Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 55

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1 MÔI TRƯỜNG


1.1.1.Khái niệm và chức năng của môi trường
Môi trường sống của con người theo nghĩa rộng là cả vũ trụ bao la, bao gồm tổng hợp các
điều kiện tự nhiên (tài nguyên và môi trường), nhân tạo (công cụ, phương tiện...), xã hội (tổ
chức, thể chế, luật lệ...) bao quanh và có ảnh hưởng tới con người nói riêng và sự phát triển
của xã hội loài người nói chung.
Môi trường sống của con người theo nghĩa hẹp (gọi tắt là môi trường) chỉ bao gồm những
nhân tố có liên quan trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, đó là chất lượng
môi trường tự nhiên, nhân tạo, xã hội trong khuôn khổ không gian có liên quan trực tiếp tới
chủ thể, như không khí, nước, ánh sáng, bức xạ, âm thanh, cảnh quan, đạo đức, tổ chức chính
trị, xã hội... tại vùng mà con người đang sống.
Luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam năm 2005, quy định: Môi trường bao gồm các yếu tố tự
nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất,
sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật. Thành phần môi trường bao gồm các yếu tố vật
chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái
và các hình thái vật chất khác. Như vậy, khái niệm này chỉ đề cập đến môi trường tự nhiên,
các yếu tố xã hội - nhân văn không được bao gồm trong yếu tố môi trường theo quy định này.
Chức năng của môi trường tự nhiên rất đa dạng, bao gồm:
- Cung cấp không gian sống cho con người và các sinh vật.
- Chứa đựng và cung cấp tài nguyên thiên nhiên.
- Tiếp nhận, chứa đựng và phân huỷ chất thải.
- Bảo vệ và làm giảm nhẹ các tác động của thiên tai đối với con người và sinh vật (cung cấp
vùng đệm, tín hiệu báo động, lá chắn Ozon...).
- Lưu giữ và cung cấp thông tin.
1.1.2. Một số khái niệm về các vấn đề môi trường
- Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh
hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.
- Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí,
âm thanh, ánh sáng, các chất dinh dưỡng và các hình thái vật chất khác.
- Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp: phòng
ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm,
suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
- Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm
tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thể tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài
hoà giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
- Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường
xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường.
- Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu
chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật.
- Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của thành phần môi trường,
gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật.
- Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc
biến đổi thất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm
trọng.
- Chất gây ô nhiễm là các chất hoặc yếu tố vật lý khi xuất hiện trong môi trường thì làm cho
môi trường bị ô nhiễm.
- Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh
hoạt hoặc hoạt động khác.
- Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ
lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác.
- Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái
chế, xử lý, tiêu hủy, thải loại chất thải.
- Phế liệu là sản phẩm, vật liệu bị loại ra từ quá trình sản xuất hoặc tiêu dùng được thu hồi để
dùng làm nguyên liệu sản xuất.
- Sức chịu tải của môi trường là giới hạn cho phép mà môi trường có thể tiếp nhận và hấp
thụ các chất gây ô nhiễm.
- Hệ sinh thái là hệ quần thể sinh vật trong một khu vực địa lý tự nhiên nhất định cùng tồn tại
và phát triển, có tác động qua lại với nhau.
- Đa dạng sinh học là sự phong phú về nguồn gen, loài sinh vật và hệ sinh thái.
- Quan trắc môi trường là quá trình theo dõi có hệ thống về môi trường, các yếu tố tác động
lên môi trường nhằm cung cấp thông tin phục vụ đánh giá hiện trạng, diễn biến chất lượng môi
trường và các tác động xấu đối với môi trường.
- Thông tin về môi trường bao gồm số liệu, dữ liệu về các thành phần môi trường; về trữ
lượng, giá trị sinh thái, giá trị kinh tế của các nguồn tài nguyên thiên nhiên; về các tác động
đối với môi trường về chất thải; về mức độ môi trường bị ô nhiễm, suy thoái và thông tin về
các vấn đề môi trường khác.
- Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của
dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó.
- Đánh giá môi trường chiến lược là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của
dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt nhằm bảo đảm phát triển
bền vững
- Khí thải gây hiệu ứng nhà kính là các loại khí tác động đến sự trao đổi nhiệt giữa Trái đất
và không gian xung quanh làm nhiệt độ của không khí bao quanh bề mặt Trái đất nóng lên.
- Hạn ngạch phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính là khối lượng khí gây hiệu ứng nhà kính
của mỗi quốc gia được phép thải vào bầu khí quyền theo quy định của các điều ước quốc tế
liên quan.
Ô nhiễm môi trường được hiểu là sự thay đổi tính chất của môi trường (về mặt lý học, hoá
học, sinh học), vi phạm tiêu chuẩn môi trường cho phép. Sự thay đổi tính chất môi trường gây
nên bởi những thay đổi thành phần môi trường, như xuất hiện các chất mới có tính độc hại,
hoặc sự gia tăng một chút nào đó trong môi trường tới ngưỡng gây hại. Ô nhiễm môi trường
xảy ra khi đồng chất gây ô nhiễm đi vào môi trường lớn hơn dòng ra, đồng thời khả năng của
môi trường chứa và biến đổi làm sạch chất gây ô nhiễm hạn chế, dẫn đến sự tích luỹ chất gây
ô nhiễm trong môi trường nhanh chóng vượt quá ngưỡng cho phép (Hình 1.1).
Ô nhiễm môi trường được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
Theo đặc điểm nguồn gây ô nhiễm, có ô nhiễm sơ cấp, trong đó chất gây ô nhiễm trực tiếp
gây nên tác động bất lợi và ô nhiễm thứ cấp, là dạng ô nhiễm trong đó chất thải ban đầu
không độc, nhưng do biến đổi trong môi trường, trở thành chất độc hại gây ô nhiễm, hoặc do
sự có mặt của các chất thải tạo ra sự thay đổi các quá trình tự nhiên trong môi trường, từ đó
tạo ra những bất lợi cho cuộc sống.
- Theo các thành phần môi trường bị ô nhiễm, có ô nhiễm đất, ô nhiễm nước, ô nhiễm không
khí.
- Theo tính chất của chất ô nhiễm có ô nhiễm lý học, ô nhiễm hoá học, ô nhiễm sinh học.
- Theo yếu tố gây ô nhiễm, có ô nhiễm phóng xạ, ô nhiễm nhiệt, ô nhiễm đồng, chì, coban, ô
nhiễm chất hữu cơ...
Sự cố môi trường là các tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của con người
hoặc biến đổi bất thường của thiên nhiên, gây suy thoái môi trường nghiêm trọng. Sự cố môi
trường có thể xảy ra do thiên tai tự nhiên như động đất, lũ lụt,... hoặc do sự cố kỹ thuật như
đắm tàu dầu, sự cố lò phản ứng hạt nhân, vỡ đập thuỷ điện,...
Khủng hoảng môi trường là những suy thoái chất lượng môi trường Sống quy mô toàn cầu,
đe dọa cuộc sống của toàn bộ hay một bộ phận lớn loài người.
Tác động bất lợi của con người tới môi trường có nguồn gốc từ các yếu tố gây sức ép cơ bản
là: tăng dân số, đặc biệt là tăng dân số đô thị và các vùng tài nguyên khan hiếm; phân hoá giàu
nghèo, đặc biệt là nghèo đói; hoạt động kinh tế và dân sinh. Ngoài ra, vấn đề môi trường còn
chịu tác động của các yếu tố thúc đẩy sau: thị trường yếu kém; điều hành của chính quyền yếu
kém, nhất là trong lĩnh vực can thiệp và ra quyết định; khiếm khuyết về thể chế, tạo ra sự
chồng chéo trách nhiệm, thiếu tính pháp lý; khiếm khuyết do quyền tư hữu; thiếu thông tin do
sự cảnh báo và uỷ quyền chưa đầy đủ, thiếu tri thức do giáo dục môi trường chưa tốt.
1.2. KHÁI NIỆM VỀ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
- Tài nguyên thiên nhiên gồm các dạng năng lượng, vật chất, thông tin tự nhiên, tồn tại khách
quan ngoài ý muốn con người, có giá trị tự thân mà con người có thể sử dụng được trong hiện
tại và tương lai để phục vụ cho sự phát triển của xã hội loài người. Tài nguyên thiên nhiên
được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
- Theo dạng tồn tại của vật chất có tài nguyên vật liệu, tài nguyên năng lượng và tài nguyên
thông tin.
- Theo đặc trưng về bản chất bao gồm tài nguyên đất, nước, sinh vật, khoáng sản, năng
lượng.
- Theo khả năng phục hồi có tài nguyên vô tận (năng lượng mặt trời, thuỷ triều, gió,...), tài
nguyên tái tạo (sinh vật, nước, đất) và tài nguyên không tái tạo (khoáng sản). Đối với tài
nguyên có khả năng tái tạo, con người sẽ có cơ hội sử dụng lâu hơn nếu biết khai thác trong
phạm vi khả năng tự phục hồi và không làm tổn thương các điều kiện cần cho quá trình tái tạo
tài nguyên.
1.3. KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
1.3.1. Khái niệm
Khoa học môi trường là khoa học liên ngành, nghiên cứu tổng thể các vấn đề về môi trường
liên quan đến đời sống cá nhân và sự phát triển kinh tế xã hội của loài người. Nói cách khác,
khoa học môi trường nghiên cứu về mối quan hệ và tương tác qua lại giữa con người và môi
trường xung quanh.
Nhiệm vụ của khoa học môi trường là nghiên cứu tìm ra các giải pháp bảo vệ môi trường
trong quá trình phát triển (phát triển bền vững) và giải quyết các vấn đề môi trường gay cấn
hiện nay. Khoa học môi trường sử dụng các thành tựu của các ngành khoa học tự nhiên (sinh
học, sinh thái học, địa lý, địa chất, khí tượng thuỷ văn hải dương học, toán học, vật lý học, hoá
học...), khoa học xã hội (kinh tế, nhân văn...) làm cơ sở nghiên cứu, dự báo nguyên nhân, diễn
biến, hiện trạng, hệ quả các vấn đề môi trường. Khoa học môi trường cũng sử dụng các thành
tựu của các ngành khoa học công nghệ, kỹ thuật và khoa học xã hội (luật, chính trị...) làm công
cụ giải quyết các vấn đề môi trường, bảo vệ môi trường.
13.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của khoa học môi trường có thể chia thành 4 loại chủ yếu như sau:
- Nghiên cứu đặc điểm của các thành phần môi trường, đặc biệt là mối quan hệ và tác động
qua lại giữa môi trường và con người.
- Nghiên cứu kỹ thuật, công nghệ xử lý ô nhiễm.
- Nghiên cứu tổng hợp các biện pháp quản lý khoa học, kinh tế, luật pháp, xã hội nhằm bảo vệ
môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên, phát trên bền vững.
- Nghiên cứu các phương pháp như mô hình hoá, phân tích hoá, lý, sinh, kinh tế, xã hội... phục
vụ cho các nội dung trên.

CHƯƠNG 2: CÁC NGUYÊN LÝ SINH THÁI ÁP DỤNG CHO KHOA HỌC MÔI
TRƯỜNG
2.1. YẾU TỐ SINH THÁI VÀ QUY LUẬT SINH THÁI
2.1.1. Yếu tố sinh thái
Yếu tố sinh thái là những yếu tố cấu trúc lên môi trường tự nhiên, được xem xét trong mối
quan hệ với một sinh vật cụ thể. Yếu tố sinh thái chia thành hai loại: Vô sinh và hữu sinh. Tổ
hợp các yếu tố sinh thái tạo ra điều kiện cần cho sự tồn tại và phát triển của sinh vật gọi là tổ
sinh thái của sinh vật đó.
Một số yếu tố sinh thái thay đổi theo không gian một cách có quy luật và có tính chu kỳ. Chu
kỳ sơ cấp của yếu tố sinh thái là ngày, tuần trăng, mùa, năm, nhiều năm, kỳ con nước,... chu
kỳ thứ cấp của yếu tố sinh thái phát sinh dưới tác động của các chu kỳ sơ cấp. Theo nguyên tắc
chung thì các yếu tố có chu kỳ thứ cấp làm biến đổi độ phong phú của loài.
Sinh vật sống phụ thuộc vào hàm lượng. trạng thái của từng yếu tố sinh thái và phạm vi chống
chịu của chúng đối với tổ hợp các yếu tố sinh thái. Mức độ tác động của từng yếu tố sinh thái
lên sinh vật phụ thuộc bản chất, cường độ, tần số và thời gian tác động. Tác động của yếu tố
sinh thái lên sinh vật gây ra hệ quả ở những mức độ khác nhau như làm thay đổi tập tính, thay
đổi sức sinh sản, mức để tử vong của quần thể, thay đổi số lượng quần thể, cấu trúc quần xã,
loại trừ loài ra khỏi vùng phân bố, huỷ diệt sự sống.
2.1.2. Quy luật sinh thái
- Quy luật tác động đồng thời: Nhiều yếu tố sinh thái có thể tác động đồng thời lên một
hoạt động sống của sinh vật, và ngược lại một yếu tố sinh thái cũng có thể tác động lên
nhiều hoạt động sống của khác nhau của sinh vật. Sự tác động đồng thời của nhiều yếu tố
sinh thái, trong nhiều trường hợp, gây nên những hậu quả không giống như khi tác động
riêng lẻ.
- Quy luật tác động qua lại: Tác động của các yếu tố sinh thái lên sinh vật và phản ứng của
sinh vật là một quá trình qua lại. Cường độ tác động, thời gian tác động, phương thức tác
động khác nhau sẽ dẫn tới những hệ quả và phản ứng khác nhau. Xu thế chủ đạo là sự biến
động của ngoại cảnh quyết định xu thế chung của sinh vật, còn tác động trở lại của sinh vật
đến môi trường chỉ là phụ.
- Định luật tối thiểu (Liebig, 1840): Một số yếu tố sinh thái cần phải có mặt ở mức tối
thiểu để sinh vật có thể tồn tại trong đó. Ví dụ, cây trồng muốn sống cần một lượng tối
thiểu chất B trong đất. Chất có hàm lượng tối thiểu sẽ điều khiển năng suất, xác định sản
lượng và tính ổn định của mùa màng theo thời gian.
- Định luật giới hạn sinh thái (Shelford, 1913): Năng suất của sinh vật không chỉ phụ
thuộc vào sức chịu đựng tối thiểu mà còn phụ thuộc vào sức chịu đựng tối đa hàm lượng
của một nhân tố sinh thái nào đó. Nghĩa là, một số yếu tố sinh thái cần phải có mặt với một
giới hạn nhất định để sinh vật có thể tồn tại trong đó.
Phạm vi biến động của một nhân tố mà cơ thể có thể chịu đựng được gọi là phạm vi chấp
nhận, hay miền giới hạn sinh thái. Vượt quá miền giới hạn này (thiếu hay thừa) sinh vật sẽ
chết.
Nếu loài có miền giới hạn sinh thái rộng đối với nhân tố sinh thái nảy, nhưng lại có miền giới
hạn sinh thái hẹp đối với một nhân tố sinh thái khác, thì vùng phân bố của loài được quyết
định bởi nhân tố sinh thái có miền giới hạn hẹp nhất. Loài có miền giới hạn sinh thái rộng đối
với mọi nhân tố sinh thái sẽ có vùng phân bố rộng.
Khi có một nhân tố sinh thái trở nên không tối ưu cho loài thì phạm vi chống chịu đối với các
nhân tố sinh thái khác có thể bị thu hẹp. Trong mỗi hệ sinh thái thường có một hoặc vài nhân
tố vô sinh hạn chế sự phát triển của một loài nào đó, gọi là nhân tố hạn chế. Đối với các hệ
sinh thái ở nước thì nhiệt độ, ánh sáng và độ muối thường là yếu tố hạn chế.
- Giới hạn sinh thái: là khoảng giá trị xác định của một nhân tố sinh thái của môi trường mà
trong đó sinh vật có thể tồn tại và phát triển ổn định theo thời gian.
- Trong giới hạn sinh thái có điểm giới hạn trên (max), điểm giới hạn dưới (min), và khoảng
cực thuận (khoản tối ưu) và các khoản chống chịu. Vượt ra ngoài các điểm giới hạn, sinh vật
sẽ chết.
• Khoản tối ưu: là khoản của các nhân tố sinh thái ở mức độ phù hợp, đảm bảo cho loài sinh
vật thực hiện các chức năng sống tốt nhất
• Khoảng chống chịu: là khoảng các nhân tố sinh thái gây ức chế cho hoạt động sinh lý của
sinh vật.
2.1.3. Yếu tố sinh thái vô sinh và tác động của nó tới sinh vật
2.1.3.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ là yếu tố sinh thái giới hạn. Phổ nhiệt độ tự nhiên rất rộng, nhưng đa số các loài chỉ
tồn tại được trong khoảng 0 – 50°C. Sinh vật được chia thành:
- Theo khả năng chống chịu: nhóm rộng nhiệt và nhóm hẹp nhiệt (trong nhóm hẹp nhiệt phân
nhóm ưa lạnh và ưa nóng).
- Theo nhiệt độ cơ thể, sinh vật được chia thành nhóm đồng nhiệt và nhóm đẳng nhiệt.
=> Nhiệt độ là yếu tố chi phối phân sự bố địa lý, ảnh hưởng đến quá trình sinh lý, sinh hóa, tập
tính của sinh vật.
2.1.3.2. Ánh sáng
Ánh sáng là yếu tố sinh thái giới hạn đối với cây trồng.
Ánh sáng giúp cho cây xanh thực hiện chức năng quang hợp và nhiều quá trình tự nhiên khác
như phong hóa vật lý, tạo nhiệt độ, khí hậu,tuần hoàn nước,...
Hai nhóm thực vật:
- Cây ưa sáng (gồm những thực vật có cường độ quang hợp cực đại khi cường độ chiếu sáng
lớn, như cây gỗ ở rừng thưa, cây bụi ở savan, bạch đàn, phi lao, lúa, đậu
phộng …)
- Cây ưa bóng (gồm những thực vật có cường độ quang hợp cực đại khi cường độ chiếu sáng
thấp, như lim, vạn niên thanh, lá dong, ràng ràng …).
=> Ánh sáng tạo nên các đặc điểm thích nghi về hình thái, giải phẫu và sinh lý ở các sinh vật.
2.1.3.3. Nước và độ ẩm
- Nước là yếu tố sinh thái sống còn, chi phối sự hình thành và phân bố của các hệ sinh thái.
- Nước là nơi khởi nguồn của sự sống và là nơi khởi nguồn sống và môi trường sống của các
loài thủy sinh.
- Nước là thành phần cơ bản của chất sống .
- Nước hòa tan được nhiều vật chất, giúp cung cấp chất dinh dưỡng, chuyển vận vật chất
trong cơ thể và đào thải chất dư thừa độc hại cho sinh vật.
Theo giới hạn ẩm thích hợp: Ẩm hẹp và ẩm rộng.
Theo sự phụ thuộc vào nước:
- Nhóm sinh vật ở nước như cá, thực vật thủy sinh
- Sinh vật ưa ẩm cao như lúa, cói
- Sinh vật ưa ẩm vừa như tếch, bạch đàn, trầu không
- Nhiều sinh vật sống trên cạn khác, chịu hạn như cây mọng nước (xương rồng, cây bỏng, thầu
dầu), cây lá cứng (trúc đào, phi lao), tiêu giảm lá (cành giao).
2.1.3.4. Các chất khí
• Các chất khí trong khí quyển có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hấp thụ nhiệt và ảnh
hưởng đến nhiệt độ khí quyển.
• Nhìn chung các khí O3 có khả năng hấp thụ mạnh các tia tử ngoại trong khi các khí CO2 và
hơi nước lại hấp hấp thụ mạnh các tia bức xạ hồng ngoại
Thành phần các chất khí trong khí quyển đã ổn định trong thời kỳ dài, với 78% N2, 21% O2,
0,03% CO2 và một số chất khác.
Chất khí hòa tan trong nước: Khả năng hòa tan các chất khí trong nước phụ thuộc vào đặc
điểm của nó, nhiệt độ, áp suất khí quyển, độ muối và thành phần của các chất khí khác.
- Mức độ đồng đều của các chất khí hòa tan trong nước phụ thuộc đặc điểm hình thái thủy vực,
khả năng xáo trộn của nước và đặc điểm nguồn cấp chất khí đó cho nước.
2.1.3.5. Các muối dinh dưỡng
- Các khoáng có vai trò quan trọng trong đời sống sinh vật, giúp điều hòa các quá trình
sinh hóa, áp suất thẩm thấu của dịch mô và các hoạt động chức năng khác, nhất là của hệ tim
mạch, tạo ra môi trường cho các quá trình sinh hóa nội bào.
- Cơ thể sinh vật có chứa khoảng 74 nguyên tố hóa học khác nhau. Các nguyên tố đa
lượng là C, H, O, N, P, S có mặt trong thực vật với hàm lượng chiếm khoảng 95% sinh khối.
Chất dinh dưỡng vi lượng (Mn, Fe,Cl, Zn), có mặt trong thực vật với hàm lượng nhỏ, thường
cung cấp ion làm chất xúc tác trong các phản ứng hóa học.
- Theo mức dinh dưỡng, nước được phân loại thành nghèo dinh dưỡng không tính Canxi
(Oligotrophe), nghèo muối khoáng kể cả Canxi nhưng giàu chất mùn (Ditrophe), và đầy đủ
hoặc nhiều chất dinh dưỡng (Eutrophe)
2.1.4. Yếu tố sinh thái hữu sinh và ảnh hưởng của nó tới sinh vật
Tác động của yếu tố sinh thái hữu sinh:
Sinh vật sản xuất: phổ biến nhất là các loại thực vật quang hợp, như cây xanh, tảo dưới nước,
vi khuẩn có khả năng quang hợp…
Sinh vật tiêu thụ: chủ yếu là các sinh vật dị dưỡng, bao gồm: động vật ăn thực vật, động vật ăn
thực vật, động vật ăn mùn, bã.
Sinh vật phân giải: chủ yếu là nấm và các loại vi khuẩn, có nhiệm vụ phân hủy chất hữu cơ
thành vô cơ cần thiết cho sự phát triển hệ sinh thái.
2.1.4.1. Các kiểu quan hệ trực tiếp giữa hai cá thể sinh vật
Các sinh vật khi sống trong cùng một sinh cảnh có thể có nhiều mối quan hệ trực tiếp sau: -
Bàng quan hay Trung lập: không có quan hệ trực tiếp, không ảnh hưởng đến nhau.
- Hợp sinh: cùng có lợi nhưng không nhất thiết phải sống cùng nhau.
- Cộng sinh: cùng có lợi trong mối cộng sinh bắt buộc.
- Hội sinh: một bên có lợi, một bên không bị ảnh hưởng.
- Ký sinh: một bên có lợi và một bên có hại.
- Vật dữ và con mồi: sinh vật này là nguồn thức ăn của sinh vật khác.
- Cạnh tranh: cả hai cùng thiệt hại, xảy ra khi điều kiện sống không đáp ứng nhu cầu của
sinh vật. Có 2 dạng: cạnh tranh cùng loài và cạnh tranh khác loài.
2.1.4.2. Ảnh hưởng tương hỗ giữa động thực vật
- Mối quan hệ giữa động vật và thực vật có hai mặt, vừa có lợi và vừa có hại: Thực vật là
nguồn thức ăn và cơ sở tạo nơi ở của động vật. Một vài loài thực vật cũng ăn động vật, hoặc
gây bệnh cho chúng.
- Động vật là tác nhân giúp thực vật thụ phấn, phát tán hạt giống, có vai trò kép kín chu trình
sinh địa hóa, duy trì và phát triển hệ sinh thái. Động vật ăn thức ăn có chọn lọc có thể trở
thành tác nhân mới cho sự cạnh tranh.
2.2. QUẦN THỂ
2.2.1. Khái niệm và đặc trưng của quần thể
Quần thể là một tập hợp gồm các cá thể cùng loài, phân bố trong sinh cảnh xác định thuộc
vùng phân bố của loài, chúng khác nhau về kích thước, lứa tuổi, cấu trúc, sự phân bố không
gian, khả năng sinh sản và sự tăng trưởng của quần thể. Mỗi quần thể đều có khả năng tự trao
đổi thông tin di truyền duy trì cấu trúc của quần thể.
Quần thể sinh vật có 3 cách phân bố trong không gian: Phân bố theo nhóm, phân bố đều và
phân bố ngẫu nhiên.
Các quần thể khác nhau cũng có cấu trúc khác nhau về thành phần các nhóm tuổi, tỷ lệ giới
tính. Cấu trúc tuổi và giới tính có ảnh hưởng quan trọng đến tỷ lệ sinh tử và biến động số
lượng cá thể trong quần thể.
Quần thể có đặc tính đa dạng di truyền. Trong một quần thể, không thể có hai cá thể giống
hệt nhau, làm cơ sở cho chọn lọc tự nhiên, lai tạo giống và cơ hội cho cạnh tranh sinh tồn.
Mỗi quần thể có các đặc trưng kích thước (số lượng, mật độ...), tốc độ tăng trưởng, mức độ
biến động riêng.
Các nhân tố có ảnh hưởng đến quần thể gồm nhóm có khả năng làm tăng quy mô và nhóm làm
giảm quy mô quần thể. Nhóm làm tăng quy mô như thay đổi các nhân tố vô sinh tạo thuận lợi
cho tăng trưởng quần thể; tăng sinh, giảm tử, tăng nhập, giảm xuất cư, tăng khả năng cạnh
tranh, trốn tránh, tự bảo vệ, tìm thức ăn, tăng nguồn thức ăn. Nhóm làm giảm quy mô quần thể
như tăng tử, giảm sinh, tăng xuất cư, giảm nhập cư, các nhân tố vô sinh, hữu sinh bất lợi, tăng
bệnh tật, thiếu thức ăn, nơi ở , điều kiện khí hậu khắc nghiệt, môi trường ô nhiễm...
2.2.3. Nhịp điệu sinh học
Quang chu kỳ, tức độ dài ngày:
Độ dài ngày tại các thời điểm trong năm ở mỗi địa điểm nhất định luôn không đổi. Độ dài
ngày tác động vào các thụ quan cảm giác như mắt động vật hoặc qua sắc tố chuyển hóa trong
lá cây. Các thụ quan lại kích thích hoạt động của hoocmôn hoặc men tạo phản ứng sinh lý,
phản ứng tập tính. Quang chu kỳ là rơle thời gian điều khiển sự phát triển và ra hoa của cây
trồng, điều khiển sự thay lông, tích mỡ, di cư, sinh sản ở chim và động vật có vú, sự sinh sản
của côn trùng.
Đồng hồ sinh học
Một số hoạt động của cơ thể có nhịp điệu nhất định, được xem là bị chi phối bởi một đồng hồ
sinh học nào đó. Có hai giả thuyết: Đồng hồ đo thời gian nội sinh - là cấu trúc bên trong có
khả năng đo thời gian và không cần bất kỳ tín hiệu nào từ bên ngoài, Đồng hồ bên trong hoạt
động theo tín hiệu từ bên ngoài. Theo Brown, sinh vật cảm nhận được sự dao động ngày đêm
của từ trường Trái đất và chúng điều hoà sinh lý theo nguồn thông tin này.
2.3. QUẦN XÃ
2.3.1. Quần xã và các đặc trưng cơ bản của quần xã
Quần xã là một tập hợp các sinh vật của nhiều loài khác nhau (ít nhất là 2 loài) cùng sống
trong một sinh cảnh xác định, giữa chúng có những mối quan hệ trao đổi vật chất và năng
lượng với nhau thông qua chuỗi thức ăn và mạng lưới thức ăn. Tên gọi của quần xã được lấy
theo đặc trưng ổn định nhất trong các yếu tố như tên của loài chiếm ưu thế, tên môi trường vô
sinh. Quần xã có các đặc trưng cơ bản sau:
- Là một tổ hợp nhiều quần thể, nhưng chỉ có một số ít loài chiếm ưu thế, có số lượng nhiều,
có vai trò quyết định bản chất, năng suất của nó. Mỗi quần xã đều có tính đa dạng loài. Mức
độ đa dạng loài được thể hiện qua chỉ số Shanon. (SGK/31)
Về không gian:
- Sự phân bố quần xã theo chiều đứng, theo chiều ngang.
Về dinh dưỡng:
- Sinh vật tự dưỡng
- Sinh vật dị dưỡng
- Sinh vật phân hủy
Tập hợp các sinh vật kế tiếp nhau, trong đó loài đứng trước là thức ăn cho loài đứng sau, tạo
thành chuỗi thức ăn.
• Quần xã chia ra các bậc dinh dưỡng:
- Vật sản xuất (dinh dưỡng bậc 1)
- Động vật ăn cỏ (dinh dưỡng bậc 2)
- Động vật ăn động vật (dinh dưỡng bậc 3),...
• Tương quan giữa các sinh vật theo các bậc dinh dưỡng hoặc trong một chuỗi thức ăn được
biểu hiện bằng tháp sinh thái.
• Có 3 loại tháp sinh thái:
- Tháp khối lượng
- Tháp năng lượng
- Tháp số lượng.
Quần xã có khả năng tự điều chỉnh thích nghi.
Do đó khi môi trường có những biến đổi trong một phạm vi hạn chế nhất định, quần xã có thể
thích nghi được mà không bị biến đổi.
Trạng thái phát triển cao ổn định và phù hợp với môi trường của quần xã gọi là đỉnh cực.
2.3.2. Diễn thể quần xã (SGK/34)
- Diễn thế nguyên sinh xảy ra ở những nơi trước đó chưa có quần xã nào tồn tại, ví dụ như
vùng đất mới hình thành, bãi bồi,...
- Diễn thế thứ sinh xảy ra tại những nơi đã từng có quần xã tồn tại.
➔ Diễn thế thứ sinh xảy ra theo chiều hướng tích cực: làm đa dạng sinh học tăng, sinh khối ngày
càng lớn, chuỗi và mạng thức ăn, phân bố cá thể, phân hóa tổ sinh thái ngày càng phức tạp,
khả năng tự phục hồi cân bằng ngày càng lớn, tính bền vững ngày càng cao.
➔ Diễn thế theo chiều hướng tiêu cực: có xu hướng giảm đa dạng sinh học, giảm sinh khối, đơn
giản hóa về cấu trúc và do vậy tính ổn định bền vững của quần xã giảm.
2.4. HỆ SINH THÁI
2.4.1. Khái niệm
Hệ sinh thái là một hệ thống thống nhất bao gồm các quần xã sinh vật và các yếu tố môi
trường, trong đó giữa chúng có sự tương tác lẫn nhau thông qua quá trình trao đổi vật chất và
năng lượng trong một sinh cảnh xác định. Nói cách khác, hệ sinh thái là một hệ thống thống
nhất giữa các sinh vật và môi trường. Hệ sinh thái có kích thước lớn nhỏ khác nhau tùy thuộc
vào đối tượng nghiên cứu. Sinh quyển là một hệ sinh thái tự nhiên hoàn chỉnh khổng lồ. Đại
dương là một hệ sinh thái lớn. Khu rừng, hồ nước là những hệ sinh thái vừa. Bể cá cảnh cũng
có thể được xem là hệ sinh thái rất nhỏ.
Cấu trúc một hệ sinh thái bao gồm 4 hợp phần cơ bản là vật sản xuất, vật tiêu thụ, vật phân
hủy và môi trường vô sinh.
- Vật sản xuất chủ yếu là các loài thực vật có khả năng quang hợp và tổng hợp các chất hữu cơ
từ các chất vô cơ
- Vật tiêu thụ bao gồm các động vật
- Vật phân hủy là các vi sinh vật.
- Vật chất đi từ môi trường ngoài vào cơ thể các sinh vật, rồi từ sinh vật này sang sinh vật kia
theo chuỗi thức ăn, rồi lại từ các sinh vật phân hủy thành các chất vô cơ đi ra môi trường (còn
gọi là vòng tuần hoàn sinh-địa-hoá).
2.4.2. Vòng tuần hoàn vật chất và dòng năng lượng trong hệ sinh thái
- Sự trao đổi vật chất trong hệ sinh thái thực chất là các quá trình tổng hợp, sử dụng và phân
huỷ các chất hữu cơ. Các quá trình này xảy ra kế tiếp nhau liên tục tạo ra vòng tuần hoàn khép
kín vật chất. Sự nhiễu loạn một giai đoạn nào đó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến giai đoạn kia.
Vật chất vô cơ bao gồm các chất khoáng, nước, CO2, từ môi trường bên ngoài được các vật
sản xuất sử dụng, dưới tác động của ánh sáng mặt trời để tạo ra các chất hữu cơ. Vật tiêu thụ
sử dụng các chất hữu cơ này như là nguồn thức ăn và chuyển hoá, tích luỹ trong cơ thể chúng.
Đến lượt mình, vật phân huỷ sẽ phân giải các xác chất hữu cơ thành các chất vô cơ giải phóng
vào môi trường kết thúc một chu trình vật chất trong hệ sinh thái. Sự chuyển giao vật chất giữa
các sinh vật trong hệ sinh thái được thực hiện thông qua chuỗi thức ăn và mạng lưới thức ăn.
Trong tự nhiên, vật chất được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần tạo thành vòng tuần hoàn vật
chất hay vòng tuần hoàn các chất dinh dưỡng trong hệ sinh thái. Trong đó, một loại vật chất
bất kỳ đều có 2 giai đoạn: Tồn tại ngoài môi trường và ở trong cơ thể sinh vật.
Mở rộng vòng tuần hoàn vật chất trong hệ sinh thái trên phạm vi toàn cầu, ít nhất cũng trên
một phạm vi rộng lớn ta có các chu trình sinh - địa - hoá.
Chu trình sinh địa hoá của các nguyên tố trong tự nhiên được chia làm 2 loại: Chu trình chủ
yếu bao gồm chu trình của các nguyên tố C, P, N, S và nước. Chu trình sinh địa hoá của các
nguyên tố còn lại là thứ yếu.
Dòng năng lượng đi qua hệ sinh thái là tổng số năng lượng mà cây xanh tích lũy được từ Mặt
trời (GPP) để tổng hợp chất hữu cơ, được sử dụng để duy trì các quá trình sống của toàn hệ
sinh thái, kể cả vật tiêu thụ và phân huỷ.
2.4.3. Cân bằng và diễn thế sinh thái
Cân bằng là trạng thái mà hệ sinh thái tồn tại ổn định theo thời gian, ổn định về số lượng và
cấu trúc, có cân bằng giữa thành phần vô sinh và hữu sinh, chu trình vật chất và năng lượng
không có những biến động lớn về sự đa dạng sinh học và các yếu tố môi trường.
Tự lập lại cân bằng là khả năng của hệ sinh thái tự thiết lập lại cân bằng cũ khi chịu những
tác động biến đổi của các yếu tố môi trường.
Hệ sinh thái càng đa dạng loài cao sẽ càng có độ ổn định cao.

