Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

Mùa xuân nho nhỏ

-Thanh Hải-
I-Tìm kiểu chung
1. Tác giả: Thanh Hải(1930-1980)
 Quê hương ở Thừa Thiên – Huế
 Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kì chống Mĩ cứu nước,
Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút có công lớn trong việc xây dựng nền
văn học cách mạng ở Miền Nam từ những ngày đầu
 Sự nghiệp sáng tác: Trong suốt 50 năm cuộc đời của mình, Thanh Hải có 5 tập thơ:
o Những đồng chí trung kiên (1962) tập thơ
o Huế mùa xuân (tập 1-1970, tập 2-1972) tập thơ
o Mùa xuân nho nhỏ (11/1980), khoảng 1 tháng trước khi ông qua đời. Lúc đó ông đang ốm nặng và phải
điều trị ở bệnh viện Bạch Mai
o Ánh Mắt (1956)
o Mưa xuân trên đất này (1982) tập thơ
 Phong cách nghệ thuật: Thanh Hải thường viết về thiên nhiên và lòng yêu cuộc sống. Thơ ông bình dị,
nhẹ nhàng nhưng đậm chất triết lí về cuộc đời, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết
2. Tác phẩm:
 Hoàn cảnh sáng tác: Tháng 11/1980, không bao lâu trước khi nhà thơ qua đời. Ông đang bị bệnh nặng
phải điều trị ở bệnh viện trung ương thành phố Huế, và phải đối diện với cái chết trong gang tấc. Có hiểu
cho hoàn cảnh của nhà thơ trên giường bệnh ta mới thấy hết được tấm lòng tha thiết với cuộc sống, với
quê hương đất nước của nhà thơ. Đồng thời đây cũng là khi đất nước ta vừa mới thống nhất, đang phải
đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách.
 Thể thơ năm chữ rất gần với các làn điệu dân ca, đặc biệt là dân ca miền Trung. Cũng nhờ thể thơ linh
hoạt mả nhịp điệu bài thơ luôn biến đổi theo mạch cảm xúc.
 Ý nghĩa nhan đề:
o “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.
o Mùa xuân vốn không có hình khối, vậy mà Thanh Hải thêm định ngữ “nho nhỏ” cho mùa xuân để có
“Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh tuý nhất, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời
mỗi con người, từ đó thể hiện sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và tập thể.
o Nhà thơ nguyện làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống có ích, cống hiến tất cả sức sống tươi trẻ
của mình cho đất nước nhưng rất khiêm nhường chỉ nhận là một mùa xuân nho nhỏ góp phần vào mùa
xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung.
o “Mùa xuân nho nhỏ” nhưng ý nghĩa không nhỏ. Đó là một bài thơ hay mà Thanh Hải đã để lại cho
cuộc đời trước lúc đi xa.
 Mạch cảm xúc: Từ cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất nước đến mùa xuân của mỗi con người trong
mùa xuân lớn của đất nước. Qua đó thể hiện khát vọng được dâng hiến “Mùa xuân nho nhỏ” của mình
vào mùa xuân lơn của cuộc đời chung. Bài thơ được khơi nguồn, nảy nở từ sức sống, vẻ đẹp của mùa
xuân thiên nhiên, mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách mạng. Cảm xúc lắng đọng dần vào suy tư và
ước nguyện: nhà thơ muốn nhập vào bản hòa ca vĩ đại của cuộc đời bằng một nốt trầm xao xuyến của
riêng mình, góp vào mùa xuân chung lớn lao “một mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ khép lại với những cảm
xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
II-Tìm hiểu chi tiết
Chẳng phải ngẫu nhiên mà mùa xuân từ lâu đã trở thành một nguồn cảm hững bất tận cho biết bao tâm hồn
nghệ sĩ. Với Nguyễn Trải, đó là:
“Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”
(“Mộ xuân tức sự”),
Với Hàn Mặc Tử là:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi;
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi...”
(“Mùa xuân chín”)
Còn với nhà thơ Thanh Hải, đó là một “mùa xuân nho nhỏ”, toát lên tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó
với đất nước, với cuộc đời, thể hiện bao ước nguyện chân thành được cống hiến, được hoà mình với thiên
nhiên, đất nước và con người. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
được vẽ bằng những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, sống động, tràn đầy sức sống
1. Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất trời (Khổ 1)
a) Bức tranh thiên nhiên xứ Huế
 Bức tranh được chấm phá bằng rất ít chi tiết: “Bông hoa tím, dòng sông xanh, tiếng chim chiền chiện,
…”. Những nét chấm phá ấy đã vẽ ra một không gian cao rộng, trong sáng.
 Ngay từ hai câu thơ mở đầu, ta đã bắt gặp một cách viết khác lạ: Đảo từ “mọc” lên đầu câu, không chỉ
diễn tả sự đột ngột, bất ngờ mà còn gợi ấn tượng vào sức sống trỗi dậy, vươn lên của mùa xuân đang về,
khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia
đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.
