BÁO CÁO ĐỘ BỀN KHÁNG GÃY CỦA CHỐT SỢI THỦY TINH PHỤC HỒI COM

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

Y Học TP.

Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học

ĐỘ BỀN KHÁNG GÃY CỦA RĂNG PHỤC HỒI BẰNG CHỐT SỢI CÓ TÁI TẠO COMPOSITE

Phạm Văn Khoa*, Bùi Huỳnh Anh*, Lê Thị Thanh Thảo**,

TÓM TẮT

Mục tiêu: : Đánh giá độ bền kháng gãy của cùi răng tái tạo bằng chốt sợi thủy tinh và composite.
Phương pháp: Thử nghiệm in-vitro thực hiện trên 20 răng có một ống tủy đã được cắt bỏ phần thân
răng.

Mẫu được chia làm 2 nhóm để sửa soạn ống tủy, khoan chốt và gắn chốt sợi X-PostTM với composite
lưỡng trùng hợp Core- XTM flow.

Nhóm 1 được tái tạo cùi với composite quang trùng hợp Ceram XTM trám từng lớp

Nhóm 2 tái tạo cùi với composite Core- XTM flow (hãng sản xuất Densply).

Độ bền kháng gãy được đo khi đặt một tải lực trên mặt răng tạo với trục răng một góc 45o cho đến khi
có sự nứt gãy xảy ra.

Đồng thời các kiểu nứt gãy của chân răng cũng được ghi nhận. Xử lý số liệu và so sánh sự khác nhau
giữa 2 nhóm bằng SPSS phiên bản 16.0.

Kết quả: Giá trị lực nén gây nứt gãy đầu tiên của nhóm 1 là 344,24 ± 76,28 N và nhóm 2 là 512,54 ±
45,85 N. Giá trị lực nén gây nứt gãy hoàn toàn của 1 là 272,85 ± 74,26 N và nhóm 2 là 472,77 ± 110,68
N. Sự khác biệt của 2 nhóm có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Tất cả các răng của hai nhóm đều bị gãy ở
khối composite tái tạo cùi.

Kết luận: Composite lưỡng trùng hợp vừa dùng làm xi măng gắn chốt sợi, đồng thời cũng là vật liệu
tái tạo cùi răng Core- XTM flow có độ bền kháng gãy cao hơn so với composite quang trùng hợp tái
tạo cùi răng Ceram XTM.

Từ khóa: fiber post, độ bền kháng gãy ABSTRACT FRACTURE RESISTANCE OF ENDODONTICALLY
TREATED TEETH RESTORED WITH FIBER POST AND COMPOSITE CORE Pham Van Khoa, Bui Huynh Anh,
Le Thi Thanh Thao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 2 - 2015: 102 - 106 Objectives:
The aim of this study was to evaluate the fracture resistance of teeth restored with fiber post and
composite core. Methods: In this in vitro study, twenty mandibular premolars with single canal were
divided into 2 groups (n=10). All the canals were prepared, then the fiber posts (X-Posts) were
cemented with a dual-cure resin cement (Core-XTM flow-Densply). Nextly in group 1, the core
foundation was formed with a light-cure composite resin (Ceram XTM) with multi-layer technique;
while in group 2, the dual-cure resin Core-XTM flow was used for both post cementation and core
foundation. The fracture resistance was recorded when a static load was applied to the buckle surface
at a 45 degree inclination to the long axis of the tooth until the failure occurred. The failure paterns
were also observed. The data was analyzed with SPSS version 16.0. Results: The fracture strength mean
in group 2 (512.54 ± 45.85 N and 472.77 ± 110.68 N) was higher significantly than that in group 1
(344.24 ± 76.28 N and 272.85 ± 74.26 N) (p<0.001). All of the failures were found in the part restored
with resin composite material of the core foundation. Conclusion: The dual-cure resin Core-XTM flow
that combines both indications of “post-cementation” and * Bộ môn Chữa răng- Nội nha, Khoa Răng
Hàm Mặt, đại học Y Dược Tp.HCM ** Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM Tác giả liên lạc: BS Lê Thị
Thanh Thảo ĐT: 0973322041 Email: thanhthaorhm@gmail.com

102 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học “core build-up” has the
fracture resistance higher than that of light-cure composite resin Ceram XTM.

