Professional Documents
Culture Documents
BTN2
BTN2
+ Cương lĩnh tháng 2/1930: xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến, bao
gồm 2 mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp xâm
lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động (chủ yếu là nông dân) với địa chủ phong kiến,
trong đó, mâu thuẫn cơ bản nhất, gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa một bên là thợ thuyền,
dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
+ Luận cương chính trị (10/1930): mâu thuẫn diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền,
dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
+ Chính cương đảng lao động Việt Nam: lúc này, xã hội Việt Nam gồm 3 tính chất: dân
chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn
nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và
tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân
tộc VN chống thực dân Pháp và bọn can thiệp.
+ Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941: nhân dân Đông Dương phải chịu
những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh thế giới, vì vậy thái độ chính trị của các giai
cấp có thay đổi khá lớn. Mâu thuẫn chủ yếu phải được giải quyết cấp bách lúc này là mâu
thuẫn giữa các dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của chính cương Đảng lao động Việt Nam so với cương lĩnh
và luận cương: chính cương đã xác định được mâu thuẫn chính và quan trọng nhất của
xã hội lúc này là mâu thuẫn giữa dân chủ nhân dân và thuộc địa.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của của Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941 so
với chính cương: Hội nghị trung ương xác định mâu thuẫn cần giải quyết là giữa các dân
tộc Việt Nam và bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật.
- Về đối tượng cách mạng:
+ Cương lĩnh tháng 2/1930: bọn đế quốc, phong kiến và tư sản phản cách mạng
+ Luận cương chính trị (10/1930): chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít
+ Chính cương đảng lao động Việt Nam: xác định rõ hai đối tượng, đối tượng chính là
chủ nghĩa đế quốc (thực dân Pháp và can thiệp Mỹ), đội tượng phụ là bọn phong kiến
phản động.
+ Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941: giải phóng cho được các dân tộc
Đông Dương khỏi ách cai trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của chính cương Đảng lao động Việt Nam so với cương lĩnh
và luận cương: cũng như cương lĩnh, chính cương Đảng lao động Việt Nam xác định rõ 2
đối tượng cần đấu tranh lật đổ.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của của Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941 so
với chính cương: Hội nghị đề cập thêm một đối tượng cách mạng khác so với chính
cương, đó là phát xít Nhật.
- Về nhiệm vụ cách mạng:
+ Cương lĩnh tháng 2/1930: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho
nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
+ Luận cương chính trị (10/1930): Thực hiện cách mạng tư sản dân quyền có tính chất
thổ địa và phản đế, sau đó bỏ qua thời kỳ tư bản, tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa
Trong đó, hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến có mối quan hệ khăng khít
+ Chính cương đảng lao động Việt Nam: cách mạng Việt Nam phải giải quyết mâu thuẫn
giữa chế độ dân chủ nhân dân Việt Nam và những thế lực phản động. Những di tích
phong kiến cũng làm cho xã hội Việt Nam đình trệ. Do đó cách mạng Việt Nam có hai
đối tượng. Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc
Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến
phản động.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc
lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong
kiến.
Tóm lại, cách mạng dân chủ nhân dân giải quyết 2 vấn đề dân tộc và dân chủ cụ thể là 3
nhiệm vụ đánh đổ thực dân Pháp (dân tộc), xỏa bỏ tàn dư phong kiến, phát triển chế độ
dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
+ Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941: Mục tiêu đấu tranh được xác định là
giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương khỏi ách cai trị của Pháp - Nhật, nhấn
mạnh: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của chính cương Đảng lao động Việt Nam so với cương lĩnh
và luận cương: về cơ bản, chính cương đảng lao động Việt Nam đã kết hợp đúng đắn
nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến, đặt công cuộc chống ngoại xâm,
giải phóng dân tộc lên làm ưu tiên hàng đầu.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của của Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941 so
với chính cương: cả hai đều nêu rõ nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu là giải phóng dân tộc khỏi
ách thống trị của bọn xâm lược.
