Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 124

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ..............................................................................5


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ ..............................................................6
MỞ ĐẦU ................................................................................................................8
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................8
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................9
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................10
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................10
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ......................................................13
5.1. Nguồn tài liệu ............................................................................................13
5.2. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................14
6. Đóng góp của luận văn .....................................................................................16
7. Cấu trúc của luận văn........................................................................................16
NỘI DUNG ...........................................................................................................17
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...........................................17
1.1. Văn hóa và Du lịch ....................................................................................17
1.1.1. Khái niệm Văn hóa ............................................................................17
1.1.2. Khái niệm Du lịch ..............................................................................18
1.2.3. Mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa .................................................19
1.2. Du lịch văn hóa ..........................................................................................20
1.2.1. Định nghĩa, đặc điểm và vai trò .........................................................20
1.2.2. Tài nguyên du lịch văn hóa ................................................................22
1.2.3. Sản phẩm và điểm đến trong du lịch văn hóa ....................................23
1.2.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa ......................................24
1.2.5. Nhân lực du lịch văn hóa ...................................................................24
1.2.6. Thị trường du lịch văn hóa .................................................................25
1.2.7. Tổ chức, quản lý du lịch văn hóa .......................................................26
1.2.8. Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá .......................................................26
1.2.9. Bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch..................................................27
1.3. Bài học kinh nghiệm trong phát triển du lịch văn hóa ..............................27
1.3.1. Kinh nghiệm của huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị ............................28

1
1.3.2. Kinh nghiệm của thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên .............30
1.3.3. Kinh nghiệm của huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang ..................32
1.4. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu .............................................................35
1.4.1. Lịch sử hình thành và phát triển huyện Định Hóa .............................35
1.4.2. Đặc điểm tự nhiên ..............................................................................36
1.4.3. Đặc điểm dân cư, kinh tế, xã hội........................................................38
1.4.4. Cơ sở hạ tầng......................................................................................39
1.4.5. Tài nguyên du lịch văn hóa ................................................................40
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................43
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA HUYỆN ĐỊNH
HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN ..................................................................................44
2.1. Thị trường khách du lịch văn hóa ở Định Hóa ..........................................44
2.1.1. Lượng khách và phân kỳ khách du lịch đến Định Hóa ......................44
2.1.2. Nhu cầu của khách du lịch .................................................................47
2.1.3. Đặc điểm của du khách ......................................................................50
2.2. Nguồn nhân lực .........................................................................................52
2.2.1. Lao động thường xuyên .....................................................................52
2.2.2. Lao động thời vụ ................................................................................53
2.2.3. Cộng đồng địa phương .......................................................................53
2.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch ....................................................54
2.4. Vốn đầu tư .................................................................................................55
2.5. Sản phẩm du lịch văn hóa..........................................................................57
2.5.1. Du lịch thăm quan di tích lịch sử .......................................................57
2.5.2. Du lịch lễ hội ......................................................................................59
2.5.3. Du lịch hoài niệm thăm lại chiến khu xưa .........................................60
2.5.4. Du lịch phong tục ...............................................................................61
2.5.5. Du lịch thưởng thức nghệ thuật dân gian ...........................................63
2.5.6. Du lịch làng nghề ...............................................................................65
2.5.7. Du lịch ẩm thực ..................................................................................66
2.5.8. Một số chương trình du lịch phổ biến ................................................69
2.6. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch văn hóa .............................................72
2.6.1. Các cấp chính quyền và quản lý Nhà nước ........................................72

2
2.6.2. Các đơn vị kinh doanh du lịch ...........................................................74
2.6.3. Cộng đồng địa phương .......................................................................75
2.7. Công tác tổ chức, quản lý du lịch văn hóa ................................................75
2.8. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong du lịch ...................78
2.8.1. Về kiến trúc nhà sàn, đình, chùa ........................................................78
2.8.2. Về nghề thủ công truyền thống và văn hóa ẩm thực..........................78
2.8.3. Về lễ hội, phong tục tập quán ............................................................79
2.8.4. Về nghệ thuật dân gian ......................................................................79
2.8.5. Về các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh ...................................80
2.9. Tác động của du lịch văn hóa đối với huyện Định Hóa ............................81
2.9.1. Tác động đến môi trường, cảnh quan ................................................81
2.9.2. Tác động đến kinh tế ..........................................................................81
2.9.3. Tác động đến xã hội ...........................................................................82
2.9.4. Tác động đến văn hóa ........................................................................82
2.10. Đánh giá chung ........................................................................................83
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................84
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN ...........................86
DU LỊCH VĂN HÓA HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN ........86
3.1. Những căn cứ đề xuất giái pháp ................................................................86
3.1.1. Căn cứ vào chủ trương, chính sách của Nhà nước .............................86
3.1.2. Định hướng, chiến lược phát triển của địa phương ...........................88
3.1.3. Căn cứ vào thực trạng phát triển du lịch văn hóa của Định Hóa .......91
3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hóa tại huyện Định Hóa ....93
3.2.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch ..............93
3.2.2. Phát triển nguồn nhân lực ..................................................................95
3.2.3. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch và phát triển sản phẩm du lịch văn hóa
đặc thù ..........................................................................................................97
3.2.4. Nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch văn hóa hiện có ...........101
3.2.5. Xây dựng điểm nhấn thu hút ............................................................104
3.2.6. Liên kết với các điểm du lịch phụ cận .............................................105
3.2.7. Tổ chức, quản lý hoạt động du lịch văn hóa ....................................106
3.2.8. Bảo tồn tài nguyên du lịch văn hóa ..................................................108