Diễn thể sinh sinh thái thực chất là diễn thế của các quần xã sinh học đồng thời với những
biến đổi của các yếu tố môi môi trường, nó là một quá trình diễn biến có định hướng và có thể
dự báo được.
Diễn thế sinh thái bao gồm quá trình diễn thế nguyên sinh và diễn thế thứ sinh. Diễn thế
nguyên sinh là sự hình thành một hệ sinh thái ở những nơi mà chưa từng có hệ sinh thái xuất
hiện, ví dụ như sự hình thành các hệ sinh thái rừng ngập mặn trên một vùng bãi bồi ngập mặn
ven biển mới được hình thành. Còn diễn thế thứ sinh là diễn thể xảy ra trên cơ sở của các diễn
thể nguyên sinh, hay ở những nơi đã có các hệ sinh thái tồn tại.
Trong quá trình diễn thế thứ sinh có thể xảy ra theo chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Diễn
thị theo chiều hướng tích cực có xu hướng làm tăng sự đa dạng sinh học, tăng mức độ phức
tạp của cấu trúc hệ sinh thái, tăng sinh khối, chuỗi thức ăn và mạng lưới thức ăn cũng phức tạp
hơn, và khả năng tự phục hồi cân bằng ngày càng lớn, tính bền vững ngày càng cao. Ví dụ như
từ các vùng đất sau nương rẫy biến đổi dần hình thành các rừng thưa và sau cùng là rừng rậm.
Diễn thế theo chiều hướng tiêu cực sẽ diễn ra theo xu hướng ngược lại, ví dụ từ hệ sinh thái
rừng biến thành hệ sinh thái cây bụi - cỏ.
Diễn thế sinh thái thực chất là diễn thế của các quần xã sinh học đồng thời với những biến đổi
của các yếu tố môi trường, nó là một quá trình diễn biến có định hướng và dự báo được.
Chương 5
TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
5.1. TÀI NGUYÊN SINH VẬT
5.1.1. Khái niệm về tài nguyên sinh vật
- Sinh quyển trải dài từ đáy biển sâu khoảng 11.000 m đến các đỉnh núi cao tới khoảng
9.000 m. Dưới đáy sâu nhất của đại dương, sự sống cũng rất nghèo nàn. Sự sống chủ
yếu chỉ tập trung trong phạm vi từ 200m dưới mặt biển đến 6.000 m trên mặt biển.
- Sự sống có 5 khả năng đặc thù cơ bản khác với các vật không sống, bao gồm khả năng
tái sinh, tự tạo ra các vật thể giống mình; khả năng trao đổi chất, tiếp nhận năng lượng
và vật chất, tổng hợp chất mới, phân giải tạo chất mới và năng lượng, khả năng tăng
trưởng theo thời gian; khả năng bị kích thích, tức khả năng tiếp nhận các thông tin dưới
dạng tín hiệu vật lý, hoá học và phản ứng với các thông tin này bằng sự thay đổi trong
chính mình, và khả năng thích nghi để phù hợp với môi trường.
5.1.2. Hiện trạng và giá trị của đa dạng sinh học
- Tài nguyên sinh vật hay đa dạng sinh học bao gồm đa dạng gen, đa dạng loài, đa dạng
hệ sinh thái, là sản phẩm của các quá trình biến dị di truyền, chọn lọc thích nghi, cạnh
tranh, tiến hoá trong điều kiện môi trường và các nhân tố sinh thái vô sinh, hữu sinh đa
dạng biến động có tính đa dạng và duy nhất, không tái lập.
- Đa dạng sinh học là cơ sở đảm bảo khép kín chu trình sinh - địa - hoá, tạo cân bằng sinh
thái, bảo vệ môi trường; cung cấp tài nguyên thiên nhiên và các giá trị thẩm mỹ, tín
ngưỡng, giải trí... cho con người, và là cơ sở cho nền văn minh nhân loại phát triển. Mỗi
hệ sinh thái tự nhiên là cơ sở cho hình thành một nền văn hoá bản địa riêng. Hệ tự nhiên
càng phân hóa và đặc thù thì hệ xã hội càng có bản sắc riêng. Khi đa dạng sinh học suy
giảm, cơ sở cho sự sinh thành và bảo tồn đa dạng văn hoá bị tổn thương, gây nguy cơ
giảm đa dạng văn hoá.
5.1.2.1 Đa dạng gen
- Gen hoang dại là sản phẩm của điều kiện tự nhiên đa dạng và có giá trị tự thân nhất định
mà con người có thể đã biết hoặc chưa biết. Đối với những giá trị còn chưa biết, con
người chỉ có thể khám phá ra và có cách sử dụng nó khi nghiên cứu đầy đủ về nó, vì thế
nó cần được bảo vệ, bảo tồn để làm cơ sở cho nghiên cứu và sử dụng trong tương lai.
Một số loài sinh vật được thuần chủng và nuôi dưỡng nhân tạo trong thời gian dài sẽ bị
thoái hoá giống và có thể dùng giống hoang dại lại với giống đã thuần dưỡng cùng loài,
hoặc dùng công nghệ biến đổi gen để tạo ra những giống mới có khả năng chống chịu
với môi trường cao hơn.
5.1.2.3. Đa dạng hệ sinh thái
- Nhiệt độ và lượng mưa là hai nhân tố sinh thái vô sinh quan trọng tạo ra sự phân hoá
sinh quyển thành các sinh đới. Sinh đới là những vùng rộng lớn với những đặc thù nhất
định về khí hậu, hệ thực vật, hệ động vật và kiểu đất. Trong mỗi sinh đới có thể có một
số hệ sinh thái ổn định cùng tồn tại và tương tác với nhau. Trên Trái đất có 12 sinh đới,
mỗi sinh đới có thể rộng hàng triệu km2, có thể trải ra trên nhiều lục địa và bao gồm
nhiều hệ sinh thái độc lập.
- Sinh đới đồng rêu vùng cực: Phân bố trong vùng khí hậu lạnh, nhiều băng tuyết, chỉ có
3 tháng mùa hè băng tan là mùa sinh trưởng của cây. Đa dạng sinh học nghèo nhưng có
nhiều loài đặc hữu. Phía Bắc có thẩm rêu và địa y hỗn hợp với vùng than bùn Carex,
Eriophorum. Phía Nam thực bì phát triển hơn, có các cây bụi thấp hỗn hợp với vùng
than bùn Sphagnum. Động vật có vài chục loài thú, đặc biệt có tuần lộc, cáo xanh, gấu
bắc cực..., vài chục loài chim như cánh cụt và các loài chim vãng lai; các loài bò sát, ếch
nhái rất hiếm.
- Sinh đới rừng phân hóa theo vĩ độ thành rừng ôn đới, rừng nhiệt đới, theo lượng mưa
thành rừng mưa ẩm, rừng khô hạn, theo đặc tính sinh thái thành rừng lá kim, rừng lá
rụng, rừng thường xanh, ... Nhìn chung đa dạng sinh học của rừng, sinh khối và năng
suất sơ cấp rất cao. Tuy nhiên mỗi hệ sinh thái rừng phân bố trong các điều kiện địa lý,
khí hậu đặc thù, nên thường có các sinh vật đặc hữu. Đặc trưng của một số loại thảm
rừng chính trên thế giới như sau:
- Rừng lá kim (taiga): Năng suất thấp do có thời gian sinh trưởng ngắn. Phân bố rộng ở
Bắc Mỹ, châu Âu, Nga, Bắc Trung Quốc và các vùng núi cao nhiệt đới. Cây chủ yếu là
thông, linh sam... Bắc Mỹ, Mexico có nhiều thông đỏ, thông núi, quota cổ thụ... Động
vật có nhiều thú lớn như gấu, chó sói, hươu Bắc Mỹ... Thú có lông nhiều, đẹp, nên bị
săn bắn mạnh. Chim định cư ít, chủ yếu là các loài ăn hạt.
- Rừng rụng lá Ôn đới: Phân bố thấp hơn, gần vùng nhiệt đới hơn; có nhiều ở vùng
Đông Bắc Mỹ, châu Âu, một phần Nam Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc... Diện tích
rừng ngày nay, chủ yếu là rừng thứ sinh. Rừng rụng lá ổn. đới có động vật giới phong
phú hơn rừng lá kim. Thú sống trên cây có sóc, trên mặt đất có hươu, lợn rừng, dê. Các
loài gặm nhấm có nhiều và là thức ăn của thú ăn thịt cỡ nhỏ như cáo và chốn Chim ăn
sâu bọ và ăn thịt | cũng khá nhiều. Côn trùng gây hại gỗ phong phú.
- Rừng rậm nhiệt đới: Phân bố kéo dài thành một vành đai không liên tục quanh xích
đạo, nơi có khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, nhiệt độ ít dao động. Rừng mưa nhiệt phân bố
chủ yếu ở lưu vực sông Amazon (Nam Mỹ), vùng Trung Phi, vùng Nam Á và Đông
Nam Á Động vật phong phú, có nhiều loài sống trên cây. Thú gồm nhiều loài khỉ và
hầu, gặm nhấm, cây cao và một số loài ăn kiến. Các loài chim phong phú, phần lớn màu
sắc rực rỡ, nhiều loài ăn quả. Bò sát và ếch nhái, động vật không xương sống rất phong
phú, nhiều côn trùng.
- Sinh đới đỉnh núi cao: Phân bố trên các đỉnh núi cao có nhiệt độ thay đổi mạnh giữa
ngày và đêm, càng lên cao càng lạnh và áp suất thấp. Nhiệt độ trung bình ban đêm
xuống thấp là nhân tố sinh thái quan trọng nhất của sinh đới này. Thực vật ít phong phú,
chủ yếu là các loài thực vật phân hóa theo đai cao và hướng đón ánh sáng mặt trời Động
vật cũng ít đa dạng, phân hóa theo thảm thực vật và độ cao
- Sinh đới thảo nguyên: Thảo nguyên phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới có mùa khô kéo
dài. Thực bì gồm cây cỏ hoà thảo có bộ rễ phát triển. Động vật có các loài ăn cỏ, các
loài sống trong hang như chuột, rắn… và các loài thú lớn như sơn dương, lừa, ngựa
hoang, bò... và các loài thú ăn thịt khác. Sinh đới này nghèo sinh khối, thích hợp cho
chăn nuôi,
- Sinh đới Savan: Phát triển ở vùng nhiệt đới bán khô hạn, được chia thành xavan cây
cỏ, cây bụi, cây gỗ hoặc cây rừng. Thực bì có các tầng cỏ dại, các cây gỗ lớn như keo,
bao báp. Savan châu Mỹ có nhiều xương rồng, xavan châu Úc có nhiều bạch đàn. Động
vật ưu thế có kiên, môi, các loài ăn cỏ, đà điểu và thú ăn thịt cỡ lớn như sư tử, hổ báo …
- Sinh đới sa mạc: Phát triển ở những vùng khó hạn, lượng mưa rất thấp, thực bì rất
nghèo. Thực vật bao gồm một số loài cây hàng năm có thời kỳ sinh trưởng ngắn, nhóm
cây nhiều năm có khả năng thích nghi cao với điều kiện khô hạn. Động vật nghèo, gôm
vài loài thú sống trong hang hoặc vãng lai, một số loài côn trùng cánh cứng, bọ ngựa,
thằn lằn...
- Sinh đới thuỷ sinh: gồm sinh đới nước ngọt, nước lợ, nước mặn. Môi trường nước có
đặc điểm là áp suất tăng theo độ sâu, nhiệt độ, ánh sáng giảm theo độ sâu, hàm lượng
các chất khí hoà tan, muối dinh dưỡng phân hóa theo độ sâu và chế độ thuỷ lực. Do đó,
trong sinh đới thuỷ sinh có nhiều kiểu hệ sinh thái khác nhau như hệ sinh thái nước
chảy, nước đứng, hệ sinh thái cửa sông, hệ sinh thái đất ướt ngập triều, rừng ngập mặn,
hệ sinh thái rạn san hô...
Giải pháp bảo vệ đa dạng sinh học bao gồm việc thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên, các
vườn Quốc gia nhằm bảo vệ các hệ sinh thái đặc biệt; bảo vệ các loài quý hiếm và có nguy cơ
bị tuyệt chủng. Khai thác sử dụng hợp lý, khoa học các giá trị đa dạng sinh học, bao gồm cả đa
dạng gen, loài và hệ sinh thái.
Các loại khu bảo vệ tài nguyên sinh học:
1- Khu dự trữ sinh quyển - thế giới, có diện tích rộng, có các giá trị đa dạng sinh học
cao, được quy hoạch ở cấp quốc tế để bảo vệ nguyên dạng các loài động thực vật, đa
dạng gen đang trong quá trình tiến hoá, phục vụ cho cả các mục tiêu giáo dục, nghiên
cứu.
2- Vườn quốc gia, là những khu tự nhiên khá rộng lớn, có các giá trị đa dạng sinh
học cao, độc đáo, có tầm quan trọng đặc biệt, được bảo vệ nguyên trạng, đồng thời
phục vụ nghiên cứu, du lịch sinh thái.
3- Khu bảo tồn thiên nhiên là những khu vực được quy hoạch quản lý nhằm đảm
bảo các điều kiện cần thiết bảo vệ các cá thể và những nhóm loài mang tính quốc gia
hoặc những đặc tính vật chất của môi trường, có thể được phép thu hoạch một số loại
tài nguyên đã được kiểm tra.
4- Di sản thiên nhiên, văn hoá, thế giới, di tích lịch sử, văn hoá, môi trường quốc
gia, là những khu vực được quản lý vì những mục tiêu khác nhau, nhưng các giá trị tự
nhiên cũng được quy định bảo vệ.

Chương 3: DÂN SỐ VÀ MÔI TRƯỜNG

3.1. DÂN SỐ HỌC

3.1.1. Khái niệm và các thông số của dân số học


Tỉ lệ sinh (Birth Rate) là đại lượng đo mức sinh, được tính bằng tỷ số giữa số trẻ sinh ra
trên tổng dân số tương ứng nhân với 1000 %o.. Có nhiều loại tỷ lệ sinh khác nhau, như tỷ lệ sinh
thô, tỷ lệ mắn đẻ chung hoặc đặc trưng theo lứa tuổi, tổng tỷ suất sinh, tỷ lệ sinh sản nguyên...
Tỷ lệ sinh thô CBR (Crude Birth Rate, đơn vị so) tính bằng tỷ số giữa số trẻ sinh ra trong
năm trên tổng số dân trung bình của năm đó (tính vào giữa năm) nhân với 1000 %0. CBR dễ
hiểu, dễ xác định, đại diện cho mức sinh trung bình của cộng đồng nên thường được sử dụng
trong các tính toán thống kê dân số. Tuy nhiên, CBR có nhược điểm là chưa đại diện được cho
khả năng sinh sản thực của dân cư. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, CBR <16%o là mức sinh thấp,
16-24%o là mức sinh trung bình, 25-29%o là mức sinh tương đối cao, 30-39%o là mức sinh cao
và từ 40%o trở lên là rất cao. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến CBR là tuổi kết hôn, độ ổn định
kinh tế xã hội, tâm lý xã hội, quan niệm tôn giáo, chính sách kiểm soát sinh đẻ có kế hoạch, điều
kiện sống, đặc biệt là thu nhập, chi phí nuôi con và lợi ích của đứa con, tình trạng người phụ nữ,
tỷ lệ chết của trẻ em và trẻ sơ sinh... Sự khác biệt về mức sinh thể hiện rõ giữa nông thôn và
thành thị, tỷ lệ nghịch với học vấn, phân hoá theo nghề nghiệp, tôn giáo, thu nhập. Các cộng
đồng nghèo, nhiều nước đang phát triển thường có tỷ lệ sinh thô cao.
Tỷ lệ mắn để chung GFR (General Fertility Rate) là tỷ số giữa số trẻ sinh ra còn sống
trên tổng phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ nhân với 1000 %. Theo một văn bản của Liên Hợp Quốc
(3/11/1965), tuổi kết hôn tính từ 15, do đó độ tuổi sinh đẻ lấy từ 15 - 49. Tỷ lệ mắn đẻ chung đại
diện tốt cho sức sinh sản của cộng đồng.
Tổng tỷ lệ sinh TFR (Total Fertility Rate) là trung bình số trẻ sinh ra còn sống của một
người nữ trong cả cuộc đời (con/phụ nữ). TFR < 2,15 là thấp, từ 2,15 - 4 là trung bình và > 4 là
cao. Những năm gần đây TFR của thế giới giảm. Giai đoạn 1980 – 1985, TFR là 3,6 từ 1985 -
1990 TFR là 3,4, trong đó các nước phát triển có TFR 1,9, các nước đang phát triển có TFR là
3,9. TFR đặc biệt cao tại Đông Phi là 6,9 và đặc biệt thấp tại Italia chỉ có 1,26. Mặc dù TFR giản,
nhưng do số phụ nữ sinh ra trong những | thập kỷ trước cao, nên số trẻ sinh ra hàng năm vẫn ở
mức khá cao.
Tỷ lệ sinh đặc trưởng theo lứa tuổi ASBR (Age Specific Birth Rate) được tính bằng số trẻ
sinh ra trong năm của 1.000 phụ nữ trong nhóm tuổi tương ứng. Trung bình ASBR theo lứa tuổi
cao nhất trong nhóm tuổi từ 20-34.
Chỉ số sinh sản nguyên NRR (Net Reproductive Rate) được tính bằng tỷ lệ giữa số phụ
nữ của thế hệ này trên số phụ nữ của thế hệ trước đó. Nếu NRR>1 thì dân số đó đang tăng,
nếu NRR<l thì dân số đó đang giảm, còn NRR =l thì dân số đứng yên.
Tỷ lệ tử (Death Rate)
Tỷ lệ tử thô CDR (Crude Death Rate) được tính bằng tỷ số giữa tổng số người chết trong
năm trên số dân trung bình năm đó (lấy ở giữa năm) nhân với 1000 %0. CDR <110o là tháp,
11-14%o là trung bình, 15-25%o là C10 và CDR >25%o là rất cao.
Tỷ lệ tử đặc trưng theo lứa tuổi ASDR (Age Specific Death Rate) được tính bằng tỷ số
giữa số người chết trên số dân trung bình trong độ tuổi xem xét trong một năm nhân với 1000
%0. ASDR của các nhóm tuổi như sau: tuổi <1 khoảng 0,117, từ 1 - 4 tuổi là 0,015, từ 5 - 9 tuổi
là 0,003, từ 10 - 14 tuổi là 0,002 và > 85 tuổi là 0,217.
Tỷ lệ tử vong trẻ em IMR (Infant Mortality Rate) được tính bằng tỷ lệ giữa số trẻ sinh ra
bị chết dưới 1 tuổi trên tổng số trẻ sinh ra còn sống nhân với 1000 %. IMR ở các nước đang
phát triển cao (69 %) gấp gần 6 lần ở các nước phát triển (1200).
Các yếu tố chính ảnh hưởng tới tỷ lệ tử là: Mức dinh dưỡng, dịch benh - dịch tả - y tế,
thiên tai, môi trường, chiến tranh, tai nạn.
Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên RNI (Rate of Natural Increase) được tính bảng hiệu giữa tỷ lệ
sinh thô và tỷ lệ tử thô. Dân số ổn định khi tỷ lệ sinh, tử và thành phần các nhóm tuổi không
thay đổi theo thời gian.
Cấu trúc dân số theo tuổi và giới tính biểu diễn dưới dạng biểu đồ được gọi là tháp tuổi.
Tháp tuổi cho biết thành phần dân cư theo từng nhóm tuổi và giới, từ đó có thể dễ dàng ước
đoán xu thế sinh, tử và khả năng tăng dân số trong tương lai. Có 3 dạng tháp tuổi cơ bản phản
ánh cấu trúc tuổi của các dân số khác nhau là: Kiểu mở rộng đáy đặc trưng cho cấu trúc dân số
trẻ, tăng nhanh, lớp tuổi sinh sau chiếm tỷ lệ lớn hơn lớp tuổi sinh trước; Kiểu hẹp đáy, rộng
đỉnh đặc trưng cho cấu trúc dân số già, tăng chậm, nhóm người dưới 15 tuổi chiếm tỷ lệ nhỏ,
nhóm tuổi trẻ mới sinh ra ít dần; Kiểu ổn định, đặc trưng cho dân số ít biến động, số người ở 3
nhóm tuổi gần bằng nhau, thu hẹp dần ở nhóm tuổi già. Đa phần các nước đang phát triển có
cấu trúc dân số trẻ, do vậy gia tăng dân số trong những thập niên tiếp theo vẫn còn ở mức cao.
Trong khi đó các nước phát triển có cấu trúc dân số già, gia tăng chậm và ổn định trong thời
gian tới.

3.2. CÁC THỜI KỲ DÂN SỐ HỌC VỚI MÔI TRƯỜNG

3.2.1. Thời kỳ tiền sản xuất nông nghiệp (từ khởi thuỷ đến 8.000 năm TCN)
Xem slide của cô
3.2.2. Thời kỳ cách mạng nông nghiệp (8.000 TCN đến 1650)
Xem slide của cô
Tác động đến môi trường giai đoạn này rất đa dạng về hình thức, tăng cường về mức độ, mở
rộng về không gian và gây nhiều hệ quả nghiêm trọng. Hoạt động đáng kể nhất là sự phá rừng
lấy đất làm nông nghiệp, lấy củi đun, làm thay đổi cơ bản lớp phủ bề mặt và các quá trình tự
nhiên diễn ra trên nó. Canh tác nông nghiệp không hợp lý (như đốt nương làm rẫy trên đất dốc,
tưới không khoa học...) gây suy thoái nhiều miền đất. Chiến tranh liên miên phá huỷ nhiều vùng
sinh thái, hạn chế sự phát triển của xã hội, tác động rất bất lợi tới môi trường.

3.2.3. Thời kỳ từ cách mạng công nghiệp đến hết Chiến tranh thế giới thứ
hai (1650 - 1945)
Xem slide của cô
Tác động của dân số đến môi trường giai đoạn này là sự mở rộng các hành vi, tăng mạnh
cường độ tác động so với giai đoạn trước trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, khai khoáng,
phá rừng, chiến tranh... Ô nhiễm môi trường xuất hiện ở nhiều nơi, đặc biệt là đô thị, khu công
nghiệp, mỏ... Suy thoái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên có dấu hiệu báo động.

