Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

Đề bài nghị luận Phú sông Bạch Đằng: 

     Nhận định về tác phẩm "Phú sông Bạch Đằng" của Trương Hán Siêu, giáo sư
Nguyễn Đình Chú có viết: "Giá trị của phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào
khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc".
Ý kiến của anh chị về ý kiến trên.
Mở bài nghị luận Phú sông Bạch Đằng
 Văn học trung đại đã có thời kỳ phát triển đến đỉnh cao với nhiều tác phẩm nổi tiếng từ chữ Hán
đến Nôm, từ đủ các thể loại: thơ, cáo, phú, hịch,... Bài “Phú sông Bạch Đằng” (“Bạch Đằng
giang phú”) được sáng tác bởi môn khách của Trần Quốc Tuấn - Trương Hán Siêu - một người
tính tình cương trực, am hiểu nhiều lĩnh vực, rất được nhân dân và vua Trần tín nhiệm. Bài phú
được sáng tác sau chiến công vang dội của quân ta trước kẻ xâm lược Nguyên - Mông, lấy cảm
hứng từ dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Đánh giá về “Phú sông Bạch Đằng” giáo sư Nguyễn Đình
Chú viết: "Giá trị của phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận Bạch
Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc". 
Thân bài nghị luận Phú sông Bạch Đằng
     Sông Bạch Đằng được mệnh danh là dòng sông của lịch sử. Bởi chính nơi đây đã chứng kiến
nhiều trận đánh với những chiến thắng hào hùng của quân dân ta trước kẻ thù xâm lược. Tại đây,
Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán, giết Lưu Hoằng Thao năm 938; Lê Hoàn chiến thắng
quân Tống năm 982 và Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên - Mông bắt sống Ô Mã Nhi năm
1288. Bạch Đằng đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác bất tận của thơ ca.
 Trong một lần du ngoạn bốn phương, có dịp đứng trước dòng sông Bạch Đằng hùng vĩ, Trương
Hán Siêu đã sáng tác nên bài “Phú sông Bạch Đằng” nhằm ghi lại những cảm thức khó tả của
bản thân khi ghé thăm chốn cũ. Bài phú được viết theo thể phú cổ thể, viết bằng chữ Hán, mượn
hình thức đối đáp giữa hai nhân vật chủ - khách để bày tỏ, diễn đạt nội dung, câu có vần, không
nhất thiết có đối, kết bằng thơ. Nhân vật khách chính là tác giả, có thú tiêu dao, du ngoạn bốn bể
cũng là để bổ sung kiến thức, tìm hiểu lịch sử dân tộc, noi gương vị sử gia nổi tiếng Trung Quốc
đời Hán Tử Trường. Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng mà khách gặp, vừa là dân địa
phương, vừa là những người đã từng chứng kiến, từng tham gia chiến trận. 
     Đứng trước Bạch Đằng giang một thời hùng dũng, “hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng”
sống dậy một cách chân thực nhất trong từng câu chữ. Trước mắt như hiện ra khung cảnh thiên
nhiên vô cùng mỹ lệ, hùng vĩ:
“Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời: một sắc,
Phong cảnh: ba thu.”
     Tác giả sử dụng hàng loạt từ láy “bát ngát”, “thướt tha”, mở ra một không gian rộng lớn, rợn
ngợp. Dòng sông như trải dài muôn dặm, trên đó, những chiếc thuyền nối đuôi nhau như đuôi
của chim trĩ, vô cùng đẹp mặt mà cũng rất hào hùng. Dường như, ở chính nơi ấy, mọi thứ đều hài
hòa, vẻ đẹp cũng quyện lại vào nhau, màu trời, màu nước và lòng người đều hợp lại thành một,
mê đắm. Phong cảnh ấy tựa như tranh vẽ, đã đạt đến độ chín nhất.
     Khi người khách đang thả hồn mình trước nét đẹp của “sóng kình muôn dặm”, người chủ - 
các bô lão ở ven sông - đã tái hiện lại cho nhân vật khách nghe về những trận chiến hào hùng tại
chính nơi này:
“Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”
     Cảnh đẹp như thế, nhưng nơi đây từng là chiến trận, khí thế chiến đấu rập trời, nhuộm đỏ máu
tươi. Hai trận đánh lớn được kể ra tựa như một cuốn phim tua châm, trở về với lịch sử: trận đánh
năm 1288 “Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã”, kế đến là chiến thắng của Ngô Quyền năm 938
phá tan đội quân Hoằng Thao. Đó là những trang vàng lịch sử chói lọi của dân tộc. 
     Bài phú đặc tả về trận đánh năm 1288 của vua tôi nhà Trần:
“Thuyền tàu muôn đội,
Tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ Bắc Nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.”
     Đó là một thế trận cân sức cân tài, địch và ta đều vô cùng quyết chiến, hai bên giằng co, bất
thân thắng bại, dự đoán cho một trận thủy chiến ác liệt. Hàng loạt từ ngữ gợi tả được tác giả sử
dụng để miêu tả chiến trận ngay lúc ấy. Thuyền tàu nhiều vô kể “muôn đội”, quân đông “sáu
quân”, cờ bay phấp phới, giáo gươm đã chuẩn bị kỹ càng.