3
3.2.9. Xúc tiến và quảng bá nhằm mở rộng thị trường du lịch văn hóa ....110
3.2.10. Chia sẻ lợi ích giữa các bên tham gia ............................................112
3.3. Một số kiến nghị ......................................................................................114
3.3.1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ..................114
3.3.2. Kiến nghị đối với chính quyền địa phương .....................................115
3.3.3. Kiến nghị đối với công ty lữ hành ...................................................115
3.3.4. Kiến nghị đối với cộng đồng địa phương ........................................116
3.3.5. Kiến nghị đối với khách du lịch .......................................................116
Tiểu kết chương 3 ...........................................................................................117
KẾT LUẬN.........................................................................................................118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................121
PHỤ LỤC……………………………………………………………………...124

4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ATK An toàn khu


BQL Ban quản lý
ICOMOS International Council On Monuments and Sites
(Hội đồng Quốc tế về Di tích và Di chỉ)
NĐ-CP Nghị định – Chính phủ
NQ/TW Nghị quyết/Trung ương
QĐ-UBND Quyết định – Ủy ban nhân dân
QĐ-TTg Quyết định – Thủ tướng chính phủ
UBND Ủy ban nhân dân
UNESCO United Nations Educational, Scientific and Cultural
Organization (Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa thế
giới)
UNWTO World Tourism Organnization (Tổ chức du lịch thế giới)

5
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

STT Loại Tên nhận diện Trang


1 Bảng 1.1: Các loại hình dân ca dân vũ tiêu biểu 29
của Định Hóa
2 Bảng 2.1: Trình độ nhân lực tại Khu di tích lịch 47
sử - sinh thái ATK Định Hóa
3 Bảng 2.2: Doanh thu hoạt động du lịch của 83
Định Hóa
4 Bảng 1: Các dân tộc huyện Định Hóa
5 Bảng 2: Lượng khách du lịch văn hóa giai đoạn
2009 – 2014 (Phụ lục 4)
6 Bảng Bảng 3: Số lượng khách đến Định Hóa vào dịp
lễ hội Lồng tồng
7 Bảng 4: Chi phí tour 2 ngày 1 đêm trọn gói cho
khách nội địa (ngủ nhà nghỉ)
8 Bảng 5: Chi phí tour về trong ngày dành cho
khách nội địa
9 Bảng 6: Chi phí Tour 2 ngày 1 đêm cho khách
nội địa (homnestay)
10 Bảng 7: Phân kì đầu tư và khai toán vốn thực (Phụ lục 4)
hiện đề án TM – DV (2006 – 2010)
11 Bảng 8: Kinh phí đầu từ cho bảo tồn di sản văn
hóa
12 Bảng 9 – Phụ lục 4: Thực đơn mẫu
13 Bảng 10 – Phụ lục 4: Một số thực đơn phổ biến
khác
1 Biểu đồ 2.1: Lượng khách du lịch văn hóa Định 39
Hóa giai đoạn 2009-2014
2 Biểu đồ 2.2: Phân kỳ khách du lịch văn hóa 40
huyện Định Hóa
3 Biểu đồ Biểu đồ 2.3: Mục đích của khách du lịch văn 41
hóa đến Định Hóa
4 Biểu đồ 2.4: Nhu cầu lưu trú của khách du lịch 43

6
văn hóa huyện Định Hóa
5 Biểu đồ 2.5: Mức chi tiêu của khách du lịch 45
văn hóa đến Định Hóa
6 Biểu đồ 2.6: Vốn thực hiện đầu tư cho du lịch 50
văn hóa 2006 – 2010
1 Sơ đồ Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của BQL di tích lịch 76
sử - sinh thái ATK Định Hóa

7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Trong xu thế hiện nay, đời sống vật chất của con người ngày một nâng cao. Con
người không chỉ muốn được đáp ứng các nhu cầu về vật chất (ăn, mặc, ở, phương tiện đi
lại và các tiện nghi khác) mà còn muốn có một đời sống tinh thần đa dạng, phong phú.
Trong bối cảnh ấy, du lịch là một trong những giải pháp được lựa chọn/yêu thích bởi nó
là nhu cầu thiết yếu, mang lại cho con người thời gian nghỉ ngơi thoải mái sau những giờ
làm việc căng thẳng. Đi song song với sự phát triển của xã hội, ngành công nghiệp
không khói này ngày càng trở thành một lĩnh vực kinh tế vô cùng quan trọng.
Sự bứt phá mạnh mẽ của ngành du lịch đã ghi nhận sự lớn mạnh của những
loại hình, hình thức du lịch khác nhau mà một trong số đó chính là du lịch văn hóa.
Đây là loại hình du lịch đã và đang trở thành xu hướng phổ biến của nhiều quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là những nước đang phát triển, khi mà nền tảng, quy mô,
nguồn lực không lớn, chưa có đủ thế mạnh trong việc xây dựng những điểm du lịch
đắt tiền, những trung tâm giải trí tầm cỡ và hiện đại. Ngoài ra, đây lại là một loại
hình du lịch có nhiều ưu điểm không phụ thuộc vào thời tiết có thể phát triển quanh
năm. Nguồn thu từ du lịch văn hoá mang tính chất ổn định (ít rủi ro) với mức tăng
trưởng ngày càng lớn nó giúp con người hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh.
Mặt khác, việc khai thác tiềm năng văn hoá truyền thống trong kinh doanh du lịch
cũng là một cách tốt nhất được tiến hành đồng thời với việc bảo vệ tôn tạo chúng.
Đối với nước ta, du lịch văn hóa được xác định là một trong những loại hình du
lịch đặc thù, có thế mạnh và tiềm năng phát triển phong phú. Các hoạt động nhằm nâng
cao sức hút cũng như chất lượng của du lịch văn hóa đã đem lại nhiều thành tựu trong
kinh tế - văn hóa – xã hội, ngày càng khẳng định được vị trí trong ngành du lịch. Tuy
nhiên bên cạnh những thành tựu đó, du lịch văn hóa nước ta còn bộc lộ những vấn đề
yếu kém chưa đáp ứng được sự mong đợi của du khách trên phạm vi cả nước.
Định Hóa là huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên có sự cộng cư của 9 dân
tộc (Tày, Nùng, Dao, Kinh, Sán Chí, Hoa, Mông…). Nhắc đến Định Hóa là nhắc
đến ATK – an toàn khu thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nói đến Định Hóa là nói
đến một huyện có tới 128 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Nhân dân
các dân tộc trong huyện vốn có truyền thống cách mạng còn bảo lưu, gìn giữ được