3.2.4. Thời kỳ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến nay
Xem slide của cô
Dòng di cư nông thôn - thành phố tiếp tục diễn biến phức tạp do chênh lệch về thu nhập,
điều kiện sống và lao động, gây ảnh hưởng đáng kể cho cộng đồng cả nơi đi và nơi đến.

3.3. BIẾN TRÌNH TĂNG DÂN SỐ THẾ GIỚI VÀ LÝ THUYẾT QUÁ ĐỘ


DÂN SỐ
Mô hình quá độ dân số đơn giản bao gồm 3 pha khác nhau: Pha I (Trước quá độ) có tỷ
suất sinh và tử đều cao và gần ngang nhau, tỷ lệ tăng dân số thấp; Pha II (Quá độ dân số) được
chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn 1 có tỷ suất sinh vẫn ở mức cao trong khi tỷ suất từ giảm
nhanh làm cho tỷ lệ tăng dân số cao; giai đoạn 2 tỷ suất sinh giảm nhanh, tỷ suất tử tiếp tục duy
trì ở mức thấp làm cho dân số sẽ giảm dần; Pha III (Sau quá độ) là thời kỳ cả tỷ suất sinh và tử
đều ở mức thấp và gần bằng nhau dẫn đến gia tăng dân số tự nhiên sẽ tiệm cận rất chậm tới 0 và
tiến tới ổn định dân số.

3.4. PHÂN BỐ DÂN SỐ THẾ GIỚI

3.4.1. Đặc điểm phân bố dân số thế giới

Những nhân tố xã hội chính tác động tới phân bố dân số là tính chất của nền sản xuất,
trình độ của lực lượng sản xuất, lịch sử khai thác lãnh thổ, chính sách kiểm soát dân số tự
nhiên và gia tăng dân số cơ học.

3.4.2. Chuyển cư, nguyên nhân và hệ quả


Chuyển cư là một đặc tính của xã hội loài người, đặc trưng bằng quá trình di cư và nhập
cư từ nơi này sang nơi khác. Từ cái nôi sinh thành là châu Phi, loài người đã di chuyển tới hầu
khắp các châu lục.
Các yếu tố ảnh hưởng đến chuyển cư rất đa dạng. Những dòng chuyển cư đầu tiên trên thế
giới đã hình thành dưới áp lực của mật độ dân số, sự thiếu hụt tài nguyên tối thiểu và điều kiện
khí hậu tại chỗ. Khi dân số quá đông, "thừa dân số" sẽ làm tăng sức ép của con người lên các
nguồn tài nguyên cơ bản mà họ phụ thuộc. Sức ép dân số có thể là nguyên nhân dẫn đến mâu
thuẫn và chiến tranh. Theo tiếng gọi của các miền đất hứa, nhiều người, trong đó đa phần là
người nghèo, đã rời bỏ chốn cũ để tha hương.
Chênh lệch trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, kinh tế xã hội là một nguyên nhân
dẫn đến chuyển cư.
Đô thị hoá và công nghiệp hoá là một nguyên nhân quan trọng khác dẫn đến chuyển
cư. Công nghiệp và đô thị thường thu hút một số lo động đáng kể từ các vùng nông thôn, tạo ra
tập trung cao dân số tại các khu vực này. Ngoài ra, phân bố dân cư còn chịu ảnh hưởng của các
chính sách kinh tế xã hội, sự phân hoá giữa các vùng hoặc các quốc gia khác nhau. Chính trị, tôn
giáo, kỳ thị sắc tộc, chiến tranh cũng là những yếu tố tác động đáng kể tới dòng di cư.
Chuyển cư không làm tăng dân số thế giới, nhưng có ảnh hưởng lớn đến phân bố dân cư
và cấu trúc dân số các vùng, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội và thậm chí đến
nền chính trị của những khu vực có liên quan.

3.5. DÂN SỐ VÀ PHÂN BỐ DÂN CƯ Ở VIỆT NAM

3.5.1. Dân số Việt Nam

3.5.2. Gia tăng dân số Việt Nam

3.5.3. Phân bố dân số và chuyển cư ở Việt Nam

Dân cư Việt Nam phân bố rất không đều, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nguồn tài
nguyên, điều kiện kinh tế - xã hội và lịch sử khai thác vùng.

Chương 4: NHU CẦU VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU CỦA
CON NGƯỜI

4.1. Nhu cầu và hoạt động đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm

4.1.1. Những loại lương thực thực phẩm chủ yếu

4.1.2. Nhu cầu và hiện trạng tiêu thụ lương thực và thực phẩm

Theo FAO, trung bình nhu cầu thức ăn của con người tính theo năng lượng là 2.300
Calo/ngày.

4.1.3. Vấn đề lương thực, thực phẩm trong lịch sử

4.1.3.1. Sản xuất và đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm trên thế giới

4.1.3.2. Cách mạng xanh và vấn đề giải quyết lương thực trên thế giới

Cách mạng xanh (Green Revolution) được sử dụng với nghĩa tổng quát để chỉ sự phát triển
quan trọng trong việc sản xuất lương thực bắt đầu từ việc tạo ra các giống cây trồng có năng
suất cao từ những thập kỷ 60 của thế kỷ XX.

Nội dung cơ bản của cách mạng xanh là tạo ra nhiều giống mới có năng suất cao, áp dụng các
giống mới đồng bộ với tổ hợp các biện pháp khoa học kỹ thuật, đặc biệt là phân bón, thuỷ lợi
và thuốc bảo vệ thực vật để phát huy hết khả năng cho năng suất cao của các giống mới. Kết
quả là đã tạo ra bước phát triển quan trọng để giải quyết lương thực cho loài người. Giống cây
mở đầu cho cuộc cách mạng xanh là ngô, sau đó là lúa mì và lúa. Giống mới có đặc điểm chung
là năng suất cao, thân thấp nên phần thu hoạch (hạt) chiếm tỷ lệ Cao trong sinh khối, thời gian
sinh trưởng ngắn hơn các giống cây truyền thống, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng vụ và đa
canh.

Tuy nhiên cách mạng xanh cũng nhanh chóng bộc lộ những hạn chế, nhất là những vấn
đề về môi trường:
- Giống cây trồng mới chỉ phát huy tác dụng khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết
cho nó. Do vậy trong cách mạng xanh cần phải áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật tương
ứng như cung cấp đầy đủ phân bón, thuỷ lợi, thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Đây là nền nông nghiệp có
đầu tư cao nên khó áp dụng ở những nơi nghèo đói, thiếu vốn đầu tư cũng như các vật tư kỹ
thuật khác.
- Các giống cây trồng địa phương với nguồn gen di truyền quý giá có chất lượng tốt và
tính thích ứng cao với điều kiện tự nhiên bị loại bỏ

79
dân. Thay vào đó là các giống mới ít thích ứng với điều kiện môi trường địa phương, dễ bị sâu
bệnh và thường có chất lượng kém.
- Do sử dụng nhiều phân bón hoá học và các loại thuốc bảo vệ thực vật, cơ giới hoá, thuỷ lợ
hoá nên dẫn đến làm ô nhiễm môi trường và gây thoái hoá đất, hiệu quả của quá trình sản xuấ
giảm dần.

4.1.3.3. Sản xuất lương thực, thực phẩm ở Việt Nam

4.1.4. Những vấn đề về lương thực, thực phẩm trong tương lai
Những người theo quan điểm bi quan cho rằng dân số tăng nhanh và nhu cầu ngày càng
cao của con người sẽ dẫn đến nghèo đói, suy dinh dưỡng, làm cho số người chết tăng, ảnh
hưởng tiêu cực đến dân số thế giới, đặc biệt ở các nước nghèo.
Những người theo quan điểm lạc quan cho rằng chúng ta có khả năng giải quyết vấn đề
cung cấp lương thực thông qua việc áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để tăng năng suất
cây trồng và nâng cao sản lượng lương thực thế giới.
4.2. CÁC NỀN NÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG TỚI MÔI TRƯỜNG

4.2.1. Nền nông nghiệp hái lượm, săn bắt và đánh cá

4.2.2. Nền nông nghiệp trồng trọt chăn thả truyền thống

Nền nông nghiệp trồng trọt chăn thả truyền thống được đánh dấu bằng việc xã hội loài
người thay thế các hoạt động hái lượm săn bắt ngoài tự nhiên bằng các hoạt động trồng trọt và
chăn nuôi với các giống cây Con đã được thuần hoá.

Theo FAO (1982), du canh là hình thức canh tác trong đó thời gian trồng trọt tương đối
ngắn nối tiếp với thời gian bỏ hoang hoá đất tương đối dài. Quy trình canh tác chủ yếu bao gồm
các bước phát chặt và đốt cây trên một diện tích rừng nhất định, sau đó gieo trồng cây lương
thực một vài năm, thậm chí chỉ vài vụ cho đến khi độ phì của đất giảm, năng suất cây trồng thấp
thì đất sẽ được bỏ hoang hoá để tái sinh rừng tự nhiên. Quá trình này lại được lặp lại trên một
mảnh đất khác. Năng suất cây trồng du canh thấp, nên khả năng đáp ứng nhu cầu lượng thực
hạn chế.

Du canh không chỉ bao hàm sự di chuyển địa điểm canh tác từ nơi này đến nơi khác mà
thường còn kèm theo sự tái định cư tạm thời các hộ gia đình nên nhu cầu sử dụng đất thường
khá lớn, các điều kiện sống không ổn định và đảm bảo.

Định canh là hình thức canh tác nông nghiệp trong đó trồng trọt và chăn nuôi được duy
trì ổn định trên những diện tích nhất định. Định canh cũng là điều kiện tiên quyết cho định cư,
tạo cơ sở đảm bảo những điều kiện sống tốt hơn cho con người, giảm đáng kể tỷ lệ tử vong. Tuy
nhiên, khi dân số đông và ngày càng tăng, nông nghiệp định canh truyền thống cũng đã không
đủ khả năng cung cấp lương thực thực phẩm cho con người.

Thành quả lớn nhất của nền nông nghiệp truyền thống là đã tạo ra một tập đoàn các
giống cây trồng vật nuôi đa dạng, phong phú, đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm, dược liệu
quan trọng cho loài người và hình thành hệ thống kinh nghiệm, kỹ thuật canh tác thích nghi cao
ở nhiều vùng sinh thái khác nhau.

4.2.3. Nền nông nghiệp công nghiệp hoá

Mục tiêu cơ bản của nền nông nghiệp công nghiệp hoá là tạo ra một năng suất cao đủ đáp ứng
nhu cầu lương thực cho một dân số đông.

Làm mất đi và lãng quên dần các giống cây trồng vật nuôi truyền thống ở địa phương.

Làm mất cân bằng dinh dưỡng và làm thoái hoá đất, làm suy thoái môi trường, gây thoái hoá
đất, ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí và ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.

Nông nghiệp công nghiệp hoá chỉ chú trọng đến năng suất và lợi nhuận mà ít chú ý đến nhu cầu
bảo vệ sức khoẻ của người tiêu dùng. Sản phẩm của nền nông nghiệp công nghiệp hoá thường
có chất lượng không cao, ăn không ngon, hoa quả chứa nhiều nước, khó bảo quản.

4.2.4. Nền nông nghiệp sinh thái học

Nông nghiệp sinh học


Nông nghiệp sinh học chủ trương chỉ sử dụng các loại giống cây trồng vật nuôi truyền thống
của địa phương và phân bón hữu cơ như phân chuồng, phân xanh, phân rác, không dùng các
loại phân bón hoá học. Phòng chống sâu bệnh chủ yếu bằng các biện pháp canh tác luân canh,
xen canh, vệ sinh đồng ruộng, phòng trừ sinh học và bằng các loại thuốc thảo mộc, không dùng
các loại hoá chất bảo vệ thực vật. Trong làm đất cần tránh các tác động mạnh gây phá huỷ cấu
trúc đất, nhằm duy trì hoạt động bình thường của hệ sinh thái đất. Áp dụng chăn thả tự nhiên là
chủ yếu để gia súc có thể tìm kiếm thức ăn một cách đa dạng phong phú theo nhu cầu của
chúng.
Nông nghiệp sinh thái học Nông nghiệp bền vững
Nông nghiệp sinh thái học hiện đang tiếp tục được nghiên cứu và áp dụng trên những quy mô
và phạm vị khác nhau. Một ví dụ cho sự thành công của nền nông nghiệp sinh thái học là việc
áp dụng chương trình phòng trừ sâu bệnh tổng hợp IPM (Integrated Pest Management).
Ở nước ta, các mô hình canh tác VAC (Vườn - A0 - Chuồng), RVAC (Rừng - Vườn - Ao -
Chuồng) cũng đang được áp dụng.

4.2.5. Phát triển nông nghiệp nông thôn và các vấn đề môi trường
Nông dân có truyền thống sử dụng các chất hữu cơ, phân chuồng, phân bắc trong trồng trọt,
do vậy họ có những kinh nghiệm truyền thống sử dụng hợp lý chúng. Tuy nhiên, khi thiếu nhân
lực và thời gian, các Công đoạn sử lý phân rác thường không được chú ý, thậm chí nông dân
dùng cả phân tươi để tưới rau, hoa... hệ quả là gây ô nhiễm môi trường và các nông sản.
Thuốc trừ sâu bảo vệ thực vật được sử dụng ở nước ta hiện nay thuộc các nhóm thuốc trừ sâu,
trừ nấm, trừ cỏ, kích thích sinh trưởng, diệt chuột, khử trùng... gồm khoảng 450 hoạt chất với
nhiều tên thương mại.
4.3. NHÀ Ở VÀ MÔI TRƯỜNG

4.3.1. Du cư và định cư

4.3.2. Nhà ở của con người

4.4. ĐÔ THỊ HOÁ, CÔNG NGHIỆP HOÁ VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN


MÔI TRƯỜNG

4.4.1. Các hình thức quần cư

Từ khi con người sống định cư thì các điểm dân cư bắt đầu được hình thành. Sau đó
chúng phát triển thành các kiểu quần cư khác nhau phụ thuộc vào điều kiện sản xuất hoặc các
hình thái kinh tế cụ thể. Có 2 kiểu quần cư chính có sự khác nhau cơ bản về chức năng cũng
như mức độ tổ chức và tập hợp dân cư là quần cư nông thôn và quần cư thành phố.
Các quân cư thành phố có đặc điểm chung là sự tập trung cao dân số, sự phát triển
mạnh của các ngành nghề không lấy đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu. Quần cư thành phố cũng
có kiểu kiến trúc quy hoạch đặc biệt. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và công trình văn hoá xã hội phát
triển.
4.4.2. Nguồn gốc của đô thị hoá và công nghiệp hoá
Có thể nói một cách ngắn gọn, đô thị hoá là quá trình gia tăng dân số cùng với sự phát triển
kinh tế và xã hội của các thành phố. Về mặt hình thái đô thị và khu công nghiệp thường có hình
thù rõ rệt và có vị trí địa lý thuận lợi tạo điều kiện cho đô thị có khả năng khai thác tài nguyên
và thực phẩm từ các vùng xung quanh. Đô thị và nông thôn tuy có sự khác biệt rõ rệt nhưng vẫn
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
4.4.3. Đô thị hoá và công nghiệp trên thế giới

4.4.4. Đô thị hoá và công nghiệp hóa ở Việt Nam


Đô thị hoá và Công nghiệp hoá đất nước đã có những tác động tích cực thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng GDP, tăng đầu tư cho cơ sở hạ
tầng tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế xã hội. Hệ thống đô thị được mở rộng, tạo công ăn
việc làm, góp phần xoá đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cấp nhiều khu nghèo tại các thành phố
lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng... Nhưng các quá trình này cũng có những
tác động tiêu cực đến đời sống xã hội của đất nước. Dòng chuyển cư từ nông thôn vào đô thị dẫn
đến quá tải về nhà ở và cơ sở hạ tầng, làm mất cân bằng sinh thái độ thị, môi trường đô thị xuống
cấp, tệ nạn xã hội phức tạp, nhất là tác động tiêu cực đến khai thác và sử dụng tài nguyên như tài
nguyên đất đai.
Những thách thức môi trường trong quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá ở nước ta thể hiện
ở những vấn đề sau đây:
- Phát triển đô thị không theo quy hoạch, cơ sở hạ tầng không theo kịp tăng trưởng dân số và
sự mở rộng khu vực đô thị.
- Đô thị hoá về mặt hành chính những vùng nông thôn thiếu cân nhắc phù hợp.
- Quy hoạch phát triển công nghiệp ở những khu vực đô thị không đáp ứng các yêu cầu bảo
vệ môi trường, làm gia tăng ô nhiễm nước mặt của đô thị.
- Tình trạng úng ngập ở các khu vực đô thị, đặc biệt là trong những mùa mưa, không được
giải quyết một cách thoả đáng.
- Dịch vụ cung cấp nước và vệ sinh môi trường thấp, chất lượng nước vẫn chưa đạt yêu cầu.
Rác thải rắn đô thị và công nghiệp đang tăng vẻ số lượng và đang ngày càng phức tạp về thành
phần các chất nguy hại.
- Du lịch phát triển tăng sức ép đối với môi trường đô thị.

4.5. NHU CẦU VĂN HÓA, THỂ THAO, DU LỊCH VÀ TÁC ĐỘNG TỚI MÔI
TRƯỜNG

4.5.1. Văn hóa và môi trường


Văn hoá một khi được hình thành sẽ đồng thời đóng vai trò là môi trường sống của con
người, tạo nên các cách ứng xử của con người đối với tự nhiên và xã hội.

4.5.2. Quan hệ xã hội và tác động tới môi trường

Quan hệ xã hội của con người luôn phát triển và ngày càng đa dạng phức tạp. Con người có các
nhu cầu và quan hệ xã hội cơ bản sau đây:
- Quan hệ cùng dòng giống, đây là quan hệ gia đình, bao gồm gia đình hạt nhân (vợ, chồng và
các con chưa trưởng thành) và gia đình mở rộng mà thường gọi là họ hàng. Những mối quan hệ
này cũng rất đa dạng nhưng nhìn chung nặng về tình cảm. Văn hoá Việt Nam Cổ truyền rất coi
trọng về tình và nghĩa.
- Quan hệ cùng nơi cư trú, thường gọi là quan hệ xóm làng gồm các mối quan hệ xã hội của
những người hàng xóm hay những người cùng sống trong những địa bàn dân cư nhất định như
cùng khu nhà, đường phố, thôn xóm... Mối quan hệ này mang tính chất tương trợ giúp đỡ nhau
trong cuộc sống.
Quan hệ cùng lợi ích gồm các mối quan hệ của những người có chung mục đích nào đó. Thường
là quan hệ giai cấp, quan hệ nghề nghiệp, cùng giới tính... Nhìn chung các mối quan hệ giữa con
người với nhau là rất đa dạng, phức tạp và ràng buộc. Mỗi người đều có nghĩa vụ và quyền lợi
nhất định và mỗi người đều có trách nhiệm tôn trọng và thực hiện các mối quan hệ trong cộng
đồng.
Quan hệ xã hội là cơ sở cho công tác tổ chức xã hội theo những định hướng nhất định một cách
mềm dẻo. Nó chi phối hệ xã hội trong nhiều
mối quan hệ, đặc biệt là trong hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tác động
đến môi trường. Quan hệ xã hội ràng buộc các cá nhân trong một định hướng chung, như cách
thức khai thác và sử dụng tài nguyên, cách thức ứng xử với nhau và với các vấn đề môi trường vì
những lợi ích chung nhất định. Quan hệ xã hội có thể trở thành công cụ hữu hiệu cho Công tác
bảo vệ môi trường.

4.5.3. Nhu cầu thể thao, du lịch và tác động tới môi trường

Du lịch sinh thái là một hình thức du lịch mới, được phát triển trên cơ sở các nguyên tắc đạo
đức của phát triển bền vững. Du lịch sinh thái là hoạt động du lịch về với thiên nhiên hoang dã
mà không gây ô nhiễm môi trường, không làm tổn thương hệ tự nhiên và xã hội bản địa, hoạt
động phục vụ du lịch có sự tham gia tích cực của người địa phương để khai thác tối ưu các giá
trị văn hoá truyền thống và tạo cơ hội tăng thu nhập, phát triển cho họ, lợi nhuận từ du lịch phải
được sử dụng nhằm mục tiêu bảo tồn, phát huy các giá trị địa phương truyền thống và phục vụ
cộng đồng tại chỗ.
Các nguyên tắc du lịch bền vững
Để du lịch thực sự có lợi cho tất cả những ai có liên quan, gồm các người chủ, người lao
động, khách du lịch và “chủ nhà” một cách bền vững và lâu dài, ngành phải hoà nhập với các
hoạt động khác, là một phần của chương trình phát triển kinh tế tổng hợp của vùng. Du lịch
bền vững đòi hỏi hiểu biết và tôn trọng cơ sở nguồn tài nguyên du lịch: 1- Khai thác trong khả
năng cho phép của tài nguyên thiên nhiên nhằm đảm bảo hiệu suất cũng như sự sinh tồn của
chúng trong tương lai, không tiêu hao chúng quá mức; 2- Nhìn nhận sự đóng góp của công
đồng địa phương cùng với các tập quán và lối sống của họ như là tài nguyên du lịch, đảm bảo
các nền văn hoá và các dân tộc được kính trọng, tuân thủ nguyên tắc rằng người địa phương
phải được tham gia vào việc ra kế hoạch và thực hiện hoạt động du lịch, hưởng các nguồn lợi
kinh tế từ hoạt động du lịch một cách công bằng.

Những nguyên tắc của du lịch bền vững: 1- Sử dụng nguồn lực (tài nguyên thiên nhiên, văn
hoá và xã hội) đúng cách: 2- Giảm tiêu thụ quá mức và giảm chất thải để tránh chi phí tốn kém
cho việc phục hồi tổn hại môi trường và đóng góp cho chất lượng du lịch; 3- Duy trì và tăng
Cường tính đa dạng của thiên nhiên, văn hoá và xã hội làm chỗ dựa sinh tồn cho công nghiệp
du lịch; 4. Hợp nhất du lịch vào quá trình quy hoạch chiến lược cấp quốc gia và địa phương, có
tiến hành đánh giá tác động Môi trường: 5 - Hỗ trợ kinh tế địa phương và có tính đến giá trị và
chi phí môi trường; 6- Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phương để vừa nâng cao chất
lượng du lịch vừa tạo việc làm và thu nhập cho công đồng: 7- Lấy ý kiến quần chúng và các
đối tượng có liên quan để cùng giai toi các màu tuần tiên an về quyền lợi; 8- Đào tạo cán bộ có
lông ghép nhận thức u lịch bền vững vào thực tiễn công việc; 9- Tiếp thị du lịch một cách có
trách nhiệm, cung cấp cho khách những thông tin đầy đi để nâng cao ý thức của khách đối với
môi trường, đồng thời tăng sự hài lòng của khách; 10- Nghiên cứu phát triển du lịch để mang
đến lợi ích cho các điểm tham quan, cho ngành và khách du lịch.
(Nguồn: Bên kia chân trời xanh, Các nguyên tắc du lịch bền vững. WWF
UK, 1992.)