Key words: fiber post, fracture resistance. trục răng (chiều dài chân răng khoảng 15 mm).

ĐẶT VẤN ĐỀ Chia các răng ngẫu nhiên thành 2 nhóm 1 và 2 (n = 10) như sau: Phục hồi nha khoa mang
tính thẩm mỹ và chức năng ngày càng đặt ra yêu cầu cải tiến về cả kỹ thuật lẫn vật liệu. Phục hồi trực
tiếp răng sau nội nha bằng chốt sợi thay thế cho chốt kim loại và các loại composite tái tạo khác nhau
đang được áp dụng ngày một rộng rãi hơn trong Nha khoa hiện đại. So với composite quang trùng hợp
đặt từng lớp để tái tạo cùi, hệ thống composite lưỡng trùng hợp gắn chốt và tái tạo mới ra đời được
cho là có độ chịu lực tốt, tiết kiệm thời gian và chi phí hơn. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có sự đồng
thuận là composite nào tốt nhất để phục hồi tái tạo trực tiếp sau khi nội nha. Do đó, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu này với các mục tiêu: Nhóm Chốt Xi măng gắn chốt Vật liệu tái tạo cùi Nhóm 1 X -
Post Nhóm 2 X - Post Core XTM flow Core XTM flow Ceram XTM Core XTM flow Các chân răng được
sửa soạn ống tủy với trâm nội nha (trâm dũa K số 40 đi hết chiều dài làm việc và sửa soạn bước lùi tới
trâm dũa K số 80 -Dentsply Maillefer) và bơm rửa ống tủy với dung dịch NaOCl 2,5%. Trám bít ống tủy
bằng kỹ thuật lèn ngang với côn gutta percha và chất trám bít ống tủy AH 26. Cắt côn, nhồi gutta
percha, chụp phim tia X kiểm tra kết quả trám bít ống tủy. Sửa soạn ống mang chốt 24 giờ sau khi trám
bít ống tủy với độ sâu tương đương nhau (xấp xỉ 9 mm) bằng các lấy đi phần trám bít tương ứng với
đường kính chốt bằng mũi khoan Peeso, sau đó sử dụng mũi khoan ống mang chốt dùng cho chốt X
Post số 2 sửa soạn phần ống mang chốt. Chụp phim tia X kiểm tra (Hình 1). Thử chốt X Post số 2 cho tất
cả chân răng. 1. Đánh giá độ bền kháng gãy của cùi răng tái tạo bằng chốt sợi thủy tinh và composite
quang trùng hợp. 2. Đánh giá độ bền kháng gãy của cùi răng tái tạo bằng chốt sợi thủy tinh và
composite lưỡng trùng hợp. 3. So sánh độ bền kháng gãy của cùi răng tái tạo bằng chốt sợi thủy tinh
và composite quang, lưỡng trùng hợp. 4. Khảo sát các kiểu nứt gãy của cùi răng tái tạo bằng chốt sợi
thủy tinh và composite quang, lưỡng trùng hợp.

