Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 32

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA DƯỢC – BỘ MÔN HÓA DƯỢC

NGUYỄN TRƯỜNG GIANG

INDINAVIR
(FDA approve: 01.03.1996)

BÁO CÁO KẾT THÚC MÔN


TỔNG HỢP THUỐC THIẾT YẾU

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA DƯỢC – BỘ MÔN HÓA DƯỢC

INDINAVIR
(FDA approve: 01.03.1996)

BÁO CÁO KẾT THÚC MÔN

SẢN XUẤT NGUYÊN LIỆU HÓA DƯỢC

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Trường Giang

MSSV: 511176056

Lớp: DCQ.2017 – Chuyên ngành Khoa học Dược

Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2021


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG 3
DANH MỤC HÌNH 4
I. GIỚI THIỆU CHUNG 5
1. Tổng quan về bệnh HIV/AIDS 5
2. Tác nhân gây bệnh: Virus HIV 6
II. TỔNG QUAN VỀ NHÓM THUỐC 8
1. Sơ lược các nhóm thuốc điều trị HIV/AIDS 8
2. Sơ lược nhóm thuốc ức chế protease 9
3. Indinavir 10
3.1. Phân nhóm Indinavir 10
3.2. Lịch sử khám phá và phát triển thuốc Indinavir 11
III. TÊN KHOA HỌC 12
1. Tên IUPAC 12
2. Tên thông dụng (tên gốc): 12
3. Tên biệt dược: 12
4. Tên khác 12
IV. CÔNG THỨC 12
V. CƠ CHẾ TÁC ĐỘNG – LIÊN QUAN CẤU TRÚC VÀ TÁC DỤNG 13
1. Cơ chế tác động 13
2. Liên quan cấu trúc – tác dụng 14
VI. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHẾ 16
1. Quy trình tổng hợp đầu tiên của công ty Merck 16
2. Quy trình tổng hợp của Askin và cộng sự 19
3. Quy trình tổng hợp của Cheng và cộng sự 21
VII. TÍNH CHẤT LÝ – HÓA 22
1. Tính chất đã thử nghiệm 22
2. Tính chất dược động [13] 22
2.1. Hấp thu 22
2.2. Phân bố 22
2.3. Chuyển hóa 22
2.4. Thải trừ 22
VIII. KIỂM NGHIỆM 23
1. Tính chất 23
2. Định tính 23
3. Tạp chất liên quan 23
4. Ethanol 25

1
5. Kim loại nặng 26
6. Nước 26
7. Tro sulfat 26
8. Định lượng 26
9. Bảo quản 27
10. Loại thuốc 27
11. Chế phẩm 27
IX. CÔNG DỤNG – CÁCH DÙNG – ĐƯỜNG DÙNG 27
1. Công dụng và chỉ định 27
2. Cách dùng và đường dùng 27
3. Tác dụng không mong muốn (ADR) và chống chỉ định 27
3.1. Tác dụng không mong muốn (ADR) 27
3.2. Chống chỉ định 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

2
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Tính chất lý hóa đã thử nghiệm của Indinavir
Bảng 2. Chương trình gradient kiểm nghiệp tạp chất liên quan...............................24

3
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. Dịch tễ của HIV trên thế giới [2]
Hình 2. Cấu tạo virus HIV.........................................................................................7
Hình 3. Vòng đời của virus HIV [1]..........................................................................8
Hình 4. Chức năng phân cắt của protease đối với HIV gag-pol gen [11].................10
Hình 5. Mẫu lọ thuốc Indinavir dạng biệt dược CrixivanR.......................................10
Hình 6. Cấu trúc 2D Indinavir vẽ bằng ChemDraw.................................................12
Hình 7. Cấu trúc 3D Indinavir vẽ bằng Chem3D.....................................................13
Hình 8. Sơ đồ cấu trúc của một enzyme Protease HIV............................................14
Hình 9. Liên kết giữa một PI với vị trí hoạt động của Protease HIV.......................15
Hình 10. Liên hệ cấu trúc tác dụng Indinavir..........................................................15
Hình 11. Hướng tống hợp Indinavir của Merck.......................................................16
Hình 12. Qui trình tổng hợp mảnh ghép đầu của Merck..........................................16
Hình 13. Qui trình tổng hợp mảnh ghép thứ hai của Merck....................................17
Hình 14. Qui trình tổng hợp mảnh ghép thứ ba của Merck......................................18
Hình 15. Qui trình ghép các mảnh thành phần của Merck.......................................19
Hình 16. Hướng tổng hợp Indinavir của Askin và cộng sự......................................19
Hình 17. Qui trình tổng hợp Indinavir của Askin và cộng sự..................................20
Hình 18. Qui trình tổng hợp Indinavir của Cheng và cộng sự.................................21

4
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

I. Giới thiệu chung


1. Tổng quan về bệnh HIV/AIDS
Các nhà khoa học tin rằng HIV xuất phát từ một loại virus đặc biệt trên tinh tinh
châu Phi từ tận những năm 1930. Tuy nhiên phải đến tận 1981 khi mà tờ New York
Times lần đầu tiên công bố về một căn bệnh bí ẩn mà tới tận 1983 người ta mới xác
định nó do virus gây ra thì HIV mới được thực sự chú ý đến [1]. Từ đó hàng loạt
các nghiên cứu về HIV và Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS) ra đời
và dần làm sáng tỏ hơn về căn bệnh này. Sau đó WHO đã công nhận HIV/AIDS là
đại dịch và ngày 1/12 hàng năm được chọn làm Ngày thế giới phòng chống AIDS.
Về mặt triệu chứng:
Giai đoạn đầu khi vừa nhiễm virus HIV, bệnh nhân sẽ có các triệu chứng tương tự
như bệnh cảm cúm thông thường trong một thời gian ngắn. Sau đó, bệnh nhân sẽ
không có bất kì biểu hiện gì khác nên rất dễ bị bỏ xót. Khi bệnh chuyển sang giai
đoạn tiến triển, nó ngày càng làm cho bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch thông qua
việc phá hủy các tế bào lympho T-CD4, đại thực bào và tế bào tua gai – đều là các
loại tế bào có vai trò cực kì quan trọng với hệ miễn dịch của con người. Đó chính là
lúc các vi khuẩn cơ hội tấn công cũng như xuất hiện các khối u mà người có miễn
dịch bình thường khó có thể mắc phải.
Con đường lây nhiễm:
HIV/AIDS lây nhiễm qua 3 con đường chủ yếu là qua đường tình dục không an
toàn, qua máu (truyền máu, dùng chung bơm kim tiêm với người nhiễm bệnh) và từ
mẹ sang con (khi mang thai, khi sinh hoặc khi cho con bú).
Về mặt dịch tễ:
Tính tới hết năm 2020 thế giới có khoảng 1,5 triệu người mắc mới nâng tổng số ca
nhiễm kể từ khi WHO bắt đầu công bố đại dịch lên 79,3 triệu người. Trong đó số
người đang phải sống chung với HIV là khoảng 33,7 triệu người và số người chết
do HIV là khoảng 36,3 triệu người. Hiện nay có tới 28,2 triệu người được tiếp cận
với liệu pháp kháng virus [2].