8
nhiều giá trị văn hóa bản địa như văn hóa nhà sàn; các điệu hát Ví, Then, Lượn, Sli,
Páo dung; nghề thủ công truyền thống; lễ hội Lồng Tồng, lễ hội chùa Hang; nghệ
thuật múa rối cạn của đồng bào Tày… Trong 24/24 đơn vị hành chính của huyện
đều có di tích lịch sử văn hóa, xã nhiều nhất có 25 di tích, xã ít nhất là 1 di tích
(xem Phụ lục 1). Chính vì có tiềm năng và lợi thế đó mà loại hình Du lịch văn hóa
trở thành một thế mạnh của huyện Định Hóa nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói
chung. Bản sắc văn hóa đặc sắc của cộng đồng dân cư nơi đây luôn là những bí ẩn
mà khách du lịch muốn tìm hiểu như phong tục tập quán, lễ hội, làng nghề... Tất cả
những điều đó là cơ sở tạo nên nhiều sản phẩm du lịch độc đáo hấp dẫn du khách.
Chính vì vậy trong Chiến lược phát triển du lịch của vùng trung du miền núi phía
Bắc giai đoạn 2010 – 2020 tầm nhìn 2030 đã xác định du lịch văn hóa là sản phẩm
đặc thù của vùng. Cùng với đó, mục tiêu tổng quát trong Đề án phát triển du lịch
Thái Nguyên giai đoạn 2009 – 2015, tầm nhìn đến 2020 đã chỉ rõ: “Khai thác có
hiệu quả các tiềm năng du lịch sinh thái, du lịch văn hóa – lịch sử, phấn đấu đến
2015 đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh và tỉnh Thái Nguyên
trở thành trung tâm du lịch vùng Việt Bắc” [40, tr.2].
So với thế mạnh trên thì việc phát triển du lịch văn hóa hiện hay là chưa
tương xứng, còn nhiều vấn đề làm cho du lịch văn hóa của huyện Định Hóa nói
riêng và của tỉnh Thái Nguyên nói chung chưa “cất cánh”. Sản phẩm du lịch còn
nghèo nàn, đơn điệu, chưa mang tính đặc trưng của địa phương, chưa tạo được tính
cạnh tranh trên thị trường, vì vậy chưa thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu của du khách,
nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được nghiên cứu thấu đáo, chưa được đầu tư phát
triển nên chưa thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.
Căn cứ vào thực trạng và tính cấp bách của vấn đề, tôi đã lựa chọn đề tài
“Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”
làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
+ Nhằm tìm hiểu tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch văn hóa của
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
+ Đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm phát triển du lịch văn hóa ở Định
Hóa một cách hiệu quả và bền vững.

9
- Nhiệm vụ:
+ Phân tích và đánh giá các điều kiện phát triển du lịch văn hóa của huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
+ Tìm hiểu, đánh giá thực trạng phát triển du lịch văn hóa của Định Hóa.
+ Đề xuất được một số giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hóa ở Định Hóa
theo hướng bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch văn hóa của huyện Định Hóa,
tỉnh Thái Nguyên
- Phạm vi nghiên cứu trên toàn bộ địa bàn huyện Định Hóa gồm 1 thị trấn
(thị trấn Chợ Chu) và 23 xã (Bình Yên, Trung Hội, Bình Thành, Điềm Mặc, Phú
Đình, Bảo Linh, Định Biên, Trung Lương, Thanh Định, Sơn Phú, Kim Sơn, Tân
Dương, Phú Tiến, Tân Thịnh, Phượng Tiến, Lam Vỹ, Quy Kỳ, Đồng Thịnh, Linh
Thông, Phúc Chu, Bảo Cường, Lộc Nhiêu). Tuy nhiên, dựa đặc điểm phân bố các
nguồn lực phát triển du lịch văn hóa trên địa bàn luận văn chú trọng vào phạm vi
của vùng lõi ATK như các xã Phú Đình, Điềm Mặc, Đồng Thịnh, Phú Tiến…
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tìm hiểu và quảng bá cho du lịch, nhất là du lịch Thái Nguyên nói chung và
huyện Định Hóa nói riêng là một vấn đề mới mẻ, thu hút được sự quan tâm của giới
nghiên cứu Trung ương và địa phương. Từ những năm 90, khi nền kinh tế phát
triển, nhu cầu tham quan du lịch ngày càng tăng, việc thông tin tuyên truyền về du
lịch ngày càng được phổ biến. Năm 1999, Nguyễn Thị Kim Anh sinh viên khoa Địa
lý – Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên thực hiện khóa luận tốt
nghiệp “An toàn khu – Tiềm năng du lịch về cội nguồn” đã đề cập đến vấn đề du
lịch về nguồn của ATK Định Hóa, Tuyên Quang, đánh giá sơ bộ về tiềm năng du
lịch của vùng trên cơ sở các tài nguyên du lịch sẵn có, đồng thời khóa luận cũng
đưa ra một số định hướng trong tương lai.
Đặc biệt, trong những năm đầu thế kỷ XXI, khi ngành công nghiệp không
khói đóng vai trò quan trọng trong ngành kinh tế của các quốc gia, du lịch trở thành
một nhu cầu không nhỏ của cuộc sống con người hiện đại thì việc quảng bá cho du
lịch nói chung, du lịch Thái Nguyên nói riêng ngày càng được đẩy mạnh. Năm
2003, Bảo tàng Thái Nguyên phát hành cuốn Thái Nguyên di tích danh thắng và

