc lấy đi một số chất, làm thay đổi thành phần và tính chất của nước. Sau đó tuỳ
thuộc vào đặc tính thuỷ lực của thuỷ vực và thành phần hoá học của nước, sẽ diễn ra các quá trình
khác nhau như phản ứng hoá học tạo chất mới, lắng đọng trầm tích... làm thay đổi tính chất ban đầu
của nước. Thiên tai gây nên những thảm hoạ cho thế giới tự nhiên nói chung và sự sống nói riêng,
cũng đồng thời gây Ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước. Trong các thành phố hiện đại, thấm kém,
nước mưa sinh dòng chảy tràn cuốn theo nhiều vật chất ô nhiễm, được gọi là nước thải tự nhiên.
Hoạt động nhân sinh gây ô nhiễm không khí và đất tất yếu sẽ gây ô nhiễm nước, bởi trong quá trình
tuần hoàn liên tục của mình, nước phải đi qua cả hai thành tố này. Nghiêm trọng hơn cả là các hoạt
động xả thải trực tiếp vào nguồn nước. Nước thải được phân loại thành:
1- Nước thải sinh hoạt, chứa nhiều vi sinh vật gây bệnh, các hợp chất nitơ, photpho là chất thải
của người, gia súc, từ hoá chất sử dụng trong sinh hoạt;
2- Nước thải công nghiệp, thành phần đa dạng và tính chất phức tạp, thường có các chất độc hại
cao phụ thuộc vào nguồn thải;
3- Nước thải nông nghiệp, chứa nhiều dư lượng các hợp chất sử dụng trong nông nghiệp, chất
hữu cơ...,
4- Nước thải mỏ, chứa nhiều khoáng chất và các vật chất không tan.
Màu, mùi, vị: Nước tinh khiết không màu, không mùi, không vị. Sự xuất hiện màu, mùi vị của nước
một mặt biểu thị thay đổi tính chất lý học của nước, tác động bất thường đến cảm quan, thẩm mỹ, mặt
khác nó là dấu hiệu về sự thay đổi tính chất hoá học và sinh học của nước. Ví dụ như sự có mặt của
các chất hữu cơ, amoniac, hydrosunfua, clo, muối... gây mùi vị khó chịu.
Nhiệt độ: Nhiệt độ là nhân tố sinh thái quan trọng, nhiệt độ tăng quá cao hoặc quá nhanh đểu tác động
xấu tới hệ sinh thái, đặc biệt là những
mắt xích nhạy cảm nhất, như loài hẹp nhiệt, con non, ấu trùng, trứng, cơ quan sinh sản...
| Độ trong, độ đục, chất rắn lơ lửng (SS) là những thông số vật lý biểu thị sự có mặt của các hạt lơ
lửng, các phù du thực vật cản trở tầm xuyên qua của ánh sáng. Độ đục lớn, độ trong nhỏ tác động bất
lợi tới cảm quan, thẩm mỹ, làm giảm giá trị sử dụng của nước.
Tổng chất rắn hoà tan (TDS), độ dẫn điện là những đại lượng biểu thị lượng muối khoáng tan trong
nước. Sự có mặt của một số muối khoáng làm thay đổi vị nước và làm giảm giá trị sử dụng của nước.
pH là đại lượng đặc trưng cho mức độ axit hay kiểm của nước. Đối với nước trung tính sẽ có giá trị
pH 7, giá trị pH càng thấp chứng tỏ nước có tính axit cầng cao và ngược lại. Nước trong tự nhiên
thường có giá trị pH vào khoảng 6,0-6,5; nhiều loại sinh vật thuỷ sinh không có khả năng Sống trong
môi trường có pH quá cao hoặc quá thấp. Ví dụ như cá thường chỉ sống được trong khoảng pH 4 - 10.
Theo TCVN 5942 - 1995 quy định nguồn nước loại A có giá trị pH 6,0 - 8,5.
Oxi hoà tan (DO): Độ bão hoà oxi trong nước sạch phụ thuộc nhiệt độ, áp suất. Ở 0°C và áp suất 1
atm, oxi hòa tan đạt cao nhất (bão hoà) là 14,6 mg/lít. Thông thường oxi hoà tan trong nước chỉ đạt 8-
10 mg/lít, nhưng trong điều kiện quang hợp giải phóng oxi mạnh, nó có thể đạt tới 200% (siêu bão
hoà). Hai nguồn cấp oxi chính cho thuỷ vực là quang hợp, diễn ra trên tầng mặt khi có các thực vật và
tảo, được chiếu sáng và trao đổi với khí quyển qua mặt nước khi oxi trong nước chưa đạt độ bão hoà.
Hai quá trình tiêu thụ oxi chính là hô hấp, diễn ra suốt ngày đêm và phân huỷ các chất hữu cơ. Do đó
phân bố lượng ôxy hoà tan trong nước không đồng đều, lượng oxi hoà tan thường giảm dần theo độ
sâu, mức độ phân hoá giảm theo sự tăng xáo trộn thuỷ lực do sóng, dòng chảy, đối lưu... Căn cứ vào
lượng oxi hoà tan có thể đánh giá được các điều kiện chiếm ưu thế trong nước, đánh giá chất lượng
nước. Oxi hoà tan thấp không thuận lợi cho sự sống và quá trình tự làm sạch.
Nhu cầu oxi sinh hoá (BOD) là lượng oxi cần thiết cho quá trình phân huỷ các chất hữu cơ trong nước
bằng con đường sinh học. Thông thường người ta tính BOD cho 5 ngày đầu tiên, ký hiệu là BOD (nó
thường chiếm khoảng 70% BOD toàn phần) hoặc BOD trong 20 ngày đầu tiện, ký hiệu là BOD,0
(thường = 95-99% BOD toàn phần). Do đó BOD là đại lượng gián tiếp biểu thị mức độ ô nhiễm hữu
cơ trong nước.
Nhu cầu oxi hoá học (COD) là lượng oxi cần thiết cho quá trình oxi hoá các chất hữu cơ trong nước
bằng con đường hoá học, được xác định thông qua việc sử dụng một tác nhân oxi hoá mạnh trong môi
trường axit, ví dụ như dùng pemanganatkali KMnO4, hoặc bịcromatkali K2Cr2O7. Trong thực tế,
phản ứng oxi hoá xảy ra không chỉ với chất hữu cơ mà còn cả đối với một số chất vô cơ ở dạng khử,
chẳng hạn như Fe2+, do vậy COD là đại lượng biểu thị không chỉ cho chất ô nhiễm hữu cơ mà cả một
phần chất vô cơ. Phép phân tích COD có ưu điểm là cho kết quả nhanh, nó phản ánh lượng chất hữu
cơ bao gồm cả phần sinh vật có thể oxi hoá được và không oxi hóa được, do đó chỉ số COD> chỉ số
BOD.
6.3.3.2. Các tác nhân gây ô nhiễm nước về mặt hoá học
Kim loại nặng trong nước là những nguyên tố kim loại có tỷ trọng lớn (>5), chúng thường có mặt
trong tự nhiên với hàm lượng nhỏ nhưng lại có tính độc cao đối với đời sống sinh vật và con người.
Những kim loại nặng thường được nghiên cứu như As, Pb, Hg, Cd, Cu, Zn, Mn, ...
Hg là nguyên tố hiếm và độc, phát tán vào nước từ các nguồn thải tự nhiên, khai khoáng, Công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp sản xuất clo, kiếm. Thuỷ ngân có thể tồn tại ở dạng liên kết với các
tác nhân hữu cơ hoặc vô cơ. Trong môi trường axit, thuỷ ngân tồn tại ở dạng CH Hg. Thuỷ ngân vô
cơ tác động chủ yếu lên thận, còn metyl thuỷ ngân tác động lên hệ thần kinh trung ương. Chất này tan
trong nước, tích luỹ theo chuỗi thức ăn, gây độc cho sinh vật và người.
As có nguồn gốc tự nhiên từ núi lửa, xói mòn do gió, cháy rừng, bụi đại dương, nguồn gốc nhân tạo
từ các quá trình nấu chảy đồng chì, kẽm, sản xuất thép, đốt rừng, đốt chất thải, thuộc da, sành sứ, hoá
chất, thuỷ tinh, có trong thành phần một số thuốc bảo vệ thực vật. Các hợp chất metyl và đimetyl là
dạng phổ biến thường gặp nhất trong nước. Trong nước sạch, nước mưa, hàm lượng As từ 0,4-1,0
mg/l. As làm giảm sự ngon miệng, giảm trọng lượng, gây hội chứng dạ dày, ung thư.
Photpho thường gặp trong nước dưới dạng hợp chất H,PO, và HPO”, là chất dinh dưỡng cần thiết cho
thực vật. Mức photphat vô cơ tổng số trong nước được chấp nhận là 0,03 . 0,40 mg/l. Photphat cao
trong nước là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng phì dưỡng, phát triển nhanh chóng của tảo, gây ô nhiễm
nước.