     Kẻ thù hết mực hung hăng, kiêu ngạo, xem thường quân ta như cỏ rác, quyết tâm quét sạch
nước ta:
“Kìa:
Tất Liệt thế cường,
Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.”
     Từ Tất Liệt, Lưu Cung đều kể mình quân mạnh “thế cường”, “chuốc dối”, cho rằng một roi
gieo xuống là có thể biến nước Nam thành của mình. Nhưng rõ ràng, chẳng gì có thể địch lại
được truyền thống yêu nước đang hừng hực cháy, dù “đầu bay, máu chảy” vẫn kiên cường, bất
khuất đứng lên mà đánh đuổi bọn cướp nước ra khỏi bờ cõi, một ngọn cỏ cũng không được để
mất. Và quân dân ta thực sự đã giành thắng lợi:
“Khác nào như khi xưa:
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”
     Chiến thắng ấy không thua bất kỳ một chiến công vang dội nào trong lịch sử. Bằng hình ảnh
so sánh, kể về trận Xích Bích, Hợp Phò và sự đại bại của quân địch, Trương Hán Siêu đã cho
thấy được sự thảm hại của đội quân Mông - Nguyên. Không cần phải đao to, múa lớn, bằng
những từ ngữ súc tích, ngắn gọn nhất mà tác giả đã truyền đến cho người đọc không khí quyết
liệt, chiến thắng oanh liệt nhất của trận đánh tại chiến trận này.
     Nghị luận Phú sông Bạch Đằng ta còn thấy được tài năng của nhà thơ, ông khéo léo kết hợp
câu văn dài ngắn linh hoạt, câu dài gợi không khí trang nghiêm, câu ngắn lại lột tả không khí gấp
gáp, hết sức căng thẳng.
     Không chỉ có thế, bài phú “còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc”. Đó là chân lý về vai
trò, sức mạnh vô tận của con người:
“Từ có vũ trụ,
Đã có giang san.
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.
Hội nào bằng hội Mạnh Tân: như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Du Thuỷ: như quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi đại vương coi thế giặc nhàn.”
     Chiến thắng được làm nên là bởi các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nhưng trên tất cả
chính là vai trò, vị trí của con người: “Nhân tài giữ cuộc điện an”. Bằng cách mượn hình ảnh các
danh nhân, điển tích của Trung Quốc: “vương sư họ Lã”, “quốc sĩ họ Hàn”, tác phẩm ca ngợi
con ngươi Đại Việt, đặc biệt là Trần Hưng Đạo. Người tướng tài ấy vô cùng giỏi trong mưu lược,
dụng quân, phán đoán tình hình và lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến. Cũng nhờ tài thao lược,
những chiến thuật đánh phù hợp, kịp thời và cách điều động quân lính linh hoạt nên mới xóa bỏ
được âm mưu xâm lược, khiến quân địch đại bại
 Với Trương Hán Siêu, người tướng có tài thôi là chưa đủ, nhân vật khách đã đưa ra đạo lý khác
của dân tộc. Con người cần có đức cao, sống có tình có nghĩa như truyền thống bao đời nay:
“Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”
     Cuối cùng là chân lý về sự bất tử của những anh hùng như dòng sông kia hùng vĩ và bất biến:
“Sông Đằng một dải dài ghê,
Sóng Hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh!”
     Những người anh hùng dân tộc đó, dù đã hi sinh nhưng tiếng thơm còn lưu danh tới muôn đời
sau, đời đời ghi nhớ; chỉ những người bất nghĩa tiêu vong. Bởi chân lý của dân tộc ta là trọng
tình trọng nghĩa, biết ơn những người đã xả thân cứu nước, đóng góp công sức và có chiến công
trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
     Bài Phú sử dụng nhiều chi tiết mang hình ảnh điển tích chọn lọc kết hợp với thủ pháp liên
ngâm, hình thức đối đáp. Tác giả sáng tạo hình tượng nhân vật “khách” nhân vật “các bô lão” để
thể hiện ý đồ nội dung. Bên cạnh đó, việc liên hệ đến các nhân vật, trận đánh trong lịch sử cũng
mang lại giá trị nghệ thuật vô cùng lớn. Tất cả cô đọng lại, tạo nên “đỉnh cao của thể phú trong
văn học trung đại”.
Kết bài nghị luận Phú sông Bạch Đằng
     Không sai khi nói rằng: "Giá trị của phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu
của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc". “Phú sông Bạch Đằng”
không chỉ cho độc giả được một lần chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, khơi dậy lòng tự
hào dân tộc sâu sắc. Mà ở đó, người đọc tựa như đang tận mắt chứng chiến khí thế chiến đấu
mãnh liệt của trận đánh trên dòng Bạch Đằng giang cũng chính là nhắc nhở cho chúng ta những
chân lý sống muôn đời của dân tộc. Đó là tinh thần yêu nước sâu sắc, tình yêu thiên nhiên, hoài
bão hoàn thiện bản thân, để có thể đứng lên bảo vệ tổ quốc lúc nguy nan nhất; đồng thời nhắc
nhở mỗi người “ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”, biết ơn những hi sinh, mất mát mà ông cha ta đã
đánh đổi. 

You might also like