5.2 TÀI NGUYÊN RỪNG


5.2.1 Khái niệm và phân loại
- Rừng có vai trò to lớn trong tự nhiên: tạo ra, duy trì và bảo vệ đa dạng sinh học, là nơi ở
cho các loài động vật; tích tụ, chuyển hóa năng lượng mặt trời thành hóa năng, cung cấp
Oxi, tiêu thụ, tích lũy CO2., làm sạch bầu khí quyển; sản xuất và cung cấp gỗ làm nhiên
liệu cho dân sinh và nguyên liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp, khai mỏ, hóa
chất, y học... ; bảo vệ đất, chống xói mòn, tạo vi khí hậu; điều hoà chế độ dòng chảy,
phòng hộ đầu nguồn; cung cấp các giá trị cảnh quan, thẩm mỹ, du lịch, là đối tượng cho
nghiên cứu khoa học và là cơ sở tạo ra và bảo tồn văn hoá địa phương.
- Rừng được phân loại theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu
hoặc sử dụng. Theo chức năng rừng được chia thành rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và
rừng sản xuất. Rừng phòng hộ được sử dụng cho mục đích phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ
nguồn nước, bảo vệ đất chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều hoà khí hậu, bảo vệ môi
trường sinh thái. Rừng phòng hộ bao gồm rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ
chống cát bay, rừng phòng hộ chắn sóng ven biển. Rừng đặc dụng bao gồm các vườn
quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu văn hoá lịch sử và môi trường, là loại phục vụ
cho các mục đích đặc biệt như bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ danh thắng cảnh quan. Rừng
sản xuất bao gồm các loại rừng để sản xuất kinh doanh gỗ, lâm đặc sản, động vật rừng
và kết hợp bảo vệ môi trường sinh thái.
Nguyên nhân gây suy giảm diện tích rừng
- Rừng bị khai thác trước tiên và lâu đời nhất vì mục đích lấy đất làm nông nghiệp,
trồng trọt, chăn nuôi. Độ che phủ rừng thế giới đã giảm ít nhất 20% từ thời kỳ tiền
nông nghiệp.
- Khai thác gỗ quá mức và không hợp lý đã thu hẹp nhanh chóng diện tích rừng, nhất là
trong những năm gần đây.
- Chuyển đổi đất rừng sang các hình thức sử dụng khác như trồng các cây kinh doanh
đặc sản, ...
- Cháy rừng cũng là nguyên nhân quan trọng làm suy giảm diện tích rừng trên thế giới.
Cháy có thể do nguyên nhân tự nhiên, nhân tạo, hoặc là tổ hợp của cả hai. Đốt nương
làm rẫy là một trong những nguyên nhân thường xuyên của cháy rừng. Cháy rừng ở
Indonesia trong hai năm 1997 và 1998 đã thiêu huỷ gần 2 triệu ha rừng. làm thiệt hại
kinh tế cho nước này khoảng 3 tỷ USD và gây thiệt hại về kinh tế cho các nước Đông
Nam Á khoảng 9,3 tỷ USD.
- Sự phát triển kinh tế xã hội, khai thác khoáng sản, xây dựng các khu dân cư, các khu
công nghiệp, cơ sở hạ tầng như đường giao thông, các nhà máy thuỷ điện, ... cũng góp
phần làm tăng diện tích rừng bị mất.
5.2.3. Giải pháp bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng
Giải pháp bảo vệ rừng là:
1- Bảo vệ nguyên trạng một số khu vực rừng đặc biệt có giá trị;
2- Khai thác sử dụng hợp lí tài nguyên rừng:
3- Hạn chế ô nhiễm môi trường:
4- Phòng chống cháy rừng:
5- Trồng và bảo vệ rừng;
6- Hạn chế, thay đổi mô hình tiêu thụ và giảm lãng phí gỗ rừng:
7- Phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là cho các cộng đồng địa phương
có rừng:
8- Hợp tác quốc tế, hỗ trợ nguồn tài chính bảo vệ rừng cho khu vực các cộng đồng
nghèo, các quốc gia đang phát triển, đến bù những thiệt hại kinh tế liên quan tới hạn chế
khai thác rừng thuộc lãnh thổ của họ vì mục đích sinh thái, môi trường.
Văn bản luật pháp quốc tế quan trọng nhất về rừng là Tuyên bố các nguyên tắc vệ rừng (1992),
kêu gọi quản lý rừng bền vững trên cơ sở công nhận vai trò của rừng trong việc bảo vệ khí hậu
và đa dạng sinh học của Trái đất. Các nước thỏa thuận về mặt nguyên tắc là mỗi nước được
quyền khai thác tài nguyên rừng của mình, nhưng phải đảm bảo không gây hại cho quốc gia
khác. Việc chưa có công ước về rừng là do chưa có sự thống nhất giữa các nước phát triển và
các nước đang phát triển liên quan với những yêu cầu của các nước đang phát triển: - Được
đền bù về việc họ bị hạn chế phát triển do không được tự do khai thác rừng và tốn phí cho bảo
vệ rừng để ổn định khí hậu toàn cầu, bảo vệ đa dạng sinh học, phục vụ mục tiêu chung của
toàn nhân loại; 2- Được chuyển giao công nghệ, hưởng lợi từ các lợi ích mang lại bởi sản
phẩm công nghệ từ nguồn gen của nước họ; 3- Các nước phát triển không được gây ô nhiễm
môi trường dẫn đến huỷ hoại rừng.
5.3.2 Hiện trạng sử dụng tài nguyên đất trên thế giới
Hoang mạc hóa và sa mạc hoá là quá trình tự nhiên và xã hội dẫn đến làm phá vỡ cân bằng
sinh thái đất, thảm thực vật, không khí và nước các vùng khô hạn và bán khô hạn, dẫn đến
giảm sút hoặc huỷ hoại hoàn toàn khả năng sản xuất của đất, gia tăng cảnh hoang tàn. Khoảng
30% diện tích đất nằm trong vùng khô hạn và bán khô hạn đang bị hoang mạc hoá đe doạ và
hàng năm có khoảng 6 triệu ha đất bị hoang mạc hoá, mất khả năng canh tác do những hoạt
động của con người. Nếu chỉ tính trong giai đoạn 1985 - 2000 đã có khoảng 25 triệu ha đất bị
sa mạc hoá, 60 triệu ha đất bị mặn hoá, 50 triệu ha đất bị xói mòn và 150 triệu ha đất được sử
dụng cho xây dựng đường giao thông, các khu đô thị và công nghiệp. Diện tích đất đã bị sa
mạc hoá ước tính vào khoảng 10% diện tích đất nông nghiệp thế giới. Riêng sa mạc Sahara
mỗi năm mở rộng lần mất 100.000 ha đất nông nghiệp và đồng cỏ.
Xói mòn, rửa trôi là các quá trình phức tạp và là nguyên nhân quan trọng làm suy thoái nguồn
tài nguyên đất, đặc biệt là ở vùng nhiệt đới. Xói mòn đất là do nhiều nguyên nhân khác nhau
như do mất lớp thực vật che phủ bề mặt, đặc biệt là mất rừng, lượng mưa, địa hình, kỹ thuật
canh tác, cây trồng... Hàng năm, xói mòn, rửa trôi đóng góp tới 15% nguyên nhân gây thoái
hoá đất, trong đó xói mòn do nước đóng góp 56%, do gió đóng góp 28% và mất dinh dưỡng
đóng góp 12%. Trung bình lượng đất trên thế giới bị xói mòn 1,8 - 3,4 tấn/ha/năm. Tổng
lượng dinh dưỡng bị mất do các quá trình này ước tính vào khoảng 5,4 - 8,4 triệu tấn, tương
đương với khả năng sản sinh 30 - 50 triệu tấn lương thực.
Lượng đất bị xói mòn do mưa (A) có thể được tính theo phương trình tổng hợp sau: A=
K.R.L.S.C.P
Trong đó: A- Lượng đất bị xói mòn, K- Đại lượng biểu thị tính dễ xói mòn của đất, R- Đại
lượng biểu thị khả năng gây xói mòn do mưa, L- Đại lượng biểu thị mức xói mòn do độ dài
sườn dốc, S- Đại lượng biểu thị tức xói mòn do độ dốc sườn dốc. C- Tham số đặc trưng cho
vai trò của thực vật bảo vệ đất chống xói mòn, P. Hiệu quả của các giải pháp chống xói mòn.
5.3.3. Giải pháp bảo vệ tài nguyên đất
- Bảo vệ và cải tạo đất bằng các giải pháp như khai thác đất hợp lý, theo đúng các nguyên
lý sinh thái học, dùng nhiều chất hữu cơ khép kín chu trình sinh địa hoá và nuôi dưỡng
hệ sinh thái đất, hạn chế sử dụng hoá chất độc hại, canh tác hợp lý, cải tạo đất tăng độ
phì nhiêu của đất, Trong quá trình sử dụng đất, cần phải có các quy hoạch phù hợp
nhằm sử dụng hợp lý, có hiệu quả và bền vững tài nguyên đất, phòng chống các quá
trình gây suy thoái và ô nhiễm đất.
- Chống xói mòn bằng cách kết hợp các biện pháp kỹ thuật canh tác, trồng rừng, cơ cấu
cây trồng phù hợp, xen canh gối vụ, tạo lớp che phủ đất để giảm tác động xung lực của
hạt mưa, giảm độ dốc, độ dài sườn dốc bằng tạo vật cản, trồng cây theo đường đồng
mức để giảm tốc độ của dòng chảy. Có chiến lược ứng phó với các nguy cơ hoang mạc
hóa đất đại, sử dụng hợp lý tài nguyên nước, có các giải pháp tối ưu giúp phòng tránh,
giảm nhẹ các tác động xấu của thiên tai.
5.4 TÀI NGUYÊN NƯỚC
5.4.1 Khái niệm và đặc điểm chung
Nước có những vai trò to lớn trong tự nhiên như sau:
1- Trực tiếp duy trì sự sống và sản xuất của con người;
2- Là môi trường sống của các loài thuỷ sinh và tổ sinh thái của nhiều loài khác;
3- Là yếu tố thành tạo khí hậu, địa hình;
4- Là nguồn cung cấp năng lượng:
5- Là đường giao thông:
6- Chứa đựng chất thải, xử lý làm sạch môi trường:
7- Tạo cảnh quan, văn hoá đặc thù.
Các hệ sinh thái nước ngọt như sông, hồ, đất ngập nước chỉ chứa - 0,01% nước ngọt toàn cầu
và chiếm 1% diện tích bề mặt Trái đất, nhưng giá trị của các dịch vụ mà chúng đem lại ước
tính hàng nghìn tỷ USD. Năm 1997 đã khai thác được 77 triệu tấn cá, tương đương sản lượng
bền vững tối đa của các hệ sinh thái này. Nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt đóng góp 17 triệu tấn
cá năm 1997. Từ 1990 đến nay, nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt tăng hơn 2 lần và hiện chiếm
60% sản lượng nuôi trồng thuỷ sản toàn cầu.
Tài nguyên nước có tính tái tạo về lượng và về chất. Khả năng tái tạo về lượng có được là nhờ
tuần hoàn nước: Bốc hơi trên lục địa 71 nghìn km/năm, mưa trên lục địa 111 nghìn km /năm;
bốc hơi trên đại dương 425 nghìn km/năm, mưa trên đại dương 385 nghìn km /năm. Trong
tuần hoàn nước toàn cầu, hơi nước từ đại dương bay vào đất liền đã sản sinh ra được một
lượng dòng chảy ra biển khoảng 40.000 km /năm.
Nước phân bố không đồng đều theo thu vực trong không gian. Tổng lượng nước của thuỷ
quyển vào khoảng 1,39 triệu km? (1.385.999x10' kg). Trong đó có 1,35 triệu km) (97%) tập
trung ở biển và đại dương (chiếm 71% bề mặt Trái đất). Gần 2% thể tích nước nằm trong băng
tuyết hai cực và núi cao. Khoảng 1% còn lại phân bố như sau: trong sông ngòi 0,0001%, hổ
0.007%, nước ngầm 0,59%, ẩm đất 0,005%, khí quyển 0,001% và sinh quyển 0,0001%. Đặc
biệt, lượng nước trong sông ngòi toàn cầu chỉ có 1.700 km3
5.5 TÀI NGUYÊN BIỂN VÀ VEN BIỂN
- Biển và đại dương có vai trò quan trọng trong hình thành tuần hoàn nước, tái tạo tài
nguyên nước lục địa, tham gia vào các quá trình vĩ mô và vi mô hình thành khí hậu, thời
tiết. Dòng biển nóng từ xích đạo lên vùng cực và dòng biển lạnh ngược chiều có chức
năng điều hoà, phân bố lại năng lượng trên Trái đất hấp thụ được từ bức xạ Mặt trời, tạo
ra những phân hoá khí hậu thời tiết trong các vùng cùng vĩ độ và điều kiện địa lý. Dòng
hải lưu nóng Gơnxtrim ( Gulf Stream ) rộng tới 100km, luồng nước sâu 700m, lưu lượng
74-94 triệu m/s (gấp 40 lần lưu lượng các dòng sông), nhiệt độ nước mùa đông chênh
lệch so với các vùng lân cận 8°C, cung cấp cho vùng Bắc Đại Tây Dương lượng nhiệt
bằng 1/5 nhiệt năng do Mặt trời cung cấp.
- Biển và đại dương là nơi hấp thụ CO2, khổng lồ của Trái đất, góp phần tạo ra sự ổn
định nồng độ chất này trong khí quyển.
5.5.2. Hiện trạng và tình hình khai thác tài nguyên biển
- Biển và đại dương cung cấp nhiều giá trị sử dụng khác nhau: đa dạng sinh học biển và
môi trường sống cho các loài thủy sinh; hoá chất, khoáng sản, dầu khí, năng lượng thuỷ
triều, gió, sóng...; điều kiện phát triển giao thông thuỷ; cảnh quan, bãi tắm, điều kiện
phát triển du lịch, nghỉ dưỡng...; tài nguyên nước tiềm năng. Trong tương lai, người ta
hy vọng sẽ khai thác được từ biển tất cả những gì mà đất liền không thể đáp ứng được
cho nhân loại, như không gian sống, nguồn nước, nơi sản xuất và cung ứng lương thực,
thực phẩm...
- Biển và đại dương là một hệ sinh thái tự nhiên khổng lồ có khả năng sản xuất rất lớn,
năng suất khoảng 0,05 - 3,0 gam C/m2/ngày, trung bình là 550kg/ha/năm, biển Bắc là
800 kg/ha/năm (Steele, 1958). Tổng năng suất của các đại dương vào khoảng 15 tỷ tấn
cacbon hoặc 30 tỷ tấn chất hữu cơ/năm.
- Năng suất sinh học biển và đại dương phân bố không đồng đều theo không gian, giàu có
nhất ở vùng ôn đới, tầng nước mặt và vùng biển gần bờ. Một số nơi có năng suất cao
đến 6 tấn C/ha/năm như ở dòng biển Bengen dọc bờ phía Tây Nam Phi. Đại dương nhiệt
đới nhìn chung năng suất thấp, khoảng 0,1-0,2 gam C/mo/năm (Steeman và Nielsen,
1957). Những vùng nước mà lượng sinh vật phù du chỉ có dưới 100 mg/m” được coi là
"hoang mạc" trên biển. Những vùng nước mà lượng sinh vật phù du lớn hơn 1.000 mg/n
được coi là "ốc đảo" trên biển. Những bãi cá lớn nhất thế giới đều nằm tại nơi giao thoa
các dòng hải dương nóng lạnh, như ngư trường Biển Bắc, nằm từ Nhật Bản đến
Kamsatka và Aliosân, ngư trường Bắc Hải (Đông Bắc Đại Tây Dương), ngư trường Tây
Bắc Đại Tây Dương, hoặc nơi có nước trôi từ đáy đại dương đi lên, như ngư trường
vùng biển Peru
5.5.3. Tài nguyên biển Việt Nam
- Việt Nam có tài nguyên biển phong phú, nhờ có khí hậu nhiệt đới gió mùa với đường bờ
biển dài trên 3.260 km, vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km, chế độ triều đa dạng,
biên độ triều từ 0,6 - gần 5m. Đa dạng sinh học biển cao, đã phát hiện được 11.000 loài
sinh vật khác nhau. Trong đó thực vật có 1.300 loài và phân loại (8 loài cỏ biển, 653
loài rong biển, 537 loài tảo biển...), động vật có 9.250 loài và phân loài (470 loài động
vật nổi, 6.400 loài động vật đáy, 2.038 loài cá - 346 loài sống ở rạn san hô, trên 300 loài
san hô, 5 loài rùa, 10 loài rắn, 10 loài thú...). Trữ lượng hải sản khoảng 3,6 triệu tấn
(riêng cá 3 triệu tấn ), bao gồm 1,9 triệu tấn ở ven bờ, thân mềm khoảng 0,3 triệu tấn
(riêng mực 60.000 tấn), tôm biển 0,1 triệu tấn, rong câu 25 nghìn tấn, hải sâm 300 tấn.
Sản lượng đánh bắt hải sản năm 2001 là 1,347 triệu tấn. Mức khai thác hải sản trong
vùng đặc quyền kinh tế có thể đã sát hoặc cao hơn sản lượng bền vững. Nhiều năm qua,
80% sản lượng cá bắt được tại vùng nước nông ven bờ (độ sâu <30m, chiếm 11% diện
tích vùng đặc quyền). Một số vùng đánh bắt tập trung gần bờ, đã có dấu hiệu suy thoái
nghiêm trọng. Một số loài cá kinh tế từng có lượng đánh bắt lớn, nay đã trở nên khan
hiếm, hoặc gần như mất hẳn ở một số vùng biển, như cá trích, tôm hùm, bào ngư... Khai
thác tảo thịnh hành ở các tỉnh miền Trung, như Khánh Hoà, Ninh Thuận, Quảng Ngãi,
sản lượng 10.000 - 15.000 tấn khô/năm. Biển đã thu hút 4% lao động tham gia đánh bắt,
chế biến và các hoạt động phụ. Ngoài sinh vật, người dân Việt Nam còn khai thác từ
biển muối, cát, dầu mỏ, khí đốt, đá vôi, sử dụng giao thông biển và phát triển các hoạt
động du lịch, tắm biển.
- Vùng biển Việt Nam có khoảng 15 hệ sinh thái biển và ven biển có chức năng sinh thái
và tài nguyên cực kỳ quan trọng cho toàn vùng biển. Rừng ngập mặn còn khoảng
250.000 ha.
- Việt Nam có khoảng 122 km rạn san hô, với khoảng 300 loài, nhưng chỉ có 1% số rạn
được xếp vào loại tốt. Các phương thức khai thác hủy diệt như sử dụng chất nổ, chất
độc đe dọa 85%, khai thác quá mức đe dọa trên 60% và trầm tích từ các khu vực đất cao
đe doạ 50% số rạn san hô. Các rạn san hô từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận bị phá hủy
nghiêm trọng do khai thác để nung vôi và làm phụ gia cho xi măng. Hiện nay, diện tích
rạn san hô được bảo vệ ở Việt Nam là 1.528 ha, chủ yếu thuộc các khu bảo tồn biển.
- Thềm lục địa Việt Nam có nhiều cấu tạo tiềm năng chứa dầu khí, sản lượng khai thác
dầu khí đạt 10 triệu tấn hiện nay và dự kiến vào khoảng 20 triệu tấn/năm. Ngoài ra, còn
phát hiện hàng trăm điểm khoáng sản ven bờ, dưới đáy nước nóng, đáng kể là các mỏ sa
khoáng titan - zicon, cát, vật liệu xây dựng ... có trữ lượng khá.
5.6 TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN VÀ NĂNG LƯỢNG
Các vấn đề môi trường trong khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản
Khai thác khoáng sản gây ra các vấn đề môi trường sau:
1- Thay đổi đặc điểm địa hình theo hướng tăng cường mức độ lồi lõm bể mặt, ảnh
hưởng xấu tới cảnh quan, tăng cường độ bở rời của đất đá, dẫn đến làm tăng cực đoan dòng
chảy và ô nhiễm dòng chảy, Ô nhiễm không khí, tăng tích tụ chất thải rắn với khối lượng rất
lớn;
2- Tăng mức độ phá rừng do nhu cầu gỗ lớn trong chống lò, chặt phá giải phóng mặt
bằng làm mất lớp thực vật che phủ bề mặt, làm mất toàn bộ các chức năng của hệ rừng này,
mất nơi cư trú của động vật và ảnh hưởng xấu tới sự hình thành dòng chảy:
3- Phát tán vật chất gây ô nhiễm ra môi trường. Vận chuyển khoáng sản gây ô nhiễm
theo trục đường giao thông. Chế biến sử dụng khoáng sản gây ô nhiễm đất, nước, không khí,
cạn kiệt tài nguyên. Suy thoái, ô nhiễm môi trường tác động xấu đến người lao động trực tiếp.
cũng như cư dân và hệ sinh thái trong khu vực.
Thị trường khoáng sản hiện nay thể hiện sự thiếu công bằng trong trật tự kinh tế thế giới. Các
nước phát triển mua khoáng sản với giá thấp từ các nước đang phát triển và bán cho họ hàng
hoá sản xuất từ nguyên liệu này với giá cao. Dân cư các nước phát triển, chiếm 1/4 dân số
nhân loại, tiêu thụ trên 3/4 tổng tài nguyên khoáng sản phi nhiên liệu.
5.6.2 Tài nguyên năng lượng
Giải pháp cho các vấn đề môi trường liên quan tới sử dụng năng lượng
Tiết kiệm năng lượng là quốc sách hàng đầu vừa hạn chế nguy cơ nhanh chóng cạn kiệt tài
nguyên, vừa tránh cho các nhà quản lý phải lựa chọn các nguồn cấp năng lượng kém hiệu quả
nhất cả về môi trường và kinh tế. Ngày nay, hiệu quả năng lượng đang được coi là một nguồn
năng lượng đặc biệt - năng lượng lãng quên". Tiềm năng trực tiếp của nó to lớn hơn so với bất
kỳ nguồn cung cấp nào. Những nghiên cứu cho thấy các nước phát triển có thể cắt giảm 2/3
mức tiêu thụ năng lượng nhờ công nghệ tiết kiệm mà không gây ảnh hưởng bất lợi nào cho
tăng trưởng kinh tế.

Chương 6 NHIỄM MÔI TRƯỜNG


6.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
6.1.1. Đặc điểm nguồn gây ô nhiễm môi trường

Nguồn phát sinh các chất gây ô nhiễm có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo. Các hiện tượng tự nhiên như
núi lửa, dông. bão, lốc, lũ bùn đá, lũ quét, lũ lụt,... các quá trình thối rữa xác động thực vật ... vừa trực
tiếp tạo ra, vừa góp phần phát tán các vật chất gây ô nhiễm vào môi trường. Nguồn nhân tạo các chất
gây ô nhiễm xuất phát từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, sinh
hoạt, vui chơi giải trí... Nguồn thải công nghiệp thường mang tính điểm, tập trung, cường độ, tổng
lượng lớn, nông nghiệp và sinh hoạt mang tính diện, giao thông vận tải mang tính tuyến. Trong công
nghệ đốt, đối với cùng một nhiên | liệu đầu vào, tuỳ thuộc nhiệt độ đốt, cấu tạo lò đốt, khí thải có
thành phần và nồng độ chất ô nhiễm sẽ khác nhau. Đốt trong điều kiện thông khí tốt sinh CO., đốt
trong điều kiện thiếu khí sinh CO... Lò đốt kín ít phát tán tro bụi hơn lò đốt thoáng. Dùng xăng pha
chì trong các động cơ đốt trong thì khí thải sẽ có chì... Đặc điểm chung của các quá trình thải nhân tạo
hiện nay là lượng và cường độ thải lớn, tập trung, thay đổi theo thời gian, chất thải đa thể, đa dạng.

6.1.2. Đặc tính của chất gây ô nhiễm

Thể tồn tại: các chất gây ô nhiễm có thể tồn tại ở thể rắn, lỏng, khí, có thể chuyển hoá từ thế này sang
thể khác. Các chất thải ở một thể này, gia nhập vào môi trường ở các thể còn lại sẽ gây ra vấn đề môi
trường nhất định, ví dụ như chất rắn, bụi gia nhập vào môi trường lỏng hoặc khí sẽ trở thành nhân tố
gây ô nhiễm bụi, đục...

Tính độc: Nhiều nguyên tố hoặc hợp chất có tính độc, ví dụ như DDT, axit, chất phóng xạ, kim loại
nặng...

Tính trơ, Khả năng tồn tại bền vững trong môi trường, ít tham gia vào các quá trình lý hoá học trong
tự nhiên nhưng có nguy cơ tích luỹ cao và gây tác hại trong môi trường khi vượt quá ngưỡng cho
phép, ví dụ như CFC...

Tính kém bền vững hoá học: Khả năng dễ biến đổi trong môi trường thành những chất khác có nguy
cơ gây độc cao hơn. Đặc điểm, tốc độ phản ứng hoá học biến đổi chất và sản phẩm cuối phản ứng phụ
thuộc vào chất tham gia phản ứng và các điều kiện môi trường. Do vậy, trong những điều kiện môi
trường khác nhau, cùng một chất gia nhập có thể gây nên những hệ quả môi trường khác nhau.

6.1.3. Khả năng đồng hoá chất gây ô nhiễm của môi trường

Khả năng tự làm sạch của môi trường có điều kiện. Khi các điều kiện đó tồn tại, thì khả năng làm
sạch môi trường nhờ cơ chế tự nhiên đó được thực hiện. Ví dụ khi có gió, dòng chảy thì vật chất gây
ô nhiễm sẽ phát tán, nhờ đó có thể pha loãng...

Khả năng đồng hóa của môi trường có giới hạn về lượng, do vậy, khi bị tiếp nhận một lượng thải quá
lớn, sẽ diễn ra hai khả năng:

1- Môi trường không thể đồng hoá hết, phần còn tồn dư sẽ gây ô nhiễm môi trường;
2- Phần tồn dư không những gây ô nhiễm môi trường mà còn làm tổn thương, huỷ hoại chức năng
tự làm sạch của môi trường, khiến môi trường hoàn toàn không thể tiếp tục thực hiện chức năng
này được nữa.
Khả năng tự động hoá của môi trường có giới hạn về chất. Thông thường những chất từ tự nhiên, gần
với tự nhiên sẽ dễ được môi trường đồng hoá, làm sạch; những chất nhân tạo, đặc biệt là các hợp chất
hoá học tổng hợp, khó được môi trường đồng hoá, nên sẽ tồn lại và tích luỹ trong môi trường ngày
càng nhiều hơn, gây ô nhiễm môi trường.

Hệ thống tự nhiên có tính thống nhất, liên hoàn. Khi một bộ phận, một thành tố của môi trường bị suy
thoái, ô nhiễm, sẽ gây ra ô nhiễm các bộ phận còn lại.

Khi biến trình thải không trùng pha với biến trình khả năng tự làm sạch của môi trường, lượng thải
tập trung, cường độ thải quá lớn, thành phần chất thải đa dạng, tính chất phức tạp thì các hệ quả môi
trường sẽ càng lớn.

6.2. Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ


6.2.1. Khái niệm

Ô nhiễm không khí là sự có mặt của các chất lạ hoặc sự biến đổi quan trọng trong thành phần khí
quyển gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và các sinh vật, gây mùi khó chịu hoặc làm giảm
tầm nhìn.

Các chất gây ô nhiễm không khí có thể có nguồn gốc trong tự nhiên hoặc do con người gây ra.

6.2.2. Các tác nhân gây ô nhiễm không khí

6.2.2.1. Các chất khí

COx, có nguồn gốc từ các hoạt động tự nhiên như núi lửa, cháy rừng, phân huỷ chất hữu cơ, hô hấp...
và các hoạt động nhân tạo, như công nghiệp, nổ mìn, khai thác hầm lò và đặc biệt là từ đốt nhiên liệu
hoá thạch, sinh khối. Cá có ái lực với hemoglobin trong máu mạnh hơn O2, , nên gây hại cho sức khoẻ
ở nồng độ thấp và có khả năng gây tử vong ở nồng độ >250 ppm. Nồng độ CO2, cao trong không khí
làm giảm áp suất riêng phần của 0, CO2, >350ppm gây ảnh hưởng đến quá trình hô hấp, ở nồng độ
cao có thể gây tử vong. Sự gia tăng 10% lượng CO2, khí quyển sẽ gây tăng nhiệt độ Trái đất khoảng
0,5 °C. Hàng năm con người thải vào khí quyển khoảng 8 tỷ tấn CO2,. Từ khi bắt đầu cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất đến nay, lượng CO2, trong khí quyển tăng 25% và có nguy cơ tăng gấp 2 vào
giữa thế kỷ sau.

Trong các hợp chất NOx, chỉ có NO, NO2, và N2, có tác động bất lợi nhất tới không khí. NOx, có
nguồn gốc từ tự nhiên và nhân tạo, trong đó các nguồn tự nhiên lớn gấp 10 lần nguồn nhân tạo. NO 2,
là một khí độc màu nâu. Nguồn phát sinh NO, NO2, nhân tạo chủ yếu là từ các công nghệ cháy, nổ và
từ các quá trình sản xuất, sử dụng hợp chất chứa nitơ. Nhiệt độ đốt càng cao càng tạo ra nhiều NO,
nhưng trong tự nhiên NO dễ dàng bị oxi hoá thành NO2, NO2 gây tác động xấu đến bộ máy hô hấp, ở
nồng độ cao có thể gây tử vong. NO2, kết hợp với hơi nước trong không khí hoặc trong các niêm mạc
phổi tạo thành axit, gây tác động xấu cho bộ máy hô hấp nói riêng và gây mưa axit. Sử dụng các loại
phân đạm khoáng và các quá trình tự nhiên cung ứng 70 - 80% lượng phát thải NO2, còn lại là do các
quá trình đốt. N2O là một khí trơ, do đó nó tích lũy theo thời gian trong khí quyển. NOx, là một trong
những thủ phạm gây gia tăng hiệu ứng nhà kính.

SO2, có nguồn gốc từ các quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch có chứa lưu huỳnh và các quá trình sản
xuất, sử dụng hợp chất có lưu huỳnh. Đây là một chất khí không màu, có mùi xốc, cay, gây phản ứng
cáu giận, ngạt thở, kích thích niêm mạc mắt và đường hô hấp, ở nồng độ cao gây bỏng, tử vong, là khí
gây mưa axit. HAS là một hợp chất có mùi thối, nguồn gốc từ phân huỷ yếm khí chất hữu cơ.

O3, có nhiều trong tầng đối lưu là chất khí gây ô nhiễm. Nồng độ ozon từ 0,3 - 8ppm gây bất lợi cho
sức khỏe con người, ở nồng độ 0,2 ppm Ozon gây nguy hại cho cà chua, thuốc lá, đậu Hà Lan và
nhiều loại cây trồng khác. Ozon có tác động bất lợi đến các vật liệu sợi, đặc biệt là sợi bông, nilon, sợi
nhân tạo, màu thuốc nhuộm, làm gia tăng quá trình lão hoá cao su

Hyđrocacbon gây ô nhiễm không khí đáng kể nhất là CH2 và C4H. CH, phát sinh từ các quá trình
sinh học biến đổi chất hữu cơ, như quá trình lên men hoá đường ruột của các động vật và người, đặc
biệt là ở động vật nhai lại như trâu bò, phân giải kỵ khí trong các vùng đất ngập nước và từ các quá
trình sản xuất công nghiệp, khai thác mỏ, cháy rừng và đốt nhiên liệu hoá thạch. Mê tan là một chất
khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh hơn cacbonic 30 lần. C,H, (benzen) trong không khí có nguồn gốc từ
các hoạt động công nghiệp, sử dụng xăng. Nó có thể tạo với không khí thành một hỗn hợp dễ nổ, gây
độc qua đường hô hấp, tiêu hoá, qua da, nồng độ C,H, > 60mg gây ngộ độc chết người. Benzen có thể
tích luỹ trong mỡ, xương, nên tác động gây độc kéo dài, dấu hiệu ngộ độc có khi xuất hiện muộn...

CFC là những hợp chất tổng hợp, dùng nhiều trong kỹ nghệ làm lạnh, bọt xốp cách nhiệt, dung môi,
chất mang... có thể tồn tại ở dạng sol khí và không sol khí. CFC tồn tại rất lâu trong khí quyển (hơn
100 năm). CFC gây tổn thương tầng ozon, tấm lá chắn tia cực tím bảo vệ Trái đất hiện nay.

Khói quang hoá thường xuất hiện ở các khu vực đô thị, bao gồm các dạng sương khói, trước hết là
NO2, và các hơi hyđrocacbon bị biến đổi do các phản ứng quang hoá ở tầng thấp của khí quyển.
Nguyên tử oxi sinh ra trong các phản ứng quang hoá từ NO2, dưới tác dụng của bức xạ Mặt trời sẽ tác
dụng với các hiđrocacbon hoạt hoá, như mêtan, etan, toluen... trong một loạt các phản ứng trung gian,
dẫn tới tiêu thụ nitơ Ôxit, tích luỹ ozon, sinh ra nitơđioxit và hàng loạt các chất ô nhiễm thứ cấp như
formanđehyt, anđehyt, peroxyaxetylnitrat (PAN – C2H3O5N). Tập hợp tất cả các chất trên gọi là khói
quang hoá. Thành phần của khí quang hoá rất phức tạp và có tính độc cao tuỳ thuộc vào thành phần
của chúng, có khả năng gây xạm lá, giòn lá, mất màu lá, hạn chế quá trình trao đổi chất của thực vật,
gây cay, đau mắt, đau đầu, ho, mệt mỏi, gây bệnh phổi... thậm chí gây tử vong đối với người.