Nitơ tồn tại ở các dạng khác nhau, như nitrat, nitrit, amoni và các dạng hữu cơ. Nó là chất dinh dưỡng
cần cho sự sống, vì có trong thành phần protein, enzym... Nồng độ nitơ cao trong nước gây nguy cơ
phú dưỡng, ô nhiễm nước. Nồng độ ion NO, NO cao trong nước uống gây bệnh xanh xao ở trẻ em,
nồng độ các chất này cao trong nước uống và thực phẩm là nguy cơ tạo ra chất nitrosamin gây ung
thư.
Lưu huỳnh là chất cần cho quá trình tổng hợp protein và được giải phóng ra trong quá trình phân huỷ
chúng. Sự phân huỷ yếm khí chất hữu cơ tại các vùng nước thiếu oxi, bùn đáy, sẽ tạo ra H,S có mùi
trứng thối, độc hại cho sức khoẻ còn trong môi trường oxi hoá sẽ tạo thành H2SO4 gây ăn mòn công
trình thiết bị dưới nước.
Các chất tổng hợp và các chất hữu cơ độc hại khác như thuốc bảo vệ thực vật, các chất tẩy rửa, các
chất dầu mỡ... cũng là những tác nhân quan trọng gây ô nhiễm nước về mặt hoá học.
6.3.3.3. Các tác nhân gây ô nhiễm nước về mặt sinh học
Nhiều loại vi sinh vật như vi khuẩn, vi rut, động vật nguyên sinh hoặc ký sinh trùng có khả năng sống
trong môi trường nước, trong đó có nhiều loài gây bệnh nguy hiểm như bệnh tả, lỵ, thương hàn...
Ngoài ra, sự có mặt của một số loài vi sinh vật có ảnh hưởng đến giá trị thẩm mỹ, cảm quan.
Các vi sinh vật gây bệnh có mặt trong phần cũng dễ dàng sống và lan truyền vào nước. Do vậy dấu
hiệu nước bị ô nhiễm phân, chứng tỏ nó có nguy cơ tiềm ẩn các tác nhân gây bệnh khác. Trong thực
tế, có rất nhiều loại vi sinh vật gây bệnh nguy hiểm cho con người sống trong môi trường nước nhưng
chúng thường rất biến động, hơn nữa việc xác định chúng là rất khó khăn. Do vậy để đặc trưng cho ô
nhiễm nước về mặt sinh học thường được xác định thông qua sự có mặt của một số loài vi khuẩn chỉ
thị ô nhiễm, có đặc điểm là tồn tại với số lượng lớn, phổ biến trong phần người và gia súc, dễ xác
định. Thường dùng là chỉ số coliform, bao 2007 Một nhóm các vi sinh vật tuy không gây bệnh nguy
hiểm cho con người nhưng có số lượng khá lớn và tương đối ổn định trong nước tự nhiên. Trong đó
một số loại thường được phân tích bao gồm:
E. Coli có nhiều trong phân người và súc vật, nên được xem là dấu hiệu chỉ thị ô nhiễm phân.
Liên cầu khuẩn Feacal streptococcts, bao gồm tất cả các liên cầu có mặt trong phần người và động
vật, chúng ít khi tăng sinh trong các nguồn nước và có sức đề kháng lớn, nên là dấu hiệu chỉ thị ô
nhiễm dài ngày.
Clostridium có nguồn gốc từ phân và các nguồn khác, tồn tại trong nước lâu hơn coliform và có khả
năng để không các hoá chất khử trùng nên được coi là dấu hiệu chứng tỏ quá trình khử trùng chưa
đạt yêu cầu.
Khả năng tự làm sạch của nước được thực hiện thông qua các quá trình cơ lý, hoá, sinh khác nhau
sau:
Pha loãng được thực hiện khi nồng độ chất ô nhiễm trong thuỷ vực thấp hơn nhiều so với trong nước
gia nhập, hoặc khi thuỷ vực đang Ô nhiễm nhận được nguồn cấp nước mới chất lượng sạch hơn. Tỷ lệ
giữa tổng lượng chất ô nhiễm với lượng nước sạch dùng để pha loãng càng nhỏ, khả năng pha loãng
càng cao. Ngoài ra pha loãng phụ thuộc nhiều vào mức độ xáo trộn của khỏi nước. Xáo trộn càng
mạnh, pha loãng càng xảy ra trên diện rộng. Pha loãng không trực tiếp làm giảm lượng chất ô nhiễm
có trong khối nước, nhưng nó làm giảm nồng độ chất ô nhiễm, tạo điều kiện thuận lợi cho các quá
trình tự làm sạch khác, đồng thời tạo cảm qu:àn môi trường tốt hơn, cải thiện các đặc trưng lý học của
nước.
Lắng đọng là quá trình chuyển trạng thái của vật chất không tan từ lơ lửng trong khối nước sang tích
luỹ trong vùng đáy. Quá trình này loại được vật chất ra khỏi khối nước, làm giảm nồng độ chất ô
nhiễm trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình hóa sinh tự làm sạch nước. Tuy nhiên nó
không loại được chất ô nhiễm ra khỏi thuỷ vực, hệ quả là tạo ra sự tích luỹ nhiễm trong trầm tích đáy.
Trạng thái lắng đọng chỉ là tương đối, khi điều kiện thuỷ lực trong khối nước thay đổi, nó lại có thể bị
cuốn trở lại trạng thái lơ lửng. Thông thường trong tự nhiên quá trình pha loãng, chuyển dịch diễn ra
thuận lợi nhất trong sông chảy xiết, còn quá trình lắng đọng diễn ra thuận lợi hơn trong các hổ.
Khả năng tự làm sạch hoá học của nước được thực hiện nhờ những phản ứng hoá học biến đổi một số
chất thành những chất mới có tính chất hoá học khác với các chất ban đầu, như ít độc hơn, có thể kết
tủa, bay hơi... Tốc độ phản ứng phụ thuộc phức tạp vào điều kiện môi trường, nồng độ chất tham gia
phản ứng, sự có mặt của các chất khác có chức năng xúc tác mà trong nhiều trường hợp chúng ta
không biết rõ ràng.
Khả năng tự làm sạch hoá sinh của nước được thực hiện nhờ các phản ứng phân huỷ chất hữu cơ bằng
vi sinh vật. Quá trình này chỉ diễn ra thuận lợi khi điều kiện sống của vi sinh vật phân huỷ được đảm
bảo và nồng độ chất ô nhiễm không quá cao.
Lọc sinh học thực hiện được theo các cơ chế sau: Lọc trực tiếp bởi động vật thân mềm, ví dụ Mytilus
cỡ 5 - 6 cm lọc được 3,5 lít/ngày, trai dài 5 - 6cm lọc 12 lít/ngày, ấu trùng Chironomus Plumosus với
mật độ 90,000 con/m sử dụng 250g chất hữu cơ, trong đó đồng hoá 100g, số còn lại bị VÔ cơ hoá.
Nhiều loại sinh vật có khả năng đồng hoá và phân huỷ các chất độc hại, trong một số trường hợp chất
độc được sử dụng như nguồn thức ăn, nguồn cấp 0,. Người ta đã tìm ra hàng trăm loại vi khuẩn và
nấm có khả năng phân huỷ dầu mỏ, giúp loại trừ 10 - 90% tổng lượng dầu và các sản phẩm của dầu
có trong nước.
Khả năng tự làm sạch của nước có giới hạn và có điều kiện. Khả năng tự làm sạch của nước đã giúp
các thuỷ vực tự bảo toàn được về chất trong những giai đoạn nhất định trước đây. Ngày nay khả năng
tự làm sạch của nước đang được khai thác và sử dụng trong các quy trình xử lý nước thải, làm giảm
chi phí môi trường trong các dự án phát triển.
Ô nhiễm nhiệt gây tác động rất xấu tới các hệ sinh thái nước, do nó làm tổn thương một phần hoặc
toàn thể cơ thể các cá thể, tổn thương một phần hoặc toàn bộ vòng đời của các loài, dẫn tới nguy cơ
tổn thương hệ sinh thái. Dấu hiệu rõ rệt nhất là cá chết hàng loạt, bắt đầu từ những loài nhạy cảm nhất
(hẹp nhiệt), hoặc những mắt xích nhạy cảm nhất trong vòng đời của chúng, như ấu trùng, con non... Ô
nhiễm nhiệt còn có thể gây tổn thương bộ phận sinh dục của một số loài, ảnh hưởng tới sinh sản duy
trì nòi giống và gây mất cân bằng sinh thái. Nguồn nước bị nhiễm phóng xạ từ khí quyển hoặc các
chất thải của các cơ sở có sử dụng chúng. Chất phóng xạ xâm nhập vào cơ thể người trực tiếp qua
nước uống, hoặc qua các thực phẩm bị nhiễm xạ. Những đồng vị phóng xạ thường gặp trong điều kiện
tự nhiên ở nguồn nước cấp là Bari (Ba226), Radon (Rn”), Thori (Th22), Uran (U238), Radi (Ra226).
