Professional Documents
Culture Documents
Cô Đào Văn
Cô Đào Văn
Cô Đào Văn
*******
PHÚ SÔNG BẠCH ĐẰNG
(Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu)
A/ ÔN TẬP KIẾN THỨC CƠ BẢN
I. Giới thiệu tác giả:
Trương Hán Siêu (? – 1354) là người có học vấn uyên thâm, từng tham gia các cuộc chiến đấu của quân dân
nhà Trần chống quân Mông – Nguyên, được các vua Trần tin cậy và nhân dân kính trọng.
II. Khái quát về thể phú và bài phú:
1. Thể phú:
- Là một thể loại tiếp nhận từ văn học Trung Quốc, được phát triển và Việt hóa ở văn học trung đại Việt
Nam. Nội dung của phú trước hết là thuật, kể, tả một cách khách quan cảnh vật, sự việc, phong tục, bàn chuyện
đời,…để người nghe tự xét, là tưởng tượng nhân vật hư cấu, đối đáp giữa chủ - khách, sau đó mới dùng lời lẽ
khoa trương cho hấp dẫn, truyền cảm. Phú được viết bằng văn vần, văn xuôi hoặc văn biền ngẫu, bằng chữ Hán
hoặc chữ Nôm.
- Phú có 2 loại chính: Phú cổ thể, phú cận thể
- Bố cục chung của bài phú thường gồm 4 đoạn: đoạn mở, đoạn giải thích, đoạn bình luận và đoạn kết.
2. Tác phẩm:
- Thể loại: Phú cổ thể
- Hoàn cảnh ra đời: Khi vương triều nhà Trần đang có biểu hiện suy thoái, cần phải nhìn lại quá khứ anh
hùng để củng cố niềm tin trong hiện tại.
- Bố cục: 3 đoạn
+ Đoạn 1: Từ “Khách có kẻ” đến “…luống còn lưu”: Giới thiệu nhân vật “khách” và tráng chí của ông, cảm
xúc của “khách” khi du ngoạn qua sông Bạch Đằng.
+ Đoạn 2: Từ “Bên sông các bô lão” đến “…anh hùng lưu danh”: Cuộc gặp gỡ bên sông và câu chuyện của
các bô lão.
+ Đoạn 3: Còn lại: Lời ca và cũng là lời bình luận của “khách”.
III. Nội dung, nghệ thuật bài phú:
*Đoạn 1: Hình tượng nhân vật “khách”
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao.
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu,
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Gợi ý phân tích
1. Từ “Khách có kẻ… còn tha thiết”: “Khách” xuất hiện với tư thế của con người có tâm hồn khoáng đạt,
có hoài bão lớn lao. Tráng chí bốn phương của “khách” được gợi lên qua hai địa danh (lấy trong điển cố
Trung Quốc và những địa danh của đất Việt):
- Nhân vật “khách” có thể là chính tác giả, cũng có thể là do tác giả sáng tạo ra theo kết cấu thường gặp của bài
phú. Đó là một nhà nho, một viên quan – tướng của triều đình – một nhà thơ – nghệ sĩ tuy đã già nhưng tráng
chí (ý chí hùng tráng) bốn phương vẫn còn tha thiết, sôi nổi. Ông muốn học danh nhân Trung Hoa xưa, đi khắp
đất nước để thăm ngoạn phong cảnh, mở rộng hiểu biết, di dưỡng tâm hồn, sống cuộc đời tự do, phóng khoáng.
- Nhưng ở đoạn đầu, tất cả những địa danh lừng lẫy mà khách điểm tên và kể rằng đã từng qua thì hoàn toàn là
những điển cố lấy từ văn chương Trung Quốc. Nghĩa là qua đọc sách, và hoàn toàn là tưởng tượng từ sách vở -
những chuyến đi trong trí tưởng tượng. Tất cả chỉ để thể hiện tráng chí hải hồ của bậc đại trượng phu tung
hoành thiên hạ.
2. Từ “Bèn giữa dòng…luống còn lưu”: Cảm xúc vừa vui sướng, tự hào vừa buồn đau, nuối tiếc của
“khách” khi đứng trước dòng sông lịch sử:
- Đến đoạn này, chuyến thăm cảnh Bạch Đằng – nơi chiến trường xưa mới là chuyến đi thực sự với Trương
Hán Siêu. Hành trình chuyến hải hành được vẽ với không gian cụ thể - miền duyên hải đông bắc Đại Việt: từ
Đại Than ngược bến Đông Triều rồi thuyền bơi đến sông Bạch Đằng vào một buổi chiều thu hiu hắt. Cảnh vật
thiên nhiên hiện ra trước mắt khách thật bao la, hùng vĩ, hoành tráng của “sóng kình” (sóng to, dữ như cá kình -
ẩn dụ tượng trưng) lớp lớp; biển trời một sắc xanh xòe đuôi trĩ long lanh rực rỡ. Mặt khác, cảnh vật hai bờ sông
lại vắng vẻ, hoang vu, hiu hắt. Những dấu tích của chiến trường xưa, theo dòng thời gian, ngày càng hoang phế,
điêu tàn: (Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu; Sông chìm, giáo gãy, gò đầy xương khô).
- Đó là nỗi buồn vì cảnh vật hiu quạnh, thương cho những anh hùng chiến trận lừng lẫy một thời nay đã đi vào
dĩ vãng và tiếc chỉ còn một vài dấu vết mờ dần theo tháng năm. Đó là cảm hứng hoài cổ thường gặp trong thơ
ca khi viết về đề tài lịch sử. Nhưng nếu căn cứ vào cuộc đời tác giả, vào thời điểm sáng tác bài phú, có lẽ có thể
nghĩ sâu thêm. Phải chăng đó là nỗi buồn tiếc quá khứ hào hùng, một đi không trở lại, trong hiện tại triều đình
nhà Trần đã bắt đầu có dấu hiệu đi xuống, sắp bước sang giai đoạn khủng hoảng mà Trương Hán Siêu – một vị
đại quan – một nhà chính trị - một nghệ sĩ đã linh cảm trong tâm thức, nay gặp dịp, hé mở trong thơ văn?
- Giọng văn thể hiện rất phù hợp: vừa sảng khoái vừa trầm lắng, vừa hào hùng vừa bi thiết.
***********************