6.2.2.2. Bụi và sol khí

Bụi bao gồm các hạt khoáng Vô cơ không độc, các hạt hữu cơ như phấn hoa và các chất rắn lơ lửng
có thể có tính độc như bụi chì, kim loại nặng... Bụi sinh ra từ nhiều quá trình tự nhiên và nhân tạo
khác nhau. Bụi lơ lửng có thể di chuyển qua hàng ngàn kilomet, xuyên qua biển và đại dương, ví dụ
như từ Sahara đến tận Ấn Độ. Bụi phóng xạ có nguồn gốc từ các vụ nổ hạt nhân, lắng đọng xuống
đất, tích luỹ trong sinh vật theo chuỗi thức ăn, xâm nhập vào nước và từ đó gây hại cho người.

Bụi gây nhiều bệnh nguy hiểm. Các hạt nhỏ có thể chui vào tận phế nang và tiểu phế nang, từ đó vào
phổi, gây các bệnh viêm xoang, viêm phổi, ho, hen, xuyên. Một số loại bụi có tính độc cao như bụi
amiăng, bụi chì, bụi kim loại nặng, bụi phóng xạ..., một số loại bụi có màu, gây ô nhiễm môi trường,
một số loại bụi gây dị ứng cho da hoặc cơ quan hô hấp như phấn hoa, lông súc vật... Bề mặt các hạt
bụi vô cơ không độc có thể hấp phụ các chất gây độc hại, dính bám vi sinh vật gây bệnh và trở thành
có hại cho sinh vật và con người.

Sol khí là những hạt chất lỏng hoặc rắn cực nhỏ (10-10 cm), như sương mù, khói, có thể mang điện
tích, tồn tại trong trạng thái lơ lửng, rất khó lắng đọng. Sol khí và bụi lơ lửng có tác dụng hấp thụ và
khuyếch tán ánh sáng Mặt trời, làm giảm độ trong suốt của khí quyển, giảm tầm nhìn, gây mất thẩm
mỹ, vệ sinh. Tại các thành phố lớn công nghiệp phát triển, bức xạ Mặt trời giảm so với vùng nông
thôn 15-20 % và có thể làm giảm ánh sáng tự nhiên từ 1/3 vào mùa hè, 2/3 vào mùa đông.

6.2.2.3. Vi sinh vật gây bệnh

Vi sinh vật xâm nhập vào không khí theo nhiều con đường khác nhau, như trực tiếp từ vật và người
mang mầm bệnh, phát tán từ đất... Càng gần mặt đất vi sinh vật trong không khí càng nhiều, môi
trường không khí càng tĩnh, khả năng phát tán càng kém và tích luỹ càng cao, nguy cơ chứa nhiều vi
sinh vật gây bệnh trong không khí sẽ càng lớn. Trong mỗi m’ không khí cách mặt đất 4-5 km chỉ có
vài cá thể vi khuẩn, trong khi tại gần sát mặt đất chúng lên tới hàng vạn. Không khí vùng biển, núi
cao ít bụi và vi khuẩn gây bệnh hơn không khí ở các khu vực đô thị, nơi đông dân cư, nơi điểm nút
giao thông sẽ có nguy cơ nhiều vi sinh vật gây bệnh hơn. Các vi sinh vật gây bệnh của đa số trường
hợp nhiễm khuẩn đường hô hấp có thể bảo tồn sự sống và tính độc hại tương đối lâu trong môi trường
không khí, đặc biệt là trong những nơi tối tăm và ẩm ướt (Bảng 6.1).

Siêu vi khuẩn gây bệnh trong không khí có nhiều loại, trong đó điển hình là siêu vi khuẩn cúm. Các
siêu vi khuẩn gây bệnh sởi, đậu mùa, quai bị cũng tồn tại trong không khí và có khả năng gây thành
dịch. Vi rút viêm não động vật, vi rút cúm lợn, viêm phổi ngựa... cũng truyền nhiễm qua không khí.
Ngoài ra trong không khí còn có bào tử của nhiều loại nấm mốc, trong đó có những loại tồn tại quanh
năm.

6.2.2.5. Bức xạ sóng ngắn

Bức xạ cực tím UV gồm nhiều dải có bước sóng khác nhau UVC, UVB và UVA. Dải sóng cực ngắn
UVC 10 - 90 nanomét có khả năng phá huỷ AND, giảm khả năng đề kháng của cơ thể sống, dễ dàng
bị ozon bình lưu hấp thụ, chặn lại. Dải sóng ngắn trung bình UVB có bước sóng 290 - 320 nanomet,
không xuyên qua kính, một lượng ít UVB giúp tăng cường tổng hợp D3 có ích cho xương và răng,
giúp tăng sức đề kháng, lượng quá lớn gây đột biến AND, gây bệnh về da (lão hoá, ung thư), và các
bệnh về mắt. Dải sóng ngắn dài UVA có bước sóng 320 - 380 nanomet. lượng vừa phải giúp tăng
cường kiến tạo sắc tố, bảo vệ da khỏi tác động xấu của UVB, lượng quá nhiều gây đông kết chất sắc
tố.

6.2.3. Lan truyền ở nhiễm trong không khí

Lan truyền Ô nhiễm trong không khí xảy ra theo các phương khác nhau, bởi các cơ chế và nguyên
nhân khác nhau. Lan truyền theo phương ngang chủ yếu gây nên bởi gió, có tác dụng phát tán chất ô
nhiễm theo hướng gió, một mặt tạo khả năng giảm ô nhiễm tại nguồn, nhưng tăng nguy cơ ô nhiễm
theo hướng gió thôi, mở rộng vùng ô nhiễm. Nồng độ cực đại của các tác nhân gây ô nhiễm tỷ thuận
với lưu lượng phát thải, tỷ lệ nghịch với vận tốc gió và bình phương chiều cao hữu hiệu của nguồn
phát thải.

Sự lan truyền, khuếch tán các chất ô nhiễm trong không khí phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố khí
tượng, thời tiết, đặc biệt là chế độ gió, nhiệt độ và độ ẩm không khí.

Đảo nhiệt, sương khói là hiện tượng gây ô nhiễm không khí.

6.2.4. Một số tác hại của ô nhiễm không khí

6.2.4.1. Mưa axit

Mưa axit là những trận mưa có pH thấp < 5,6. Mưa axit xảy ra do sự hoà tan các khí oxit axit (CO2,
SO2, NO,) vào nước mưa. Mưa axit gây hậu quả nghiêm trọng cho các hệ sinh thái và tài nguyên
thiên nhiên. Cây côi và rừng bị tổn thương, cháy lá, rụng lá, giảm sinh khối, năng suất, chất lượng,
giảm đa dạng sinh học, đất bị chua hoá, các hệ sinh thái hổ bị tổn thương. Mưa axit làm cho kim loại
chóng bị rỉ mòn, ảnh hưởng tới tuổi thọ và chất lượng của các công trình xây dựng bằng bê tông cốt
thép, đường dây điện, huỷ hoại tượng đài, kiến trúc...

Các chất khí oxit axit có thể lắng đọng trực tiếp xuống các bề mặt, hấp phụ lên các bề mặt vật liệu
(gọi là lắng đọng axit khô), sau đó, trong điều kiện sương, mù... những hạt nước trên mặt các vật liệu
đó sẽ hoà tan những chất khí này tạo ra những giọt axit, gây hệ quả tương tự như mưa axit lỏng, quy
mô kém hơn nhưng mức độ thường xuyên hơn. Đây chính là nguyên nhân làm thủng rõ tượng đài
bằng đá hoa cương và các bề mặt bê tông. Trên thế giới, thiệt hại do mưa axit gây ra hàng năm ước
tính 1,45 tỷ USD.

6.2.4.2. Gia tăng hiệu ứng nhà kính

Hiệu ứng nhà kính là một quá trình tự nhiên, trong đó các chất có khả năng hấp thụ sóng dài (các khí
nhà kính) ngăn cản một phần dòng năng lượng này phát tán trở lại khoảng không vũ trụ. Nhờ có hiệu
ứng nhà kính nhiệt độ Trái đất đạt được trong biên độ như hiện nay, thuận lợi cho mọi quá trình tự
nhiên như tuần hoàn nước, hoàn lưu khí quyển và các quá trình sống trên Trái đất. Thành phần các
chất khí nhà kính trong khí quyển ổn định là điều kiện quyết định đảm bảo chế độ nhiệt nói riêng và
khí hậu nói chung trên Trái đất tương đối ổn định và có tính quy luật. Gia tăng khí nhà kính trong khí
quyển làm cho cân bằng năng lượng bị phá vỡ, làm nhiệt độ Trái đất tăng so với quy luật thông
thường. Gia tăng hiệu ứng nhà kính gây tăng nhiệt độ trung bình Trái đất, làm thay đổi ranh giới các
đới khí hậu, sinh thái, nông nghiệp, dịch tễ học..., tăng tan băng ở hai cực và trên núi cao, dâng cao
mực nước biển trung bình, đe doạ nhấn chìm các vùng đất thấp ven biển. Gia tăng nhiệt độ không
đồng đều giữa các vùng địa lý làm thay đổi trường khí áp, phá vỡ quy luật sinh thành, diễn biến tự
nhiên của các hiện tượng thời tiết, gây biến động khí hậu toàn cầu, gia tăng thời tiết cực đoan, gây cản
trở cho dự báo và ứng xử tai biến, thiệt hại cho tài nguyên thiên nhiên và các quá trình sản xuất. Một
trong những hiện tượng biến động khí hậu thời tiết cực đoan quy mô lớn tác động tới nhiều người là
Elnino - Lanina kết hợp với nhiều động Nam Thái Bình Dương (SO).

Vai trò của các chất khí gây gia tăng hiệu ứng nhà kính như sau: CO2, - 50%, CFC - 20%, CH4 - 16%,
O3, - 8%, N2O - 6%. Trong thực tế, 80% CO, xả thải vào môi trường có nguồn gốc từ đột nhiên liệu
hoá thạch, còn lại là do sự phá rừng và các hoạt động khác, như đại dương bị ô nhiễm dẫn đến làm
giảm khả năng hấp thụ CO, tự nhiên. 50% NO xả thải vào môi trường có liên quan với việc đốt nhiên
liệu hoá thạch. 35% CH, xả vào môi trường có nguồn gốc từ sử dụng năng lượng (20% từ việc đốt
sinh khối, 15% từ việc khai thác khí thiên nhiên). Từ đây có thể thấy vấn để gia tăng hiệu ứng nhà
kính có mối quan hệ khăng khít, thuận chiều với tiêu thụ nhiên liệu hoá thạch. Do đó, chiếm một nửa
phần nguyên nhân và việc khắc phục xả thải CO, dễ dàng và hiệu quả hơn, nên khi nói tới nguyên
nhân và giải pháp của vấn đề gia tăng hiệu ứng nhà kính người ta thường tập trung đề cập tới CO 2

Trách nhiệm của các lĩnh vực hoạt động của con người trong việc gây gia tăng hiệu ứng nhà kính
được xác định như sau: 49% do sử dụng năng lượng, 24% do hoạt động công nghiệp, 14% do phá
rừng, 13% do nông nghiệp.

6.2.4.3. Sự cố môi trường

Vụ rò rỉ khí MIC (Methyl Iso Cyanate) của Liên hiệp Sản xuất phân bón ở Bhopal, Ấn Độ năm 1984
làm 2 triệu người bị nhiễm độc trong đó 5.000 người chết, nhiều người bị mù... Sự cố nhà máy điện
hạt nhân Tecnobưn gây phát tán chất phóng xạ ra môi trường không khí, đất, nước, gây tử vong và
bệnh trầm trọng cho nhiều người.

Cháy rừng tại Inđônêsia năm 1997 gây ô nhiễm bụi khói tại chỗ và lan sang các quốc gia lân cận như
Malaixia, Philippin, Singapo, Brunây và Việt Nam, che khuất nắng ban ngày, cản trở tầm nhìn và gây
bệnh viêm đường hô hấp cho nhiều người.

6.2.5. Ô nhiễm không khí ở Việt Nam

Ô nhiễm không khí ở Việt Nam xảy ra theo quy mô địa phương. Các khu đô thị, công nghiệp bị ô
nhiễm bởi chất thải đột nhiên liệu hoá thạch, thất thoát nguyên liệu từ các công nghệ lạc hậu, chất thải
do mật độ xe có động cơ quá cao, dùng xăng pha chì, máy móc quá cũ, chất thải xây dựng và sinh
hoạt không được quản lý hợp lý, bao gồm cả ở thể rắn và lỏng. Những vùng có mật độ dân cư cao,
cây xanh ít, ô nhiễm chất hữu cơ cao, thường có nguy cơ ô nhiễm vi sinh vật gây bệnh ở mức cao.
Không khí trong nhiều căn hộ gia đình cũng không trong sạch do môi trường ô nhiễm, điều kiện vệ
sinh không đảm bảo, dùng bếp đun, nhà tiêu lạc hậu.

6.2.6. Giải pháp cho vấn đề ô nhiễm không khí

Ô nhiễm môi trường không khí không có biên giới hành chính, do đó các giải pháp cho vấn đề ô
nhiễm môi trường không khí phải mang tính toàn cầu, đồng bộ. Liên quan với vấn đề kiểm soát xả
thải CO, và CFC đã có Công ước khung về biến đổi khí hậu toàn cầu và Công ước về bảo vệ tầng
ozon.

Các giải pháp môi trường mang tính "hành động địa phương" bao gồm:

1- Giảm xả thải vào không khí bằng cách giảm sử dụng nhiên liệu hoá thạch, tiết kiệm tiêu thụ,
đặc biệt là tiêu thụ năng lượng, dùng công nghệ sạch, xử lý, lọc chất thải khí, tái sử dụng chất
thải, kiểm soát thải tại nguồn;

2- Phân tán chất thải từ nguồn bằng cách tăng chiều cao ống khói, thiết lập các vùng đệm, cách
ly có tính tới điều kiện phát tán chất thải tại nguồn (gió, độ cao ống khói...);

3- Quy hoạch điểm thải hợp lý, kiểm soát thải theo vùng xung quanh;

4- Trồng rừng và các bằng cây xanh để lọc chất ô nhiễm;

5- Xây dựng và sử dụng các công cụ luật pháp, kinh tế trong quản lý môi trường;

6- Kiểm soát đánh giá chất lượng môi trường bằng máy móc thiết bị và các dấu hiệu chỉ thị;

7- Giáo dục môi trường các cấp để thiết lập nền tảng đạo đức môi trường và các hành vi thân
thiện môi trường một cách tự giác, khoa học, hợp lý;
8- Giải quyết đồng bộ các vấn đề ô nhiễm môi trường nước và đất.

6.3 Ô NHIỄM NƯỚC

6.3.1. Khái niệm

nhiễm nước là sự thay đổi thành phần và chất lượng nước không đáp ứng cho các các mục đích sử
dụng khác nhau, vượt quá tiêu chuẩn cho phép và có ảnh hưởng xấu đến đời sống con người và sinh
vật.

Nguồn gây ô nhiễm nước có thể do tự nhiên hoặc con người gây ra

6.3.2. Nguồn gây ô nhiễm nước

Nguồn gốc tự nhiên: Nhiều quá trình xảy ra trong tự nhiên có khả năng gây ô nhiễm nước như hoạt
động của núi lửa, động đất, gió, nước sẽ hoà tan, rửa trôi, xói mòn và đưa các chất vào trong các thuỷ
vực. Sinh vật trong chu trình sinh địa hoá và trong vòng đời của mình có vai trò đáng kể trong việc
cung cấp, biến đổi hoặc lấy đi một số chất, làm thay đổi thành phần và tính chất của nước. Sau đó tuỳ
thuộc vào đặc tính thuỷ lực của thuỷ vực và thành phần hoá học của nước, sẽ diễn ra các quá trình
khác nhau như phản ứng hoá học tạo chất mới, lắng đọng trầm tích... làm thay đổi tính chất ban đầu
của nước. Thiên tai gây nên những thảm hoạ cho thế giới tự nhiên nói chung và sự sống nói riêng,
cũng đồng thời gây Ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước. Trong các thành phố hiện đại, thấm kém,
nước mưa sinh dòng chảy tràn cuốn theo nhiều vật chất ô nhiễm, được gọi là nước thải tự nhiên.

Hoạt động nhân sinh gây ô nhiễm không khí và đất tất yếu sẽ gây ô nhiễm nước, bởi trong quá trình
tuần hoàn liên tục của mình, nước phải đi qua cả hai thành tố này. Nghiêm trọng hơn cả là các hoạt
động xả thải trực tiếp vào nguồn nước. Nước thải được phân loại thành:

1- Nước thải sinh hoạt, chứa nhiều vi sinh vật gây bệnh, các hợp chất nitơ, photpho là chất thải
của người, gia súc, từ hoá chất sử dụng trong sinh hoạt;

2- Nước thải công nghiệp, thành phần đa dạng và tính chất phức tạp, thường có các chất độc hại
cao phụ thuộc vào nguồn thải;

3- Nước thải nông nghiệp, chứa nhiều dư lượng các hợp chất sử dụng trong nông nghiệp, chất
hữu cơ...,

4- Nước thải mỏ, chứa nhiều khoáng chất và các vật chất không tan.

6.3.3. Các tác nhân gây ô nhiễm nước

6.3.3.1. Tác nhân gây ô nhiễm nước về mặt về mặt hoá lý

Màu, mùi, vị: Nước tinh khiết không màu, không mùi, không vị. Sự xuất hiện màu, mùi vị của nước
một mặt biểu thị thay đổi tính chất lý học của nước, tác động bất thường đến cảm quan, thẩm mỹ, mặt
khác nó là dấu hiệu về sự thay đổi tính chất hoá học và sinh học của nước. Ví dụ như sự có mặt của
các chất hữu cơ, amoniac, hydrosunfua, clo, muối... gây mùi vị khó chịu.

Nhiệt độ: Nhiệt độ là nhân tố sinh thái quan trọng, nhiệt độ tăng quá cao hoặc quá nhanh đểu tác động
xấu tới hệ sinh thái, đặc biệt là những

mắt xích nhạy cảm nhất, như loài hẹp nhiệt, con non, ấu trùng, trứng, cơ quan sinh sản...

| Độ trong, độ đục, chất rắn lơ lửng (SS) là những thông số vật lý biểu thị sự có mặt của các hạt lơ
lửng, các phù du thực vật cản trở tầm xuyên qua của ánh sáng. Độ đục lớn, độ trong nhỏ tác động bất
lợi tới cảm quan, thẩm mỹ, làm giảm giá trị sử dụng của nước.

Tổng chất rắn hoà tan (TDS), độ dẫn điện là những đại lượng biểu thị lượng muối khoáng tan trong
nước. Sự có mặt của một số muối khoáng làm thay đổi vị nước và làm giảm giá trị sử dụng của nước.

pH là đại lượng đặc trưng cho mức độ axit hay kiểm của nước. Đối với nước trung tính sẽ có giá trị
pH 7, giá trị pH càng thấp chứng tỏ nước có tính axit cầng cao và ngược lại. Nước trong tự nhiên
thường có giá trị pH vào khoảng 6,0-6,5; nhiều loại sinh vật thuỷ sinh không có khả năng Sống trong
môi trường có pH quá cao hoặc quá thấp. Ví dụ như cá thường chỉ sống được trong khoảng pH 4 - 10.
Theo TCVN 5942 - 1995 quy định nguồn nước loại A có giá trị pH 6,0 - 8,5.

Oxi hoà tan (DO): Độ bão hoà oxi trong nước sạch phụ thuộc nhiệt độ, áp suất. Ở 0°C và áp suất 1
atm, oxi hòa tan đạt cao nhất (bão hoà) là 14,6 mg/lít. Thông thường oxi hoà tan trong nước chỉ đạt 8-
10 mg/lít, nhưng trong điều kiện quang hợp giải phóng oxi mạnh, nó có thể đạt tới 200% (siêu bão
hoà). Hai nguồn cấp oxi chính cho thuỷ vực là quang hợp, diễn ra trên tầng mặt khi có các thực vật và
tảo, được chiếu sáng và trao đổi với khí quyển qua mặt nước khi oxi trong nước chưa đạt độ bão hoà.
Hai quá trình tiêu thụ oxi chính là hô hấp, diễn ra suốt ngày đêm và phân huỷ các chất hữu cơ. Do đó
phân bố lượng ôxy hoà tan trong nước không đồng đều, lượng oxi hoà tan thường giảm dần theo độ
sâu, mức độ phân hoá giảm theo sự tăng xáo trộn thuỷ lực do sóng, dòng chảy, đối lưu... Căn cứ vào
lượng oxi hoà tan có thể đánh giá được các điều kiện chiếm ưu thế trong nước, đánh giá chất lượng
nước. Oxi hoà tan thấp không thuận lợi cho sự sống và quá trình tự làm sạch.

Nhu cầu oxi sinh hoá (BOD) là lượng oxi cần thiết cho quá trình phân huỷ các chất hữu cơ trong nước
bằng con đường sinh học. Thông thường người ta tính BOD cho 5 ngày đầu tiên, ký hiệu là BOD (nó
thường chiếm khoảng 70% BOD toàn phần) hoặc BOD trong 20 ngày đầu tiện, ký hiệu là BOD,0
(thường = 95-99% BOD toàn phần). Do đó BOD là đại lượng gián tiếp biểu thị mức độ ô nhiễm hữu
cơ trong nước.

Nhu cầu oxi hoá học (COD) là lượng oxi cần thiết cho quá trình oxi hoá các chất hữu cơ trong nước
bằng con đường hoá học, được xác định thông qua việc sử dụng một tác nhân oxi hoá mạnh trong môi
trường axit, ví dụ như dùng pemanganatkali KMnO4, hoặc bịcromatkali K2Cr2O7. Trong thực tế,
phản ứng oxi hoá xảy ra không chỉ với chất hữu cơ mà còn cả đối với một số chất vô cơ ở dạng khử,
chẳng hạn như Fe2+, do vậy COD là đại lượng biểu thị không chỉ cho chất ô nhiễm hữu cơ mà cả một
phần chất vô cơ. Phép phân tích COD có ưu điểm là cho kết quả nhanh, nó phản ánh lượng chất hữu
cơ bao gồm cả phần sinh vật có thể oxi hoá được và không oxi hóa được, do đó chỉ số COD> chỉ số
BOD.

6.3.3.2. Các tác nhân gây ô nhiễm nước về mặt hoá học

Kim loại nặng trong nước là những nguyên tố kim loại có tỷ trọng lớn (>5), chúng thường có mặt
trong tự nhiên với hàm lượng nhỏ nhưng lại có tính độc cao đối với đời sống sinh vật và con người.
Những kim loại nặng thường được nghiên cứu như As, Pb, Hg, Cd, Cu, Zn, Mn, ...

Hg là nguyên tố hiếm và độc, phát tán vào nước từ các nguồn thải tự nhiên, khai khoáng, Công
nghiệp, đặc biệt là công nghiệp sản xuất clo, kiếm. Thuỷ ngân có thể tồn tại ở dạng liên kết với các
tác nhân hữu cơ hoặc vô cơ. Trong môi trường axit, thuỷ ngân tồn tại ở dạng CH Hg. Thuỷ ngân vô
cơ tác động chủ yếu lên thận, còn metyl thuỷ ngân tác động lên hệ thần kinh trung ương. Chất này tan
trong nước, tích luỹ theo chuỗi thức ăn, gây độc cho sinh vật và người.

As có nguồn gốc tự nhiên từ núi lửa, xói mòn do gió, cháy rừng, bụi đại dương, nguồn gốc nhân tạo
từ các quá trình nấu chảy đồng chì, kẽm, sản xuất thép, đốt rừng, đốt chất thải, thuộc da, sành sứ, hoá
chất, thuỷ tinh, có trong thành phần một số thuốc bảo vệ thực vật. Các hợp chất metyl và đimetyl là
dạng phổ biến thường gặp nhất trong nước. Trong nước sạch, nước mưa, hàm lượng As từ 0,4-1,0
mg/l. As làm giảm sự ngon miệng, giảm trọng lượng, gây hội chứng dạ dày, ung thư.

Photpho thường gặp trong nước dưới dạng hợp chất H,PO, và HPO”, là chất dinh dưỡng cần thiết cho
thực vật. Mức photphat vô cơ tổng số trong nước được chấp nhận là 0,03 . 0,40 mg/l. Photphat cao
trong nước là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng phì dưỡng, phát triển nhanh chóng của tảo, gây ô nhiễm
nước.
Nitơ tồn tại ở các dạng khác nhau, như nitrat, nitrit, amoni và các dạng hữu cơ. Nó là chất dinh dưỡng
cần cho sự sống, vì có trong thành phần protein, enzym... Nồng độ nitơ cao trong nước gây nguy cơ
phú dưỡng, ô nhiễm nước. Nồng độ ion NO, NO cao trong nước uống gây bệnh xanh xao ở trẻ em,
nồng độ các chất này cao trong nước uống và thực phẩm là nguy cơ tạo ra chất nitrosamin gây ung
thư.

Lưu huỳnh là chất cần cho quá trình tổng hợp protein và được giải phóng ra trong quá trình phân huỷ
chúng. Sự phân huỷ yếm khí chất hữu cơ tại các vùng nước thiếu oxi, bùn đáy, sẽ tạo ra H,S có mùi
trứng thối, độc hại cho sức khoẻ còn trong môi trường oxi hoá sẽ tạo thành H2SO4 gây ăn mòn công
trình thiết bị dưới nước.

Các chất tổng hợp và các chất hữu cơ độc hại khác như thuốc bảo vệ thực vật, các chất tẩy rửa, các
chất dầu mỡ... cũng là những tác nhân quan trọng gây ô nhiễm nước về mặt hoá học.

6.3.3.3. Các tác nhân gây ô nhiễm nước về mặt sinh học

Nhiều loại vi sinh vật như vi khuẩn, vi rut, động vật nguyên sinh hoặc ký sinh trùng có khả năng sống
trong môi trường nước, trong đó có nhiều loài gây bệnh nguy hiểm như bệnh tả, lỵ, thương hàn...
Ngoài ra, sự có mặt của một số loài vi sinh vật có ảnh hưởng đến giá trị thẩm mỹ, cảm quan.

Các vi sinh vật gây bệnh có mặt trong phần cũng dễ dàng sống và lan truyền vào nước. Do vậy dấu
hiệu nước bị ô nhiễm phân, chứng tỏ nó có nguy cơ tiềm ẩn các tác nhân gây bệnh khác. Trong thực
tế, có rất nhiều loại vi sinh vật gây bệnh nguy hiểm cho con người sống trong môi trường nước nhưng
chúng thường rất biến động, hơn nữa việc xác định chúng là rất khó khăn. Do vậy để đặc trưng cho ô
nhiễm nước về mặt sinh học thường được xác định thông qua sự có mặt của một số loài vi khuẩn chỉ
thị ô nhiễm, có đặc điểm là tồn tại với số lượng lớn, phổ biến trong phần người và gia súc, dễ xác
định. Thường dùng là chỉ số coliform, bao 2007 Một nhóm các vi sinh vật tuy không gây bệnh nguy
hiểm cho con người nhưng có số lượng khá lớn và tương đối ổn định trong nước tự nhiên. Trong đó
một số loại thường được phân tích bao gồm:

E. Coli có nhiều trong phân người và súc vật, nên được xem là dấu hiệu chỉ thị ô nhiễm phân.

Liên cầu khuẩn Feacal streptococcts, bao gồm tất cả các liên cầu có mặt trong phần người và động
vật, chúng ít khi tăng sinh trong các nguồn nước và có sức đề kháng lớn, nên là dấu hiệu chỉ thị ô
nhiễm dài ngày.

Clostridium có nguồn gốc từ phân và các nguồn khác, tồn tại trong nước lâu hơn coliform và có khả
năng để không các hoá chất khử trùng nên được coi là dấu hiệu chứng tỏ quá trình khử trùng chưa
đạt yêu cầu.