- Về lực lượng cách mạng:
+ Cương lĩnh tháng 2/1930: tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo; lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư
sản, trí thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa
chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất cũng
làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
+ Luận cương chính trị (10/1930): Lực lượng cách mạng được nêu ra bao gồm có giai cấp
vô sản ở Đông Dương-“động lực chánh và rất mạnh của cách mạng ở Đông Dương” và
dân cày, lực lượng này được coi như là “động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân
quyền”, chiếm đại đa số ở Đông Dương. Có thể thấy, giai cấp vô sản là động lực chính
của cách mạng tư sản dân quyền, và là giai cấp lảnh đạo
+ Chính cương đảng lao động Việt Nam: lực lượng chính yếu tham gia vào phong trào
cách mạng bao gồm giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí
thức, tư sản dân tộc, thân sĩ yêu nước tiến bộ.
+ Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941: Tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân
tộc, “không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lòng
yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất mặt trận, thu góp toàn lực đem tất cả ra
giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc”.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của chính cương Đảng lao động Việt Nam so với cương lĩnh
và luận cương: chính cương đã tập hợp được hầu hết các lực lượng yêu nước tham gia
vào phong trào cách mạng giải phóng dân tộc.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của của Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941 so
với chính cương: hội nghị và chính cương đều chủ trương tập hợp hầu hết các lực lượng
yêu nước tham gia vào phong trào cách mạng.
- Về nhiệm vụ chiến lược:
+ Cương lĩnh tháng 2/1930: chuẩn bị cho quần chúng về con đường “ võ trang bạo động”
dựa trên điều lệ và khuôn phép để dành chính quyền.
+ Luận cương chính trị (10/1930): Cách thức đấu tranh cách mạng cũng đã được Đảng
nêu rõ thông qua Luận cương, bằng cách thực hiện bạo lực cách mạng, vũ trang bạo động
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thế nhưng Đảng cũng có những lưu ý để tránh tình trạng vũ
trang bạo động quá sớm, manh động, mà cốt là để huy động đại đa số quần chúng thực
hiện bãi công, thị oai nhằm dự bị họ cho các cuộc vũ trang bạo động sau này. Đảng cũng
khẳng định, cách mạng vô sản ở Đông Dương cần phải có sự liên lạc mật thiết với vô sản
thế giới, nhất là vô sản ở Pháp để làm mặt trận vô sản cho “mẫu quốc” và thuộc địa nhằm
tạo ra sức tranh đấu cho cách mạng.
+ Chính cương đảng lao động Việt Nam: trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đại thể
trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân
tộc. Giai đoạn thứ hai, cần phải Xóa bỏ đi di tích phong kiến và nữa phong kiến, thực
hiện triệt để người cày có ruộng. Giai đoạn thứ ba, xây dựng cơ sở chủ nghĩa xã hội.
+ Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941: xác định phương pháp cách mạng là
"cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị
quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực
lượng sẵn có ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương
cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn".
Những bổ sung, hoàn chỉnh của chính cương Đảng lao động Việt Nam so với cương lĩnh
và luận cương: chính cương đã xác định rõ ràng hướng đi trên con đường giải phóng dân
tộc, đó là vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, đồng thời cần xây dựng hậu phương
vững chắc.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của của Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941 so
với chính cương: Hội nghị trung ương tám chủ trương xúc tiến công cuộc giải phóng dân
tộc bằng khởi nghĩa vũ trang, mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi to lớn.
- Về phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc:
+ Cương lĩnh tháng 2/1930: trong Cương lĩnh 1930, từ những vấn đề, mâu thuẫn trong
thực tiễn ở Việt Nam, Đảng đã đề ra các chính sách, nhiệm vụ cách mạng ở bản xứ chứ
không vượt ra khắp Đông Dương. Do đó, có thể khẳng định phạm vi giải quyết vấn đề
dân tộc theo như Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra nằm ở phạm vi
trong nước.
+ Luận cương tháng 10/1930: luận cương chính trị tháng 10/1930 đã xác định phạm vi
giải quyết vấn đề dân tộc không chỉ gói gọn ở Việt Nam mà là trên toàn xứ Đông Dương.