ĐỐITƯỢNG–PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU Mẫu nghiên cứu gồm 20 răng cối nhỏ hàm dưới kích thước
tương đối đều nhau đã nhổ của người trưởng thành có các tiêu chuẩn sau: chân răng đã đóng chóp,
không bị sâu, nứt, gãy, ngoại tiêu; ống tủy không cong dạng chữ S hay chữ C, không bị vôi hóa, nội tiêu.
Chiều dài chân răng tối thiểu là 10 mm, kích thước vùng cổ răng tối thiểu là 7 mm theo chiều ngoài
trong và tối thiểu là 5 mm theo chiều gần xa. Hình 1: phim X quang chân răng đã được trám bít ống tủy
(hình a), chân răng sau khi khoan chốt (hình b) Quy trình đặt chốt: xoi mòn thành ống tủy chân răng và
cả bề mặt thân răng bằng axit (Detrey Conditioner 36) trong 15 giây; bơm rửa và lau khô ống tủy bằng
côn giấy; bôi hỗn hợp keo dán và chất kích hoạt trùng hợp (XP Bond và Cắt bỏ thân răng bằng đĩa cắt
kim cương trên đường nối men-xê măng 2 mm, vuông góc với 103 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học Self Cure Activator) vào
ống tủy 20 giây, thổi khô nhẹ trong 5 giây; làm ướt toàn bộ chốt với hỗn hợp keo dán và chất kích hoạt
trùng hợp trong 5 giây, thổi nhẹ; gắn đầu trộn vào ống composite Core XTM flow và bơm vào ống tủy;
đặt chốt sợi vào ống tủy, giữ chốt cố định, lấy bỏ phần xi măng dư và chiếu đèn quang trùng hợp 20
giây. chuyển với vận tốc 1,0 mm/phút đến khi cùi răng bắt đầu xuất hiện nứt gãy đầu tiên thì màn hình
máy tính sẽ hiển thị giá trị lực nén này (lực I). Cây đo lực tiếp tục di chuyển với vận tốc không đổi đến
khi cùi răng nứt gãy hoàn toàn, ghi nhận lại các giá trị lực nén này (lực II). Cắt lấy răng ra khỏi khối nhựa
và quan sát kiểu gãy của từng mẫu. Quy trình tái tạo thân răng có sự khác biệt giữa hai nhóm. Nhóm 1:
Thoa keo dán, chờ 15 giây, thổi nhẹ, chiếu đèn 10 giây. Đặt khuôn trám dạng cùi răng, nhồi composite
Ceram XTM mỗi lớp không dày quá 2 mm, chiếu đèn 20 giây cho từng lớp. Chiếu đèn 40 giây sau khi
đặt lớp cuối cùng. Nhóm 2: Đặt khuôn trám dạng cùi răng, bơm tiếp composite Core XTM flow qua đầu
ống trộn để tái tạo phần thân răng, chiếu đèn 20 giây cho mỗi lớp có bề dày khoảng 3 mm. Sau khi
hoàn tất, chiếu đèn 40 giây từ mỗi bên.