10
triển vọng tương lai; Đồng Khắc Thọ viết Di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh Thái Nguyên. Hai tác phẩm nêu trên đã liệt kê các di tích lịch sử và danh
lam thắng cảnh của Thái Nguyên. Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên có Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Du lịch sáu tỉnh Việt Bắc với vùng du lịch Bắc Bộ, trong đó
đề cập đến tính liên vùng của du lịch Thái Nguyên.
Năm 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia biên soạn Thái Nguyên thế và lực
mới trong thế kỷ XXI, giới thiệu một số tour du lịch tiêu biểu trên đất Thái Nguyên.
Năm 2006, Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên phát hành Sổ tay du lịch Thái
Nguyên, hướng dẫn các du khách lựa chọn tour/tuyến phù hợp cho mình khi đến với
Thái Nguyên. Cũng trong năm 2006, Nguyễn Văn Chiến viết Tiềm năng và thực
trạng phát triển du lịch Thái Nguyên, trong đó đã đề cập đến những tiềm năng và
thực trạng du lịch Thái Nguyên đến trước năm 2006 dưới góc độ kinh tế. Tiếp đến
năm 2008, Phạm Mỹ Đức sinh viên khoa Địa lý (Trường Đại học Sư phạm – Đại
học Thái Nguyên) làm khóa luận tốt nghiệp với đề tài Tiềm năng, hiện trạng và
định hướng phát triển du lịch tỉnh Thái Nguyên, đánh giá hiện trạng du lịch của tỉnh
qua năm du lịch Quốc gia được tổ chức tại Thái Nguyên (2007), tìm hiểu định
hướng và đưa ra một số kiến nghị góp phần thúc đẩy du lịch Thái Nguyên phát triển
theo chiều hướng bền vững. Trong khóa luận, tác giả cũng đã trình bày về giá trị
lịch sử, văn hóa của hệ thống tài nguyên du lịch của huyện Định Hóa nhưng chưa đề
cập đến vấn đề phát triển du lịch văn hóa ở đây.
Năm 2008, Nguyễn Thị Bích Ngọc đã thực hiện luận văn thạc sỹ chuyên
ngành lịch sử với đề tài “An toàn khu Định Hóa trong căn cứ địa kháng chiến Việt
Bắc”. Luận văn đã tập trung nhìn nhận và đánh giá về vai trò của Định Hóa trong
không gian lịch sử của căn cứ địa Việt Bắc. Bên cạnh đó, luận văn cũng chỉ ra rằng:
để Khu Di tích lịch sử ATK Định Hoá thực sự trở thành một Khu Di tích đặc biệt
quan trọng, xứng đáng với vị thế của nó trong lịch sử cách mạng dân tộc, thu hút
đông đảo đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế tới tham quan du lịch thì bên cạnh
việc đầu tư tôn tạo các di tích với quy mô lớn, cần có sự đầu tư chiều sâu theo mô
hình "Cụm di tích lịch sử -du lịch - văn hoá". Tuy nhiên, công trình khoa học này
chỉ dừng lại ở mức độ đề xuất chứ chưa đưa ra được những kết quả phân tích và giải
pháp cụ thể có liên quan đến phát triển du lịch văn hóa ở Định Hóa.