Những đồng vị phóng xạ nhân tạo thường bắt nguồn từ các kết tủa sau vụ nỗ hạt nhân, phát tán từ pin
nguyên tử, trạm xử lý chất đốt cháy phóng xạ và sự đào thải các cặn phóng xạ khác nhau. Những chất
phóng xạ quan trọng nhất là Stronti (Sr), Cezi (Cs) và cả một 1*). Nhiễm phóng xạ liều cao gây chết,
liều thấp gây chết tế bào, thay đổi cấu trúc tế bào, gây ra các bệnh di truyền về máu, ung thư...
một số có tính trơ... Những chất hữu cơ bền vững và độc như PCP (Polyclorophenol), PCB
(polyclorobiphenol), các hydratcacbon đa vòng, hợp chất dị vòng chứa N và 0, thuốc bảo vệ thực vật.
Các dấu hiệu nhiễm độc thuốc trừ sâu nói chung là nhẹ thì nhức đầu, choáng váng, đau thái dương,
mệt mỏi, giảm trí nhớ, mất ngủ, chóng mặt, ăn kém, rối loạn tinh thần, trí tuệ; nặng thì run tay, giật
nhãn cầu, liệt thần kinh, sần, ngứa, chàm da, nổi ban, ung thư, tổn thương di truyền...
Ô nhiễm do các chất vô cơ, kim loại nặng, tuỳ thuộc đặc tính lý hoá của các chất gây ô nhiễm. Nhiều
kim loại nặng có tính độc, biến đổi hoá học theo những xu thế khác nhau trong các điều kiện môi
trường khác nhau, gây tác động xấu cho môi trường và con người.
Ô nhiễm dầu gây cản trở trao đổi oxi với khí quyển, tổn thương các thuỷ sinh vật và các sinh vật ăn
thức ăn là các loài này, gây mất thẩm mỹ, mùi, làm giảm đến mất giá trị sử dụng của nước và các sản
phẩm từ nước.
Ô nhiễm chất tẩy rửa tổng hợp: Những chất chính để sản xuất chất tẩy rửa tổng hợp là dodexyl tạo
bọt, benzene, sulfonic, acide, pentanatri polyphosphate (Na,P,Q,...) để bọc các ion kim loại, làm
chúng tan được, sunfat natri làm chất tẩy chóng khổ, Silicat natri làm xà phòng không vón cục... Chất
tẩy rửa tổng hợp khó phân huỷ sinh học, dễ tích tụ gây ô nhiễm, làm giàu photphat trong nước, tạo
mảng bọt lớn, ngăn cản sự bổ sung oxi từ khí quyển.
ô nhiễm nước về mặt sinh học | Các tác nhân chính gây ô nhiễm nước về mặt sinh học là vi khuẩn gây
bệnh, virut, ký sinh trùng và các loại sinh vật khác. Trong nước sạch, vi khuẩn gây bệnh sống được
lâu hơn trong nước có tạp khuẩn.
Các loại bệnh do vi khuẩn gây qua đường nước như tả, lỵ, thương hàn. Các bệnh do siêu vi khuẩn gây
ra lan qua đường nước là viêm gan siêu vi trùng, bại liệt, viêm kết mạc... Ký sinh trùng lan truyền qua
đường nước là trứng giun sán. Đặc biệt có các loại ký sinh trùng có thể truyền qua da vào cơ thể con
người như giun móc, giun lươn. Một số ký sinh trùng tồn tại trong các vật chủ trung gian truyền bệnh,
như sán lá phổi Sống trong cua suối...
Nước có hàm lượng chất hữu cơ cao và thiếu cơ chế cấp oxi hoà tan thuận lợi, sẽ xảy ra quá trình
phân huỷ yếm khí chất hữu cơ trong nước bởi các vi khuẩn kỵ khí, làm cho nước có mùi thối, màu
đen. Các loài tảo ưa hàm lượng dinh dưỡng cao, sẽ phát triển rất mạnh khi trong nước giàu photpho
và nitơ (hiện tượng phú dưỡng), làm nước chuyển màu hoàn toàn, sang xanh sẫm hoặc nâu đỏ... rồi
cuối cùng là thối đen, khiến toàn bộ hệ sinh thái nước bị tổn thương, thậm chí huỷ diệt. Các loài giáp
xác, giun có thể là nơi lưu trú trực khuẩn hoặc virut gây bệnh, ngăn cản các hoá chất khử trùng diệt
trừ chúng.
Ô nhiễm nước ở Việt Nam mang tính địa phương. Những vùng đô thị, khu công nghiệp, khai khoáng,
nơi nhận nước thải có mức độ ô nhiểm cao nhất, nước mặt có màu, mùi, vị bất thường, các chỉ tiêu
chất lượng nước không đảm bảo, điều kiện cho quá trình tự làm sạch nước bị phá vỡ.
| Tác nhân gây ô nhiễm nước ở Việt Nam đa dạng, giống như tình trạng chung của thế giới, do các
nguồn thải công nghiệp, nông nghiệp, dân sinh, tự nhiên, khai thác mỏ... thành phần và tính chất chất
thải phức tạp, lượng thải tập trung, công tác quản lý chất thải không tốt.
Chất lượng nước ngầm, suy giảm, đặc biệt là tại các vùng đô thị có tốc độ khai thác mạnh.
Tràn dầu đang là một trong những sự cố môi trường gây nhiều thiệt hại cho hệ sinh thái đới ven bờ và
vùng khơi. Ngày 10/8/1989, tàu LeaLa đắm tại vịnh Quy Nhơn làm hơn 200 tấn dầu FO tràn ra biển.
Ngày 26/11/1992, vỡ ống dẫn dầu mềm từ tàu dầu đến phao nạp tại mỏ Bạch Hổ, làm tràn khoảng
300-700 tấn dầu thô... Ngày 8/5/1994, vụ va chạm tàu tại cây số 20 luồng Sài Gòn - Vũng Tàu làm
tràn trên 130 tấn dầu FO, gây ô nhiễm trên 200km. Ngày 30/10/1994, tàu chở dầu Neptuyn Aries đâm
vào cầu cảng Cát Lái - Thủ Đức, làm tràn 1.864,766 tấn xăng dầu, khí các loại, gây ô nhiễm nặng
khoảng 300km.
Đến nay đã có 37 cảng biển lớn cùng hàng trăm cảng nhỏ của địa phương, 800 tàu hàng và 54.000 tàu
thuyền đánh cá lớn nhỏ hoạt động.
Nuôi trồng thuỷ sản nước mặn bằng hình thức đầm nuôi, lồng bè làm phát sinh thức ăn dư, gây ô
nhiễm hữu cơ nước. Nuôi thuỷ sản nước lợ trên cát hiện đang được thử nghiệm ở nhiều vùng khô hạn
cũng đã báo hiệu những nguy cơ gây tổn thương sâu sắc các hệ sinh thái và môi trường do nước mặn
phát tán theo không khí, xâm nhập vào các tầng nước ngọt hiếm hoi trong đất cát.
nhiễm nước phát triển, lan truyền và tác động theo phạm vi lưu vực, do vậy giải pháp cho các vấn đề
môi trường nước trước tiên phải mang tính lưu vực, bao gồm: quản lý các dự án phát triển liên quan
đến sử dụng tài nguyên nói chung và tài nguyên nước nói riêng trên lưu vực, quản lý chất lượng nước
theo lưu vực; giải quyết đồng bộ các vấn đề ô nhiễm môi trường đất và không khí.
Các giải pháp mang tính địa phương cho vấn đề ô nhiễm nước là:
1- Giảm xả thải bằng cách tiết kiệm, tái sử dụng, tái chế.
2- Phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ sạch và công nghệ xử lý chất thải;
3- Trồng rừng, làm sạch nước đang bị ô nhiễm bằng các quá trình tự nhiên hoặc Công nghệ;
4- Xây dựng hệ thống luật pháp và hành pháp về môi trường hiệu quả; Thiết lập các bộ tiêu
chuẩn môi trường;
5- Quản lý môi trường bằng các công cụ luật pháp, kinh tế...
6- Kiểm soát đánh giá chất lượng môi trường bằng máy móc thiết bị và các dấu hiệu chỉ thị
để giúp cho việc ngăn ngừa, hạn chế lan truyền ô nhiễm, phòng tránh ô nhiễm nước;
7- Giáo dục môi trường các cấp để thiết lập nền tảng đạo đức môi trường và các hành vi
thân thiện môi trường một cách tự giác, khoa học, hợp lý.
Đun sôi nước là một giải pháp khử trùng tốt, nhưng phải đun sôi trong vòng 1 phút và lên cao mỗi
1.000 m lại phải tăng thêm thời gian đun sôi 1 phút.