6.3.3.4. Khả năng tự làm sạch của nước

Khả năng tự làm sạch của nước được thực hiện thông qua các quá trình cơ lý, hoá, sinh khác nhau
sau:

Pha loãng được thực hiện khi nồng độ chất ô nhiễm trong thuỷ vực thấp hơn nhiều so với trong nước
gia nhập, hoặc khi thuỷ vực đang Ô nhiễm nhận được nguồn cấp nước mới chất lượng sạch hơn. Tỷ lệ
giữa tổng lượng chất ô nhiễm với lượng nước sạch dùng để pha loãng càng nhỏ, khả năng pha loãng
càng cao. Ngoài ra pha loãng phụ thuộc nhiều vào mức độ xáo trộn của khỏi nước. Xáo trộn càng
mạnh, pha loãng càng xảy ra trên diện rộng. Pha loãng không trực tiếp làm giảm lượng chất ô nhiễm
có trong khối nước, nhưng nó làm giảm nồng độ chất ô nhiễm, tạo điều kiện thuận lợi cho các quá
trình tự làm sạch khác, đồng thời tạo cảm qu:àn môi trường tốt hơn, cải thiện các đặc trưng lý học của
nước.

Lắng đọng là quá trình chuyển trạng thái của vật chất không tan từ lơ lửng trong khối nước sang tích
luỹ trong vùng đáy. Quá trình này loại được vật chất ra khỏi khối nước, làm giảm nồng độ chất ô
nhiễm trong nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các quá trình hóa sinh tự làm sạch nước. Tuy nhiên nó
không loại được chất ô nhiễm ra khỏi thuỷ vực, hệ quả là tạo ra sự tích luỹ nhiễm trong trầm tích đáy.
Trạng thái lắng đọng chỉ là tương đối, khi điều kiện thuỷ lực trong khối nước thay đổi, nó lại có thể bị
cuốn trở lại trạng thái lơ lửng. Thông thường trong tự nhiên quá trình pha loãng, chuyển dịch diễn ra
thuận lợi nhất trong sông chảy xiết, còn quá trình lắng đọng diễn ra thuận lợi hơn trong các hổ.

Khả năng tự làm sạch hoá học của nước được thực hiện nhờ những phản ứng hoá học biến đổi một số
chất thành những chất mới có tính chất hoá học khác với các chất ban đầu, như ít độc hơn, có thể kết
tủa, bay hơi... Tốc độ phản ứng phụ thuộc phức tạp vào điều kiện môi trường, nồng độ chất tham gia
phản ứng, sự có mặt của các chất khác có chức năng xúc tác mà trong nhiều trường hợp chúng ta
không biết rõ ràng.

Khả năng tự làm sạch hoá sinh của nước được thực hiện nhờ các phản ứng phân huỷ chất hữu cơ bằng
vi sinh vật. Quá trình này chỉ diễn ra thuận lợi khi điều kiện sống của vi sinh vật phân huỷ được đảm
bảo và nồng độ chất ô nhiễm không quá cao.

Lọc sinh học thực hiện được theo các cơ chế sau: Lọc trực tiếp bởi động vật thân mềm, ví dụ Mytilus
cỡ 5 - 6 cm lọc được 3,5 lít/ngày, trai dài 5 - 6cm lọc 12 lít/ngày, ấu trùng Chironomus Plumosus với
mật độ 90,000 con/m sử dụng 250g chất hữu cơ, trong đó đồng hoá 100g, số còn lại bị VÔ cơ hoá.
Nhiều loại sinh vật có khả năng đồng hoá và phân huỷ các chất độc hại, trong một số trường hợp chất
độc được sử dụng như nguồn thức ăn, nguồn cấp 0,. Người ta đã tìm ra hàng trăm loại vi khuẩn và
nấm có khả năng phân huỷ dầu mỏ, giúp loại trừ 10 - 90% tổng lượng dầu và các sản phẩm của dầu
có trong nước.

Khả năng tự làm sạch của nước có giới hạn và có điều kiện. Khả năng tự làm sạch của nước đã giúp
các thuỷ vực tự bảo toàn được về chất trong những giai đoạn nhất định trước đây. Ngày nay khả năng
tự làm sạch của nước đang được khai thác và sử dụng trong các quy trình xử lý nước thải, làm giảm
chi phí môi trường trong các dự án phát triển.

6.3.4. Một số dạng ô nhiễm nước thường gặp

Ô nhiễm nước về mặt lý học và hoá lý


Là sự ô nhiễm nước về màu, mùi, vị, nhiệt độ, độ phóng xạ, pH, độ cứng, độ kiềm, độ axit... Sự thay
đổi bất thường về màu, mùi, vị không chỉ tác động bất lợi tới cảm quan, mà còn có thể làm giảm giá
trị của các thực phẩm chế biến từ nước này, làm giảm giá trị sử dụng của nước.

Ô nhiễm nhiệt gây tác động rất xấu tới các hệ sinh thái nước, do nó làm tổn thương một phần hoặc
toàn thể cơ thể các cá thể, tổn thương một phần hoặc toàn bộ vòng đời của các loài, dẫn tới nguy cơ
tổn thương hệ sinh thái. Dấu hiệu rõ rệt nhất là cá chết hàng loạt, bắt đầu từ những loài nhạy cảm nhất
(hẹp nhiệt), hoặc những mắt xích nhạy cảm nhất trong vòng đời của chúng, như ấu trùng, con non... Ô
nhiễm nhiệt còn có thể gây tổn thương bộ phận sinh dục của một số loài, ảnh hưởng tới sinh sản duy
trì nòi giống và gây mất cân bằng sinh thái. Nguồn nước bị nhiễm phóng xạ từ khí quyển hoặc các
chất thải của các cơ sở có sử dụng chúng. Chất phóng xạ xâm nhập vào cơ thể người trực tiếp qua
nước uống, hoặc qua các thực phẩm bị nhiễm xạ. Những đồng vị phóng xạ thường gặp trong điều kiện
tự nhiên ở nguồn nước cấp là Bari (Ba226), Radon (Rn”), Thori (Th22), Uran (U238), Radi (Ra226).
Những đồng vị phóng xạ nhân tạo thường bắt nguồn từ các kết tủa sau vụ nỗ hạt nhân, phát tán từ pin
nguyên tử, trạm xử lý chất đốt cháy phóng xạ và sự đào thải các cặn phóng xạ khác nhau. Những chất
phóng xạ quan trọng nhất là Stronti (Sr), Cezi (Cs) và cả một 1*). Nhiễm phóng xạ liều cao gây chết,
liều thấp gây chết tế bào, thay đổi cấu trúc tế bào, gây ra các bệnh di truyền về máu, ung thư...

ô nhiễm nước về mặt hoá học


nhiễm chất hữu cơ dễ bị phân huỷ sinh học hoặc các chất tiêu thụ oxy: Thông thường, chất hữu cơ
chiếm 55% tổng chất rắn, 75% chất rắn lơ lửng và 45% trong chất tan. Các chất hữu cơ dễ phân huỷ
sinh học, thường là Cacbonhydrat, protein, chất béo. Tác hại chính là làm giảm oxi hoà tan trong
nước, thậm chí gây thối nước khi thiếu oxi.
nhiễm chất hữu cơ khó phân huỷ: Các chất này thường cũng đồng thời là những chất có độc tính cao.
Một số có tác động tích luỹ sinh học,

một số có tính trơ... Những chất hữu cơ bền vững và độc như PCP (Polyclorophenol), PCB
(polyclorobiphenol), các hydratcacbon đa vòng, hợp chất dị vòng chứa N và 0, thuốc bảo vệ thực vật.
Các dấu hiệu nhiễm độc thuốc trừ sâu nói chung là nhẹ thì nhức đầu, choáng váng, đau thái dương,
mệt mỏi, giảm trí nhớ, mất ngủ, chóng mặt, ăn kém, rối loạn tinh thần, trí tuệ; nặng thì run tay, giật
nhãn cầu, liệt thần kinh, sần, ngứa, chàm da, nổi ban, ung thư, tổn thương di truyền...

Ô nhiễm do các chất vô cơ, kim loại nặng, tuỳ thuộc đặc tính lý hoá của các chất gây ô nhiễm. Nhiều
kim loại nặng có tính độc, biến đổi hoá học theo những xu thế khác nhau trong các điều kiện môi
trường khác nhau, gây tác động xấu cho môi trường và con người.

Ô nhiễm dầu gây cản trở trao đổi oxi với khí quyển, tổn thương các thuỷ sinh vật và các sinh vật ăn
thức ăn là các loài này, gây mất thẩm mỹ, mùi, làm giảm đến mất giá trị sử dụng của nước và các sản
phẩm từ nước.

Ô nhiễm chất tẩy rửa tổng hợp: Những chất chính để sản xuất chất tẩy rửa tổng hợp là dodexyl tạo
bọt, benzene, sulfonic, acide, pentanatri polyphosphate (Na,P,Q,...) để bọc các ion kim loại, làm
chúng tan được, sunfat natri làm chất tẩy chóng khổ, Silicat natri làm xà phòng không vón cục... Chất
tẩy rửa tổng hợp khó phân huỷ sinh học, dễ tích tụ gây ô nhiễm, làm giàu photphat trong nước, tạo
mảng bọt lớn, ngăn cản sự bổ sung oxi từ khí quyển.

ô nhiễm nước về mặt sinh học | Các tác nhân chính gây ô nhiễm nước về mặt sinh học là vi khuẩn gây
bệnh, virut, ký sinh trùng và các loại sinh vật khác. Trong nước sạch, vi khuẩn gây bệnh sống được
lâu hơn trong nước có tạp khuẩn.

Các loại bệnh do vi khuẩn gây qua đường nước như tả, lỵ, thương hàn. Các bệnh do siêu vi khuẩn gây
ra lan qua đường nước là viêm gan siêu vi trùng, bại liệt, viêm kết mạc... Ký sinh trùng lan truyền qua
đường nước là trứng giun sán. Đặc biệt có các loại ký sinh trùng có thể truyền qua da vào cơ thể con
người như giun móc, giun lươn. Một số ký sinh trùng tồn tại trong các vật chủ trung gian truyền bệnh,
như sán lá phổi Sống trong cua suối...

Nước có hàm lượng chất hữu cơ cao và thiếu cơ chế cấp oxi hoà tan thuận lợi, sẽ xảy ra quá trình
phân huỷ yếm khí chất hữu cơ trong nước bởi các vi khuẩn kỵ khí, làm cho nước có mùi thối, màu
đen. Các loài tảo ưa hàm lượng dinh dưỡng cao, sẽ phát triển rất mạnh khi trong nước giàu photpho
và nitơ (hiện tượng phú dưỡng), làm nước chuyển màu hoàn toàn, sang xanh sẫm hoặc nâu đỏ... rồi
cuối cùng là thối đen, khiến toàn bộ hệ sinh thái nước bị tổn thương, thậm chí huỷ diệt. Các loài giáp
xác, giun có thể là nơi lưu trú trực khuẩn hoặc virut gây bệnh, ngăn cản các hoá chất khử trùng diệt
trừ chúng.

6.3.5. Ô nhiễm nước ở Việt Nam

Ô nhiễm nước ở Việt Nam mang tính địa phương. Những vùng đô thị, khu công nghiệp, khai khoáng,
nơi nhận nước thải có mức độ ô nhiểm cao nhất, nước mặt có màu, mùi, vị bất thường, các chỉ tiêu
chất lượng nước không đảm bảo, điều kiện cho quá trình tự làm sạch nước bị phá vỡ.

| Tác nhân gây ô nhiễm nước ở Việt Nam đa dạng, giống như tình trạng chung của thế giới, do các
nguồn thải công nghiệp, nông nghiệp, dân sinh, tự nhiên, khai thác mỏ... thành phần và tính chất chất
thải phức tạp, lượng thải tập trung, công tác quản lý chất thải không tốt.

Chất lượng nước ngầm, suy giảm, đặc biệt là tại các vùng đô thị có tốc độ khai thác mạnh.

Tràn dầu đang là một trong những sự cố môi trường gây nhiều thiệt hại cho hệ sinh thái đới ven bờ và
vùng khơi. Ngày 10/8/1989, tàu LeaLa đắm tại vịnh Quy Nhơn làm hơn 200 tấn dầu FO tràn ra biển.
Ngày 26/11/1992, vỡ ống dẫn dầu mềm từ tàu dầu đến phao nạp tại mỏ Bạch Hổ, làm tràn khoảng
300-700 tấn dầu thô... Ngày 8/5/1994, vụ va chạm tàu tại cây số 20 luồng Sài Gòn - Vũng Tàu làm
tràn trên 130 tấn dầu FO, gây ô nhiễm trên 200km. Ngày 30/10/1994, tàu chở dầu Neptuyn Aries đâm
vào cầu cảng Cát Lái - Thủ Đức, làm tràn 1.864,766 tấn xăng dầu, khí các loại, gây ô nhiễm nặng
khoảng 300km.

Đến nay đã có 37 cảng biển lớn cùng hàng trăm cảng nhỏ của địa phương, 800 tàu hàng và 54.000 tàu
thuyền đánh cá lớn nhỏ hoạt động.

Nuôi trồng thuỷ sản nước mặn bằng hình thức đầm nuôi, lồng bè làm phát sinh thức ăn dư, gây ô
nhiễm hữu cơ nước. Nuôi thuỷ sản nước lợ trên cát hiện đang được thử nghiệm ở nhiều vùng khô hạn
cũng đã báo hiệu những nguy cơ gây tổn thương sâu sắc các hệ sinh thái và môi trường do nước mặn
phát tán theo không khí, xâm nhập vào các tầng nước ngọt hiếm hoi trong đất cát.

6.3.6. Giải pháp cho vấn đề ô nhiễm nước

nhiễm nước phát triển, lan truyền và tác động theo phạm vi lưu vực, do vậy giải pháp cho các vấn đề
môi trường nước trước tiên phải mang tính lưu vực, bao gồm: quản lý các dự án phát triển liên quan
đến sử dụng tài nguyên nói chung và tài nguyên nước nói riêng trên lưu vực, quản lý chất lượng nước
theo lưu vực; giải quyết đồng bộ các vấn đề ô nhiễm môi trường đất và không khí.

Các giải pháp mang tính địa phương cho vấn đề ô nhiễm nước là:

1- Giảm xả thải bằng cách tiết kiệm, tái sử dụng, tái chế.

2- Phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ sạch và công nghệ xử lý chất thải;

3- Trồng rừng, làm sạch nước đang bị ô nhiễm bằng các quá trình tự nhiên hoặc Công nghệ;

4- Xây dựng hệ thống luật pháp và hành pháp về môi trường hiệu quả; Thiết lập các bộ tiêu
chuẩn môi trường;

5- Quản lý môi trường bằng các công cụ luật pháp, kinh tế...

6- Kiểm soát đánh giá chất lượng môi trường bằng máy móc thiết bị và các dấu hiệu chỉ thị
để giúp cho việc ngăn ngừa, hạn chế lan truyền ô nhiễm, phòng tránh ô nhiễm nước;

7- Giáo dục môi trường các cấp để thiết lập nền tảng đạo đức môi trường và các hành vi
thân thiện môi trường một cách tự giác, khoa học, hợp lý.

Khử trùng nước uống


Khử trùng nước máy là hàng rào cuối cùng ngăn chặn tác nhân Ô nhiễm sinh học từ nước vào người.
Công nghệ khử trùng phổ biến hiện nay là dùng các chất có tính oxi hóa như clo, hypoclorit,
cloramin, dioxitclo, ozon và tia cực tím. Hiệu quả của khử trùng phụ thuộc vào mức độ làm sạch nước
trong các công đoạn trước đó, vì các chất khử trùng có thể bị trung hoà bởi các chất hữu cơ hoặc các
chất dễ oxi hoá trong nước. Trong đó một số nghiên cứu cho rằng cloramin bên cạnh khả năng sát
trùng, chất này còn có khả năng gây ung thư. Những vi sinh vật tập hợp lại với nhau, hoặc hấp phụ
trên mặt các hạt lơ lửng có khả năng được bảo và một phần khỏi tác dụng khử trùng. Có nhiều dấu
hiệu chứng tỏ khi độ . đục > 5 NTU, hiệu quả khử trùng đối với các tác nhân gây bệnh và vị sinh vật
có nguồn gốc từ phân suy giảm.

Đun sôi nước là một giải pháp khử trùng tốt, nhưng phải đun sôi trong vòng 1 phút và lên cao mỗi
1.000 m lại phải tăng thêm thời gian đun sôi 1 phút.

6.4. Ô NHIỄM ĐẤT

6.4.1. Khái niệm

Đất là một hệ sống, một hệ sinh thái với đầy đủ các đặc trưng của nó. Do đó ô nhiễm đất được hiểu là
sự có mặt của các độc chất, gây hại trực tiếp cho con người và sinh vật, hoặc thay đổi thành phần tính
chất của đất, vượt ra ngoài miền giới hạn sinh thái của sinh vật, gây suy giảm nghiêm trọng các chức
năng của đất và ảnh hưởng xấu cho hệ sinh vật trong đất và trên mặt đất.

Khả năng tự làm sạch của đất

Đất có tính đệm, là khả năng chống lại sự thay đổi các yếu tố trong đất khi có sự tác động từ bên
ngoài. Khả năng đệm của đất được biết đến trước hết là khả năng chống lại sự axit hoá hay kiểm hoá
đất. Đất có khả năng lọc, giữ lại các hạt kích thước lớn, hấp phụ trao đổi ion bởi keo đất. Đất cũng có
khả năng tạo liên kết giữa các hợp chất mùn, hữu cơ với các ion kim loại độc hại thành các phức chất
chelat không độc, như muối humat hay fulvat. Trong đất có nhiều loài vi sinh vật có khả năng phân
huỷ chất hữu cơ, chuyển hóa thành những chất dinh dưỡng cho cây trồng, hoặc kìm hãm và hạn chế
sự phát triển của các sinh vật gây hại. Trong đất có thể có một số vi sinh vật phân huỷ dầu mỏ, làm
sạch môi trường. Nước trong đất đóng góp vào việc hoà tan, pha loãng làm giảm nồng độ chất Ô
nhiễm trong đất.

Khả năng tự làm sạch của đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố như số lượng và chất lượng hạt keo đất,
hàm lượng mùn, thành phần cơ giới đất cũng như các tính chất lý, hoá và sinh học đất. Khả năng tự
làm sạch của đất là có giới hạn. Khi các điều kiện cần cho quá trình làm sạch bị phá huỷ, hoặc khi
nồng độ chất ô nhiễm quá lớn, đất có thể mất khả năng tự làm sạch, Khả năng tự làm sạch của đất là
cơ sở giải quyết các vấn đề

môi trường trong các vùng nông nghiệp và dân cư trước đây, khi mật độ dân số thấp, tổng lượng thai
thấp và các chất thải chủ yếu ở dạng hợp chất tự nhiên. Khả năng tự làm sạch của đất hiện vẫn đang
được khai thác để xử lý nước thải trong những điều kiện nhất định.

6.4.2. Tiêu chuẩn đánh giá ô nhiễm đất

6. 4.2.1. Tiêu chuẩn môi trường đất

TCVN 5941 - 1995 quy định giới hạn tối đa cho phép của dư lượng 22 hoá chất bảo vệ thực vật trong
đất, ví dụ mức cho phép của chất trừ cỏ 2,4 - D là 0,2 mg/kg đất và của các thuốc trừ sâu Lindan,
Monitor là 0,1 mg/kg dat

TCVN 5300 -1995: Phân loại ô nhiễm đất về mặt hoá học: 1- Đất bị nhiễm bẩn nặng là đất có hàm
lượng các hoá chất vượt quá nồng độ giới hạn cho phép và đất có hiệu suất sinh học thấp do tác động
của nhiễm bẩn hoá chất, những đặc tính cơ lý hoá sinh biến đổi đáng kể, làm các hoá chất trong cây
trồng vượt quá giới hạn cho phép: 2- Đất nhiễm bẩn vừa là đất có sự vượt quá nồng độ giới hạn cho
phép về các hoá chất độc hại, nhưng không thấy có những biến đổi đáng kể về tính chất của đất; 3-
Đất bị nhiễm bẩn nhẹ là đất có hàm lượng các hoá chất không vượt quá nồng độ giới hạn cho phép,
song cao hơn nên tự nhiên.

TCVN 5302 - 1995: Yêu cầu chung đối với việc tái tạo đất bị huỷ hoại do các hoạt động kinh tế và
dân sinh.

6.4.2.2. Chỉ tiêu ô nhiễm đất về mặt sinh học

Nồng độ của các hợp chất nitơ khoáng trong quá trình phân huỷ hợp chất hữu cơ chứa nitơ xác định
thời điểm đất bị nhiễm chất hữu cơ, ví dụ khi hàm lượng NHK cao chứng tỏ quá trình phân huỷ hữu
cơ mới bắt đầu hay đất mới bị ô nhiễm; khi hàm lượng NO, tầng chứng tỏ quá trình chuyển hoá nitơ
xảy ra mạnh hay đất đang bị ô nhiễm; còn khi hàm lượng NO, cao là biểu hiện của đất bị ô nhiễm đã
lâu.

Chỉ số vệ sinh là tỷ số giữa nitơ anbumin và nitơ hữu cơ của đất. Khi đất bị nhiễm bẩn thì vi sinh vật
hoạt động yêu, nitơ hữu cơ tăng và chỉ số vệ sinh giảm. Hoặc dựa vào số lượng trứng giun đất, mức
độ nhiễm bin được đánh giá như ở Being 6.3.
6.4.3. Phân loại ô nhiễm đất

6.4.3.1. Ô nhiễm đất về mặt lý học

Ô hiển nhiệt: Khi nhiệt độ trong đất tăng gây ra những biến động bất lợi trong hệ sinh vật đất. gây rối
loạn, phá huỷ quá trình phân giải chất hữu Cơ, nguy cơ dẫn đến làm đất chai cứng, mất dinh dưỡng. Ở
mức độ cao sẽ là 1 chét các sinh vật đất và phá vỡ hoàn toàn hệ sinh thái đất. Nguyên nhân gây ô
nhiễm nhiệt đất là từ nước thải công nghiệp, đốt nương, cháy rừng...

Ô nhiễm phóng xạ: Các chất phóng xạ tự nhiên có sẵn trong lòng đi, như U, R..., chúng phân rã và
gây phóng xạ. Sau các vụ nổ nguyên tử trong đất thường tồn lưu 3 chất phóng xạ chủ yếu là Sr", I,
Cs". Các chất này sẽ theo chu trình dinh dưỡng xâm nhập vào các cơ thể sống và người, gây các bệnh
hiểm nghèo và di truyền về máu, gây ung thư.

6.4.3.2. Ô nhiễm đất về mặt hoá học

Ô nhiễm đất do hoá chất sử dụng trong nông nghiệp

Hoá chất sử dụng trong nông nghiệp gây tác động tức thời lên hệ sinh thái đất, gây chết một số loài.
Một số hoá chất có thể tồn tại lâu dài trong môi trường do tính trợ của bản thân các chất độc hoặc do
liên kết với các chất hữu cơ và khoáng đất, tạo nên sự tích luỹ tới ngưỡng gây hại trong môi trường và
trong cơ thể sinh vật, gây tác động từ từ lên hệ sinh thái. Các hoá chất gây ô nhiễm đất trong nông
nghiệp đáng chú ý là các loại thuốc bảo vệ thực vật. Theo Barker (1958), khi dùng DDT trong rừng
du, một số côn trùng chết ngay do ngộ độc trực tiếp. Chim cổ đỏ chết sau khi ăn phải 11 con giun bị
nhiễm độc này. Mức độ tích luỹ sinh học của DDT trong hệ sinh thái đất rừng du như sau: đất 10
ppm, giun đất 90 ppm, chim Cổ đỏ 750 ppm.

Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp

Chất thải công nghiệp chứa nhiều hoá chất độc hại thải trực tiếp vào đất, hoặc qua nước, không khí
vào đất, làm cho đất bị ô nhiễm hoá học. Khoảng 50% chất thải công nghiệp tồn tại ở thể rắn, trong
đó có khoảng 15% có khả năng gây độc nguy hiểm. Các tác nhân hoá học gây ô nhiễm đất nghiêm
trọng là chất phóng xạ, kim loại nặng, axit. Trong đất, tính di chóng gây độc của kim loại nặng phụ
thuộc vào các yếu tố như thay đổi điện thể oxi hoá khử, pH, nồng độ muối trong dung dịch đất và các
phức chất có khả năng hoà tan kim loại nặng. Việc sử dụng bùn thải công rãnh thành phố bón cho cây
trồng cũng là nguyên nhân dẫn đến làm ô nhiễm đất, vì trong chúng thường có chứa khá nhiều các
nguyên tố kim loại hãng khác nhau. Theo Williams và Vlamis, hàm lượng kim loại nặng trong đất và
trong bùn thải như sau (Bảng 6.4).

Độc trong đất

Ô nhiễm đầu

Tác động của dầu tới môi trường đất thể hiện qua nhiều mặt:

1-Thoái hoá tính chất lý hoá của keo đất, làm cho keo bị trơ, không còn khả năng hấp phụ
trao đổi;

2- Thiếu ôxy do dầu cản trở trao đổi không khí với khí quyển, và chiếm chỗ các lỗ hổng
chứa không khí, làm các sinh vật đất ngạt thở chết;

3- Gây ngộ độc cho sinh vật đất, dính bám rễ cây...;

4- Ảnh hưởng đến tính đệm, tính ôxy hoá, độ dẫn điện, dẫn nhiệt và nhiều quá trình khác
nhau xảy ra trong đất.

Ô nhiễm đất do chất thải sinh hoạt


Chất thải sinh hoạt là nguồn gây ô nhiễm môi trường đất về mặt hoá học, lý học và sinh học. Trung
bình mỗi cư dân nước nghèo thải 0,3 - 0,5 kg rác/ngày, nước giàu thải 2,5 - 3,5 kg rác/ngày và hơn
nữa. Lượng phân thải vào hệ thống nước thải trung bình 65 - 100g/người/ngày đêm. Cứ mỗi tỷ USD
của GDP tại các nước công nghiệp tạo ra khoảng 5.000 tấn chất thải, tại các nước nghèo chỉ tạo ra vài
trăm tấn.

Thành phần chất thải sinh hoạt đa dạng (Bảng 6.5), thay đổi theo mùa, phụ thuộc vào điều kiện kinh
tế và đặc thù văn hoá của đối tượng thải. Thành phần nguy hiểm nhất trong chất thải sinh hoạt là chất
hữu cơ và một số hoá chất dùng trong sinh hoạt. Chất hữu cơ dễ thối rữa, từ đó phát sinh các sinh vật
gây bệnh, nước rỉ bẩn, đồng thời khi chôn lấp lâu ngày sẽ tạo các lỗ rỗng trong đất. gây sụt lún.

6.4.3.3. Ô nhiễm đất về mặt sinh học

Tác nhân sinh học trong đất gây bệnh cho người được chia thành 3 nhóm:

Truyền bệnh người - đất - người

Nhóm này gồm các sinh vật gây bệnh cho người, trong vòng đời cần có một thời gian sống trong môi
trường đất. Chủ yếu là do các trực khuẩn và nguyên sinh động vật đường ruột như trực khuẩn tả, lỵ,
thương hàn, lỵ amip... Chúng thường không tồn tại lâu trong môi trường đất những trong những điều
kiện thuận lợi chúng có thể tồn tại lâu hơn, ví dụ như trực khuẩn thương hàn có thể tồn tại trong đất
được 2 - 4 tuần, phầy khuẩn tả tồn tại được trong đất 1 tháng. Do vậy tác nhân sinh học truyền các
bệnh truyền nhiễm qua đất cần được đặc biệt lưu ý trong những thời kỳ có dịch bệnh. Sự xả thải và sử
dụng không hợp lý phân người và gia súc làm phát tán trứng giun sán vào đất, sau đó xâm nhập theo
đường thực phẩm, nước uống và những thói quen ăn uống không hợp vệ sinh vào cơ thể người, đáng
lưu ý là giun đũa, giun móc, sán.

Tuyên bản động vật - đất - người

Nhóm này gồm các sinh vật gây bệnh cho người, như bệnh dịch hạch truyền từ chuột sang đất bẩn rồi
sang người; bệnh than truyền từ gia súc qua đất rồi sang người.

Bệnh xoắn khuẩn vàng da (do Leptospira) có nguồn gốc từ vật nuôi mang bệnh, thường là trâu bò,
chuột cống, chuột chù..., đào thải xoắn khuẩn qua nước tiểu. Trong nước hoặc bùn có pH trung tính
hoặc kiềm nhẹ, xoắn khuẩn vàng da có thể sống được hàng tuần. Những người làm nông nghiệp
thường mắc bệnh này do tiếp xúc với đất bị ô nhiễm, hoặc do tiếp xúc với chất phóng uế mang nguồn
bệnh.

Truyền bệnh đất - người:

Bệnh uốn ván và bệnh nấm, do các tác nhân gây bệnh có nhiều trong đất bẩn, xâm nhập vào cơ thể
qua da, qua các vết trầy xước.