11
Năm 2011, Tổng cục du lịch ban hành Chiến lược phát triển du lịch Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030, trong đó ATK Định Hóa (Thái Nguyên) được
định hướng phát triển thành khu du lịch quốc gia. Đặc biệt, tháng 9/2012, Sở Văn
hóa Thể thao và Du lịch Thái Nguyên đã tổ chức hội thảo khoa học về Đề tài “Lễ
hội lịch sử cách mạng ATK Định Hóa, Thái Nguyên”. Tại buổi Hội thảo, các nhà
nghiên cứu chuyên ngành đã cho ý kiến với 3 chuyên đề khoa học: giá trị lịch sử
khu di tích lịch sử cách mạng ATK Định Hóa - Thái Nguyên; giáo dục truyền thống
cách mạng qua nguồn tư liệu lịch sử địa phương ở ATK Định Hóa - Thái Nguyên;
cơ sở lý luận và thực tiễn của tổ chức lễ hội lịch sử cách mạng.
Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh ở ATK Việt Bắc –
Thái Nguyên cần gắn với phát triển du lịch. Đó là chủ đề của Hội thảo khoa học do Ban
quản lý Khu di tích lịch sử – sinh thái ATK Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và Bảo tàng Hồ
Chí Minh phối hợp tổ chức từ ngày 12-13/5/2014 tại xã Phú Đình, huyện Định Hóa. Đa số
các ý kiến tham luận tại hội thảo đều cho rằng phải có lộ trình bảo tồn một cách khoa học,
bền vững, gắn kết với du lịch, sớm hoàn thành quy hoạch tổng thể Khu di tích lịch sử ATK
Định Hóa cùng với ATK Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) và ATK Chợ Đồn (Bắc
Kạn), tạo cơ sở để mời gọi các doanh nghiệp đầu tư phát triển, khai thác triệt để tiềm năng
du lịch sẵn có tại các địa phương. Các cơ quan nghiên cứu, quản lý, cơ quan chuyên môn
cần tiếp tục nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, hiện vật để xây dựng dự án trưng bày bổ sung tại
các điểm di tích đặc biệt quan trọng liên quan đến thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và
làm việc ở ATK Định Hóa, nhằm tạo thêm sự sinh động, hấp dẫn du khách khi hành
hương về nguồn thăm lại chiến khu xưa. Việc bảo tồn, tôn tạo di tích ở ATK Định Hóa
nhất thiết phải gắn với bảo tồn không gian di tích, kết hợp với việc nghiên cứu các giá trị
văn hóa vật thể, phi vật thể để biến những giá trị đó thành sản phẩm du lịch đặc thù. Nhằm
phát huy giá trị di tích có hiệu quả, Thái Nguyên cũng cần hình thành các tour, tuyến du
lịch khoa học, sinh động để níu chân du khách khi đến ATK Định Hóa bằng các sản phẩm
du lịch lợi thế như cảnh quan, sản vật, ẩm thực địa phương; đồng thời xây dựng đội ngũ
hướng dẫn viên du lịch tốt, có đủ kiến thức, kỹ năng phục vụ du khách.
Tháng 10/2014, tiếp nối hoạt động khảo sát thực nghiệm tuyến du lịch lịch
sử cách mạng gắn với du lịch sinh thái vùng Chiến khu Việt Bắc, tại thành phố Thái
Nguyên, Ban tổ chức Chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” lần
thứ VI năm 2014 đã tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề "Bảo tồn, phát huy giá trị

12
di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch vùng Việt Bắc". Hội thảo khoa học đã thu
hút hơn 30 báo cáo, tham luận, ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý về du
lịch, các doanh nghiệp du lịch để chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn sau 5 năm thực hiện
chương trình “Qua những miền di sản Việt Bắc” xung quanh các vấn đề về bảo tồn,
phát huy các giá trị của di sản văn hóa và vấn đề liên kết phát triển du lịch.
Những công trình nghiên cứu trên đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập tới vấn
đề du lịch Định Hóa. Ngoài ra còn có một số bài báo, tạp chí, thông tin khoa học
cũng nghiên cứu các vấn đề đề tài quan tâm. Song cho đến nay, vẫn chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu riêng và trình bày một cách hệ thống về sự phát triển
du lịch văn hóa của huyện Định Hóa (Thái Nguyên). Mặc dù vậy, chúng tôi đánh
giá cao những công trình nói trên và coi đó là nguồn tài liệu quý giúp chúng tôi
trong quá trình thực hiện luận văn “Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi khai thác triệt để các nguồn sử
liệu viết về du lịch Định Hóa, đặc biệt chú trọng đến những tài liệu sau:
- Các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Văn
hóa Thể thao và Du lịch Thái Nguyên
- Báo cáo tổng kết các năm của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thái
Nguyên
- Hệ thống niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên phần về Du lịch
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp từ công trình của các
nhà khoa học đã được công bố, tạp chí …., kỷ yếu các hội thảo khoa học, các sách
đã xuất bản, các đề tài nghiên cứu của sinh viên, giảng trong hệ thống Đại học Thái
Nguyên và các trường bạn.
- Các sách báo viết về huyện Định Hóa, các số liệu, bảng biểu, quy hoạch
của địa phương
- Tư liệu ghi nhận từ những chuyến đi điền dã
- Kết quả thu được từ điều tra bằng An-ket
Trong đó những tư liệu là số liệu, bảng biểu, thống kê hành chính của địa
phương được coi như tư liệu chính thống. Tuy nhiên, nguồn dữ liệu thu được từ