Đất là một hệ sống, một hệ sinh thái với đầy đủ các đặc trưng của nó. Do đó ô nhiễm đất được hiểu là
sự có mặt của các độc chất, gây hại trực tiếp cho con người và sinh vật, hoặc thay đổi thành phần tính
chất của đất, vượt ra ngoài miền giới hạn sinh thái của sinh vật, gây suy giảm nghiêm trọng các chức
năng của đất và ảnh hưởng xấu cho hệ sinh vật trong đất và trên mặt đất.
Đất có tính đệm, là khả năng chống lại sự thay đổi các yếu tố trong đất khi có sự tác động từ bên
ngoài. Khả năng đệm của đất được biết đến trước hết là khả năng chống lại sự axit hoá hay kiểm hoá
đất. Đất có khả năng lọc, giữ lại các hạt kích thước lớn, hấp phụ trao đổi ion bởi keo đất. Đất cũng có
khả năng tạo liên kết giữa các hợp chất mùn, hữu cơ với các ion kim loại độc hại thành các phức chất
chelat không độc, như muối humat hay fulvat. Trong đất có nhiều loài vi sinh vật có khả năng phân
huỷ chất hữu cơ, chuyển hóa thành những chất dinh dưỡng cho cây trồng, hoặc kìm hãm và hạn chế
sự phát triển của các sinh vật gây hại. Trong đất có thể có một số vi sinh vật phân huỷ dầu mỏ, làm
sạch môi trường. Nước trong đất đóng góp vào việc hoà tan, pha loãng làm giảm nồng độ chất Ô
nhiễm trong đất.
Khả năng tự làm sạch của đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố như số lượng và chất lượng hạt keo đất,
hàm lượng mùn, thành phần cơ giới đất cũng như các tính chất lý, hoá và sinh học đất. Khả năng tự
làm sạch của đất là có giới hạn. Khi các điều kiện cần cho quá trình làm sạch bị phá huỷ, hoặc khi
nồng độ chất ô nhiễm quá lớn, đất có thể mất khả năng tự làm sạch, Khả năng tự làm sạch của đất là
cơ sở giải quyết các vấn đề
môi trường trong các vùng nông nghiệp và dân cư trước đây, khi mật độ dân số thấp, tổng lượng thai
thấp và các chất thải chủ yếu ở dạng hợp chất tự nhiên. Khả năng tự làm sạch của đất hiện vẫn đang
được khai thác để xử lý nước thải trong những điều kiện nhất định.
TCVN 5941 - 1995 quy định giới hạn tối đa cho phép của dư lượng 22 hoá chất bảo vệ thực vật trong
đất, ví dụ mức cho phép của chất trừ cỏ 2,4 - D là 0,2 mg/kg đất và của các thuốc trừ sâu Lindan,
Monitor là 0,1 mg/kg dat
TCVN 5300 -1995: Phân loại ô nhiễm đất về mặt hoá học: 1- Đất bị nhiễm bẩn nặng là đất có hàm
lượng các hoá chất vượt quá nồng độ giới hạn cho phép và đất có hiệu suất sinh học thấp do tác động
của nhiễm bẩn hoá chất, những đặc tính cơ lý hoá sinh biến đổi đáng kể, làm các hoá chất trong cây
trồng vượt quá giới hạn cho phép: 2- Đất nhiễm bẩn vừa là đất có sự vượt quá nồng độ giới hạn cho
phép về các hoá chất độc hại, nhưng không thấy có những biến đổi đáng kể về tính chất của đất; 3-
Đất bị nhiễm bẩn nhẹ là đất có hàm lượng các hoá chất không vượt quá nồng độ giới hạn cho phép,
song cao hơn nên tự nhiên.
TCVN 5302 - 1995: Yêu cầu chung đối với việc tái tạo đất bị huỷ hoại do các hoạt động kinh tế và
dân sinh.
Nồng độ của các hợp chất nitơ khoáng trong quá trình phân huỷ hợp chất hữu cơ chứa nitơ xác định
thời điểm đất bị nhiễm chất hữu cơ, ví dụ khi hàm lượng NHK cao chứng tỏ quá trình phân huỷ hữu
cơ mới bắt đầu hay đất mới bị ô nhiễm; khi hàm lượng NO, tầng chứng tỏ quá trình chuyển hoá nitơ
xảy ra mạnh hay đất đang bị ô nhiễm; còn khi hàm lượng NO, cao là biểu hiện của đất bị ô nhiễm đã
lâu.
Chỉ số vệ sinh là tỷ số giữa nitơ anbumin và nitơ hữu cơ của đất. Khi đất bị nhiễm bẩn thì vi sinh vật
hoạt động yêu, nitơ hữu cơ tăng và chỉ số vệ sinh giảm. Hoặc dựa vào số lượng trứng giun đất, mức
độ nhiễm bin được đánh giá như ở Being 6.3.
6.4.3. Phân loại ô nhiễm đất
Ô hiển nhiệt: Khi nhiệt độ trong đất tăng gây ra những biến động bất lợi trong hệ sinh vật đất. gây rối
loạn, phá huỷ quá trình phân giải chất hữu Cơ, nguy cơ dẫn đến làm đất chai cứng, mất dinh dưỡng. Ở
mức độ cao sẽ là 1 chét các sinh vật đất và phá vỡ hoàn toàn hệ sinh thái đất. Nguyên nhân gây ô
nhiễm nhiệt đất là từ nước thải công nghiệp, đốt nương, cháy rừng...
Ô nhiễm phóng xạ: Các chất phóng xạ tự nhiên có sẵn trong lòng đi, như U, R..., chúng phân rã và
gây phóng xạ. Sau các vụ nổ nguyên tử trong đất thường tồn lưu 3 chất phóng xạ chủ yếu là Sr", I,
Cs". Các chất này sẽ theo chu trình dinh dưỡng xâm nhập vào các cơ thể sống và người, gây các bệnh
hiểm nghèo và di truyền về máu, gây ung thư.
Hoá chất sử dụng trong nông nghiệp gây tác động tức thời lên hệ sinh thái đất, gây chết một số loài.
Một số hoá chất có thể tồn tại lâu dài trong môi trường do tính trợ của bản thân các chất độc hoặc do
liên kết với các chất hữu cơ và khoáng đất, tạo nên sự tích luỹ tới ngưỡng gây hại trong môi trường và
trong cơ thể sinh vật, gây tác động từ từ lên hệ sinh thái. Các hoá chất gây ô nhiễm đất trong nông
nghiệp đáng chú ý là các loại thuốc bảo vệ thực vật. Theo Barker (1958), khi dùng DDT trong rừng
du, một số côn trùng chết ngay do ngộ độc trực tiếp. Chim cổ đỏ chết sau khi ăn phải 11 con giun bị
nhiễm độc này. Mức độ tích luỹ sinh học của DDT trong hệ sinh thái đất rừng du như sau: đất 10
ppm, giun đất 90 ppm, chim Cổ đỏ 750 ppm.
Chất thải công nghiệp chứa nhiều hoá chất độc hại thải trực tiếp vào đất, hoặc qua nước, không khí
vào đất, làm cho đất bị ô nhiễm hoá học. Khoảng 50% chất thải công nghiệp tồn tại ở thể rắn, trong
đó có khoảng 15% có khả năng gây độc nguy hiểm. Các tác nhân hoá học gây ô nhiễm đất nghiêm
trọng là chất phóng xạ, kim loại nặng, axit. Trong đất, tính di chóng gây độc của kim loại nặng phụ
thuộc vào các yếu tố như thay đổi điện thể oxi hoá khử, pH, nồng độ muối trong dung dịch đất và các
phức chất có khả năng hoà tan kim loại nặng. Việc sử dụng bùn thải công rãnh thành phố bón cho cây
trồng cũng là nguyên nhân dẫn đến làm ô nhiễm đất, vì trong chúng thường có chứa khá nhiều các
nguyên tố kim loại hãng khác nhau. Theo Williams và Vlamis, hàm lượng kim loại nặng trong đất và
trong bùn thải như sau (Bảng 6.4).
Ô nhiễm đầu
Tác động của dầu tới môi trường đất thể hiện qua nhiều mặt:
1-Thoái hoá tính chất lý hoá của keo đất, làm cho keo bị trơ, không còn khả năng hấp phụ
trao đổi;
2- Thiếu ôxy do dầu cản trở trao đổi không khí với khí quyển, và chiếm chỗ các lỗ hổng
chứa không khí, làm các sinh vật đất ngạt thở chết;
3- Gây ngộ độc cho sinh vật đất, dính bám rễ cây...;
4- Ảnh hưởng đến tính đệm, tính ôxy hoá, độ dẫn điện, dẫn nhiệt và nhiều quá trình khác
nhau xảy ra trong đất.