5
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Hình 1. Dịch tễ của HIV trên thế giới [2]


Riêng tại Việt Nam theo báo cáo của Cục phòng, chống HIV - BYT trong năm 2020
đã có thêm tổng cộng 13955 ca nhiễm HIV mới, nâng tổng số người hiện mắc lên
213724 người. Số người chết vì HIV là 109466 người và hiện tại có khoảng 155793
người được tiếp cận với thuốc ARV [3].
2. Tác nhân gây bệnh: Virus HIV
HIV là thành viên của chi Lentivirus thuộc họ Retrovirus. Các loài Lentivirus có
nhiều điểm chung về hình thái và đặc tính sinh học. Chúng là những virus RNA có
vỏ ngoài, liên dương, sợi đơn. Khi xâm nhập tế bào mục tiêu, bộ gen RNA virus
biến đổi thành DNA sợi kép bởi một enzyme mã hóa là transcriptase ngược
(enzyme phiên mã ngược) được vận chuyển cùng bộ gen virus trong hạt virus. Tiếp
đó DNA virus nhập vào nhân tế bào và hợp nhất thành DNA tế bào bởi một enzyme
mã hóa là integrase (enzyme hợp nhất) và các đồng nhân tố tế bào chủ. Khi đã hợp
nhất, virus có thể trở nên tiềm ẩn cho phép nó và tế bào chủ trốn tránh hệ miễn dịch
trong một thời gian vô định. HIV có thể duy trì bất hoạt trong cơ thể người lâu đến
mười năm sau lần nhiễm đầu và không gây triệu chứng giai đoạn này. Song mặt
khác DNA virus hợp nhất có thể được phiên mã, tận dụng tài nguyên tế bào chủ để
tạo ra những protein virus và bộ gen RNA mới được đóng gói và giải phóng khỏi tế
bào dưới dạng các hạt virus mới. Các hạt virus này sẽ tái khởi động chu kỳ nhân
bản [4, 5].
Có hai loại HIV đã được mô tả là HIV-1 và HIV-2. HIV-1 là virus ban đầu được
phát hiện và đặt tên là virus liên hệ bệnh hạch bạch huyết (LAV) và virus hướng

6
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

bạch huyết T ở người 3 (HTLV-III). Loại này có độc lực và khả năng lây nhiễm cao
hơn HIV-2, đồng thời là nguyên nhân của đa số ca nhiễm HIV trên toàn cầu. Việc
HIV-2 ít lây hơn so với HIV-1 dẫn đến tỷ lệ nhiễm do tiếp xúc HIV-2 thấp hơn. Vì
khả năng lây nhiễm tương đối kém, HIV-2 đa phần bị hạn chế ở Tây Phi [6].
HIV có cấu tạo khác với những retrovirus khác, nó có dạng gần cầu với đường kính
cỡ 120 nm, nhỏ hơn hồng cầu khoảng 60 lần. HIV bao gồm hai RNA sợi đơn dương
mã hóa chín gen của virus, bao quanh đó là một capsid hình nón gồm 2.000 protein
virus p24. RNA sợi đơn gắn chặt với protein nucleocapsid p7 và những enzyme cần
cho sự tạo thành virion như transcriptase ngược, protease, ribonuclease, và
integrase. Một chất nền gồm protein virus p17 tồn tại quanh capsid bảo đảm cho
tính toàn vẹn của hạt virion [7].
Bao quanh chất nền là vỏ ngoài của virus có thành phần gồm hai lớp lipid lấy từ
màng tế bào chủ người khi hạt virus mới hình thành nhô ra khỏi tế bào. Vỏ ngoài
virus chứa những protein từ tế bào chủ và tương đối ít bản sao protein vỏ HIV,
trong đó có một mũ gồm ba phân tử gọi là glycoprotein (gp) 120, một thân gồm ba
phân tử gp41 đính chặt cấu trúc vào vỏ ngoài virus. Protein vỏ được gen env HIV
mã hóa cho phép virus gắn vào tế bào mục tiêu và dung hợp vỏ ngoài virus với
màng tế bào mục tiêu, giải phóng nội hàm virus vào tế bào và khởi động chu kỳ lây
nhiễm [8].

Hình 2. Cấu tạo virus HIV


Vòng đời của HIV (Hình 3) bao gồm bảy bước, bao gồm liên kết, dung hợp và xâm
nhập của các virion vào màng tế bào chủ (bước 1); giải phóng RNA sợi đơn vào tế
bào chất (bước 2); phiên mã từ RNA sang DNA bằng cách phiên mã ngược (bước

7
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

3); chuyển vị của DNA vào nhân và tích hợp vào DNA của vật chủ (bước 4); phiên
mã mRNA mã hóa protein virus (bước 5); dịch sang protein và phân cắt sau chuyển
dịch bằng HIV protease (bước 6); và sự trưởng thành và nảy chồi của virus (bước 7)
[1].

Hình 3. Vòng đời của virus HIV [1]


II. Tổng quan về nhóm thuốc
1. Sơ lược các nhóm thuốc điều trị HIV/AIDS
Có 5 loại thuốc kháng retrovirus phối hợp nhắm vào các bước riêng biệt trong chu
trình phát triển của HIV.
Nhóm thứ nhất gồm những tác nhân cản trở sự xâm nhập của virus HIV vào tế bào
vật chủ bằng cách gắn kết với các protein vỏ của virus ngăn cản sự gắn và xâm nhập
vào tế bào T-CD4. Có 2 cơ chế của việc này là liên kết với thụ thể 5-chemokine và
hợp nhất màng.
Nhóm thứ hai gồm các tác nhân ức chế sự sao chép của virus bằng cách kết hợp với
DNA đang sao chép ngăn cản sự phiên mã ngược nucleoside (nucleoside reverse
transcription inhibitors [NRTIs])
Nhóm thứ ba là các non-nucleoside reverse transcription inhibitors (NNRTIs). Cơ
chế khá giống với các thuốc NRTIs là ức chế phiên mã ngược nhưng chúng khác
nhau ở chỗ là NNRTIs liên kết phiên mã ngược tại vị trí khác với NRTIs nên chúng
không có hiện tượng đề kháng chéo.