13
điều tra An-ket cũng rất quan trọng. Chúng tôi đã thực hiện điều tra trên 3 nhóm đối
tượng: người dân bản địa, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp du lịch có
kinh doanh du lịch văn hóa ở Định Hóa, du khách. Từ những thông tin thu thập
được, chúng tôi đã tiến hành xử lý cứ liệu từ đó lập các sơ đồ, bảng biểu, quy ra tỉ lệ
phần trăm đối với từng đối tượng thông tin khác nhau và theo những tiêu chí cụ thể.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu thứ cấp
- Thu thập các thông tin, dữ liệu cơ bản từ các nguồn nghiên cứu chính thống
trước về vấn đề nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, hoạt động du lịch
văn hóa ở huyện Định Hóa. Những thông tin này được thu thập bắt đầu từ tháng 12/2013
và là dữ liệu phục vụ cho việc phân tích, dẫn luận tại chương 1 và chương 2.
- Dữ liệu thứ cấp thu thập được từ các nguồn: sách, giáo trình, báo, tạp chí
chuyên ngành và báo/tạp chí có liên quan, công trình khoa học (báo cáo, luận văn),
văn bản pháp luật (Luật Du lịch,…), báo cáo của chính quyền địa phương và cơ
quan quản lý Nhà nước về du lịch văn hóa tại Định Hóa, các thông tin trên Internet.
Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp quan sát: Phương pháp này được thực hiện thông qua 5 đợt
điền dã tại địa bàn nghiên cứu: Đợt 1 từ 08/02/2014 – 15/02/2014; đợt 2 từ
30/04/2014 đến 04/05/2014; đợt 3 từ 17/05/2014 đến 19/05/2014; đợt 4 từ
16/08/2014 đến 19/08/2014; đợt 5 từ 19/12/2014 đến 21/12/2014. Phương pháp
quan sát được áp dụng dưới 2 hình thức chính là Phương pháp quan sát không tham
dự và Phương pháp quan sát tham dự.
+ Quan sát tham dự: tác giả luận văn đã trực tiếp tham gia vào hoạt động du lịch
văn hóa ở Định Hóa để từ đó đưa ra những cảm nhận, ý kiến cá nhân về đối tượng
nghiên cứu. Trong các chuyến điền dã, tác giả đã tham dự chương trình du lịch văn hóa
của Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK Định Hóa, công ty Thương mại
du lịch Phú Thái Hà và công ty lữ hành Hoàng Việt Travel.
+ Quan sát không tham dự: tác giả luận văn đã thực hiện quan sát hiện trạng,
biểu hiện của đối tượng nghiên cứu để từ đó đưa ra nhận xét định tính. Phương pháp
này thực hiện trong các chuyến điền dã tại một số nhà dân có tham gia hatoạt động du
lịch văn hóa tại bản Quyên (xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa), thôn Thẩm Rộc (xã Bình
Yên, huyện Định Hóa) và thôn Ru Nghệ (xã Đồng Thịnh, huyện Định Hóa). Phương

14
pháp này cũng được tiến hành tại các điểm du lịch, cơ quan quản lý du lịch địa phương,
chính quyền địa phương và các công ty có chương trình du lịch liên quan đến du lịch
văn hóa Định Hóa.
- Phương pháp bảng hỏi: nhằm thu thập số liệu sơ cấp, đáp ứng yêu cầu của
hoạt động điều tra. Bảng hỏi được thiết kế thành 3 loại dành cho 3 đối tượng khảo sát:
cộng đồng địa phương (30 bản), du khách (247 bản, trong đó khách nội địa là 200 bản,
khách quốc tế là 47 bản), công ty du lịch (10 bản). Tất cả các bảng hỏi này được tiến
hành điều tra vào 5 khoảng thời gian thực địa nói trên.
N
Quy mô mẫu điều tra được tính theo công thức: n = (1 + N * e=2)
Trong đó, n là quy mô mẫu điều tra, N là kích thước tổng thể, e là mức độ sai
lệch (= 0.05).
- Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn là phương pháp điều tra, nghiên cứu
hiệu quả nhằm thu thập thông tin mong muốn và phù hợp với từng đối tượng phỏng
vấn mà bảng hỏi đáp ứng được. Phương pháp này được tác giả luận văn áp dụng với
cộng đồng địa phương, quản lý về du lịch, chính quyền địa phương, công ty lữ
hành, hướng dẫn viên du lịch và khách du lịch. Mỗi đối tượng được phỏng vấn đều
được xác định tiêu chí đầy đủ và phù hợp để phục vụ yêu cầu điều tra. Tác giả sử
dụng hình thức phỏng vấn sâu, trực diện, cá nhân trực tiếp phỏng vấn các đối tượng.
Phương pháp phỏng vấn được chính thức tiến hành đối với:
+ Chính quyền địa phương huyện Định Hóa, các xã trong vùng lõi ATK,
phòng văn hóa thông tin huyện Định Hóa, Ban quản lý Khu di tích lịch sử - sinh
thái ATK Định Hóa.
+ Các hộ gia đình tham gia làm du lịch văn hóa tại bản Quyên, các nghệ
nhân ở thôn Thẩm Rộc (xã Bình Yên), thôn Ru Nghệ (xã Đồng Thịnh).
+ Một số công ty lữ hành có chương trình du lịch văn hóa đến Định Hóa:
Hoàng Việt Travel, Phú Thái Hà, Âu Lạc, Sao Việt, Thái Thiên Long Travel…
Phương pháp khác:
- Phương pháp biểu đồ, tranh ảnh… được tác giả sử dụng chủ yếu trong quá
trình hoàn thành luận văn nhằm kiểm tra tính lô – gic và chính xác của kết quả điều
tra và tính khả thi của các định hướng, giải pháp.