Thành phần chất thải sinh hoạt đa dạng (Bảng 6.5), thay đổi theo mùa, phụ thuộc vào điều kiện kinh
tế và đặc thù văn hoá của đối tượng thải. Thành phần nguy hiểm nhất trong chất thải sinh hoạt là chất
hữu cơ và một số hoá chất dùng trong sinh hoạt. Chất hữu cơ dễ thối rữa, từ đó phát sinh các sinh vật
gây bệnh, nước rỉ bẩn, đồng thời khi chôn lấp lâu ngày sẽ tạo các lỗ rỗng trong đất. gây sụt lún.
Tác nhân sinh học trong đất gây bệnh cho người được chia thành 3 nhóm:
Nhóm này gồm các sinh vật gây bệnh cho người, trong vòng đời cần có một thời gian sống trong môi
trường đất. Chủ yếu là do các trực khuẩn và nguyên sinh động vật đường ruột như trực khuẩn tả, lỵ,
thương hàn, lỵ amip... Chúng thường không tồn tại lâu trong môi trường đất những trong những điều
kiện thuận lợi chúng có thể tồn tại lâu hơn, ví dụ như trực khuẩn thương hàn có thể tồn tại trong đất
được 2 - 4 tuần, phầy khuẩn tả tồn tại được trong đất 1 tháng. Do vậy tác nhân sinh học truyền các
bệnh truyền nhiễm qua đất cần được đặc biệt lưu ý trong những thời kỳ có dịch bệnh. Sự xả thải và sử
dụng không hợp lý phân người và gia súc làm phát tán trứng giun sán vào đất, sau đó xâm nhập theo
đường thực phẩm, nước uống và những thói quen ăn uống không hợp vệ sinh vào cơ thể người, đáng
lưu ý là giun đũa, giun móc, sán.
Nhóm này gồm các sinh vật gây bệnh cho người, như bệnh dịch hạch truyền từ chuột sang đất bẩn rồi
sang người; bệnh than truyền từ gia súc qua đất rồi sang người.
Bệnh xoắn khuẩn vàng da (do Leptospira) có nguồn gốc từ vật nuôi mang bệnh, thường là trâu bò,
chuột cống, chuột chù..., đào thải xoắn khuẩn qua nước tiểu. Trong nước hoặc bùn có pH trung tính
hoặc kiềm nhẹ, xoắn khuẩn vàng da có thể sống được hàng tuần. Những người làm nông nghiệp
thường mắc bệnh này do tiếp xúc với đất bị ô nhiễm, hoặc do tiếp xúc với chất phóng uế mang nguồn
bệnh.
Bệnh uốn ván và bệnh nấm, do các tác nhân gây bệnh có nhiều trong đất bẩn, xâm nhập vào cơ thể
qua da, qua các vết trầy xước.
Không đổ thải trực tiếp các chất thải vào đất. Các chất thải phải được thu gom toàn bộ, phân loại,
nhằm tách riêng từng loại chất thải theo mức độ độc hại và cách thức ứng xử:
1- Hàng hoá còn thời hạn sử dụng hoặc rác tái chế như giấy, kim loại, thuỷ tinh....
2- Chất thải xây dựng, vật liệu rắn dùng làm vật liệu san lấp;
3- Chất thải độc hại như hoá chất, chất phóng xạ, chất thải y tế và có giải pháp ứng xử riêng
bằng công nghệ và theo quy phạm phù hợp;
4- Chất thải hữu cơ có thể chôn lấp, đốt hoặc dùng để sản xuất phân bón..
Thiết kế bãi chôn lấp rác thải hợp vệ sinh, có hệ thống thu gom xử lý nước rỉ, thoát khí thải, sử dụng
công nghệ triệt tiêu thấm và lan truyền ô nhiễm vào đất, nước, hạn chế sự phát triển của các sinh vật
và côn trùng gây bệnh.
Quản lý, sử dụng hợp lý các loại phân bón và hoá chất sử dụng trong nông nghiệp. Phân hữu cơ phải
được xử lý trước khi bón vào đất ví dụ như ủ phân diệt vi sinh vật, vi khuẩn gây bệnh trước khi khi sử
dụng trong nông nghiệp.
Khi đất đã bị ô nhiễm cần được xử lý làm sạch đất bằng các công nghệ thích hợp.
CHƯƠNG 7:
7.1. CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG TOÀN CẦU
7.1.1. Lan truyền ở nhiễm qua biên giới, ô nhiễm không khí, mưa axit
NO, và SO, là thủ phạm chính gây mưa axit và lắng đọng axit khô, làm tổn hại các hệ sinh
thái. Theo Ngân hàng Thế giới, năm 1991, trung bình mỗi người phát thải CO, vào khí quyển
là 4,21 tấn; trong đó châu Á là 2,11 tấn, Bắc và Trung Mỹ 13,5 tấn, châu Âu 8,2 tấn. Tổng
lượng phát thải metan CH4 , do các hoạt động của con người là 250 triệu tấn/năm. Trong đó,
riêng châu Á là 120 triệu tấn, châu Âu 297 triệu tấn, Bắc và Trung Mỹ 36 triệu tấn. Tổng
lượng phát thải CFC là 400 nghìn tấn, trong đó châu Á là 100 nghìn tấn, châu Âu 120 nghìn
tấn, Bắc và Trung Mỹ 100 nghìn tấn. Tại Trung Quốc, các nhà máy thái 70% tổng chất gây ô
nhiễm môi trường, bao gồm 70% ô nhiễm hữu cơ các nguồn nước, 72% phát thải SO, 75%
muội khói và phần lớn các loại bụi lắng đọng.
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã ghi nhận sự lan truyền tự nhiên theo phương ngang và
phương thẳng đứng, theo các hoàn lưu khí quyển đã đem ô nhiễm môi trường ra xa khu vực
phát thải. Mưa axit ở Canada là do phát thải công nghiệp từ Mỹ. Tại Bắc Mỹ và châu Âu, mưa
axit đã gây thiệt hại khoảng 24% rừng cây lá kim và 18% rừng cây lá rộng.
7.1.2. Chất thải độc hại tăng và bị xuất khẩu qua biên giới
Hiện tượng xuất khẩu chất thải độc hại sang các nước đang phát triển để xử lý, hoặc sử dụng
như là những nguồn nguyên liệu rẻ tiền đang diễn ra khá phổ biến trên thế giới. Nguyên nhân
chính là do việc xử lý tại chỗ các chất thải này rất tốn kém, cơ chế mở của kinh tế thị trường
và luật môi trường tại nhiều quốc gia đang phát triển còn lỏng lẻo hoặc kém hiệu lực. Việc
xuất khẩu chất thải độc hại vào các nước đang phát triển thường dưới dạng những hợp đồng và
chuyển giao bất hợp pháp thông qua các Công ty tư nhân cũng như chính phủ của các nước
nghèo. Từ 1986-1991 có 175 triệu tấn chất thải độc hại đã được chào hàng trên thị trường thế
giới, đặc biệt là ở các nước vùng Caribean, Trung và Nam Phi. Các quốc gia phát triển thường
biện hộ rằng họ đã trả một khoản tiền nhất định cho những nước nhập khẩu, tuy nhiên số tiền
phải trả này ít hơn nhiều so với mức chi phí cho cất giữ, xử lý và thải bỏ tại chính nước mình.
Ví dụ các công ty Mỹ đã trả cho Guinea 40 USD/tấn chất thải công nghiệp độc hại, thay vì
phải chi 1000 USD/tấn để đáp ứng được các quy định nghiêm ngặt của chính phủ mình.
Nigieria đang có khoảng 3800 tấn chất thải hoá học từ châu Âu được nhập với mức phí 100
USD mỗi tấn, trong khi chi phí cho việc đổ chất thải này ở châu Âu là 380-1750 USD/tấn.
Sự tiến bộ nhanh chóng của ngành công nghệ thông tin làm cho các máy tính nhanh chóng trở
nên lạc hậu, tạo ra cơn ác mộng cho quản lý rác thải. Rác thải máy tính chứa nhiều chất độc
hại như chì, thủy ngân, cadimi, asen và chất cháy chậm. Ước tính sẽ có khoảng 250 triệu máy
tính bị thải ra trong 5 năm tới. Riêng ở Mỹ, các thiết bị điện tử trọn bộ, gồm cả tivi và máy
tính cá nhân tạo ra 2 triệu tấn rác/năm. Mỹ đã xuất một phần đáng kể lượng rác này sang
Trung Quốc, Pakistan và Ấn Độ. Sự an toàn của những loại chất thải này không chỉ là những
thách thức về mặt công nghệ mà còn có thể liên quan tới chính trị. Các nước đang phát triển
còn khó khăn hơn rất nhiều so với các nước công nghiệp trong việc giải quyết các chất thải
độc hại - kể cả về nhận thức cũng như về công nghệ. Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc
(UNEP) đã đưa ra một danh sách gồm 44 chất được coi là độc hại và khuyến nghị đối với các
nước nhập khẩu nên đưa ra bằng chứng về khả năng giải quyết chất thải đặc thù đối với việc
trao đổi mua bán.