KẾT QUẢ Nhóm răng tái tạo bằng chốt sợi thủy tinh và composite Ceram XTM (nhóm 1): Lực I có giá trị
nhỏ nhất là 231,8 N và giá trị lớn nhất là 472,2 N; lực II có giá trị nhỏ nhất là 130,69 N và giá trị lớn nhất
là 387,87 N. Nhóm răng tái tạo bằng chốt sợi và composite Core XTM flow (nhóm 2): Lực I có giá trị nhỏ
nhất là 442,8 N và giá trị lớn nhất là 571,2 N; lực II có giá trị nhỏ nhất là 200,7 N và giá trị lớn nhất là
571,2 N. Giá trị trung bình và độ lệch chuẩn của lực gây nứt gãy đầu tiên (lực I) và lực gây nứt gãy hoàn
toàn (lực II) của 2 nhóm nghiên cứu thể hiện trong bảng 1: Sau đó, tất cả các mẫu của 2 nhóm đều
được sửa soạn lại phần cùi răng với mũi kim cương và nước phun sương. Khối composite thân răng sau
khi hoàn tất có chiều cao 4 mm, kích thước ngoài - trong 5 mm, gần - xa 4 mm (Hình 2). Bảng 1: Giá trị
trung bình của lực I và lực II của 2 nhóm Ceram XTM và Core XTM flow Lực I (N) Lực II (N) Nhóm Lực
trung Độ lệch chuẩn Lực trung Độ lệch chuẩn bình bình 12344,24 512,54 76,28 45,85 272,85
472,77 74,26 110,68 Kiểm định t cho 2 mẫu độc lập (p<0,001) cho thấy giá trị lực trung bình gây nứt
gãy đầu tiên trên răng (lực I) và giá trị lực trung bình gây nứt gãy hoàn toàn trên răng (lực II) ở hai
nhóm đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tất cả các răng của 2 nhóm nghiên cứu đều bị gãy ở
khối composite tái tạo cùi (Hình 3). Không ghi nhận được trường hợp nào gãy chốt hoặc gãy chân răng.
Hình 2: Hoàn tất giai đoạn tái tạo phần thân răng (A. nhóm Ceram XTM; B. nhóm Core XTM flow) Độ
bền kháng gãy được đo bằng máy đo cơ lý vạn năng (LLOYD LR30K) (Hãng Lloyd – Hoa Kì). Đặt lần lượt
từng mẫu vào phần đế của máy đo sao cho mặt phẳng đế tạo một góc 45º với sàn nhà. Cho đầu cây đo
lực tiếp xúc với mặt trên cùi răng tại khe tạo sẵn ở múi ngoài. Cây đo lực di Tuy nhiên, kiểu gãy ở khối
vật liệu composite tái tạo của 2 nhóm cũng có sự khác nhau. Ở nhóm 1, nứt gãy phần lớn ở bên trong
lòng khối vật liệu mà không liên quan đến giao diện giữa chốt và khối composite tái tạo 104 Chuyên Đề
Răng Hàm Mặt

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học cùi (90%). Trong khi đó ở
nhóm 2 thì sự nứt gãy hầu hết diễn ra dọc theo giao diện giữa chốt và khối composite tái tạo hoặc
composite với ngà chân răng (80%). Ngoài ra, kết quả quan sát nghiên cứu này cho thấy 100% răng tái
tạo bằng chốt sợi thủy tinh và hai hệ thống composite quang, lưỡng trùng hợp đều bị gãy ở khối vật
liệu composite, đây là một kiểu gãy thuận lợi vì nó cho phép khả năng sửa chữa. Trong đó có 55% mẫu
gãy khối composite, 45% mẫu gãy giao diện dán giữa composite - chốt và giữa composite - ngà chân
răng. Không có mẫu nào gãy ở chốt hoặc gãy ở chân răng (kiểu gãy không thuận lợi). So sánh với kết
quả của nhiều nghiên cứu khác đo độ bền kháng gãy của răng được phục hồi với các hệ thống chốt ống
tủy khác nhau thì kết quả chưa có về kiểu gãy chân răng nào được ghi nhận ở nhóm răng được phục
hồi với chốt sợi(1,2). Nứt, gãy chân răng là hậu quả không mong muốn từ bệnh nhân và cả người điều
trị. Và đó là kiểu gãy không thuận lợi vì có thể dẫn đến nhổ răng. Kết quả của chúng tôi tương tự nghiên
cứu của Đinh Thị Khánh Vân (2010) có 100% gãy ở khối composite tái tạo cùi và không có nứt gãy chân
răng trên răng tái tạo bằng chốt sợi(2). Hình 3: Kiểu gãy ở khối composite tái tạo.