6.4.4. Giải pháp cho các vấn đề ô nhiễm đất

Quản lý chất thải rắn công nghiệp và dân dụng

Không đổ thải trực tiếp các chất thải vào đất. Các chất thải phải được thu gom toàn bộ, phân loại,
nhằm tách riêng từng loại chất thải theo mức độ độc hại và cách thức ứng xử:

1- Hàng hoá còn thời hạn sử dụng hoặc rác tái chế như giấy, kim loại, thuỷ tinh....

2- Chất thải xây dựng, vật liệu rắn dùng làm vật liệu san lấp;

3- Chất thải độc hại như hoá chất, chất phóng xạ, chất thải y tế và có giải pháp ứng xử riêng
bằng công nghệ và theo quy phạm phù hợp;

4- Chất thải hữu cơ có thể chôn lấp, đốt hoặc dùng để sản xuất phân bón..
Thiết kế bãi chôn lấp rác thải hợp vệ sinh, có hệ thống thu gom xử lý nước rỉ, thoát khí thải, sử dụng
công nghệ triệt tiêu thấm và lan truyền ô nhiễm vào đất, nước, hạn chế sự phát triển của các sinh vật
và côn trùng gây bệnh.

Quản lý, sử dụng hợp lý các loại phân bón và hoá chất sử dụng trong nông nghiệp. Phân hữu cơ phải
được xử lý trước khi bón vào đất ví dụ như ủ phân diệt vi sinh vật, vi khuẩn gây bệnh trước khi khi sử
dụng trong nông nghiệp.

Khi đất đã bị ô nhiễm cần được xử lý làm sạch đất bằng các công nghệ thích hợp.

CHƯƠNG 7:
7.1. CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG TOÀN CẦU
7.1.1. Lan truyền ở nhiễm qua biên giới, ô nhiễm không khí, mưa axit
NO, và SO, là thủ phạm chính gây mưa axit và lắng đọng axit khô, làm tổn hại các hệ sinh
thái. Theo Ngân hàng Thế giới, năm 1991, trung bình mỗi người phát thải CO, vào khí quyển
là 4,21 tấn; trong đó châu Á là 2,11 tấn, Bắc và Trung Mỹ 13,5 tấn, châu Âu 8,2 tấn. Tổng
lượng phát thải metan CH4 , do các hoạt động của con người là 250 triệu tấn/năm. Trong đó,
riêng châu Á là 120 triệu tấn, châu Âu 297 triệu tấn, Bắc và Trung Mỹ 36 triệu tấn. Tổng
lượng phát thải CFC là 400 nghìn tấn, trong đó châu Á là 100 nghìn tấn, châu Âu 120 nghìn
tấn, Bắc và Trung Mỹ 100 nghìn tấn. Tại Trung Quốc, các nhà máy thái 70% tổng chất gây ô
nhiễm môi trường, bao gồm 70% ô nhiễm hữu cơ các nguồn nước, 72% phát thải SO, 75%
muội khói và phần lớn các loại bụi lắng đọng.
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã ghi nhận sự lan truyền tự nhiên theo phương ngang và
phương thẳng đứng, theo các hoàn lưu khí quyển đã đem ô nhiễm môi trường ra xa khu vực
phát thải. Mưa axit ở Canada là do phát thải công nghiệp từ Mỹ. Tại Bắc Mỹ và châu Âu, mưa
axit đã gây thiệt hại khoảng 24% rừng cây lá kim và 18% rừng cây lá rộng.
7.1.2. Chất thải độc hại tăng và bị xuất khẩu qua biên giới
Hiện tượng xuất khẩu chất thải độc hại sang các nước đang phát triển để xử lý, hoặc sử dụng
như là những nguồn nguyên liệu rẻ tiền đang diễn ra khá phổ biến trên thế giới. Nguyên nhân
chính là do việc xử lý tại chỗ các chất thải này rất tốn kém, cơ chế mở của kinh tế thị trường
và luật môi trường tại nhiều quốc gia đang phát triển còn lỏng lẻo hoặc kém hiệu lực. Việc
xuất khẩu chất thải độc hại vào các nước đang phát triển thường dưới dạng những hợp đồng và
chuyển giao bất hợp pháp thông qua các Công ty tư nhân cũng như chính phủ của các nước
nghèo. Từ 1986-1991 có 175 triệu tấn chất thải độc hại đã được chào hàng trên thị trường thế
giới, đặc biệt là ở các nước vùng Caribean, Trung và Nam Phi. Các quốc gia phát triển thường
biện hộ rằng họ đã trả một khoản tiền nhất định cho những nước nhập khẩu, tuy nhiên số tiền
phải trả này ít hơn nhiều so với mức chi phí cho cất giữ, xử lý và thải bỏ tại chính nước mình.
Ví dụ các công ty Mỹ đã trả cho Guinea 40 USD/tấn chất thải công nghiệp độc hại, thay vì
phải chi 1000 USD/tấn để đáp ứng được các quy định nghiêm ngặt của chính phủ mình.
Nigieria đang có khoảng 3800 tấn chất thải hoá học từ châu Âu được nhập với mức phí 100
USD mỗi tấn, trong khi chi phí cho việc đổ chất thải này ở châu Âu là 380-1750 USD/tấn.
Sự tiến bộ nhanh chóng của ngành công nghệ thông tin làm cho các máy tính nhanh chóng trở
nên lạc hậu, tạo ra cơn ác mộng cho quản lý rác thải. Rác thải máy tính chứa nhiều chất độc
hại như chì, thủy ngân, cadimi, asen và chất cháy chậm. Ước tính sẽ có khoảng 250 triệu máy
tính bị thải ra trong 5 năm tới. Riêng ở Mỹ, các thiết bị điện tử trọn bộ, gồm cả tivi và máy
tính cá nhân tạo ra 2 triệu tấn rác/năm. Mỹ đã xuất một phần đáng kể lượng rác này sang
Trung Quốc, Pakistan và Ấn Độ. Sự an toàn của những loại chất thải này không chỉ là những
thách thức về mặt công nghệ mà còn có thể liên quan tới chính trị. Các nước đang phát triển
còn khó khăn hơn rất nhiều so với các nước công nghiệp trong việc giải quyết các chất thải
độc hại - kể cả về nhận thức cũng như về công nghệ. Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc
(UNEP) đã đưa ra một danh sách gồm 44 chất được coi là độc hại và khuyến nghị đối với các
nước nhập khẩu nên đưa ra bằng chứng về khả năng giải quyết chất thải đặc thù đối với việc
trao đổi mua bán.
7.1.3. Biến đổi khí hậu toàn cầu
- Nhiệt độ Trái đất thế kỷ XX đã tăng khoảng 0,5°C và có thể tăng 1,5 - 6°C vào cuối thế kỷ
XXI. Sự nóng lên toàn cầu làm thay đổi chế độ thời tiết khó lường như băng tan mạnh và mực
nước biển sẽ dâng cao khoảng 15 - 95 cm so với hiện nay, gây xói lở bờ và chìm ngập vùng
đất thấp ven biển, làm cho 75% các thành phố ven biển bị ngập lụt. Dịch bệnh tăng lên do
nóng, ẩm, các bệnh nhiệt đới lan toả về phía các vùng vĩ độ cao.
Sự tăng nhiệt độ không xảy ra đồng đều trên Trái đất. Ở các vùng vĩ độ cao, nhiệt độ có thể
tăng 6°C, trong khi lân cận xích đạo, nhiệt độ chỉ tăng khoảng 2°C. Điều đó dẫn đến biến động
bất thường các hoàn lưu khí quyển, thay đổi quy luật hình thành khí hậu thời tiết, cường độ và
tần suất của các hiện tượng bão lụt, hạn hán gia tăng, mưa lụt gia tăng ở vùng ven biển trong
khi sa mạc hóa tăng cường ở những vùng nằm sâu trong lục địa.
Thế giới đã thống nhất hành động trong Công ước khung về biến đổi khí hậu toàn cầu 1992
(168 nước và Liên minh châu Âu phê chuẩn). Trong Nghị định thư Kyoto 1997, các quốc gia
phát triển cam kết đến 2010 sẽ giảm phát xả khí nhà kính xuống 5 - 8% để đạt mức thải trước
năm 1990. Mỹ chấp nhận cắt giảm 5%, nhưng sau đó họ lại cho rằng mục tiêu giảm phát xả
khí nhà kính mang tính tự nguyện và do chưa có đủ căn cứ khoa học về nguyên nhân gây biến
đổi khí hậu toàn cầu, chưa cần thiết phải làm đảo lộn nền kinh tế bằng việc giảm phát thải CO,
nên họ đã rút khỏi Nghị định thư Kyoto.
El Nino (SGK/203)
7.1.4. Suy giảm tầng ozon
Có khoảng 90% lượng Ozon khí quyển tập trung ở tầng bình lưu, trong khoảng 16 - 40 km tuỳ
thuộc vĩ độ, dày đặc nhất tại độ cao 19 - 23 km. Ozon bình lưu được tạo ra chịu ảnh hưởng của
bức xạ cực tím (UV), nên có nồng độ biến động trùng pha với chu kỳ vết đen Mặt trời, với
mức dao | đóng khoảng 1- 2%. Ozon bình lưu hình thành quanh năm ở vùng xích đạo và di
chuyển về phía các cực nhờ chuyển động của không khí. Ozon hấp thụ mạnh tia cực tím, làm
nhiệt độ không khí trong tầng này tăng lên, đồng thời ngăn cản các tia tử ngoại, bảo vệ đời
sống của các sinh vật trên Trái đất.
Trong tầng Ozon, nồng độ trung bình là 300 Dobson, khi nồng độ Ozon giảm xuống dưới 220
Dobson thì được xem là tầng ozon bị thủng. Hiện tượng tầng ozon bình lưu mỏng đi (thủng) ở
hai cực, được phát hiện lần đầu năm 1981. Năm 1991 đã phát hiện lỗ thủng tầng ozon Nam
Cực rộng 24 triệu km, năm 2000 lỗ thủng này đã tăng lên gấp rưỡi. Theo dự | báo của các nhà
khoa học thì đến năm 2030 tầng ozon sẽ bị suy thoái khoảng 6,5% trên phạm vi toàn cầu, và
16% ở khu vực từ vĩ độ 60 trở lên.
Những chất cơ bản làm tăng cường quá trình phá huỷ tầng ozon là: 1- CFC, trên tầng bình lưu,
khi bị tác động bức xạ cao CFC sẽ giải phóng Cl. Mỗi nguyên tử Cl tự do thoát ra từ một phân
tử CFC có thể phá huỷ 100.000 phân tử ozon; 2- Chất thải của máy bay siêu âm, chất tẩy rửa,
halon chống cháy, metylbromua (CH3Br) dùng làm chất diệt khuẩn, bảo quản thực phẩm, phụ
gia trong nhiên liệu vận chuyển... Br giải phóng ra | từ CH3Br có khả năng phá huỷ ozon cao
gấp 30 - 60 lần clo.
Nồng độ tầng ozon giảm 1% sẽ làm tăng bức xạ cực tím chiếu xuống mặt đất 2%, có khả năng
làm cho 100.000 - 150.000 người bị mù loà; 2% dân số thế giới bị ung thư ác tính, trong đó
0,2 - 0,3% chết tức khắc, ung thư da không sắc tố tăng thêm 300.000 ca/năm, đục thuỷ tinh thể
tăng 1,7 triệu ca/năm; ức chế hệ thống miễn dịch ở người và sự sinh trưởng của thực vật (hạn
chế quang hợp), làm giảm sức đề kháng, giảm hiệu quả tiêm chủng, phá huỷ AND, huỷ diệt
con non và các quần thể sinh vật nổi; giảm thực vật phù du biển, từ đó làm giảm lượng hải
sản; Tăng nhiệt độ trung bình Trái đất.
Để hạn chế các hệ quả xấu trên, thế giới đã ký kết Công ước Viên về bảo vệ tầng ozon và Nghị
định thư Montreal về các chất phá hoại tầng ozon. Những tiến bộ trong việc thực hiện các văn
bản luật pháp quốc tế này là rất đáng kể. Các nước công nghiệp đã loại bỏ việc sản xuất và tiêu
thụ khí halon, một trong những chất phá huỷ ozon mạnh nhất, vào ngày 1/1/1994. Mức tiêu
thụ CFC ở các nước công nghiệp giảm từ gần 1 triệu tấn năm 1987 xuống khoảng 13 nghìn tấn
năm 1996. Quỹ đa phương thực hiện Nghị định thư Montreal đã cấp 365 triệu USD (tính đến
1997) cho các nước đang phát triển để chuyển sang công nghệ an toàn về ozon.
7.1.5. Ô nhiễm nước, ô nhiễm biển và đại dương
Tài nguyên nước ngọt đang bị ô nhiễm và khai thác cạn kiệt. Các biển và đại dương ngày càng
bị ô nhiễm, sự suy thoái của các hệ sinh thái ven biển ngày càng trầm trọng. Đây là những
vùng sinh thái nhạy cảm với mức độ ô nhiễm và dễ bị tổn thương. Ngày nay, các hoạt động
thăm dò khai thác tài nguyên biển, đặc biệt là khai thác dầu khí, vận chuyển hàng hoá trên
biển, đều có ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố môi trường biển. Ngoài ra các hoạt động sản
xuất của con người trên đất liền gây ô nhiễm không khí, ô nhiễm các dòng sông, làm tăng
cường lượng chất thải đưa ra biển cũng tác động xấu tới môi trường và hệ sinh thái biển, đại
dương. Ở Việt Nam, theo thống kê của Cục Môi trường thì chỉ tính từ năm 1989 đến nay đã có
khoảng 20 vụ tràn dầu lớn nhỏ được ghi nhận. Điển hình như sự cố tràn dầu ở vịnh Quy Nhơn
ngày 10/8/1989 với số lượng hơn 200 tấn dầu FO, ở Bạch Hổ ngày 26/1/1992 với số lượng
300700 tấn dầu thô gây ô nhiễm một vùng biển rộng lớn. Thủ phạm gây ra các sự cố tràn dầu
đã đền bù trên 4 triệu USD nhưng vẫn chưa đủ để khắc phục các sự cố môi trường gây ra, do
thiệt hại về môi trường và kinh tế ước tính lên đến hàng trăm tỷ đồng. Hàng năm có khoảng
200 triệu tấn dầu thô của các nước được vận chuyển qua vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế
của Việt Nam đến Nhật Bản và Hàn Quốc, gây nguy cơ ô nhiễm môi trường biển rất lớn.
Phát tán tự nhiên chất gây ô nhiễm còn xảy ra theo hướng dòng chảy và tập trung tới đích cuối
cùng là biển và đại dương. Hệ quả nặng nề nhất là nó gây ra các hiện tượng thuỷ triều đỏ
(bùng phát tảo độc hại), thuỷ triều đen (tràn dầu) trên biển và đại dương, tăng độ phóng xạ của
nước biển do đổ chất thải hạt nhân và tai nạn tàu ngầm hạt nhân trong suốt thế kỷ qua.
7.1.6. Giảm đa dạng sinh học và suy thoái tài nguyên rừng
Sinh vật trên Trái đất hiện nay đã trải qua lịch sử tiến hoá lâu dài và duy trì một trạng thái cân
bằng tự nhiên. Chúng đang góp phần tích cực vào làm ổn định Trái đất, ổn định khí hậu, làm
sạch các nguồn nước, hạn chế xói mòn và duy trì độ phì nhiêu của đất. Các loài sinh vật khác
nhau tham gia vào những bậc dinh dưỡng khác nhau trong hệ sinh thái, khép kín các chu trình
sinh địa hóa trên phạm vi toàn cầu tạo nên sự ổn định và bền vững của sinh quyển.
Ngày nay, do hoạt động của con người như săn bắt, huỷ hoại nơi cư trú, thu hẹp diện tích
rừng, gây ô nhiễm môi trường đã đe doạ trực tiếp đến đời sống của các loài sinh vật hoang dã,
làm cho nhiều loài bị suy giảm số lượng và nhiều loài bị tuyệt chủng. Những nghiên cứu về đa
dạng sinh học cho thấy sự diệt chủng các loài chim và thú trong khoảng thời gian 1600 - 1950
có liên quan đến sự phát triển sản xuất công nghiệp và tăng dân số. Từ năm 1600 trước Công
nguyên đến năm 1900, trung bình 4 năm mất 1 loài; 1900 - 1980 mỗi năm mất 1 loài; 1980 -
2000 mỗi ngày mất 1 loài. Dự báo từ 2001 đến 2010 thì 1 giờ mất 1 loài. Trong thế kỷ XX, đã
có khoảng 700 loài động thực vật bị tiêu diệt. Nhiều loài bị tuyệt chủng khi còn chưa được con
người biết đến. Ước đoán đa dạng sinh học đã giảm 1/10 đến 1/5, và với tốc độ như hiện nay
thì khoảng 25% loài sinh vật trên Trái đất sẽ tuyệt chủng trong vài thập kỷ tới.
Suy thoái đa dạng sinh học khiến cho loài người mất dần các nguồn tài nguyên quý giá (lương
thực, thực phẩm, dược liệu, nguyên vật liệu, gen, tiện nghi môi trường) đồng thời phải chống
chịu với các tai biến sinh thái ngày càng gia tăng (dịch bệnh gia súc, dịch hại cây trồng...) do
mất cân bằng sinh thái.
Suy thoái đa dạng sinh học trước hết là do khai thác tài nguyên sinh học quá mức. Sau đó là do
việc chuyển đổi các khu vực hoang dã sang vùng nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc
biến thành vùng trơ trụi, làm mất dần nơi cư trú của các loài sinh vật. Ngày nay, ô nhiễm môi
trường cũng đang trở thành nguy cơ trực tiếp làm suy giảm đa dạng sinh học trên Trái đất.
7.1.7. Suy giảm đa dạng văn hoá và nảy sinh các vấn đề xã hội cấp bách
Nghèo đói, thất nghiệp, cách biệt về mức sống và thu nhập ngày càng tăng là nguyên nhân sâu
sắc gây bất ổn xã hội, chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, chính sách bá quyền, lũng đoạn kinh tế,
chính trị thế giới của một số cường quốc, gây nguy cơ khủng hoảng kinh tế trong phạm vi khu
vực và thế giới.
Đa dạng văn hoá là tổng thể các sản phẩm chắt lọc, tinh túy của mỗi cộng đồng trong mọi lĩnh
vực sản xuất và đời sống, đã qua sự chọn phù hợp với điều kiện môi trường và tài nguyên đã
nuôi dưỡng nó. Tính ưu việt, tích cực của văn hoá được phản chiếu qua tình trạng môi trường,
tài nguyên và xã hội địa phương, được chính cộng đồng địa phương thông hiểu và phát huy.
Kinh tế tăng trưởng nhanh, thông thương văn hoá mạnh mẽ và sự du nhập lối sống dẫn đến
nguy cơ mai một các di sản văn hoá, đặc biệt là các giá trị văn hoá địa phương, đơn giản hoá
các nền văn hoá, đồng nhất hoá các giá trị và tiêu chuẩn, tha hoá đạo đức, đe dọa làm cạn kiệt
khả năng sáng tạo của các nền văn hoá bản địa.
Nguyên tắc chung bảo vệ đa dạng văn hoá là: Tôn trọng, bảo vệ và phát huy tất cả các di
sản văn hoá vật chất và tinh thần, Bình đẳng với mọi nền văn hoá, không phân biệt giàu hay
nghèo, lạc hậu hay tiên tiến; Tiếp thu tinh tuý của các nền văn hoá khác một cách có chọn lọc;
Hội nhập với phát triển, là nội dung, động lực và mục tiêu của phát triển.

7.2.QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SGK/208


VÀI NÉT VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRÊN THẾ GIỚI

Lịch sử đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng hệ sinh thái nông nghiệp quy mô khác nhau. Tuy
nhiên, vấn đề môi trường chỉ thực sự xuất hiện và gia tăng mạnh mẽ kể từ cách mạng công nghiệp đến
nay, gây nhiều hệ quả nghiêm trọng, buộc loài người phải có sự nhìn nhận đúng mức và đầu tư giải
quyết.

" Làm sạch thế giới " là một trong những hoạt động bảo vệ môi trường có tính chất toàn cầu, thu hút
khoảng 40 triệu người ở trên 120 nước tham gia với nỗ lực tạo sự chuyển biến thực sự đối với môi
trường của Trái Đất. Chiến dịch này được Ian Kiernan khởi xướng năm 1989, mở đầu bằng chiến dịch
làm sạch nước Úc.

Ngày nay, hoạt động này đã trở thành hoạt động quốc tế nhằm liên kết mọi người trên khắp thế giới
trong công tác làm sạch môi trường. Chiến dịch được tổ chức vào tháng 9 hằng năm, được điều hành
bởi Uỷ ban Làm sạch thế giới và UNEP.

Hội nghị Quốc tế về Môi trường và con người lần đầu tiên của Liên Hợp Quốc họp 1972 tại
Stockholm, Thụy Điển với sự tham gia của 113 nước. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố nhấn mạnh
những nguy cơ của các vấn đề tài nguyên, dân số, môi trường và kêu gọi: Bảo vệ và cải thiện môi
trường là một vấn đề có ảnh hưởng tới phúc lợi của mọi dân tộc và phát triển kinh tế toàn thế giới, là
nhiệm vụ của mọi Chính phủ.

Để ghi nhớ sự kiện quan trọng này, Liên Hợp Quốc đã lấy ngày khai mạc Hội nghị Stockholm
5/6/1972 là Ngày Môi trường Thế giới UNEP (United Nations Environment Program).

Sau hội nghị này, hàng loạt các điều ước quốc tế về môi trường đã được ký kết với phạm vi quan tâm
mở rộng dần, từ xử lý ô nhiễm qua biên giới đến xử lý ô nhiễm toàn cầu, từ bảo tồn loài cụ thể đến
bảo tồn toàn hệ sinh thái, từ quy định về kiểm soát nguồn thải trực tiếp đến quy chế quản lý toàn diện
cả hệ thống tự nhiên, môi trường.

7.2.2. Cơ sở khoa học của công tác bảo vệ môi trường


Hệ thống tự nhiên có tính thống nhất và có quy luật mà trí tuệ con người đã và đang khám phá,
phát hiện. Chúng ta cho rằng loài người hoàn toàn có thể khai thác tài nguyên môi trường tốt
hơn trên cơ sở: 1- Hiểu biết và vận dụng các nguyên lý sinh thái, quy luật tự nhiên để khai thác
tối ưu và bảo vệ tài nguyên; 2- Hiểu biết đầy đủ nguyên nhân gây nên các vấn đề môi trường
để ứng xử hợp lý phòng tránh, hạn chế rủi ro, khắc phục hậu quả của tai biến thiên nhiên; 3-
Hiểu và vận dụng một cách khoa học lý thuyết hệ thống.
Cơ sở triết học - xã hội truyền thống của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên cung cấp
thông tin về: 1- Sự phụ thuộc của con người và tự nhiên vào trình độ phát triển của xã hội; 2-
Vai trò điều khiển có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên; 3- Giá trị của đa dạng
văn hóa trong phát triển. Trên cơ sở đó cần bảo vệ và phát huy vai trò của đa dạng văn hóa
trong phát triển; Phát huy bài học truyền thống về chung sống hoà bình, cùng tồn tại với thiên
nhiên và nâng cao hiệu quả của tổ chức xã hội các cấp trong điều chỉnh hành vi, lựa chọn phát
triển bền vững.
Cơ sở khoa học Công nghệ phát triển cung ứng khả năng giải quyết các vấn đề môi
trường bằng: công nghệ sạch, Công nghệ xử lý chất Ô nhiễm, Công nghệ tiết kiệm, Công
nghệ thay thế... Như uranium, mãi cho tới khi phản ứng phân hạch hạt nhân được phát minh
ra mới trở thành một nguồn năng lượng. Công nghệ có thể giúp khai thác các nguồn tài
nguyên truyền thống rất khó tiếp cận. Công nghệ có thể giảm lượng nguyên liệu và năng
lượng sản xuất và tiêu dùng. Công nghệ sinh học trong nông nghiệp hứa hẹn sẽ loại trừ
nạn đói. Các "công nghệ sạch" đã và đang được phát triển góp phần ngăn chặn giảm
thiểu ô nhiễm môi trường.
Nguyên tắc chung để giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường là phải hành động thống nhất,
hành động kịp thời và hành động có cơ sở khoa học. Để có thể tạo ra các hành động thống nhất
và kịp thời, cần phải: thiết lập và phổ biến hệ thống nguyên tắc đạo đức thân môi trường, vì
môi trường; xây dựng hệ thống văn bản pháp luật và tổ chức, thiết lập cơ chế hoạt động hiệu
quả cho các cơ quan hành pháp, xây dựng tiêu chuẩn chất lượng môi trường; phát triển các
công cụ bảo vệ môi trường…
Các nguyên tắc đạo đức định hướng cho con người hành động tự giác và đúng đắn, còn các
văn bản luật pháp và hành pháp ràng buộc con người hành động theo một khuôn mẫu nhất
định. Sống và làm việc theo những nguyên tắc đạo đức trong sáng, theo hiến pháp và pháp luật
là lối sống không thể tự nhiên có được, mà phải thông qua công tác giáo dục, tổ chức, quản
lý... Giáo dục môi trường các cấp giúp hình thành đội ngũ cán bộ chuyên môn về môi trường,
thực hiện được các công tác bảo vệ môi trường; nâng cao nhận thức môi trường cộng đồng
giúp mỗi cá nhân, cộng đồng tự bảo vệ lấy môi trường của mình một cách tích cực, phù hợp,
khoa học và hiệu quả nhất.
Môi trường là một hệ thống thống nhất, cân bằng động nên việc khai thác, sử dụng và bảo vệ
môi trường phải tuân theo lý thuyết hệ thống và trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng các quy luật tự
nhiên. Giải quyết vấn đề môi trường trong một thành tố môi trường nào đó cần phải thực hiện
đồng bộ với các hoạt động bảo vệ môi trường trong các thành tố tự nhiên còn lại. Ví dụ như
nếu chỉ làm sạch môi trường nước thì các vật gây ô nhiễm không khí vẫn xâm nhập vào môi
trường nước, các quá trình biến động khí hậu toàn cầu vẫn gây nên các rủi ro cho môi trường
nước…
Để giải quyết vấn đề môi trường cần hành động đồng bộ trong nhiều | lĩnh vực khác nhau như:
kiểm soát dân số, xóa đói giảm nghèo, xóa mù chữ, hình thành lối sống mới thân môi trường,
sử dụng hàng hoá, tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, tránh lãng phí...; giảm xả thải, ứng xử hợp lý
với chất thải, xử lý chất thải, khắc phục ô nhiễm; sử dụng công nghệ sạch...
Những nỗ lực toàn cầu trong công tác bảo vệ môi trường giai đoạn gần đây đã đạt được kết
quả đáng kể, minh chứng cho khả năng của chúng ta, đồng thời tạo niềm tin cho nhân loại tiến
bộ vào một tương lai tươi sáng, phát triển và bền vững.
7.2.3. Công cụ quản lý môi trường
Quản lý môi trường là vấn đề lớn có liên quan đến cả lĩnh vực kinh | tế, xã hội và luật pháp
Nhà nước. Chính vì vậy, công cụ quản lý môi trường cũng bao gồm các công cụ thuộc các lĩnh
vực luật pháp chính sách, kinh tế và khoa học kỹ thuật. Tùy theo điều kiện cụ thể mà có thể áp
dụng một vài hay nhiều biện pháp tổng hợp nhằm đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý và
bảo vệ môi trường.
7.2.3.1. Công cụ luật pháp của quản lý môi trường - Luật pháp quốc tế
Luật pháp quốc tế là các văn kiện quốc tế được ký kết giữa các quốc gia một cách tự nguyện,
nhằm ấn định, sửa đổi, hoặc huỷ bỏ những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Quy định trong
các văn bản đó phải phù hợp với những nguyên tắc cơ bản được thừa nhận rộng rãi của luật
quốc tế hiện đại.
Hiến chương là điều ước quốc tế nhiều bên, ấn định những nguyên tắc lớn trong quan hệ giữa
các nước với nhau. Hiệp ước là văn kiện ấn định những vấn đề có ý nghĩa lớn về mặt chính trị
trong quan hệ giữa hai hay nhiều nước. Công ước là điều ước quốc tế có tính chuyên môn.
Hiến chương, hiệp ước, công ước thường đòi hỏi sự phê chuẩn của cơ quan có thẩm quyền của
mỗi nước, do người đứng đầu cơ quan phê chuẩn ký và đóng dấu của quốc gia trên cơ sở luật
pháp hiện hành.
Ngoài ra, còn có các văn bản luật pháp quốc tế khác như: Thoả ước là điều ước quốc tế có
tính chuyên môn trong một khu vực; Hiệp định là loại điều ước quốc tế ấn định những nguyên
tắc và những biện pháp hành chính nhằm giải quyết một quan hệ cụ thể nào đó giữa hai hay
nhiều nước; Nghị định thư là văn kiện dùng để giải thích bổ sung, sửa đổi một điều ước quốc
tế, hoặc để ấn định những biện pháp cụ thể thực hiện các hiệp ước, hiệp định đã được ký kết;
Tuyên bố chung là văn kiện ghi nhận những thoả thuận của hai hay nhiều nước về những
nguyên tắc hoặc phương hướng hành động chung đối với một vấn đề quốc tế nào đó.
- Luật và chính sách môi trường quốc gia
Luật và chính sách quản lý môi trường quốc gia là các quy tắc ứng xử môi trường do các cơ
quan Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, tạo ra khuôn mẫu ứng xử thống
nhất trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, đấu tranh chống các hành vi gây ô nhiễm, làm suy
thoái | hoặc huỷ hoại môi trường. Chúng đồng thời là cơ sở để xây dựng, hoàn thiện và nâng
cao hiệu lực cũng như hiệu quả của các hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực môi trường. Chính sách môi trường là những quy định của các cơ quan hành chính
quốc gia hoặc của các cộng đồng về lĩnh vực sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường
nhằm mục tiêu phát triển bền vững. Chính sách là sự cụ thể hoá luật và văn bản dưới luật.
Nguyên tắc chủ đạo của việc ban hành và thực thi chính sách môi trường là: 1- Hợp hiến, hợp
pháp, hệ thống và thống nhất; 2- Người gây ô nhiễm phải trả tiền; 3- Phòng bệnh hơn chữa
bệnh; 4- Hợp tác giữa các đối tác; 5- Sự tham gia của cộng đồng.
Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCNVN khoá XI, kỳ họp
thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ 1/7/2006 gồm 15 chương, 136 điểu.
Ngoài Luật BVMT, Việt Nam còn có các văn bản luật khác liên quan đến môi trường như:
Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân, luật bảo vệ và phát triển rừng, luật đất đai, luật dầu khí, luật
khoáng sản, luật tài nguyên nước, pháp lệnh về thu thuế tài nguyên, pháp lệnh bảo vệ đê điều,
pháp luật an toàn và kiểm soát bức xạ, pháp lệnh thú y, pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực
vật; các nghị định và văn bản dưới luật hướng dẫn công tác thực thi bảo vệ môi trường khác.
7.2.3.2. Công cụ kinh tế bảo vệ môi trường: (SGK/217)
Thuế, Phí môi trường, Lệ phí môi trường, Phạt ô nhiễm, Côta thải (định mức thải thải cho
phép), Ký quỹ và hoàn trả, Nhãn sinh thái, Trợ cấp môi trường, Quỹ môi trường
7.2.4. Bộ tiêu chuẩn quốc tế ISO: SGK/219
Hiện nay có hai hệ thống :
- Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
- Hệ thống quản lý môi trường ISO 14000. Cả hai đều quản lý dựa trên quá trình chứ
không quản lý kết quả của quá trình.
ISO 9000 gồm năm tiêu chuẩn cụ thể (9000, 9001, 9003, 9004) trong đó có 03 tiêu chuẩn nói
về hệ thống quản lý chất lượng:
- ISO 9003 quy định tiêu chuẩn tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm xuất chế tạo sản phẩm
cuối cùng;
- ISO 9002 thêm phần quy định về tiêu chuẩn quản lý sản xuất chế tạo sản phẩm (hay cung
ứng sản phẩm dịch vụ)
- ISO 9001 thêm phần quy định về thiết kế và dịch vụ sau bán hàng.
ISO 14000 là tập hợp các công cụ quản lý, các nguyên tắc và quy trình mà một tổ chức có thể
sử dụng để góp phần bảo vệ sức khoẻ con người và môi trường tránh khỏi những tác động
tiềm tàng do hoạt động, sản phẩm và dịch vụ của tổ chức đó gây ra.
ISO 14000 tạo ra những lợi ích căn bản sau:
- Giúp tối ưu hoá hoạt động sản xuất, tăng hiệu suất sử dụng nguyên nhiên vật liệu, năng
lượng và các yếu tố đầu vào khác, kiểm soát tốt chi phí sản xuất và kinh doanh;
- Tăng khả năng tiếp cận thị trường quốc tế và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường,
tạo lợi thế đáng kể trong tiếp cận thị trường vốn;
- Cải thiện mối quan hệ với cộng đồng địa phương và các đối tác liên quan thông qua trao đổi
thông tin và hỗ trợ lẫn nhau;
- Tăng khả năng đáp ứng các yêu cầu luật pháp.
7.2.5. Quản lý môi trường: SGK/220
Chính sách môi trường: SGK/223
Là sự cụ thể hoá luật và văn bản dưới luật, gồm quy định của các cơ quan hành chính quốc gia
hoặc của các cộng đồng về lĩnh vực sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường nhằm mục
tiêu phát triển bền vững.
Nguyên tắc chủ đạo của chính môi trường:
- Hợp hiến, hợp pháp và thống nhất;
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền (chi phí cho các biện pháp khắc phục hệ quả ô nhiễm, làm
giảm ô nhiễm, đền bù thiệt hại do ô nhiễm);
- Phòng bệnh hơn chữa bệnh; Hợp tác giữa các đối tác; Sự tham gia của cộng đồng
Chiến lược môi trường: SGK/224
Chiến lược môi trường cấp quốc gia và địa phương được xây dựng trên cơ sở xác định được
các vấn đề, các hành động môi trường cần ưu tiên và đảm bảo thực thi thành công.
Quy hoạch môi trường: SGK/224
Quy hoạch môi trường nhằm mục tiêu điều hoà sự phát triển của 3 hệ thống môi trường – kinh
tế – xã hội, đảm bảo sự phát triển phù hợp với khả năng chịu tải của hệ thống tự nhiên, trong
khả năng giới hạn của hệ sinh thái, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường,
làm cho chất lượng cuộc sống ngày càng tốt hơn