8
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Nhóm thứ tư là các integrase strand transfer inhibitor (INSTIs) với khả năng ức chế
sự chèn DNA của virus vào bộ gen tế bào chủ.
Nhóm cuối cùng là nhóm gồm các tác nhân ức chế enzyme protease (PI) – enzyme
đóng vai trò quan trọng việc phân cắt sau chuyển dịch và lắp ráp các phân tử virus
mới.
Mặc dù có rất nhiều tác nhân nhắm vào các giai đoạn khác nhau của chu kỳ HIV,
các hướng dẫn quốc gia và quốc tế hiện nay khuyến nghị một phác đồ kết hợp trên
cơ sở nhóm thuốc INSTI kết hợp với thuốc ức chế phiên mã ngược (RTIs) như liệu
pháp ban đầu cho hầu hết những người nhiễm HIV. Trong một số tình huống lâm
sàng nhất định, NNRTI và PI dùng chung với các chất ức chế cytochrome P450 3A
(CYP3A) (chất ức chế dược lý) được khuyến cáo [9]. Mục tiêu cơ bản của các
hướng dẫn này là ngăn chặn tối đa và lâu dài RNA HIV-1 trong huyết tương, phục
hồi và bảo tồn chức năng miễn dịch, giảm tỷ lệ mắc bệnh liên quan đến HIV và kéo
dài thời gian và chất lượng sống sót, và ngăn ngừa lây truyền HIV .
2. Sơ lược nhóm thuốc ức chế protease
Không mất quá lâu kể từ khi phát hiện ra enzyme protease trong virus HIV để con
người nhận ra rằng đây là một mục tiêu hấp dẫn trong việc tìm ra thuốc điều trị
HIV. Và chỉ mất 10 năm kể từ lúc đó chất ức chế protease HIV đầu tiên Saquinavir
được phê duyệt vào năm 1995. Chỉ sau đó 4 tháng thêm 2 thuốc PI nữa lần lượt
được phê duyệt là Ritonavir và Indinavir vào năm 1996 [10]. Tính tới hiện nay trên
thị trường có 12 thuốc PI gồm: Telaprevir, Darunavir, Simeprevir, Boseprevir,
Ritonavir, Atazanavir, Indinavir, Nelfinavir, Fosamprenavir, Saquinavir, Tipranavir,
Lopinavir/ritonavir và 1 thuốc đã bị thu hồi là Amprenavir.
Thuốc ức chế protease HIV thông thường không được sử dụng đơn trị mà phải phối
hợp với các loại thuốc khác. Tại Việt Nam chỉ có 2 thuốc là Ritonavir và
Lopinavir/ritonavir là được sự dụng trong Chương trình phòng, chống HIV/AIDS.
Atazanavir dự kiến cũng sẽ đưa vào sử dụng trong Chương trình phòng, chống
HIV/AIDS tại Việt Nam trong thời gian tới.
Các chất ức chế HIV-protease ngăn chặn sự phân cắt của các tiền chất gag và gag-
pol protein trong các tế bào bị nhiễm cấp tính và mãn tính, ngăn ngừa sự trưởng
thành và do đó ngăn chặn sự lây nhiễm của các virion mới sinh. Do đó, tác dụng
kháng virus chính của các chất ức chế HIV protease là ngăn chặn các đợt lây nhiễm
tiếp theo; chúng không ảnh hưởng đến các tế bào đã chứa DNA tiền virus tích hợp.
Các tác nhân này hoạt động chống lại các chủng HIV phân lập lâm sàng loại 1 và 2,
với nồng độ thuốc trong ống nghiệm cần thiết để giảm sản xuất virus xuống 50%
(IC50) trong khoảng từ 2 đến 60 nM [11].

9
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Hình 4. Chức năng phân cắt của protease đối với HIV gag-pol gen [11]
3. Indinavir
3.1. Phân nhóm Indinavir
Indinavir là một thuốc kháng retrovirus nhóm Protease Inhibitors được FDA phê
duyệt vào năm 1996 với tên biệt dược là CrixivanR

Hình 5. Mẫu lọ thuốc Indinavir dạng biệt dược CrixivanR


Theo drugbank.ca, Indinavir là hợp chất hữu cơ alpha amino acid amides – là một
dạng dẫn xuất của alpha amino acid.
Phân loại (Kingdom): Hợp chất hữu cơ

10
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Nhóm lớn (Super Class): Acid hữu cơ và các dẫn xuất


Nhóm (Class): Acid cacboxylic và dẫn xuất
Phân nhóm (Sub class): Acid amins, peptides và các chất tương tự
Nhóm hợp chất (Direct Parent): Alpha amino acid amides
Khung cấu trúc (Molecular Framework): Hợp chất dị vòng thơm
3.2. Lịch sử khám phá và phát triển thuốc Indinavir
Khởi đầu chính thức cho sự phát triển của nó bắt đầu vào tháng 12 năm 1986 khi
chủ tịch của Merck, Edward Scolnick, thông báo rằng họ sẽ bắt đầu một chương
trình nghiên cứu toàn diện về bệnh AIDS. Họ thành lập một phòng thí nghiệm dành
riêng cho nghiên cứu AIDS ở West Point, Pennsylvania và đặt Emilio Emini phụ
trách phòng thí nghiệm. Vài tháng sau, vào tháng 1 năm 1987, một nhóm các nhà
nghiên cứu bao gồm Emilio Emini, Joel Huff và Irving Sigal, bắt đầu nghiên cứu
của họ bằng cách dựa trên dự án của họ từ nghiên cứu trước đó về enzyme protease,
renin. Họ là những người bắt đầu quá trình nghiên cứu và phát triển các chất ức chế
protease và mối liên hệ của nó với virus. Hơn một năm sau, vào tháng 7 năm 1988,
Nancy Kohl, Emilio Emini, và các cộng sự, đã công bố trong Kỉ yếu của Viện Hàn
lâm Khoa học Quốc gia về ý tưởng ức chế protease. Vào tháng 2 năm 1989,
Manuela Navia, Paula Fitzgerald, và cộng sự, đã xuất bản một bài báo cho thấy cấu
trúc ba chiều của enzyme protease của HIV. Các nhà nghiên cứu khác cho rằng
nghiên cứu này đã giúp xác định quỹ đạo phát triển của chất ức chế trong tương lai.
Sau nhiều nghiên cứu, vào tháng 3 năm 1990, các nhà nghiên cứu của Reider đã
nhận được bằng sáng chế để tổng hợp một phần của hợp chất L-689,502. Chúng
tương tự như các chất ức chế hiện có. Tuy nhiên, nó đã thất bại trong các cuộc đánh
giá an toàn vì độc tính cao [12].
Nhận thấy nghiên cứu về loại thuốc của họ đang đi đúng hướng, Merck đã quyết
định thành lập một ban cố vấn cộng đồng bao gồm các nhà hoạt động AIDS, những
người sẽ giúp đỡ nỗ lực phát triển loại thuốc này vào tháng 3 năm 1991. Sau đó,
Merck phải đối mặt với phản ứng dữ dội từ các thành viên cộng đồng, những người
mặc dù không thích việc định giá và phân phối thuốc.
Vào tháng 1 năm 1992, các nhà nghiên cứu đã tổng hợp được Indinavir sulfat
(Crixivan), được gán số hợp chất L-735,524. Họ bắt đầu thử nghiệm L-735,524 trên
động vật vài tháng sau đó và nhận thấy rằng nó an toàn cho động vật. Do đó, công
ty quyết định rằng có thể an toàn để bắt đầu thử nghiệm trên người vào tháng 9
cùng năm. [11]
Các Food and Drug Administration (FDA) chấp thuận indinavir vào ngày năm
1996, khiến nó trở thành thứ tám kháng virus thuốc đã được phê duyệt. Lần đầu tiên

11
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

nó được FDA công nhận vào ngày 1 tháng 3, sau đó được phê duyệt chỉ 42 ngày sau
khi công ty đệ trình thuốc lên FDA.
Kể từ đó, Indinavir được sử dụng cùng với NRTIs kép đã thiết lập một tiêu chuẩn
mới để điều trị HIV / AIDS. Các chất ức chế protease đã thay đổi bản chất của bệnh
AIDS từ một bệnh giai đoạn cuối thành một bệnh có thể kiểm soát được. Nó làm
tăng đáng kể kỳ vọng sống và giảm các triệu chứng đáng chú ý từ các bệnh truyền
nhiễm do hệ thống miễn dịch suy yếu do virus gây ra. Hiện nay, nó đang được thay
thế bằng các loại thuốc mới hơn, tiện lợi hơn để uống, ít có khả năng thúc đẩy sự
kháng virus hơn và ít độc hại hơn, chẳng hạn như Darunavir hoặc Atazanavir.
III. Tên khoa học
1. Tên IUPAC
(2S)-1-[(2S,4R)-4-benzyl-2-hydroxy-5-[[(1S,2R)-2-hydroxy-2,3-dihydro-1H-inden-
1-yl]amino]-5-oxopentyl]-N-tert-butyl-4-(pyridin-3-ylmethyl)piperazine-2-
carboxamide
2. Tên thông dụng (tên gốc):
Indinavir
3. Tên biệt dược:
CrixivanR
4. Tên khác
MK639/MK-639; L-735,524
IV. Công thức
Công thức phân tử: C36H47N5O4
Phân tử lượng: 613,803 g/mol-1
Công thức cấu tạo phẳng:

Hình 6. Cấu trúc 2D Indinavir vẽ bằng ChemDraw

12
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Công thức lập thể:

Hình 7. Cấu trúc 3D Indinavir vẽ bằng Chem3D


V. Cơ chế tác động – Liên quan cấu trúc và tác dụng
1. Cơ chế tác động
Cơ chế tác động của Indinavir cũng giống như với các PI khác đã nêu trên. Tác
dụng của Indinavir là ức chế protease ghi mã của HIV-1 và HIV-2. Enzyme này cần
cho sự phân chia các tiền chất polypeptide để tạo ra các protein cấu trúc và các
enzyme thiết yếu của virus đó bao gồm các enzyme phiên mã ngược, integrase và
protease. Các chất ức chế protease ngăn cản sự trưởng thành của virus, do đó có tác
dụng trên các tế bào bị nhiễm bệnh cấp và mạn bao gồm các bạch cầu đơn nhân to;
đại thực bào thường không bị các chất ức chế enzyme phiên mã ngược nhóm
dideoxynucleoside tác động.
Indinavir không tác động đến các giai đoạn đầu của chu trình sao chép của HIV, tuy
nhiên thuốc ngăn cản và hạn chế được sự lan rộng thêm của virus ở trong cơ thể.
Indinavir là thuốc ức chế đặc hiệu cao trên protease của HIV, ở những nồng độ
thích hợp trong lâm sàng thuốc không ảnh hưởng đến hoạt tính các enzyme của
người.
Nếu chỉ dùng Indinavir đơn lẻ, virus kháng thuốc sẽ phát triển ngay trong vòng
khoảng một tháng, do đó trong điều trị không bao giờ được dùng Indinavir đơn lẻ. Ít
có khả năng xảy ra kháng chéo giữa Indinavir và các chất ức chế enzyme phiên mã
ngược của HIV, vì các enzyme đích của chúng khác nhau. Có sự kháng chéo đáng
chú ý giữa Indinavir và Ritonavir, chất ức chế protease. Kháng chéo giữa Indinavir
và các chất ức chế protease khác của HIV cũng đã xảy ra ở những mức độ khác

13
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

nhau. Để giảm nguy cơ kháng thuốc, có thể dùng phối hợp các chất ức chế protease
với các thuốc kháng retrovirus khác (như các nucleoside). Dùng Indinavir kết hợp
với các thuốc kháng retrovirus khác không thể tiêu diệt hoàn toàn HIV, nhưng có
thể ức chế sự phát triển virus, làm giảm nồng độ RNA của virus trong huyết thanh,
làm tăng số lượng tế bào lympho T-CD4, do đó làm giảm nhiễm trùng cơ hội trong
HIV [13].
2. Liên quan cấu trúc – tác dụng
Protease HIV là một enzyme homodimeric C2 đối xứng bao gồm hai đơn phân 99
axit amin . Mỗi monome đóng góp một dư lượng acid aspartic cần thiết cho quá
trình xúc tác, Asp-25 và Asp-25´ (phần màu đỏ trong hình 8). Protease của HIV có
trình tự Asp- Thr - Gly, được bảo tồn trong số các enzyme protease aspartic của
động vật có vú khác. Một vùng tấm beta mở rộng trên monome, được gọi là nắp,
một phần tạo thành vị trí liên kết chất nền với hai gốc aspartyl nằm ở đáy của
khoang kỵ nước. Mỗi nắp linh hoạt chứa ba vùng đặc trưng: chuỗi bên mở rộng ra
ngoài (Met 46, Phe 53), chuỗi kỵ nước mở rộng vào trong (Ile 47, Ile54) và vùng
giàu glycine (Gly48, 49, 51, 52). Ile50 (phần màu tím trong hình 8) vẫn ở đầu khúc
quanh và khi enzyme không liên kết, một phân tử nước sẽ tạo liên kết hydro với
xương sống của Ile50 trên mỗi monome [14].

Hình 8. Sơ đồ cấu trúc của một enzyme Protease HIV


Tất cả các chất ức chế protease HIV trên thị trường đều chứa mô-típ lõi trung tâm
bao gồm giàn hydroxyethylen (phần màu xanh hình 9), với ngoại lệ duy nhất là lõi
trung tâm của Tipranavir, dựa trên giàn coumarin. Một nhóm rất quan trọng đối với
chất ức chế protease HIV là nhóm hydroxyl trên mô-típ lõi tạo liên kết hydro với
acid cacboxylic trên gốc Asp-25 và Asp-25´ ở vị trí liên kết [15]. Liên kết hydro
giữa phân tử nước, được liên kết với Ile50 và Ile50', và các nhóm cacbonyl của chất
ức chế peptidomimetic dường như kết nối chúng với các vùng nắp. Mặt khác, trên
các chất ức chế nonpeptide, có một chất nhận proton thay thế phân tử nước được

14
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

phối hợp tứ phân tử và tương tác trực tiếp với hai gốc Ile50 trên nắp của enzyme.
Các túi cụ thể ở vị trí liên kết của protease HIV, thường được gọi là S1, S1 ', S2 và
S2', nhận biết các acid amin kỵ nước trên chất nền tự nhiên. Do đó, hiệu lực của các
chất ức chế mang các nhóm kỵ nước bổ sung cho các khu vực này được tăng lên
[16].

Hình 9. Liên kết giữa một PI với vị trí hoạt động của Protease HIV
Indinavir là một chất ức chế peptidomimetic hydroxyethylene HIV protease, được
đưa ra thị trường vào năm 1996. Việc thiết kế Indinavir được hướng dẫn bằng mô
hình phân tử và cấu trúc tinh thể tia X của phức hợp enzyme bị ức chế. Các thành
phần phenyl cuối cùng đóng góp vào liên kết kỵ nước để tăng hiệu lực. Nó là một
chất tương tự của vị trí phân cắt phenylalanin-proline của HIV Gag-polyprotein
[14].

15
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Hình 10. Liên hệ cấu trúc tác dụng Indinavir


VI. Phương pháp điều chế
1. Quy trình tổng hợp đầu tiên của công ty Merck
Cấu trúc của Indinavir (1) có thể được chia làm 3 phần gồm: Gốc Piperazine, Phe-
Gly hydroxyethylene isostere và (–)-cis-(1S,2R)-1-aminoindan-2-ol [(–)-CAI] như
trong hình 11. Các nhà nghiên cứu tại Merck đã bắt đầu tổng hợp bằng phương
pháp tạo ra gốc Piperazine từ (S)-2-piperazinecarboxylic acid (2); phần
hydroxyethylene isostere được tổng hợp từ một chất quang hoạt có nguồn gốc
thương mại là (S)-(+)-dihydro-5-(hydroxymethyl)-2(3H)-furanone (3); và (–)-cis-
(1S,2R)-1-aminoindan-2-ol được tổng hợp từ indine (4) [17, 18].

16
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Hình 11. Hướng tống hợp Indinavir của Merck


- Quá trình tổng hợp mảnh ghép bắt đầu từ muối (S)-2-piperazinecarboxylic acid
bis[(S)-(+)-camphorsulfonic acid] (5), các nhóm amin của chất trên sẽ được bảo vệ
bởi lần lượt t-butylcarbamate (BocON) và benzyl carbamate (CbzCl). Tiếp theo là
quá trình amid hóa bởi t-butylamine và loại bỏ nhóm Cbz bảo vệ bằng cách hydro
hóa. Tổng hiệu suất của 3 bước này là 78%, cuối cùng ta thu được mảnh cần thiết
đầu tiên là piperazine (6) trong sản xuất Indinavir [17, 18].