15
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: tác giả luận văn đã tiến hành lựa chọn, sắp
xếp các dữ liệu, thông tin từ các nguồn thứ cấp và sơ cấp nhằm định lượng chính xác và
đầy đủ phục vụ cho mục đích điều tra và nghiên cứu, từ đó tổng hợp thành các nhận
định, báo cáo hoàn chỉnh nhằm đưa ra một cái nhìn tổng thể về đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp này được tiến hành khi tác giả kết thúc 5 đợt điền dã.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống lại cơ sở lý luận về du lịch văn hóa
- Trình bày một cách cơ bản và hệ thống các di tích lịch sử, văn hóa, danh
lam thắng cảnh trên địa bàn huyện Định Hóa (Thái Nguyên) và vị trí, vai trò của nó
với vấn đề phát triển du lịch văn hóa hiện nay trên địa bàn nghiên cứu nói riêng và
khu vực phụ cận nói chung.
- Luận văn đã chỉ ra thực trạng du lịch văn hóa ở Định Hóa đồng thời đưa ra một
số giải pháp nhằm phát triển loại hình du lịch này một cách hiệu quả và bền vững.
- Luận văn cũng đưa ra vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị các tài nguyên du
lịch (đặc biệt là hệ thống di sản văn hóa) của huyện Định Hóa trong thời đại hiện
nay, cũng như đóng góp cho công tác nghiên cứu lịch sử, văn hóa và hoạch định
chính sách phát triển du lịch của Định Hóa nói riêng và Thái Nguyên nói chung.
- Luận văn góp phần vào việc giáo dục lòng tự hào về quê hương đất nước
cũng như tích cực quảng bá hình ảnh của Định Hóa nói riêng và Thái Nguyên nói
chung với khách du lịch trong và ngoài nước.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy và
học tập lịch sử địa phương.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
- Chương 2: Thực trạng du lịch văn hóa huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
- Chương 3: Giải pháp phát triển du lịch văn hóa huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên

16
NỘI DUNG

Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Văn hóa và Du lịch


1.1.1. Khái niệm Văn hóa
Theo Federico Mayor tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá
họp tại Venise năm 1970 xác định: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân
tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín
ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” (Tạp chí Người đưa tin
UNESCO, 11/1989, tr.5).
Trong tuyên bố về những chính sách văn hóa tại Hội nghị Quốc tế năm 1982
tại Mexico, UNESCO đã trình bày một định nghĩa cụ thể hơn về văn hóa “Văn hóa
hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và
xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội.
Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản
của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa
đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng
ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn
thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được
bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những
thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo
nên những công trình vượt trội lên bản thân” [42, tr.23-24].
Còn ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo dức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [42, tr.21].
Hay nói như Cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng là “Nói tới văn hóa là nói tới một
lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên
nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình
con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình

17
cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ
bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức
chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. [42, tr.21-22.].
Như vậy, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong quá trình lao
động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường xung
quanh (môi tự nhiên và xã hội) và tính cách của từng tộc người, nhờ có văn hóa mà
con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác và do được chi phối bởi
môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có
những đặc trưng riêng. Chính điều này đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên
sức hút, hấp dẫn khách du lịch khao khát khám phá, trải nghiệm các giá trị văn hóa
độc đáo mang tính bản sắc của những vùng/miền/quốc gia khác nhau.
1.1.2. Khái niệm Du lịch
Năm 1963, tại hội nghị LHQ về Du lịch họp tại Roma, các chuyên gia đã đưa
ra định nghĩa về Du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng
và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân
hay tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục
đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”. Trên tinh
thần đó, trong khoản 1, Điều 4, Chương I của Luật Du lịch Việt Nam 2005: “Du
lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú
thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ
dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [20, tr.2].
Như vậy, du lịch là sự di chuyển và lưu trú tạm thời trong thời gian rảnh rỗi
của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm mục đích phục hồi sức
khỏe, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo
việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên
nghiệp cung ứng. Đồng thời, du lịch cũng là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ
nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú tạm thời trong
thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú thường xuyên với mục
đích phục hồi sức khỏe và nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Hay
nói cách khác, du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm
hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.

18
1.2.3. Mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa
1.2.3.1. Văn hóa là cơ sở, là nguồn lực để phát triển du lịch
Du lịch, kể từ khi nó hình thành đã có sự gắn kết chặt chẽ với văn hóa, bởi
văn hóa giữa các vùng miền, các khu vực là không giống nhau và luôn chứa đựng
những điều bất ngờ, luôn khơi gợi sự tò mò, hấp dẫn du khách. Họ đi du lịch để
thỏa mãn nhu cầu khám phá những giá trị văn hóa mới, khác lạ với cái họ đang có,
là cách mà mỗi người mở rộng không gian văn hóa cho bản thân mình. Cái mới,
khác lạ đó chính là bản sắc văn hóa của mỗi tộc người (ẩm thực, lễ hội, trang phục,
kiến trúc…), là cảnh quan thiên nhiên thơ mộng cùng những điều kiện tự nhiên hấp
dẫn (rừng núi, sông hồ, nắng mưa), là những di tích, thắng cảnh gắn liền với lịch sử
của từng dân tộc… Qua những chuyến du lịch, trình độ hiểu biết về các giá trị văn
hóa của con người được nâng cao. Đi du lịch là cơ hội để du khách có thể sở hữu
những sản phẩm mang thương hiệu riêng của từng vùng miền, tộc người, đó có thể
là sản phẩm thủ công hay món ăn truyền thống… Như vậy, một địa phương muốn
phát triển du lịch thì điều kiện tiên quyết là phải có những sản phẩm văn hóa khác
lạ, độc đáo và hấp dẫn. Văn hóa càng có sự khác biệt, có bản sắc riêng bao nhiêu thì
càng có khả năng thu hút khách du lịch bấy nhiêu.
1.2.3.2. Tác động của du lịch đối với văn hóa
Du lịch giúp mở rộng giá trị của sản phẩm văn hóa. Nếu không có du lịch, sản
phẩm văn hóa chỉ đơn thuần có giá trị lịch sử, nghệ thuật hay khoa học không thể một
năm đóng góp một giá trị kinh tế nhất định cho nền kinh tế quốc dân. Hoạt động du lịch
giúp bảo tồn, duy trì lâu bền những giá trị văn hóa đang dần mai một hoặc bị phá hủy bởi
thời gian, bởi sự lãng quên của người dân bản địa. Du lịch giúp các điểm du lịch văn hóa
thu lợi nhuận hàng năm và có kinh phí để đầu tư quay trở lại đối với cơ sở hạ tầng và
công tác bảo tồn văn hóa cũng như góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân. Thông qua sự tiếp xúc giữa khách du lịch và cư dân bản địa, văn hoá của khách du
lịch và cộng đồng dân cư nơi khách đến được trau dồi và nâng cao. Du lịch tạo khả năng
cho con người mở mang, tăng cường sự hiểu biết về lịch sử truyền thống, văn hoá, phong
tục tập quán, đạo đức,… Như vậy, du lịch đã làm giàu thêm khả năng thẩm mỹ, tôi luyện
tình cảm, thoải mái tinh thần khi được tham quan kho tàng văn hoá nghệ thuật của đất
nước, một vùng, một địa phương. Hơn thế nữa, du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng
yêu nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống dân tộc. Cộng đồng dân cư địa phương cũng