 “Dòng sông xanh” là màu nước của con sông quê hương nhẹ nhàng và đậm chất thơ, báo hiệu mùa xuân
đang về. Không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông trong xanh chảy hiền hoà.
Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc
mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất miền Trung.
o Hình ảnh “hoa tím biếc” là gam màu tím đặc trưng của xứ Huế. Nổi bật trên nền xanh lơ của dòng
sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay bông
súng,bông trang mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê
“ Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông…”
( Lê Anh Xuân)
Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương - vốn là nét đặc trưng của
những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự.
 Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bônghoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà
sống động, đem lại một vẻ đẹp tựnhiên, hài hòa, một màu sắc đặc trưng của xứ Huế.
o Âm thanh tiếng chim chiền chiện tươi vui, náo nức cả bầu trời mùa xuân.
 Đây là một bức tranh mùa xuân đẹp, nên thơ, bình dị.
b) Cảm xúc của nhà thơ
 Được thể hiện qua cái nhìn trìu mến, tha thiết với cảnh vật.
 Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với muôn vàn lời ca
tiếng hót, reo mừng
 “Ơi” là hô ngữ, từ cảm thán biểu lộ niềm vui, xôn xao trong lòng nhà thơ. Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà
tha thiết thế! Lời gọi ấy không cất lên từ tiếng nói mà cất lên từ sâu thẳm tình yêu thiên nhiên, cất lên từ
tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn rã. Lời gọi ấy mới đầu nhen
nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm
một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.
 Câu thơ “Hót chi mà vang trời” là một câu thơ hay. “Hót chi” mang giọng ngọt ngào, đáng yêu của
người dân xứ Huế. Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tutừ: “Hót chi mà vang trời”.
Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực
dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với những bóng đen ú ám của bệnh tật, của cái chết
rình rập.
 Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn hào phóng, sẵn sàng traotặng con người mọi vẻ đẹp nếu con người
biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đãthực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự
thăng hoa củatâm hồn. Nhà thơ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởngtượng,
liên tưởng độc đáo: “Từng giọt … tôi hứng”.
o “Giọt long lanh” giọt mua mùa xuân đọng trên cành lá trong ánh sáng của mặt trời mùa xuân. Cụm từ
“ giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phongphú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua
kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân
đang rơi…Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang,
đọng lại thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo
rực tình xuân.
o Cũng có thể hiểu, đây là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. Như vậy, tiếng chim không chỉ
được cảm nhận bằng thính giác (“hót vang trời”) mà còn được cảm nhận bằng thị giác (“giọt long
lanh rơi”) và xúc giác (“đưa tay tôi hứng”). Tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
đạt đến độ tinh tế. “Hứng” thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu.
 Bằng sự kết hợp hài hoà giữa âm thanh và màu sắc cùng với lối nói ẩn dụ, đảo ngữ, tác giả đã vẽ ra
trước mắt người đọc một bức tranh mùa xuân đặc trưng của xứ Huế.
2. Cảm xúc về mùa xuân đất nước, Cách mạng
 Mùa xuân đất nước gắn liền với hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng” (Khổ 2)
o Tác giả đã sáng tạo những hình ảnh sóng đôi: “người cầm súng”, “người ra đồng”, biểu trưng cho hai
nhiệm vụ quan trọng của dân tộc ta: chiến đấu và xây dựng quê hương đất nước.
- “Người cầm súng” ra trận mang theo cành lá nguỵ trang, mang theo những chồi no, lộc biếc. Các anh
ra trận mang theo cả mùa xuân và chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc cũng là để bảo vệ mùa xuân cho đất
nước.
- “Người ra đồng” sản xuất, gieo những hạt mầm non. Họ như mang cả mùa xuân cho đồng ruộng,
gieo màu xanh của hạnh phúc ấm no.
 Nhà thơ đã cho thấy mối quan hệ giữa con người và mùa xuân. Mùa xuân phát triển sinh sôi theo
bước chân con người và con người lại gieo lộc xuân góp vào mùa xuân đất trời.
- Từ “lộc” không chỉ là chồi non của cây cối mà còn là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho tương lại,
thành quả cách mạng, sức sống mãnh liệt của mùa xuân.
- Điệp từ “lộc” kết hợp với từ “giắt đầy”, “trải dài” gợi màu xanh của sức xuân bất tận.
- Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương, náo nhiệt. Từ láy “hối hả”, “xôn xao” cùng
với điệp từ “tất cả”, gợi nhịp sống rộn ràng, khẩn trương
o Tác giả tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước (Khổ 3)
- Tác giả thể hiện niềm tin tưởng vào thành công của sự nghiệp cách mạng và gợi nhắc đến truyền
thống lịch sử bảo vệ và xây dựng đất nước.