7.1.3. Biến đổi khí hậu toàn cầu
- Nhiệt độ Trái đất thế kỷ XX đã tăng khoảng 0,5°C và có thể tăng 1,5 - 6°C vào cuối thế kỷ
XXI. Sự nóng lên toàn cầu làm thay đổi chế độ thời tiết khó lường như băng tan mạnh và mực
nước biển sẽ dâng cao khoảng 15 - 95 cm so với hiện nay, gây xói lở bờ và chìm ngập vùng
đất thấp ven biển, làm cho 75% các thành phố ven biển bị ngập lụt. Dịch bệnh tăng lên do
nóng, ẩm, các bệnh nhiệt đới lan toả về phía các vùng vĩ độ cao.
Sự tăng nhiệt độ không xảy ra đồng đều trên Trái đất. Ở các vùng vĩ độ cao, nhiệt độ có thể
tăng 6°C, trong khi lân cận xích đạo, nhiệt độ chỉ tăng khoảng 2°C. Điều đó dẫn đến biến động
bất thường các hoàn lưu khí quyển, thay đổi quy luật hình thành khí hậu thời tiết, cường độ và
tần suất của các hiện tượng bão lụt, hạn hán gia tăng, mưa lụt gia tăng ở vùng ven biển trong
khi sa mạc hóa tăng cường ở những vùng nằm sâu trong lục địa.
Thế giới đã thống nhất hành động trong Công ước khung về biến đổi khí hậu toàn cầu 1992
(168 nước và Liên minh châu Âu phê chuẩn). Trong Nghị định thư Kyoto 1997, các quốc gia
phát triển cam kết đến 2010 sẽ giảm phát xả khí nhà kính xuống 5 - 8% để đạt mức thải trước
năm 1990. Mỹ chấp nhận cắt giảm 5%, nhưng sau đó họ lại cho rằng mục tiêu giảm phát xả
khí nhà kính mang tính tự nguyện và do chưa có đủ căn cứ khoa học về nguyên nhân gây biến
đổi khí hậu toàn cầu, chưa cần thiết phải làm đảo lộn nền kinh tế bằng việc giảm phát thải CO,
nên họ đã rút khỏi Nghị định thư Kyoto.
El Nino (SGK/203)
7.1.4. Suy giảm tầng ozon
Có khoảng 90% lượng Ozon khí quyển tập trung ở tầng bình lưu, trong khoảng 16 - 40 km tuỳ
thuộc vĩ độ, dày đặc nhất tại độ cao 19 - 23 km. Ozon bình lưu được tạo ra chịu ảnh hưởng của
bức xạ cực tím (UV), nên có nồng độ biến động trùng pha với chu kỳ vết đen Mặt trời, với
mức dao | đóng khoảng 1- 2%. Ozon bình lưu hình thành quanh năm ở vùng xích đạo và di
chuyển về phía các cực nhờ chuyển động của không khí. Ozon hấp thụ mạnh tia cực tím, làm
nhiệt độ không khí trong tầng này tăng lên, đồng thời ngăn cản các tia tử ngoại, bảo vệ đời
sống của các sinh vật trên Trái đất.
Trong tầng Ozon, nồng độ trung bình là 300 Dobson, khi nồng độ Ozon giảm xuống dưới 220
Dobson thì được xem là tầng ozon bị thủng. Hiện tượng tầng ozon bình lưu mỏng đi (thủng) ở
hai cực, được phát hiện lần đầu năm 1981. Năm 1991 đã phát hiện lỗ thủng tầng ozon Nam
Cực rộng 24 triệu km, năm 2000 lỗ thủng này đã tăng lên gấp rưỡi. Theo dự | báo của các nhà
khoa học thì đến năm 2030 tầng ozon sẽ bị suy thoái khoảng 6,5% trên phạm vi toàn cầu, và
16% ở khu vực từ vĩ độ 60 trở lên.
Những chất cơ bản làm tăng cường quá trình phá huỷ tầng ozon là: 1- CFC, trên tầng bình lưu,
khi bị tác động bức xạ cao CFC sẽ giải phóng Cl. Mỗi nguyên tử Cl tự do thoát ra từ một phân
tử CFC có thể phá huỷ 100.000 phân tử ozon; 2- Chất thải của máy bay siêu âm, chất tẩy rửa,
halon chống cháy, metylbromua (CH3Br) dùng làm chất diệt khuẩn, bảo quản thực phẩm, phụ
gia trong nhiên liệu vận chuyển... Br giải phóng ra | từ CH3Br có khả năng phá huỷ ozon cao
gấp 30 - 60 lần clo.
Nồng độ tầng ozon giảm 1% sẽ làm tăng bức xạ cực tím chiếu xuống mặt đất 2%, có khả năng
làm cho 100.000 - 150.000 người bị mù loà; 2% dân số thế giới bị ung thư ác tính, trong đó
0,2 - 0,3% chết tức khắc, ung thư da không sắc tố tăng thêm 300.000 ca/năm, đục thuỷ tinh thể
tăng 1,7 triệu ca/năm; ức chế hệ thống miễn dịch ở người và sự sinh trưởng của thực vật (hạn
chế quang hợp), làm giảm sức đề kháng, giảm hiệu quả tiêm chủng, phá huỷ AND, huỷ diệt
con non và các quần thể sinh vật nổi; giảm thực vật phù du biển, từ đó làm giảm lượng hải
sản; Tăng nhiệt độ trung bình Trái đất.
Để hạn chế các hệ quả xấu trên, thế giới đã ký kết Công ước Viên về bảo vệ tầng ozon và Nghị
định thư Montreal về các chất phá hoại tầng ozon. Những tiến bộ trong việc thực hiện các văn
bản luật pháp quốc tế này là rất đáng kể. Các nước công nghiệp đã loại bỏ việc sản xuất và tiêu
thụ khí halon, một trong những chất phá huỷ ozon mạnh nhất, vào ngày 1/1/1994. Mức tiêu
thụ CFC ở các nước công nghiệp giảm từ gần 1 triệu tấn năm 1987 xuống khoảng 13 nghìn tấn
năm 1996. Quỹ đa phương thực hiện Nghị định thư Montreal đã cấp 365 triệu USD (tính đến
1997) cho các nước đang phát triển để chuyển sang công nghệ an toàn về ozon.
7.1.5. Ô nhiễm nước, ô nhiễm biển và đại dương
Tài nguyên nước ngọt đang bị ô nhiễm và khai thác cạn kiệt. Các biển và đại dương ngày càng
bị ô nhiễm, sự suy thoái của các hệ sinh thái ven biển ngày càng trầm trọng. Đây là những
vùng sinh thái nhạy cảm với mức độ ô nhiễm và dễ bị tổn thương. Ngày nay, các hoạt động
thăm dò khai thác tài nguyên biển, đặc biệt là khai thác dầu khí, vận chuyển hàng hoá trên
biển, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố môi trường biển. Ngoài ra các hoạt động sản
xuất của con người trên đất liền gây ô nhiễm không khí, ô nhiễm các dòng sông, làm tăng
cường lượng chất thải đưa ra biển cũng tác động xấu tới môi trường và hệ sinh thái biển, đại
dương. Ở Việt Nam, theo thống kê của Cục Môi trường thì chỉ tính từ năm 1989 đến nay đã có
khoảng 20 vụ tràn dầu lớn nhỏ được ghi nhận. Điển hình như sự cố tràn dầu ở vịnh Quy Nhơn
ngày 10/8/1989 với số lượng hơn 200 tấn dầu FO, ở Bạch Hổ ngày 26/1/1992 với số lượng
300700 tấn dầu thô gây ô nhiễm một vùng biển rộng lớn. Thủ phạm gây ra các sự cố tràn dầu
đã đền bù trên 4 triệu USD nhưng vẫn chưa đủ để khắc phục các sự cố môi trường gây ra, do
thiệt hại về môi trường và kinh tế ước tính lên đến hàng trăm tỷ đồng. Hàng năm có khoảng
200 triệu tấn dầu thô của các nước được vận chuyển qua vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế
của Việt Nam đến Nhật Bản và Hàn Quốc, gây nguy cơ ô nhiễm môi trường biển rất lớn.
Phát tán tự nhiên chất gây ô nhiễm còn xảy ra theo hướng dòng chảy và tập trung tới đích cuối
cùng là biển và đại dương. Hệ quả nặng nề nhất là nó gây ra các hiện tượng thuỷ triều đỏ
(bùng phát tảo độc hại), thuỷ triều đen (tràn dầu) trên biển và đại dương, tăng độ phóng xạ của
nước biển do đổ chất thải hạt nhân và tai nạn tàu ngầm hạt nhân trong suốt thế kỷ qua.