Hình 12. Qui trình tổng hợp mảnh ghép đầu của Merck
a. BocON, H2O, pH = 11.0; CbzCl, pH = 9.5 (HS 96%)
b. EDC, HOBt, tert-butylamine, Et3N, DMF (HS 85%)
c. H2, Pd/C 10%/MeOH (HS 96%)
- Mảnh ghép thứ 2 là dẫn xuất triflate của furanone (8) được tổng hợp thông qua
quá trình alkyl hóa lacton đã được bảo vệ tương ứng. Khởi đầu với việc bảo vệ (S)-
(+)-dihydro-5-(hydroxymethyl)-2(3H)-furanone (3) với t-butyldimethylsilyl
chloride (TBSCl), sau đó cho tác dụng với n-BuLi, diisopropylamine, and benzyl
bromide để tạo thành alkylated lactone (7). Khử nhóm bảo vệ silyl bằng HF trong
acetonitrile sau đó chuyển hóa rượu thành triflate ta thu được mảnh (8). Tổng hiệu
suất sau 4 bước này lúc đầu là 66% sau nâng lên 96% thông qua việc kiểm soát hợp
lý nhiệt độ, pH, dung môi [17, 18].

Hình 13. Qui trình tổng hợp mảnh ghép thứ hai của Merck
a. tert-butyldimethylsilyl chloride, imidazole, DMF, rt
b. n-BuLi, diisopropylamine , THF, lactone (-78 °C), benzyl bromide
c. HF, CH3CN, rt, 1h
d. Tf2O; 2,6-lutidine
- Sau khi đã có được 2 mảnh ghép, Merck tiến tới mảnh ghép cuối cùng là (–)-cis-
(1S,2R)-1-aminoindan-2-ol (11). Bắt đầu bằng việc chuyển đổi indine (4) thành
oxide indine (9) nhờ vào xúc tác epoxy hóa của Jacobsen là S,S-(salen) Mn(III)Cl
(12), 4-(3-phenylpropyl) pyridine Noxide (P3NO) và Natri hypochloride trong nước.

17
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Sau đó oxide indene được chuyển thành methyl oxazoline (10) bằng phản ứng với
oleum trong acetonitrile. Cuối cùng thủy phân oxazoline rồi kết tinh với l-tartric
acid ta thu được mảnh ghép cuổi cùng (–)-cis-(1S,2R)-1-aminoindan-2-ol (11).
Tổng hiệu suất của quá trình này là 50% [17, 18].

Hình 14. Qui trình tổng hợp mảnh ghép thứ ba của Merck
a. P3NO, PhCl, 12, NaOCl (HS 89%)
b. H2SO4, SO3, CH3CN
c. H2O, tartaric acid (HS 56%)
- Sau khi đã thu đủ các thành phần, Merck tiến hành các bước tổng hợp cuối cùng
để thu được Indinavir. Đầu tiên là việc ghép nối dẫn xuất triflate (8) và và
piperazine (6) nhờ vào diisoproplylethylamine trong iso-propanol. Sau đó, thủy
phân lacton bằng lithium hydroxide tạo ra hydroxyethylene isostere, được bảo vệ
dưới dạng t-butyldimethylsilyl ether. Ghép nối acid với (–)-cis-(1S,2R)-1-
aminoindan-2-ol (11) nhờ 1-(3-dimethylaminopropyl)-3-ethylcarbodiimide (EDC)
và 1-hydroxybenzotriazole (HOBt). Kết quả thu được hợp chất trung gian (13) với
hiệu suất 4 bước là 73%. Từ (13) ta loại bỏ các nhóm bảo vệ silyl và Boc bằng HCl,
cuối cùng cho tác dụng với 3-picolyl chloride ta thu được Indinavir (1) sau 2 bước
cuối với hiệu suất 59%. [17, 18]

18
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Hình 15. Qui trình ghép các mảnh thành phần của Merck
a. isopropyl alcohol, diisopropylethylamine (HS 83%)
b. 1M LiOH, DME, rt, 3h
c. TBSCI, imidazole, DMF, rt (HS 96%)
d. EDC, HOBt, hydroxyaminoindane (11), pH = 8-9, DMF
e. 8 N HCl, isopropyl alcohol (HS 78%)
f. 3-picolyl chloride hydrochloride, Et3N, DMF (HS 76%).
- Như vậy toàn bộ quá trình tổng hợp Indinavir trải qua 10 bước với hiệu suất thu
được là 35% [18].
2. Quy trình tổng hợp của Askin và cộng sự
Một con đường tổng hợp Indinavir khác đã được Askin và cộng sự phát triển. Trong
phương pháp này Indinavir sẽ được tạo thành thông qua sự kết hợp của epoxid (14)
và piperazine (6). Cách tổng hợp này khác với Merck ở chỗ nhóm isostere hydroxy
sẽ được tạo ra từ việc mở vòng 1 epoxid [17, 19].

Hình 16. Hướng tổng hợp Indinavir của Askin và cộng sự

19
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

- Quá trình bắt đầu với nguyên liệu là (–)-cis-(1S,2R)-1-aminoindan-2-ol (11) –


mảnh thứ 3 theo phương pháp của Merck. Nó sẽ được cho phản ứng với 3-
phenylpropionyl chloride (15), đồng thời bảo vệ nhóm amidoalcohol bằng cách
chuyển nó thành acetonide, từ đó thu được một dẫn xuất amid (16). Sau đó hoạt hóa
α-cacbon của (16) bằng LiHDMS rồi gắn với (S)-(+)-glycidyl tosylate (17) có sẵn
trên thị trường ta thu được mảnh epoxid (14). Tổng hiệu suất của quá trình tạo mảnh
16 là khoảng 63% [17, 19].
- Sau đó mảnh epoxid (16) sẽ được cho phản ứng với mảnh piperazine (6) được
tổng hợp theo phương pháp của Merck, lần lượt loại bỏ các nhóm bảo vệ acetonid
và Boc bằng HCl ta thu được nhóm diol trung gian tương ứng. Từ chất trung gian
này cho tác dụng với 3-picolyl chloride để từ đó thu được Indinavir (1). Tổng hiệu
suất giai đoạn này là 71% [17, 19].

Hình 17. Qui trình tổng hợp Indinavir của Askin và cộng sự

a. i-PrOAc, NaOH (-)-CAI + (11)


b. Chưng cất
c. 2-methoxy-propene, MsOH
d. LiHMDS
e. i-PrOH, 6N HCl, rf
f. 3-picoyl chloride·HCl, Et3N, DMF
- Như vậy toàn bộ quá trình tổng hợp sẽ trải qua 9 giai đoạn với tổng hiệu suất là
khoảng 35% [19].

20
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

3. Quy trình tổng hợp của Cheng và cộng sự


- Khởi đầu với việc liên kết nhóm hydroxy trên gốc aminoindanol đã được bảo vệ
bởi Boc với nhựa resin bằng cách cho N-Boc-(–)-cis-(1S,2R)-1-aminoindan-2-ol
(18) tác dụng với Rapp TentaGel S COOH resin (19). Phản ứng này được thực hiện
với xúc tác EDC và dimethylaminopyridine (DMAP) trong dimethylformamide và
dichloromethane thu được hợp chất (20). Loại bỏ nhóm bảo vệ Boc trong (20) bằng
trifluoracetic acid (TFA) rồi cho phản ứng với (21) với xúc tác EDC/OHBt để thu
được hợp chất trung gian (22). Cuối cùng khử nhóm bảo vệ Boc bằng TFA/CH 2Cl2;
nhóm silyl được loại bỏ bằng hydrogen fluoride trong pyridine. Cuối cùng Indinavir
(1) được tách khỏi nhựa resin bằng cách sử dụng hỗn hợp methanol–TEA (9:1) ở
50°C. Hiệu suất của quá trình là khoảng 71% và sản phẩm có độ tinh khiết khoảng
> 95% [20].