- Nghệ thuật nhân hoá kết hợp với việc sử dụng từ láy trong câu thơ: “Đất nước …gian lao”, khieens
đất nước hiện lên như một bà mẹ tảo tần – bà mẹ Tổ quốc
- Hình ảnh so sánh: “Đất nước như vì sao” cho thấy vẻ đẹp tiềm ẩn của đất nước, tthể hiện niềm tự
hào đối với đất nước Việt Nam giàu đẹp, anh hùng. Đất nước ấy sẽ mãi toả sáng như những vì sao
trong hành trình đi đến tương lai hạnh phúc, tươi sáng.
- Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi” thể hiện quyết tâm cao độ, thái độ hiên ngang tiến lên phía
trước
3. Suy nghĩa và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân đất nước
a) Ước nguyện hoà nhập (Khổ 4)
 Hình ảnh ẩn dụ “Con chim hót” , “một cành hoa”, tượng trưng cho niềm vui, cái đẹp, tài trí của đất
nước, con người Việt Nam.
 Tác giả mượn hình ảnh đẹp của thiên nhiên, để nói lên ước nguyện của mình. Mong muốn sống đpẹ, có
ích, cống hiến phần tốt đẹp nhất của cuộc đời mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
 Việc lặp lại hình ảnh “tiếng chim”, “bông hoa” ở khổ đầu không chỉ tạo được sự đối ứng chặt chẽ mà
còn khẳng định ước nguyện nhà thơ theo một lẽ tự nhiên: con chim mang tiếng hót; bông hoa mang
hương sắc.
 Cống hiến sức lực mình cho đất nước nhwung tác giả coi đó là nhwunxg gì nhỏ bé như “một nốt trầm”
để hoà chung vào bản hoà ca chung của cuộc đời. Nếu mỗi người là “một” mùa xuân thì đất nước sẽ là
cả một mùa xuân vĩnh viễn với bầu trời đầy tiếng chim, mặt đất đầy tiếng hát.
 Đó là sự thống nhất giữa cá nhân và tập thể, giữa cái chung và cái riêng.
 Ở đây có sự chuyển đổi trong cách xưng hô từ “tôi” thành “ta”, nhằm nhấn mạnh ước muôn không chỉ
của riêng nhà thơ mà là ước nguyện chung của mọi người.
 Điệp ngữ “Ta làm”; điệp cáu trúc đã nhấn mạnh, tô đậm ước nguyện tha thiết, cháy bỏng, bền bỉ.
b) Ước nguyện cống hiến (Khổ 5)
 Hình ảnh “một mùa xuân nho nhỏ”, gợi một mùa xuân cụ thể đẹp đẽ, xinh xăn đồng thời cũng là một ẩn
dụ biểu lộ một lẽ sống cao đẹp, sống một cuộc đời đẹp nhưu những mùa xuân và dâng hiến cho đời
những gì tốt đẹp nhất của mình
 Đây là ước nguyện chân thành, khiêm tốn.
 Các từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” kết hợp với đảo ngữ “lặng lẽ dâng” đã tô đậm, gây ấn tượng cho thấy
ước nguyện đóng góp trong thầm lặng, không khoe khoang.
 Lời ước nguyện của nhà thơ đầy thuỷ chung, son sắt, được diễn tả qua hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi”
chỉ tuổi trẻ và “khi tóc bạc” chỉ khi về già. Cả cuộc đời giữ trọn lẽ sống: sống có ích, có ý nghĩa, cống
hiến suốt cuộc đời cho Tổ quốc, nhân dân.
 Điệp ngữ “dù là” đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết sâu lắng khắc sâu ước nguyện bền bỉ, chân
thành, đáng quý
4. Lời ca ngợi quê hương, đất nước (Khổ cuối)
 Mở đầu bài thơ là âm thanh tiếng hót chim chiền chiện và kết thúc bài thơ là âm thanh tiếng hát: “Mùa
xuân – ta xin hát”, tạo âm hưởng vang mãi.
 Tác giả đã mượn khúc “Nam ai, Nam bình” để thể hiện khúc ca mang trong đó nền văn hoá dân tộc, là
khúc hát của quê hương gợi sự nhắc về sự thuỷ chung tình nghĩa; là điệp khúc của sự trường tồn, niềm
tin yêu cuộc sống và hơn cả là niềm tự hào về quê hương, đất nước.
 Như vậy, xuyên suốt bài thơ là một bài ca không dứt. Phải yêu đời, lạc quan lắm mới có thể hát lên
trong hoàn cảnh nhà thơ lúc đó.
 Quê hương đất nước trải dài ngàn dặm, chan chứa tình yêu vì thế mà Thanh Hải muốn hoà nhập vào màu
xuân đất nước.
 Khổ thơ cuối là tiếng lòng của một trái tim sôi nổi, yêu đời, yêu sống, luôn tin tưởng vào tương lai đất
nước và khao khát dâng hiến cho đất nước, cho nhân dân.

You might also like