7.1.6. Giảm đa dạng sinh học và suy thoái tài nguyên rừng
Sinh vật trên Trái đất hiện nay đã trải qua lịch sử tiến hoá lâu dài và duy trì một trạng thái cân
bằng tự nhiên. Chúng đang góp phần tích cực vào làm ổn định Trái đất, ổn định khí hậu, làm
sạch các nguồn nước, hạn chế xói mòn và duy trì độ phì nhiêu của đất. Các loài sinh vật khác
nhau tham gia vào những bậc dinh dưỡng khác nhau trong hệ sinh thái, khép kín các chu trình
sinh địa hóa trên phạm vi toàn cầu tạo nên sự ổn định và bền vững của sinh quyển.
Ngày nay, do hoạt động của con người như săn bắt, huỷ hoại nơi cư trú, thu hẹp diện tích
rừng, gây ô nhiễm môi trường đã đe doạ trực tiếp đến đời sống của các loài sinh vật hoang dã,
làm cho nhiều loài bị suy giảm số lượng và nhiều loài bị tuyệt chủng. Những nghiên cứu về đa
dạng sinh học cho thấy sự diệt chủng các loài chim và thú trong khoảng thời gian 1600 - 1950
có liên quan đến sự phát triển sản xuất công nghiệp và tăng dân số. Từ năm 1600 trước Công
nguyên đến năm 1900, trung bình 4 năm mất 1 loài; 1900 - 1980 mỗi năm mất 1 loài; 1980 -
2000 mỗi ngày mất 1 loài. Dự báo từ 2001 đến 2010 thì 1 giờ mất 1 loài. Trong thế kỷ XX, đã
có khoảng 700 loài động thực vật bị tiêu diệt. Nhiều loài bị tuyệt chủng khi còn chưa được con
người biết đến. Ước đoán đa dạng sinh học đã giảm 1/10 đến 1/5, và với tốc độ như hiện nay
thì khoảng 25% loài sinh vật trên Trái đất sẽ tuyệt chủng trong vài thập kỷ tới.
Suy thoái đa dạng sinh học khiến cho loài người mất dần các nguồn tài nguyên quý giá (lương
thực, thực phẩm, dược liệu, nguyên vật liệu, gen, tiện nghi môi trường) đồng thời phải chống
chịu với các tai biến sinh thái ngày càng gia tăng (dịch bệnh gia súc, dịch hại cây trồng...) do
mất cân bằng sinh thái.
Suy thoái đa dạng sinh học trước hết là do khai thác tài nguyên sinh học quá mức. Sau đó là do
việc chuyển đổi các khu vực hoang dã sang vùng nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc
biến thành vùng trơ trụi, làm mất dần nơi cư trú của các loài sinh vật. Ngày nay, ô nhiễm môi
trường cũng đang trở thành nguy cơ trực tiếp làm suy giảm đa dạng sinh học trên Trái đất.
7.1.7. Suy giảm đa dạng văn hoá và nảy sinh các vấn đề xã hội cấp bách
Nghèo đói, thất nghiệp, cách biệt về mức sống và thu nhập ngày càng tăng là nguyên nhân sâu
sắc gây bất ổn xã hội, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, chính sách bá quyền, lũng đoạn kinh tế,
chính trị thế giới của một số cường quốc, gây nguy cơ khủng hoảng kinh tế trong phạm vi khu
vực và thế giới.
Đa dạng văn hoá là tổng thể các sản phẩm chắt lọc, tinh túy của mỗi cộng đồng trong mọi lĩnh
vực sản xuất và đời sống, đã qua sự chọn phù hợp với điều kiện môi trường và tài nguyên đã
nuôi dưỡng nó. Tính ưu việt, tích cực của văn hoá được phản chiếu qua tình trạng môi trường,
tài nguyên và xã hội địa phương, được chính cộng đồng địa phương thông hiểu và phát huy.
Kinh tế tăng trưởng nhanh, thông thương văn hoá mạnh mẽ và sự du nhập lối sống dẫn đến
nguy cơ mai một các di sản văn hoá, đặc biệt là các giá trị văn hoá địa phương, đơn giản hoá
các nền văn hoá, đồng nhất hoá các giá trị và tiêu chuẩn, tha hoá đạo đức, đe dọa làm cạn kiệt
khả năng sáng tạo của các nền văn hoá bản địa.
Nguyên tắc chung bảo vệ đa dạng văn hoá là: Tôn trọng, bảo vệ và phát huy tất cả các di
sản văn hoá vật chất và tinh thần, Bình đẳng với mọi nền văn hoá, không phân biệt giàu hay
nghèo, lạc hậu hay tiên tiến; Tiếp thu tinh tuý của các nền văn hoá khác một cách có chọn lọc;
Hội nhập với phát triển, là nội dung, động lực và mục tiêu của phát triển.
Lịch sử đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng hệ sinh thái nông nghiệp quy mô khác nhau. Tuy
nhiên, vấn đề môi trường chỉ thực sự xuất hiện và gia tăng mạnh mẽ kể từ cách mạng công nghiệp đến
nay, gây nhiều hệ quả nghiêm trọng, buộc loài người phải có sự nhìn nhận đúng mức và đầu tư giải
quyết.
" Làm sạch thế giới " là một trong những hoạt động bảo vệ môi trường có tính chất toàn cầu, thu hút
khoảng 40 triệu người ở trên 120 nước tham gia với nỗ lực tạo sự chuyển biến thực sự đối với môi
trường của Trái Đất. Chiến dịch này được Ian Kiernan khởi xướng năm 1989, mở đầu bằng chiến dịch
làm sạch nước Úc.
Ngày nay, hoạt động này đã trở thành hoạt động quốc tế nhằm liên kết mọi người trên khắp thế giới
trong công tác làm sạch môi trường. Chiến dịch được tổ chức vào tháng 9 hằng năm, được điều hành
bởi Uỷ ban Làm sạch thế giới và UNEP.
Hội nghị Quốc tế về Môi trường và con người lần đầu tiên của Liên Hợp Quốc họp 1972 tại
Stockholm, Thụy Điển với sự tham gia của 113 nước. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố nhấn mạnh
những nguy cơ của các vấn đề tài nguyên, dân số, môi trường và kêu gọi: Bảo vệ và cải thiện môi
trường là một vấn đề có ảnh hưởng tới phúc lợi của mọi dân tộc và phát triển kinh tế toàn thế giới, là
nhiệm vụ của mọi Chính phủ.
Để ghi nhớ sự kiện quan trọng này, Liên Hợp Quốc đã lấy ngày khai mạc Hội nghị Stockholm
5/6/1972 là Ngày Môi trường Thế giới UNEP (United Nations Environment Program).
Sau hội nghị này, hàng loạt các điều ước quốc tế về môi trường đã được ký kết với phạm vi quan tâm
mở rộng dần, từ xử lý ô nhiễm qua biên giới đến xử lý ô nhiễm toàn cầu, từ bảo tồn loài cụ thể đến
bảo tồn toàn hệ sinh thái, từ quy định về kiểm soát nguồn thải trực tiếp đến quy chế quản lý toàn diện
cả hệ thống tự nhiên, môi trường.
7.4. BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
7.4.1.NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG CẤP BÁCH Ở VIỆT NAM SGK/232
Những vấn đề môi trường cấp bách của Việt Nam, đã được trình bày trong báo cáo tại Hội
nghị Rio de Janeiro 1992, bao gồm:
- Nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng quy mô toàn quốc, nhiều nơi mất rừng và suy thoái tài
nguyên rừng xảy ra nghiêm trọng;
- Suy giảm nhanh chất lượng đất và bình quân diện tích đất canh tác theo đầu người, tài
nguyên đất bị sử dụng lãng phí;
- Tài nguyên biển, đặc biệt là tài nguyên sinh vật vùng ven bờ, đang bị suy giảm nhanh, môi
trường biển bắt đầu bị ô nhiễm;
- Sử dụng không hợp lý dẫn đến làm cạn kiệt tài nguyên nước, tài nguyên sinh học (đa dạng
sinh học), tài nguyên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác;
- Ô nhiễm môi trường trước hết là nước, không khí và đất đã xuất hiện ở nhiều nơi;
- Hậu quả lâu dài của chiến tranh, đặc biệt là chất độc hoá học chưa được khắc phục
- Dân số vẫn gia tăng nhanh;
- Cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật, luật pháp và đội ngũ cán bộ khoa học kỹ chuật về môi
trường còn thiếu.
Trong các vấn đề môi trường nói trên có 3 vấn để nổi bật trong giai đoạn hiện nay:
- Gia tăng ô nhiễm ở các khu công nghiệp, đô thị và vùng nông nghiệp thâm canh cao;
- Các nguồn tài nguyên thiên nhiên được huy động mạnh mẽ cho phát triển kinh tế;
- Đô thị hoá nhanh, di cư không có tổ chức dẫn đến phá rừng và gây ảnh hưởng xấu đến môi
trường.