+ Chính cương đảng lao động Việt Nam: chính cương Đảng lao động Việt Nam khẳng
định dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên, Lào và hết sức giúp đỡ hai
dân tộc ấy cùng nhau kháng chiến chống đế quốc xâm lược, giải phóng cho tất cả các dân
tộc Đông Dương.
+ Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941: Giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên
bán đảo Đông Dương, thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp-
Nhật, các dân tộc trên cõi Đông Dương sẽ “tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay
đứng riêng thành lập một quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa
nhận và coi trọng”.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của chính cương Đảng lao động Việt Nam so với cương lĩnh
và luận cương: cũng giống như luận cương chính trị tháng 10/1930, chính cương Đảng
lao động đã mở rộng phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc so ra toàn cõi Đông Dương, khác
với cương lĩnh tháng 2/1930, khi phạm vi tập trung chủ yếu ở trong nước.
Những bổ sung, hoàn chỉnh của của Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng 5/1941 so
với chính cương: Hội nghị quyết định đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của một nước
Việt Nam, Lào, Khơ me, thi hành đúng quyền “dân tộc tự quyết", với tinh thần liên hệ
mật thiết, giúp đỡ nhau giành thắng lợi thay vì giải quyết vấn đề dân tộc trên toàn Đông
Dương.
Tiểu kết:
Có thể thấy, cả chính cương, luận cương và cương lĩnh đều hướng tới con đường cách
mạng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu chung nhất là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, sử
dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về vũ trang lẫn chính trị nhằm đạt
mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến để giành độc lập
và thống nhất thật sự cho dân tộc. Tuy nhiên, luận cương chính trị chỉ ra rằng, sau khi
cách mạng tư sản dân quyền thành công, sẽ tiếp tục “phát triển bỏ qua thời kì tư bản chủ
nghĩa, đi thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”, trong bản luận cương này thổ địa cách
mạng nằm trong cách mạng tư sản dân quyền và là nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân
quyền. Trong khi đó, chính cương đảng lao động Việt Nam xác định rõ ba tính chất của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời nêu ra quan điểm: nhiệm vụ giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ chính; và tiếp đó là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây
dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị trung ương Đảng lần thứ tám tháng 5/1941 đưa ra những bổ sung, làm chặt chẽ
thêm những nhiệm vụ, kế hoạch đề ra trong chính cương Đảng lao động Việt Nam, tạo
những bước chạy đà vững chắc, có ý nghĩa quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám
năm 1945.
4. Kết luận:
Kết luận:
Thế giới đang đứng trước nguy cơ gánh chịu cuộc chiến tranh thứ ba do phe đế quốc
phản dân chủ suy yếu, cố vớt vác chút quyền uy bằng những cuộc chiến tranh xâm lược
quy mô lớn, nhằm thẳng vào các nước thuộc phe dân chủ chống đế quốc, Tuy nhiên, nhờ
chiến thắng vang dội của chủ nghĩa xã hội, đánh bại chủ nghĩa phát xít, cách mạng nhân
dân đã được mở rộng ra các nước, phong trào giải phóng thuộc địa và nửa thuộc địa đang
sục sôi, đe dọa đánh bật gốc chủ nghĩa đế quốc. Lợi thế đang nghiêng về dân tộc Việt
Nam khi lòng căm thù thực dân Pháp đã lên đến đỉnh điểm, xã hội Việt Nam bao gồm ba
tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Các mâu thuẫn
chồng chéo, tuy nhiên nổi cộm và cần được giải quyết trước hết là mâu thuẫn giữa tính
chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa.
Đại hội Đảng lần II (2/1951) thông qua văn kiện Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
xác định nội dung và đường lối cách mạng là Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân với
nhiệm vụ cốt yếu và quan trọng nhất là Dân tộc Dân chủ lấy nhân dân làm cốt.
Tính chất xã hội Việt Nam Ba tính chất: Dân chủ nhân dân, một phần
thuộc địa và nửa phong kiến
Đối tượng cách mạng Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm
lược, cụ thể là đế quốc Pháp và bọn can
thiệp Mỹ
Đối tượng phụ là phong kiến, cụ thể là
phong kiến phản động
Nhiệm vụ cách mạng Các nhiệm vụ cơ bản bao gồm:
Thứ nhất là đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất thật sự
cho dân tộc
Thứ hai là xoá bỏ những di tích phong
kiến và nửa phong kiến, làm cho người
cày có ruộng
Thứ ba là phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ trên có mối quan hệ khăng
khít. Tuy nhiên nhiệm vụ chính là hoàn
thành giải phóng dân tộc.