Hình 18. Qui trình tổng hợp Indinavir của Cheng và cộng sự
a. EDC và DMAP/DMF và CH2Cl2
b. 30% TFA/CH2Cl2
c. EDC, HOBt, DMF/CH2Cl2
d. 30% TFA/CH2Cl2
e. NaB(OAc)3H 1% AcOH/DMF
f. HF/Py, THF
g. 9:1 MeOH/Et3N, 50 °C

21
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

VII. Tính chất lý – hóa


1. Tính chất đã thử nghiệm

Bảng 1. Tính chất lý hóa đã thử nghiệm của Indinavir

Tính chất Giá trị Nguồn

Chất rắn (dạng bột màu


Cảm quan
trắng hoặc gần như trắng)

Nhiệt độ nóng chảy (oC) 167,5-168 Drugbank

Log P 2,9 Drugbank

Độ tan trong nước 0,015mg/ml Drugbank

2. Tính chất dược động [13]


2.1. Hấp thu
- Indinavir được hấp thu nhanh theo đường uống và đạt nồng độ đỉnh huyết tương
trong 0,8 giờ. Sinh khả dụng khoảng 65% sau liều duy nhất.
- Thức ăn ở dạ dày làm giảm đáng kể sự hấp thu của indinavir khi uống, do đó nên
dùng thuốc lúc đói. Bữa ăn giàu calo, protein hoặc chất béo có thể làm giảm hấp thu
thuốc khoảng 75%.
2.2. Phân bố
Khoảng 60% thuốc được gắn với protein trong huyết tương, thuốc qua hàng rào
máu não.
2.3. Chuyển hóa
Indinavir bị oxy hóa bởi isoenzyme CYP3A4 của cytochrome P450 và bị
glucuronid hóa ở gan và cho ít nhất là 7 sản phẩm chuyển hóa, gồm 1 chất liên hợp
glucuronid và 6 chất chuyển hóa oxy hóa.
2.4. Thải trừ
- Indinavir được thải trừ nhanh, nửa đời thải trừ trong huyết tương trung bình 1 giờ
48 phút. Ở người xơ gan và suy gan, kéo dài tới 2 giờ 48 phút ± 30 phút. Thuốc đạt
nồng độ thấp trong dịch não tủy
- Indinavir được thải trừ chủ yếu qua phân (> 80%) và qua nước tiểu (< 20%) ở cả
dạng không biến đổi và dạng chuyển hóa.

22
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

VIII. Kiểm nghiệm


Theo chuyên luận Indinavir sulfar trích trong DĐVN V [21]
Indinavir sulfat là (2S)-1-[(2S,4R)-4-benzyl-2-hydroxy- 5- [[(1S,2R)-2-hydroxy-2,3
-dihydro-1 H-inden-1 -yl]amino]-5-oxopentyl]-N -(1, 1-dimethyl ethyl)-4-(pyndin-
3- yl methyl)piperazin-2-carboxamid sulfat ethanolat, phải chứa từ 98,0 % đến
102,0 % C36H47N5O4.H2SO4, tính theo chế phẩm khan và không có ethanol.
Trong quá trình sản xuất phải kiểm tra tạp chất đồng phân đối quang trừ phi quy
trình sản xuất đảm bảo chọn lọc được đồng phân.
1. Tính chất
Bột màu trắng hoặc gần như trắng, hút ẩm. Dễ tan trong nước, tan trong methanol,
thực tế không tan trong heptan.
2. Định tính
A. Phổ hấp thụ hồng ngoại (Phụ lục 4.2) của chế phẩm phải phù hợp với phổ hấp
thụ hồng ngoại của indinavir sulfat chuẩn.
B. Góc quay cực riêng (Phụ lục 6.4) của chế phẩm đo ở 25 °C, bước sóng 365 nm
phải từ +122° đến +129°, tính theo chất khan và không có ethanol. Hòa tan 0,500 g
chế phẩm trong nước và pha loãng thành 50,0 ml với cùng dung môi.
C. Chế phẩm phải cho phản ứng (A) của sulfat (Phụ lục 8.1).
D. Chế phẩm phải đáp ứng phép thử Ethanol.
3. Tạp chất liên quan
Phương pháp sắc ký lỏng (Phụ lục 5.3).
Pha động A: Dung dịch chứa kali dihỵdrophosphat (TT) nồng độ 0,27 g/l và dikali
hydrophosphat (TT) nồng độ 1,40 g/l; lọc và đuổi khí.
Pha động B: Acetonitril (TT).
Dung dịch A: Hỗn hợp đồng thể tích của pha động A và acetonitril (TT), trộn đều.
Dung dịch thử: Hòa tan 50,0 mg chế phẩm trong dung dịch A và pha loãng thành
100,0 ml với cùng dung môi.
Dung dịch đối chiếu (1): Hòa tan 4 mg indinavir chuẩn dùng để kiểm tra tính phù
hợp của hệ thống sắc ký (chứa tạp chất B, C và E của indinavir) trong dung dịch A
và pha loãng thành 10 ml với cùng dung môi.
Dung dịch đối chiếu (2): Pha loãng 1,0 ml dung dịch thử thành 100,0 ml bằng dung
dịch A. Pha loãng 1,0 ml dung dịch thu được thành 10,0 ml bằng dung dịch A.
Dung dịch đối chiếu (3): Hòa tan 5,0 mg cis-aminoindanol (tạp chất A) trong dung
dịch A và pha loãng thành 10,0 ml với cùng dung môi- Pha loãng 1,0 ml dung dịch
thu được thành 100,0 ml bằng dung dịch A. Tiếp tục pha loãng 1,0 ml dung dịch thu
được thành 10,0 ml bằng dung dịch A.
Dung dịch đối chiếu (4): Thêm 0,25 ml dung dịch acid hydrocloric 2 M (TT) vào 30
mg chế phẩm và để yên ở nhiệt độ phòng trong vòng 1 h. Thêm hỗn hợp dung môi

23
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

acetonitril (TT) – pha động A (2 : 3) vừa đủ 100 ml, lắc đều (thu được hỗn hợp
phân hủy có chứa tạp chất D của indinavir).
Điều kiện sắc ký:
Cột kích thước (25 cm X 4,6 mm) được nhồi pha tĩnh c (5 μm).
Detector quang phổ tử ngoại đặt ở bước sóng 220 nm.
Tốc độ dòng: 1,0 ml/min.
Thể tích tiêm: 20 μl.
Cách tiến hành:
Tiến hành sắc ký theo chương trình dung môi sau:

Bảng 2. Chương trình gradient kiểm nghiệp tạp chất liên quan

Thời gian Pha động A Pha động B

0-5 80 20

5-40 80 →30 20 → 70

40-45 30 70

45-47 30 → 80 70 → 20

Tiến hành sắc ký với dung dịch đối chiếu (1) và dung dịch đối chiếu (4)
Định tính các tạp chất: Sử dụng sắc ký đồ cung cấp kèm theo indinavir chuẩn dùng
để kiểm tra tính phù hợp của hệ thống sắc ký và sắc ký đồ của dung dịch đối chiếu
(1) để xác định pic của các tạp chất B, C và E. Sử dụng sắc ký đồ của dung dịch đối
chiếu (4) để xác định pic của tạp chất D. Thời gian lưu tương đối so với indinavir
(thời gian lưu khoảng 25 min): Tạp chất A khoảng 0,2; tạp chất B khoảng 0,8; tạp
chất C khoảng 0,98; tạp chất D khoảng 1,1; tạp chất E khoảng 1,3.
Kiểm tra tính phù hợp của hệ thống sắc ký: Trên sắc ký đồ của dung dịch đối chiếu
(1), độ phân giải giữa pic của tạp chất C và pic của indinavir ít nhất là 1,8. Tiến
hành sắc ký lần lượt với mẫu trắng là dung dịch A, các dung dịch đối chiếu (2), (3)
và dung dịch thử.
Giới hạn:
Hệ số hiệu chỉnh: Để tính toán, nhân diện tích pic của tạp chất D với 1,8.
Trên sắc ký đồ thu được từ dung dịch thử:
Diện tích pic tạp chất A không được lớn hơn diện tích pic chính trên sắc ký đồ thu
được từ dung dịch đối chiếu (3) (0, 1 %).
Diện tích pic tạp chất D không được lớn hơn 2 lần diện tích pic chính trên sắc ký đồ
thu được từ dung dịch đối chiếu (2) (0,2 %).
Diện tích mỗi pic tạp chất B, C, E không được lớn hơn diện tích pic chính trên sắc
ký đồ thu được từ dung dịch đối chiếu (2) (0,1 %).

24
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Diện tích mỗi pic tạp chất khác không được lớn hơn 0,5 lần diện tích pic chính trên
sắc ký đồ thu được từ dung dịch đối chiếu (2) (0,05 %).
Tổng diện tích của tất cả các pic tạp chất không được lớn hơn 5 lần diện tích pic
chính trên sắc ký đồ thu được từ dung dịch đối chiểu (2) (0,5 %).
Bỏ qua các pic tạp chất có diện tích không lớn hơn 0,3 lần diện tích của pic chính
trên sắc ký đồ thu được từ dung dịch đối chiếu (2) (0,03 %).
Ghi chú:
Tạp chất A: (1S,2R)-1-amino-2,3-dihydro-1H-inden-2-ol (cis-aminoindanol).
Tạp chất B: (2S)-1-[(2S,4R)-4-benzyl-2-hydroxy-5-[[(1S,2R)- 2-hydroxy-2,3-
dihydro-1H-inden-1-yl]amino]-5-oxopentyl]-N- (1,1 -dimethylethyl) piperazin-2-
carboxamid.
Tạp chất C: (2S)-1-[(2R,4S)-4-benzyl-2-hydroxy-5-[[(1S,2R-2-hydroxy-2,3-
dihydro-1H-inden-1-yl]amino]-5-oxopentyl]-N-(1,1-dimethylethyl)-4-(pyridin-3-yl
-methyl)piperazin-2- carboxamid.
Tạp chất D: (3R,5S)-3-benzyl-5-[[(2S)-2-[(1,1-dimethylethyl) carbamoyl]-4-
(pyridin-3-ylmethyl)piperazin-1-yl]methyl]-4,5-dihydrofìiran-2(3H)-on.
Tạp chất E: (2S)-1,4-bis[(2S,4R)-4-benzyl-2-hỵdroxy-5-[[(1S,2R) -2-hydroxy-2,3-
dihydro- 1H-inden-1 -yl]amino]-5-oxopentyl]- N-(1,1-dimethylethy])piperazin-2-
carboxamid.
Tạp chất F: 3-(cloromethyl)pyridin (nicotinyl clorid).
4. Ethanol
Hàm lượng phần trăm của ethanol phải từ 5,0 % đến 8.0 % (kl/kl).
Phương pháp sắc ký khí (Phụ lục 5.2)
Dung dịch chuẩn nội: Pha loãng 1,0 ml propanol (TT) thành 200,0 ml bằng nước.
Dung dịch chuẩn: Pha loãng 1,0 ml ethanol khan (TT) thành 200.0 ml bằng nước.
Hút 2,0 ml dung dịch thu được và 2,0 ml dung dịch chuẩn nội, pha loãng thành 25,0
ml bằng nước.
Dung dịch thử: Hòa tan 0,400 g chế phẩm trong 50,0 ml nước, thêm 8,0 ml dung
dịch chuẩn nội và pha loãng thành 100.0 ml bằng nước.
Điều kiện sắc ký:
Cột silica nung chảy dài 30 m, đường kính trong 0,53 mm, pha tĩnh là macrogol 20
000 (lớp phim dày 1,0 μm).
Khí mang: Heli dùng cho sắc ký khí.
Tốc độ dòng: 10 ml/min.
Tỷ lệ chia dòng: 1 : 10.
Detector ion hóa ngọn lửa.
Nhiệt độ: Duy trì nhiệt độ cột ờ 35 °C, nhiệt độ buồng tiêm ở 140 °C và nhiệt độ
detector ở 220 °C.
Thể tích tiêm: 1,0 μl.
Cách tiến hành:

25
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Kiểm tra tính phù hợp của hệ thống sắc ký: Trên sắc ký đồ của dung dịch chuẩn,
thời gian lưu của ethanol trong khoảng từ 2 min đến 4 min, độ phân giải giữa pic
tương ứng với ethanol và propanol ít nhất bằng 5,0.
Tiêm lần lượt dung dịch chuẩn và dung dịch thử. Tính hàm lượng phần trăm (kl/kl)
của ethanol trong chế phẩm, tỷ trọng của ethanol là 0,790 g/ml.
5. Kim loại nặng
Không được quá 10 phần triệu (Phụ lục 9.4.8).
Hòa tan 2,0 g chế phẩm trong nước và pha loãng thành 20 ml với cùng dung môi.
Lấy 12 ml dung dịch thu được tiến hành thử theo phương pháp 1. Dùng dung dịch
chì mẫu 1 phần triệu Pb (TT) để chuẩn bị dung dịch đối chiếu.
6. Nước
Không được quá 1,5 % (Phụ lục 10.3).
Dùng 0,500 g chế phẩm.
7. Tro sulfat
Không được quá 0,1 % (Phụ lục 9.9, phương pháp 2).
Dùng 1,0 g chế phẩm.
8. Định lượng
Phương pháp sắc ký lỏng (phụ lục 5.3).
Dung dịch B: Thêm 20 ml dibutylamoni phosphat loại dùng tạo cập ion vào 1000
ml nước, điều chỉnh về pH 6,5 bằng dung dịch natri hydroxyd 1 M (TT).
Pha động: Acetonitril – dung dịch B (45 : 55).
Dung dịch thử: Hòa tan 60,0 mg chế phẩm trong pha động và pha loãng thành 100,0
ml bằng cùng pha động.
Dung dịch chuẩn: Hòa tan 50,0 mg indinavir chuẩn trong pha động và pha loãng
thành 100,0 ml bằng cùng pha động.
Điều kiện sẳc ký:
Cột kích thước (25 cm X 4,6 mm) được nhồi base-deactivated octylsilyl silica gel
dùng cho sắc ký (5 μm).
Nhiệt độ cột: 40 °C.
Detector quang phổ tử ngoại đặt ở bước sóng 260 nm.
Tốc độ dòng: 1,0 ml/min.
Thể tích tiêm: 10 μl.
Cách tiến hành: Tiến hành sắc ký các dung dịch chuẩn và dung dịch thử với thời
gian gấp hai lần thời gian lưu của pic indinavir (thời gian lưu của pic indinavir
khoảng 10 min). Tính hàm lượng phần trăm indinavir sulfat, C 36H47N5O4.H2SO4,
trong chế phẩm dựa vào diện tích pic indinavir trên sắc ký đồ thu được từ dung dịch
thử, dung dịch chuẩn và hàm lượng C36H47N5O4 trong indinavir chuẩn nhân với hệ
số hiệu chỉnh 1,1598.
9. Bảo quản
Trong đồ đựng kín, tránh ánh sáng.