7.3. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG


• “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại
đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các nhu cầu của họ”.
• Một cách diễn đạt khác: Phát triển bền vững là quá trình dàn xếp thỏa hiệp giữa các hệ thống
kinh tế, môi trường (tự nhiên) và xã hội
7.3.1. Khái niệm phát triển bền vững
Theo Uỷ ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển (1987) thì định nghĩa phát triển bền vững
được hiểu là sự phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu của các thế hệ con người đang sống, đồng
thời không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng các nhu cầu về tài nguyên và môi trường cho
các thế hệ mai sau. Đây là niềm hy vọng lớn lao của nhân loại.
Theo Viện quốc tế Môi trường và Phát triển (1995), phát triển bền vững là quá trình dàn xếp
thoả hiệp giữa các hệ thống kinh tế, tự nhiên và xã hội. Phát triển bền vững không loại trừ tăng
trưởng kinh tế, mà đòi hỏi phúc lợi kinh tế phải cân bằng với các phúc lợi sinh thái và phúc lợi
nhân văn. Phát triển bền vững là một quá trình xã hội - chính trị, là lĩnh vực liên ngành.
Phát triển kinh tế tạo ra các thặng dư và hiểu biết kỹ thuật trên cơ sở | bền vững và tự điều
chỉnh, trong đó có tăng trưởng kinh tế quốc gia, liên quan với cải thiện mặt bằng kinh tế cơ
bản, tăng GDP, GNP, tạo công ăn việc làm và sản xuất hàng hoá cho thương mại, tiêu thụ và
phát triển kinh tế toàn cầu, củng cố các mô hình thương mại và tài chính bền vững.
Phát triển nhân văn quan tâm đến: 1- Ổn định dân số, ổn định chính trị, chuyển chi phí quân sự
sang phát triển; 2- Tạo công bằng trong cơ hội tiếp cận tài nguyên và phát triển, thông qua
nâng cao tỷ lệ biết chữ, giảm chênh lệch thu nhập và tiếp cận y tế, cải thiện phúc lợi xã hội,
loại bỏ nghèo nàn tuyệt đối, giảm dần phân hoá giàu nghèo, bảo vệ đa dạng văn hoá và đầu tư
vào vốn con người; tạo công bằng giữa các dân tộc, cộng đồng trong quan hệ kinh tế và cơ hội
phát triển, hỗ trợ cộng đồng nghèo, Xoá dần ranh giới phân hoá giữa các khu vực kinh tế; 3-
Khuyến khích tham gia vào các quá trình lựa chọn, ra quyết định; 4- Tổ chức thể chế, cơ chế
luật pháp và hành pháp, thiết chế xã hội khác mang tính mềm mại và thích ứng, phục vụ các
nhiệm vụ và hiện thực hóa các mục tiêu trong mọi lĩnh vực.
Bảo vệ môi trường hướng tới sử dụng hợp lý, hiệu quả, giảm tiêu thụ tài nguyên, hạn chế suy
thoái, ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo tồn các hệ sinh thái có tầm
quan trọng đặc biệt, cải thiện chất lượng môi trường.
Khoa học công nghệ tạo cơ sở cho quá trình ra quyết định, là công cụ giúp các lĩnh vực trên
thực hiện mục tiêu, cung ứng công nghệ sản xuất sạch, công nghệ xử lý ô nhiễm, công nghệ
thay thế... Khoa học nghiên cứu, phát minh ra công nghệ. Công nghệ phát sinh và phát triển |
trên một nền tảng khoa học và tự nó cũng là một hình thức của tri thức khoa học. Công nghệ
mở ra nhiều sự lựa chọn khác nhau, cho phép mỗi đối tượng sử dụng tìm ra giải pháp cụ thể
nhất trong điều kiện kinh tế, văn hoá khác nhau, có tính tới các tập tục truyền thống, nhu cầu,
kỹ năng và chất lượng lao động địa phương.
Công nghệ mới có tác dụng: 1- Hỗ trợ khả năng khai thác hiệu quả tài nguyên, cho phép khai
thác và sử dụng một số dạng tài nguyên không phải là truyền thống, nhờ đó tăng lượng tài
nguyên sử dụng được và tạo ra thế cân bằng chính trị và kinh tế cao hơn (nhờ giảm độc
quyền); 2- Sản xuất vật liệu mới thay thế; 3- Giảm ảnh hưởng của năng lượng và nguyên vật
liệu lên giá trị cuối cùng của hàng hoá và dịch vụ công nghệ bằng cách tăng hàm lượng công
nghệ và các nguyên liệu phi vật chất.
CÁC NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Có 9 nguyên tắc để xây dựng một xã hội phát triển bền vững được đưa ra trong tài liệu “Hãy
cứu lấy Trái đất – chiến lược cho một cuộc sống bền vững” của UNEP (1991):
1. Tôn trọng và quan tâm đến đời sống cộng đồng
2. Cải thiện chất lượng cuộc sống con người
3. Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái Đất
4. Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm các nguồn tài nguyên không tái tạo
5. Giữ hoạt động trong khả năng chịu đựng được của Trái Đất 6. Thay đổi thái độ và hành vi
cá nhân
7. Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình
8. Đưa ra một khuôn mẫu quốc gia cho sự phát triển tổng hợp và bảo vệ
9. Xây dựng một khối liên minh toàn cầu.

7.3.2. Chỉ tiêu phát triển bền vững


Người ta thường đánh giá sự bền vững của sự phát triển của một Xã hội thông qua 3 mặt: Kinh
tế, xã hội và môi trường.
7.3.2.1. Bền vững về kinh tế: SGK/226+227
7.3.2.2. Bền vững về Xã hội: SGK/227+228+229
7.3.2.3, Bền vững về môi trường: SGK/ 229
CÁC TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng. Một
số nội dung cơ bản:
- Giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết kiệm và
thay đổi lối sống;
- Thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học và môi trường;
- Bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch vụ y tế và giáo dục;
- Xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; Năm là, công nghệ sạch và sinh thái hóa công nghiệp (tái
chế, tái sử dụng, giảm thải, tái tạo năng lượng đã sử dụng). Nền kinh tế được coi là bền vững
cần đạt được những yêu cầu sau:
- Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Các nước đang phát triển trong điều
kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm.
- Cơ cấu GDP cũng là tiêu chí đánh giá phát triển bền vững về kinh tế.
• Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới
có thể đạt được bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng
mọi giá.
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số
bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa.
Chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập
bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa,
văn minh.
Phát triển bền vững về xã hội gồm một số nội dung chính:
- Ổn định dân số, phát triển nông thôn để giảm sức ép di dân vào đô thị;
- Giảm thiểu tác động xấu của đô thị hóa đến môi trường;
- Nâng cao học vấn, xóa mù chữ;
- Bảo vệ đa dạng văn hóa;
- Bình đẳng giới, quan tâm tới nhu cầu và lợi ích giới;
- Tăng cường sự tham gia của công chúng vào các quá trình ra quyết định.
Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống; Một số nội dung cơ
bản:
- Sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo;
- Phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái; - Bảo vệ đa dạng sinh học, bảo
vệ tầng ozone;
- Kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính;
- Bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm;
- Giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và
khôi phục môi trường những khu vực ô nhiễm…
Hội nghị Liên Hợp Quốc về môi trường và phát triển năm 1992 tại Rio de Janiero
(Brazin) với sự tham gia của 172 quốc gia, 116 nguyên thủ quốc gia, 10.000 nhà môi trường
học và trên 9.000 nhà báo. Hội nghị chỉ rõ vấn đề môi trường không thể tách rời khỏi các vấn
đề chính trị, kinh tế và xã hội, công nhận rộng rãi khái niệm phát triển bền vững.
Hội nghị đã ký kết Công ước khung về biến đổi khí hậu toàn cầu và Công ước bảo vệ đa dạng
sinh học, thông qua Tuyên bố Rio, Tuyên bố các nguyên tắc về rừng và Chương trình hành
động thế kỷ XXI (Agenda 21).
Agenda 21 có 40 chương, với 4 nội dung chủ yếu là:
- Bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên cho phát triển, bảo vệ khí quyển, quản lý tốt tài
nguyên đất và các hệ sinh thái;
- Bảo tồn đa dạng sinh học;
- Quản lý tốt chất thải và hoá chất độc hại;
- Các vấn đề pháp lý và cơ chế pháp lý. Ước tính muốn thực hiện Chương trình này, hằng năm
các nước đang phát triển cần tới 561,5 tỷ USD, trong đó có 141,9 tỷ được tài trợ ưu đãi.
Tuyên bố Rio, với 27 nguyên tắc lớn:
- Khẳng định quyền phát triển của các quốc gia và công bằng giữa các thế hệ, xác định trách
nhiệm của các quốc gia đối với các hoạt động dẫn đến suy giảm môi trường toàn cầu, trong đó
cần dành ưu tiên đặc biệt cho các nước đang phát triển, quy định nghĩa vụ của các quốc gia
phải hợp tác để ngăn chặn lan truyền và vận chuyển chất ô nhiễm qua biên giới.
- Khẳng định phát triển bền vững là sự lựa chọn đúng đắn nhất, xoá bỏ nghèo nàn và giảm
khoảng cách giàu nghèo là cần thiết, phụ nữ và dân địa phương có vai trò trong các hoạt động
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, chiến tranh là sự huỷ diệt phát triển bền vững và các
quốc gia phải tôn trọng luật quốc tế cả trong thời kỳ xung đột vũ trang.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững đã họp tại
Johannesburg (Nam Phi).
Hội nghị đã thông qua Tuyên bố chính trị và Kế hoạch thực hiện. Tuyên bố tái khẳng định
giá trị của các văn kiện đã thông qua tại Rio, nhận định là các mục tiêu của Rio chưa đạt
được nhiều, và tổng kết các bài học, nguyên nhân thành công và thất bại trên con đường phát
triển bền vững.
Kế hoạch thực hiện đặt ra những chi tiêu định lượng và thời hạn thực hiện cho những vấn
đề chủ yếu như:
- Giảm 50% người nghèo và số người không được hưởng các quyền lợi về nước sạch, vệ sinh
môi trường vào 2015;
- Ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học vào 2010;
- Phục hồi trữ lượng nguồn thuỷ sản đại dương vào 2015;
- Tỷ lệ sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo đạt 15% vào 2010;
- Phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2015.
7.3.3. Nguyên tắc đạo đức của phát triển bền vững:
7.3.3.1. Nguyên tắc RIO-92
- Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng
- Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái Đất, khai thác không quá khả năng phục hồi của
chúng trong tự nhiên
- Thay đổi tập quán và thói quen cá nhân theo hướng sử dụng một cách hợp lý và tiết kiệm tài
nguyên
- Tạo ra một khuôn mẫu Quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc liên kết tất cả các quốc gia
và các vùng trên thế giới, định hướng phát triển và bảo vệ môi trường.
- Xây dựng khối liên minh toàn cầu, hành động thông qua luật pháp quốc tế để bảo vệ môi
trường, bảo đảm phát triển bền vững.
7.3.4. Những thách thức đối với phát triển bền vững: SGK/230+231

7.4. BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
7.4.1.NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG CẤP BÁCH Ở VIỆT NAM SGK/232
Những vấn đề môi trường cấp bách của Việt Nam, đã được trình bày trong báo cáo tại Hội
nghị Rio de Janeiro 1992, bao gồm:
- Nguy cơ mất rừng và tài nguyên rừng quy mô toàn quốc, nhiều nơi mất rừng và suy thoái tài
nguyên rừng xảy ra nghiêm trọng;
- Suy giảm nhanh chất lượng đất và bình quân diện tích đất canh tác theo đầu người, tài
nguyên đất bị sử dụng lãng phí;
- Tài nguyên biển, đặc biệt là tài nguyên sinh vật vùng ven bờ, đang bị suy giảm nhanh, môi
trường biển bắt đầu bị ô nhiễm;
- Sử dụng không hợp lý dẫn đến làm cạn kiệt tài nguyên nước, tài nguyên sinh học (đa dạng
sinh học), tài nguyên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác;
- Ô nhiễm môi trường trước hết là nước, không khí và đất đã xuất hiện ở nhiều nơi;
- Hậu quả lâu dài của chiến tranh, đặc biệt là chất độc hoá học chưa được khắc phục
- Dân số vẫn gia tăng nhanh;
- Cơ sở vật chất, khoa học kỹ thuật, luật pháp và đội ngũ cán bộ khoa học kỹ chuật về môi
trường còn thiếu.
Trong các vấn đề môi trường nói trên có 3 vấn để nổi bật trong giai đoạn hiện nay:
- Gia tăng ô nhiễm ở các khu công nghiệp, đô thị và vùng nông nghiệp thâm canh cao;
- Các nguồn tài nguyên thiên nhiên được huy động mạnh mẽ cho phát triển kinh tế;
- Đô thị hoá nhanh, di cư không có tổ chức dẫn đến phá rừng và gây ảnh hưởng xấu đến môi
trường.
7.4.2. BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
-Quan điểm cơ bản trong kế hoạch bảo vệ môi trường của Việt Nam là phải bảo đảm sự cân
đối giữa khai thác sử dụng tài nguyên phát triển kinh tế – xã hội, dân số và các vấn đề môi
trường. Từ 1985 Việt Nam chủ trương đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, sử dụng hơp lý tài
nguyên và bảo vệ môi trường.
-Luật Bảo vệ Môi trường được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 và được Chủ
tịch nước ký ban hành tháng 1/1994. Luật Bảo vệ Môi trường và các văn bản dưới luật đã đưa
ra khuôn khổ pháp lý về phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục ô nhiễm môi trường, suy thoái
môi trường cũng như các sự cố môi trường.
- Mục tiêu của công tác bảo vệ môi trường : Không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường,
nâng cao chất lượng cuộc sống và sức khỏe nhân dân, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất
nước.
Giải pháp cho công tác bảo vệ môi trường:
- Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và phong trào quần
chúng tham gia bảo vệ môi trường.
- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Chủ động phòng chống ô nhiễm và sự cố môi trường, khắc phục tình trạng suy thoái môi
trường. Khai thác và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học.
- Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường.
- Tăng cường hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. - Đẩy mạnh
nghiên cứu khoa học và công nghệ, đào tạo chuyên gia về lĩnh vực môi trường.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường.
Mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững ở nước ta :
- Duy trì các quá trình sinh thái quan trọng, các hệ sinh thái làm cơ sở cho cuộc sống và hoạt
động sản xuất của con người; Bảo đảm tính đa dạng sinh học kể các loài cây trồng, vật nuôi vì
lợi ích trước mắt cũng như lâu dài.
- Đảm bảo việc sử dụng lâu bền tài nguyên thiên nhiên bằng việc quản lý cả về quy mô, cường
độ và phương thức sử dụng.
- Bảo đảm chất lượng môi trường cần thiết cho cuộc sống tốt đẹp của con người.
- Thực hiện kế hoạch hoá tăng trưởng và phân bố dân số cho cân bằng với một năng suất sản
xuất bền lâu cần thiết cho cuộc sống với chất lượng tốt cho con người.
Theo luật Bảo vệ Môi trường Việt Nam 2020 Link tham khảo: https://luatvietnam.vn/tai-
nguyen/luat-bao-ve-moi-truong-2020-195564-d1.html Việt Nam hiện là thành viên của hai
Hiệp định - Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA). Hai Hiệp định này có nhiều
điều khoản liên quan đến tài nguyên và môi trường mà Việt Nam cần tuân thủ. Để triển khai
hai Hiệp định này, Bộ Tài nguyên & Môi trường đã đưa ra kế hoạch nhằm hoàn thiện chính
sách pháp luật và tăng cường tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Kế hoạch hoàn thiện chính sách phù hợp với hai Hiệp định, gồm: Nội luật hóa các cam kết,
nghĩa vụ trong hai Hiệp định; Rà soát, đề xuất Sửa đổi Luật Đa dạng sinh học; Xây dựng chính
sách, pháp luật thúc đẩy thương mại, đầu tư...; Hoàn thiện Luật Bảo vệ môi trường và các văn
bản quy phạm khác; Hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường; Đánh giá tác
động 2 Hiệp định và đề xuất sửa đổi chính sách.
Các nội dung tài nguyên môi trường nhằm thực thi hai Hiệp định như sau:
● Hiệp định CPTPP:
- Bảo vệ tầng ô zôn: Hợp tác trong kiểm soát chất làm suy giảm tầng ô zôn; năng lượng sạch;
giao thông bền vững; chống suy thoái rừng...
- Đa dạng sinh học: Bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học; kiểm soát, loại trừ các
sinh vật ngoại lai xâm lấn...
- Môi trường biển: Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường từ tàu biển, đánh bắt hải sản quá mức, bảo
tồn dài hạn các loài cá mập, rùa biển, chim biển...
- Dịch vụ môi trường: Các quốc gia cố gắng giải quyết bất kỳ rào cản tiềm tàng nào đối với
thương mại hàng hóa và dịch vụ môi trường.
● Hiệp định EVFTA:
- Biến đổi khí hậu: Hợp tác thúc đẩy thị trường các-bon; tăng cường tiết kiệm năng lượng,
công nghệ giảm phát thải và năng lượng tái tạo;
- Đa dạng sinh học: Thúc đẩy thương mại hàng hóa, lâm sản bền vững, tiến tới loại bỏ buôn
bán gỗ trái phép; trao đổi thông tin chiến lược bảo tồn đa dạng sinh học;
- Quản lý biển: Tuân thủ Công ước về Luật Biển; đấu tranh chống lại việc đánh bắt cá bất hợp
pháp (IUU), phát triển ngành nuôi trồng thủy sản bền vững;
- Đầu tư hướng đến phát triển bền vững: Thúc đẩy thương mại và đầu tư liên quan đến giảm
thiểu biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng.
Những thách thức đối với Việt Nam trong phát triển bền vững:
- Hoạt động khai thác khoáng sản ở nhiều địa phương thiếu sự quản lý chặt chẽ làm gia tăng
các điểm nóng về ô nhiễm môi trường.
- Chất thải từ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân khu vực nông thôn không được
thu gom, xử lý đúng quy cách, hợp vệ sinh
- Nhiều làng nghề hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất đang gây ô nhiễm cao đối với môi
trường như tái chế nhựa, kim loại, ắc quy chì, chăn nuôi gia súc, sản xuất giấy…
- Tình trạng hạn hán, khô hạn và hoang mạc hóa do tác động cực đoan của thời tiết và biến
đổi khí hậu đang ngày càng trở nên nghiêm trọng
- Nước thải sinh hoạt ở hầu hết các đô thị, khu dân cư chưa được xử lý; rác thải sinh hoạt,
chất thải công nghiệp chưa được quản lý tốt, gây ô nhiễm môi trường
- Nguồn nước mặt, nước dưới đất trong các đô thị, khu dân cư ở một số địa phương bị ô
nhiễm nặng
- Các khu vực ô nhiễm tồn lưu chậm được xử lý, cải tạo, phục hồi dẫn đến ô nhiễm nguồn
nước mặt, nước ngầm
- Diện tích các hệ sinh thái tự nhiên giảm mạnh, đa dạng sinh học tiếp tục bị suy thoái nhanh.
Những hoạt động bảo vệ môi trường được Nhà nước khuyến khích thực hiện
- Tuyên truyền, giáo dục và vận động mọi người tham gia bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh
môi trường, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học.
- Bảo vệ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
- Giảm thiểu, thu gom, tái chế và tái sử dụng chất thải. Phát triển, sử dụng năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo; giảm thiểu khí thải gây hiệu ứng nhà kính, phá huỷ tầng ozon.
- Đăng ký cơ sở đạt tiêu chuẩn môi trường, sản phẩm thân thiện với môi trường. Nghiên cứu
khoa học, chuyển giao, ứng dụng công nghệ xử lý, tái chế chất thải, công nghệ thân thiện với
môi trường.
- Đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất thiết bị, dụng cụ bảo vệ môi trường; sản xuất, kinh doanh
các sản phẩm thân thiện với môi trường; cung cấp dịch vụ bảo vệ môi trường.
- Bảo tồn và phát triển nguồn gen bản địa; lai tạo, nhập nội các nguồn gen có giá trị kinh tế và
có lợi cho môi trường.
- Xây dựng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, cơ quan, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
thân thiện với môi trường.
- Phát triển các hình thức tự quản và tổ chức hoạt động dịch vụ giữ gìn vệ sinh môi trường của
cộng đồng dân cư.
- Hình thành nếp sống, thói quen giữ gìn vệ sinh môi trường, xóa bỏ hủ tục gây hại đến môi
trường.
- Đóng góp kiến thức, công sức, tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường.
- Ngày nay con người đã nhận thức đúng đắn rằng, mọi vấn đề môi trường đều bắt nguồn từ sự
phát triển không đúng cách, không bền vững. Trung tâm của phát triển là phát triển con người,
do vậy phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế, mà điều quan trọng hơn là phát triển xã hội
công bằng và tiến bộ, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Vấn đề là
làm thế nào để con người vẫn tiếp
tục duy trì sự phát triển của mình, nhưng không được làm mất đi các chức năng cơ bản của
môi trường. Có như vậy mới có khả năng bảo đảm được sự phát triển bền vững cho nhân loại
- Sự thay đổi bất kỳ yếu tố nào trong công thức trên cũng đều dẫn tới thay đổi cường độ tác
động đến môi
trường. Lịch sử xã hội loài người là lịch sử không ngừng gia tăng dân số, tăng nhu cầu cá
nhân, tăng khả
năng khai thác, chế biến tài nguyên để đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của con người, do
vậy cường
độ tác động tới môi trường cũng không ngừng gia tăng.
- Từ công thức trên dễ dàng thấy ba xu thế cơ bản để kiểm soát vấn đề môi trường là:
- Kiểm soát gia tăng dân số;
- Giảm tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên;
- Cải tiến khoa học công nghệ để giảm tác động tới môi trường của việc khai thác tài
nguyên.

7.5. CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG/239


7.5.1. Nghèo đói và môi trường SGK/239
7.5.2. Tăng trưởng kinh tế và môi trường: SKG/243
7.5.3. Vị trí con người trong sinh quyển: SGK/244+245
7.5.4. Tác động con người tới sinh quyển: SGK/245->247
7.5.5. Ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái tới đời sống con người: SGK/248
7.5.6. Tác động con người đến môi trường: SGK/249->251

You might also like