Lực lượng tham gia cách mạng Nhân dân nói chung, bao gồm tất cả giai
cấp mang lòng yêu nước và sẵn sàng cho
cách mạng: công nhân, nông dân, tiểu tư
sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản
dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa
chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp,
tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân
dân.
Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp
công nhân
Hình thức đấu tranh Chiến tranh nhân dân: toàn dân, toàn diện,
trường kỳ
Quan hệ quốc tế: Việt Nam ủng hộ hòa
bình tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã
hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của
Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết
Việt - Trung - Xô và đoàn kết Việt - Miên
- Lào.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc Cuộc cách mạng được xác định tập trung
trong phạm vi giải quyết những mâu thuẫn
trong dân tộc Việt Nam
Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (2/1951) được xem là một bước tiến hoàn chỉnh
của Luận cương chính trị năm 1930. Những điểm luôn được giữ nguyên xuyên suốt quá
trình cách mạng của Đảng bao gồm:
Thứ nhất, cả Cương lĩnh và Chính cương đều vạch ra đường lối thực hiện cuộc cách
mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới
xã hội cộng sản. Thứ hai, lực lượng nòng cốt được xác định là liên minh công-nông vững
chắc, đông đảo và có tinh thần kháng chiến sục sôi. Thứ ba, mục tiêu cuối cùng lớn nhất
và quan trọng nhất là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành lấy độc lập tự chủ dân tộc,
Tổ quốc nối liền một dải, xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người
cày có ruộng.
Tuy nhiên tùy theo giai đoạn mà Chính cương Đảng Lao động đã khắc phục những hạn
chế cũng như cho thấy sự tiến bộ trong tư tưởng chính trị và khả năng lãnh đạo của Đảng:
So với Cương lĩnh đầu tiên, hai nhiệm vụ của các mạng tư sản dân quyền là chống đế
quốc và chống phong kiến, hai nhiệm vụ này khăng khít, bổ sung và làm tiền đề cho
nhau. Đến hội nghị tháng 10 trong vặn kiện “Chung quanh vấn đề chính sách mới”, Đảng
đã đưa ra khẳng định phù hợp hơn: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết
chặt với cuộc cách mạng điền địa”. Sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, khi tình hình
bóc lột tại các nước thuộc địa và nửa thuộc địa càng ngày càng trầm trọng, mâu thuẫn
giữa dân tộc với đế quốc và tay sai của chúng được đặt lên hàng đầu, vì vậy sau khi trải
qua ba hội nghị Trung ương (Hội nghị Trung ương 6 (11-1939), Hội nghị Trung ương 7
(11-1940) và Hội nghị Trung ương 8 (5-1941), Đảng ta mới hoàn chỉnh nhận thức về vấn
đề dân tộc: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không
đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể dân tộc phải chịu
mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc” Vì vậy tính chất của cuộc cách
mạng Đông Dương đã thay đổi thành : “cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không
phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng giải quyết hai vấn đề: phản đế
và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc
giải phóng”, vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc
cách mạng dân tộc giải phóng”
Đảng đã chủ trương gác lại khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, mà
thay vào đó là khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày
nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.
Đảng đã thay đổi các cách thức đấu tranh cũng như kết hợp chúng để phù hợp với từng
thời điểm, không tuyệt đối hóa đấu tranh vũ tranh. Nổi bật nhất là đấu tranh dân sinh, dân
chủ, đấu tranh nghị trường và những cuộc khởi nghĩa quy mô.
Phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc đã được tập trung lại trong khu vực Đông Dương với
kẻ thù chung là đế quốc, cụ thể là Miên, Lào, cốt để thức tỉnh tinh thần dân tộc của mỗi
nước, thi hành chính sách dân tộc tự quyết.