26
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

10. Loại thuốc


Ức chế enzym protease, kháng HIV.
11. Chế phẩm
Nang.
IX. Công dụng – Cách dùng – Đường dùng
Theo chuyên luận Indinavir sulfat trích trong Dược thư Quốc gia 2018 [13].
1. Công dụng và chỉ định
Điều trị nhiễm HIV. Thuốc luôn luôn được dùng kết hợp với ít nhất một thuốc
kháng retrovirus khác (phác đồ điều trị 2 thuốc, thí dụ Indinavir - Zidovudin) hoặc
với 2 thuốc kháng retrovirus khác [phác đồ điều trị 3 thuốc, thí dụ Indinavir -
Lamivudin - Zidovudin (hoặc Stavudin)].
2. Cách dùng và đường dùng
Chỉ dùng đơn lẻ Indinavir trong điều trị sẽ rất nhanh chóng gây kháng thuốc; bởi
vậy phải phối hợp với ít nhất 1 thuốc kháng retrovirus khác.
Trong điều trị HIV, Indinavir được dùng phối hợp với các thuốc ức chế enzyme
phiên mã ngược của nucleoside. Phải uống thuốc ít nhất 1 giờ trước hoặc 2 giờ sau
khi ăn. Khẩu phần ăn cần ít mỡ. Cần uống đủ nước (ít nhất là 1,5 lít/ngày). Có thể
phải ngừng điều trị nếu có đợt sỏi thận cấp.
Liều dùng của Indinavir sulfat được tính theo Indinavir (116mg Indinavir sulfat
tương đương với khoảng 100mg Indinavir).
Liều khuyến cáo cho người lớn là 800mg/lần, cách 8 giờ uống một lần.
Người suy gan nhẹ hoặc trung bình do xơ gan dùng liều 600mg/lần, cách 8 giờ uống
một lần.
Liều ở trẻ em từ 4 tuổi trở lên: Uống cùng với thuốc kháng retrovirus khác,
500mg/m2, 8 giờ uống một lần, không được vượt quá liều của người lớn.
3. Tác dụng không mong muốn (ADR) và chống chỉ định
3.1. Tác dụng không mong muốn (ADR)
Thường gặp, ADR > 1/100:
Buồn nôn, nôn, đau bụng, ỉa chảy, đắng miệng, mệt mỏi, đau đầu, choáng váng, nổi
ban da, ngứa, suy chức năng thận.
Ít gặp, 1/1000 < ADR < 1/100:
Ợ chua, khó tiêu, khô miệng, giảm cảm giác, mất ngủ, khó tiểu tiện, khô da và tăng
nhiễm sắc, tăng glucose huyết, sỏi thận, suy thận, hội chứng Stevens - Johnson.

27
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

Hiếm gặp, ADR < 1/1000:


Phản ứng dị ứng (đôi khi là phản ứng phản vệ), tiểu tiện ra máu, thiếu máu cấp do
tan máu.
Viêm gan (ở người bệnh dùng indinavir phối hợp với các thuốc kháng retrovirus
khác), vàng da.
3.2. Chống chỉ định
Quá mẫn với Indinavir

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Atta M. G., De Seigneux S., Lucas G. M. (2019), "Clinical Pharmacology in
HIV Therapy", Clin J Am Soc Nephrol, 14 (3), 435-444.

28
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

[2] UNAIDS, "Global HIV & AIDS statistics"


https://www.unaids.org/en/resources/fact-sheet. [Accessed 12/11/2021].
[3] VAAC (2020), "Số liệu tình hình dịch HIV/AIDS năm 2020", .
[4] Levy J. A. (2013), The retroviridae, Springer Science & Business Media.
[5] Lu Y., Essex M. (2001), "Lentivirus", The Springer Index of Viruses, p.^pp.
Number of.
[6] Gilbert P. B., McKeague I. W., Eisen G. et al. (2003), "Comparison of HIV-1
and HIV-2 infectivity from a prospective cohort study in Senegal", Stat Med, 22 (4),
573-593.
[7] Kuiken C., Foley B., Hahn B. et al. (2001), "HIV sequence compendium
2001", .
[8] Chan D. C., Fass D., Berger J. M. et al. (1997), "Core structure of gp41 from the
HIV envelope glycoprotein", Cell, 89 (2), 263-273.
[9] "Department of Health and Human Services (DHHS). Guidelines for the use of
antiretroviral agents in adults and adolescents living with HIV" (2017), Department
of Health and Human Services.
[10] Davies J. E. (2007), "The pharmacological basis of therapeutics",
Occupational and Environmental Medicine, 64 (8), e2-e2.
[11] Flexner C. (1998), "HIV-Protease Inhibitors", New England Journal of
Medicine, 338 (18), 1281-1293.
[12] Co M., "History and the Discovery and Development of Crixivan"
http://name.umdl.umich.edu/5571095.0324.003. [Accessed: 12/11, 2021].
[13] Bộ Y Tế (2018), Dược thư Quốc gia Việt Nam, Nhà Xuất bản Y học Hà Nội,
pp 806-808.
[14] Flexner C. (2007), Goodman và Gilmans's The Pharmacological Basis of
Therapeutics, McGraw-Hill Education, New York, NY.
[15] Mimoto T., Hattori N., Takaku H. et al. (2000), "Structure-activity relationship
of orally potent tripeptide-based HIV protease inhibitors containing
hydroxymethylcarbonyl isostere", Chem Pharm Bull (Tokyo), 48 (9), 1310-1326.
[16] Blum A., Böttcher J., Sammet B. et al. (2008), "Achiral oligoamines as
versatile tool for the development of aspartic protease inhibitors", Bioorg Med
Chem, 16 (18), 8574-8586.
[17] Ghosh A. K., Bilcer G., Schiltz G. (2001), "Syntheses of FDA Approved HIV
Protease Inhibitors", Synthesis, 2001 (15), 2203-2229.
[18] Dorsey B. D., Levin R. B., McDaniel S. L. et al. (1994), "L-735,524: the
design of a potent and orally bioavailable HIV protease inhibitor", J Med Chem, 37
(21), 3443-3451.
[19] Askin D., Eng K. K., Rossen K. et al. (1994), "Highly diastereoselective
reaction of a chiral, non-racemic amide enolate with (S)-glycidyl tosylate. Synthesis

29
Tổng hợp thuốc thiết yếu Nguyễn Trường Giang | Indinavir

of the orally active HIV-1 protease inhibitor L-735,524", Tetrahedron Letters, 35


(5), 673-676.
[20] Cheng Y., Lu Z., Chapman K. T. et al. (2000), "Solid phase synthesis of
indinavir and its analogues", J Comb Chem, 2 (5), 445-446.
[21] Bộ Y Tế (2018), Dược điển Việt Nam V, Nhà Xuất Bản Y Học Hà Nội, pp.
506-510.

30

You might also like