7.4.2. BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
-Quan điểm cơ bản trong kế hoạch bảo vệ môi trường của Việt Nam là phải bảo đảm sự cân
đối giữa khai thác sử dụng tài nguyên phát triển kinh tế – xã hội, dân số và các vấn đề môi
trường. Từ 1985 Việt Nam chủ trương đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, sử dụng hơp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường.
-Luật Bảo vệ Môi trường được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 và được Chủ
tịch nước ký ban hành tháng 1/1994. Luật Bảo vệ Môi trường và các văn bản dưới luật đã đưa
ra khuôn khổ pháp lý về phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục ô nhiễm môi trường, suy thoái
môi trường cũng như các sự cố môi trường.
- Mục tiêu của công tác bảo vệ môi trường : Không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường,
nâng cao chất lượng cuộc sống và sức khỏe nhân dân, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất
nước.
Giải pháp cho công tác bảo vệ môi trường:
- Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và phong trào quần
chúng tham gia bảo vệ môi trường.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Chủ động phòng chống ô nhiễm và sự cố môi trường, khắc phục tình trạng suy thoái môi
trường. Khai thác và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
- Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường.
- Tăng cường hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. - Đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học và công nghệ, đào tạo chuyên gia về lĩnh vực môi trường.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường.
Mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững ở nước ta :
- Duy trì các quá trình sinh thái quan trọng, các hệ sinh thái làm cơ sở cho cuộc sống và hoạt
động sản xuất của con người; Bảo đảm tính đa dạng sinh học kể các loài cây trồng, vật nuôi vì
lợi ích trước mắt cũng như lâu dài.
- Đảm bảo việc sử dụng lâu bền tài nguyên thiên nhiên bằng việc quản lý cả về quy mô, cường
độ và phương thức sử dụng.
- Bảo đảm chất lượng môi trường cần thiết cho cuộc sống tốt đẹp của con người.
- Thực hiện kế hoạch hoá tăng trưởng và phân bố dân số cho cân bằng với một năng suất sản
xuất bền lâu cần thiết cho cuộc sống với chất lượng tốt cho con người.
Theo luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam 2020 Link tham khảo: https://luatvietnam.vn/tai-
nguyen/luat-bao-ve-moi-truong-2020-195564-d1.html Việt Nam hiện là thành viên của hai
Hiệp định - Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). Hai Hiệp định này có nhiều
điều khoản liên quan đến tài nguyên và môi trường mà Việt Nam cần tuân thủ. Để triển khai
hai Hiệp định này, Bộ Tài nguyên & Môi trường đã đưa ra kế hoạch nhằm hoàn thiện chính
sách pháp luật và tăng cường tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Kế hoạch hoàn thiện chính sách phù hợp với hai Hiệp định, gồm: Nội luật hóa các cam kết,
nghĩa vụ trong hai Hiệp định; Rà soát, đề xuất Sửa đổi Luật Đa dạng sinh học; Xây dựng chính
sách, pháp luật thúc đẩy thương mại, đầu tư...; Hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường và các văn
bản quy phạm khác; Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường; Đánh giá tác
động 2 Hiệp định và đề xuất sửa đổi chính sách.
Các nội dung tài nguyên môi trường nhằm thực thi hai Hiệp định như sau:
● Hiệp định CPTPP:
- Bảo vệ tầng ô zôn: Hợp tác trong kiểm soát chất làm suy giảm tầng ô zôn; năng lượng sạch;
giao thông bền vững; chống suy thoái rừng...
- Đa dạng sinh học: Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học; kiểm soát, loại trừ các
sinh vật ngoại lai xâm lấn...
- Môi trường biển: Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường từ tàu biển, đánh bắt hải sản quá mức, bảo
tồn dài hạn các loài cá mập, rùa biển, chim biển...
- Dịch vụ môi trường: Các quốc gia cố gắng giải quyết bất kỳ rào cản tiềm tàng nào đối với
thương mại hàng hóa và dịch vụ môi trường.
● Hiệp định EVFTA:
- Biến đổi khí hậu: Hợp tác thúc đẩy thị trường các-bon; tăng cường tiết kiệm năng lượng,
công nghệ giảm phát thải và năng lượng tái tạo;
- Đa dạng sinh học: Thúc đẩy thương mại hàng hóa, lâm sản bền vững, tiến tới loại bỏ buôn
bán gỗ trái phép; trao đổi thông tin chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học;
- Quản lý biển: Tuân thủ Công ước về Luật Biển; đấu tranh chống lại việc đánh bắt cá bất hợp
pháp (IUU), phát triển ngành nuôi trồng thủy sản bền vững;
- Đầu tư hướng đến phát triển bền vững: Thúc đẩy thương mại và đầu tư liên quan đến giảm
thiểu biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng.
Những thách thức đối với Việt Nam trong phát triển bền vững:
- Hoạt động khai thác khoáng sản ở nhiều địa phương thiếu sự quản lý chặt chẽ làm gia tăng
các điểm nóng về ô nhiễm môi trường.
- Chất thải từ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân khu vực nông thôn không được
thu gom, xử lý đúng quy cách, hợp vệ sinh
- Nhiều làng nghề hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất đang gây ô nhiễm cao đối với môi
trường như tái chế nhựa, kim loại, ắc quy chì, chăn nuôi gia súc, sản xuất giấy…
- Tình trạng hạn hán, khô hạn và hoang mạc hóa do tác động cực đoan của thời tiết và biến
đổi khí hậu đang ngày càng trở nên nghiêm trọng
- Nước thải sinh hoạt ở hầu hết các đô thị, khu dân cư chưa được xử lý; rác thải sinh hoạt,
chất thải công nghiệp chưa được quản lý tốt, gây ô nhiễm môi trường
- Nguồn nước mặt, nước dưới đất trong các đô thị, khu dân cư ở một số địa phương bị ô
nhiễm nặng
- Các khu vực ô nhiễm tồn lưu chậm được xử lý, cải tạo, phục hồi dẫn đến ô nhiễm nguồn
nước mặt, nước ngầm
- Diện tích các hệ sinh thái tự nhiên giảm mạnh, đa dạng sinh học tiếp tục bị suy thoái nhanh.
Những hoạt động bảo vệ môi trường được Nhà nước khuyến khích thực hiện
- Tuyên truyền, giáo dục và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh
môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học.
- Bảo vệ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
- Giảm thiểu, thu gom, tái chế và tái sử dụng chất thải. Phát triển, sử dụng năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo; giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính, phá huỷ tầng ozon.
- Đăng ký cơ sở đạt tiêu chuẩn môi trường, sản phẩm thân thiện với môi trường. Nghiên cứu
khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý, tái chế chất thải, công nghệ thân thiện với
môi trường.
- Đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất thiết bị, dụng cụ bảo vệ môi trường; sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm thân thiện với môi trường; cung cấp dịch vụ bảo vệ môi trường.
- Bảo tồn và phát triển nguồn gen bản địa; lai tạo, nhập nội các nguồn gen có giá trị kinh tế và
có lợi cho môi trường.
- Xây dựng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, cơ quan, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
thân thiện với môi trường.
- Phát triển các hình thức tự quản và tổ chức hoạt động dịch vụ giữ gìn vệ sinh môi trường của
cộng đồng dân cư.
- Hình thành nếp sống, thói quen giữ gìn vệ sinh môi trường, xóa bỏ hủ tục gây hại đến môi
trường.
- Đóng góp kiến thức, công sức, tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường.
- Ngày nay con người đã nhận thức đúng đắn rằng, mọi vấn đề môi trường đều bắt nguồn từ sự
phát triển không đúng cách, không bền vững. Trung tâm của phát triển là phát triển con người,
do vậy phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế, mà điều quan trọng hơn là phát triển xã hội
công bằng và tiến bộ, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Vấn đề là
làm thế nào để con người vẫn tiếp
tục duy trì sự phát triển của mình, nhưng không được làm mất đi các chức năng cơ bản của
môi trường. Có như vậy mới có khả năng bảo đảm được sự phát triển bền vững cho nhân loại
- Sự thay đổi bất kỳ yếu tố nào trong công thức trên cũng đều dẫn tới thay đổi cường độ tác
động đến môi
trường. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử không ngừng gia tăng dân số, tăng nhu cầu cá
nhân, tăng khả
năng khai thác, chế biến tài nguyên để đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của con người, do
vậy cường
độ tác động tới môi trường cũng không ngừng gia tăng.
- Từ công thức trên dễ dàng thấy ba xu thế cơ bản để kiểm soát vấn đề môi trường là:
- Kiểm soát gia tăng dân số;
- Giảm tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên;
- Cải tiến khoa học công nghệ để giảm tác động tới môi trường của việc khai thác tài
nguyên.