BÀN LUẬN Theo kết quả nghiên cứu thu được, răng cối nhỏ hàm dưới được tái tạo bằng chốt sợi thủy
tinh và composite Core XTM flow chịu tải lực trung bình làm nứt gãy cao hơn Ceram XTM. Giá trị lực
gây nứt gãy của nghiên cứu thấp hơn so với nghiên cứu của Kim Young Hoi (2012) so sánh độ bền
kháng gãy trên các răng cối nhỏ hàm dưới phục hồi với chốt sợi thạch anh và 2 hệ thống composite
quang, lưỡng trùng hợp. Kết quả nghiên cứu này cho thấy nhóm răng phục hồi với chốt sợi thạch anh
và composite quang trùng hợp đề kháng gãy với lực nén trung bình là 1420,7 (độ lệch chuẩn 464,1) cao
hơn so với nhóm răng được phục hồi tái tạo với chốt sợi thạch anh và composite lưỡng trùng hợp là
1307,6 (độ lệch chuẩn 451,1). Mức đề kháng gãy này cao hơn nhóm răng cối nhỏ hàm dưới được phục
hồi với chốt sợi thủy tinh và composite lưỡng trùng hợp là 1050,1 (độ lệch chuẩn 438,8). Đơn vị đo lực
là Newtons (N). Tuy nhiên sự khác biệt giữa 2 nhóm trong nghiên cứu này là không đáng kể(3). Nghiên
cứu của Đinh Thị Khánh Vân (2010), giá trị lực trung bình gây nứt gãy đầu tiên trên răng tái tạo bằng
chốt sợi và composite quang trùng hợp là 206,9 ± 57,83 N(2) thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi. Tất cả
các hệ thống chốt ống tủy đều có tỷ lệ thất bại trên lâm sàng. Đa số răng phục hồi với chốt ít cứng chắc
(chẳng hạn như chốt sợi) thì có xu hướng có khả năng sửa chữa được(4). Ưu điểm lớn nhất của chốt sợi
là có mô đun đàn hồi tương tự với mô đun đàn hồi của ngà răng. Nhờ đó tạo thành phức hợp ngà chân
răng - chốt - cùi răng xuyên suốt theo bề mặt dán cho phép sự dẫn truyền lực dọc theo chân răng tốt
hơn. Điều đó giải thích vì sao hiếm có kiểu gãy chân răng ở các răng tái tạo trực tiếp với hệ thống chốt
sợi và composite(5). KẾT LUẬN Composite loại lưỡng trùng hợp vừa dùng làm xi măng gắn chốt sợi,
đồng thời cũng là vật liệu tái tạo cùi răng có độ bền kháng gãy cao hơn so với composite loại quang
trùng hợp tái tạo cùi răng trong nghiên cứu. Các nứt gãy trên cùi răng tái tạo bằng chốt sợi thuỷ tinh và
composite là kiểu gãy thuận lợi cho phép sự sửa chữa. 105 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 2 * 2015 Nghiên cứu Y học 5. Wahadni AM. , Hamdan
S. , Omiri M. , Hammad MM. , Hatamled MM. (2008) “Fracture resistance of teeth restored with
different post systems: in vitro study”. Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod. 106 (2): e 77-
83. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Adanir N, Belli S. (2008). “Evaluation of different post lengths effect on
fracture resistance of a glass fiber posts system”. Eur J Dent. 2(1): 23-8. 2. Đinh Thị Khánh Vân, Nguyễn
Thị Minh Hiền (2010), Độ bền kháng gãy của răng được phục hồi bằng chốt kim loại làm sẵn và chốt sợi
thủy tinh, Cập nhật nha khoa, Đại học Y-Dược TP.HCM. Ngày nhận bài báo: 09/02/2015 02/03/2015
Ngày phản biện nhận xét bài báo: Người phản biện: 3. 4. Kim YH, Lee JH (2012), “Influence of
modification in core building procedure on fracture strength and failure patterns of premolars restored
with fiber post and composite core”, The Journal of Advanced Prosthodontics, 4(1): 37-42. TS Trần
Hùng Lâm 10/04/2015 Ngày bài báo được đăng: Torabi K, Farnaz F(2009), ”Fracture resistance of
endodontically treated teeth restored by different FRC posts: an in vitro study”, Indian journal of dental
research. 20 (3), pp

You might also like