19
thấy được sự hấp dẫn của văn hoá bản địa, nhận thức ngày một sâu sắc việc bảo tồn và
phát huy giá trị di sản văn hoá của địa phương.
Tuy nhiên do tính chất tương tác giữa khách du lịch và điểm đến nên trong
quá trình du khách thâm nhập vào các hoạt động văn hóa của địa phương có thể sẽ
xảy ra tình trạng thâm nhập với mục đích lạm dụng và sự thâm nhập biến thành sự
xâm hại. Do nhu cầu của khách, vì lợi ích kinh tế trước mắt nên các hoạt động văn
hóa truyền thống được trình diễn một cách không tự nhiên, giá trị văn hóa trở thành
trò tiêu khiển, mua vui cho du khách, giá trị truyền thống dần bị lu mờ do sự lạm
dụng vì mục đích kinh tế. Do chạy theo số lượng, không ít mặt hàng truyền thống
được chế tác lại để làm hàng lưu niệm cho du khách, sản xuất cẩu thả đã làm méo
mó giá trị chân thực của truyền thống, làm sai lệch hình ảnh của một nền văn hóa
bản địa. Một trong những xu hướng thường thấy ở các nước nghèo đón khách từ các
nước giàu dẫn tới cư dân địa phương, nhất là giới trẻ ngày càng chối bỏ truyền
thống và thay đổi cách sống theo mốt của du khách, làm mất dần những giá trị
truyền thống đẹp. Đồng thời, theo thời gian, sự xuất hiện ngày càng nhiều người
khách lạ mặt tại nơi ở của dân cư địa phương khiến thái độ của cộng đồng đối với
du khách thay đổi dần từ tích cực sang tiêu cực làm mất đi nét đẹp trong văn hóa
ứng xử, tiếp khách của cộng đồng địa phương.
1.2. Du lịch văn hóa
1.2.1. Định nghĩa, đặc điểm và vai trò
1.2.1.1. Định nghĩa
Hiện nay, trên thế giới và trong nước có rất nhiều khái niệm khác nhau về du
lịch văn hóa, cụ thể như sau:
“Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà mục tiêu là khám phá những di tích và
di chỉ. Nó mang lại những ảnh hưởng tích cực bằng việc đóng góp vào việc duy tu, bảo
tồn. Loại hình này trên thực tế đã minh chứng cho những nỗ lực bảo tồn và tôn tạo, đáp
ứng nhu cầu của cộng đồng vì những lợi ích văn hóa – kinh tế - xã hội” (ICOMOS).
Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) cũng đưa ra khái niệm khác về du lịch văn
hóa “Du lịch văn hóa bao gồm hoạt động của những người với động cơ chủ yếu là
nghiên cứu, khám phá về văn hóa như các chương trình nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ
thuật biểu diễn, về các lễ hội và các sự kiện về văn hóa khác nhau, thăm các đền đài, du
lịch nghiên cứu thiên nhiên, văn hóa hoặc nghệ thuật dân gian và hành hương”.

20
Khoản 20, Điều 4, Chương I, Luật du lịch Việt Nam, 2005, quy định: “Du lịch
văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng
đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống” [20, tr.3].
Như vậy, du lịch văn hóa là lĩnh vực du lịch khai thác tài nguyên du lịch văn
hóa, các dịch vụ thích hợp nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của
du khách. Du lịch văn hóa lấy văn hóa làm tài nguyên du lịch. Loại hình du lịch này
vừa có tính lực chọn khách lại vừa mang tính giáo dục nhận thức, đồng thời giúp
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa và là cầu nối cho việc giao lưu văn hóa giữa
các vùng miền. Loại hình du lịch này hiện nay đang rất phổ biến trên thế giới.
1.2.1.2. Đặc điểm
- Tính đa dạng: du lịch văn hóa với chất lượng cao được tạo nên bởi sự đa
dạng trong đối tượng phục vụ, mục đích phục vụ hay điểm đến như các di sản văn
hóa giới, các di tích lịch sử - văn hóa cho đến các lễ hội truyền thống, các phong tục
tập quán lâu đời, các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian đậm đà bản sắc dân tộc.
- Tính đa thành phần: không có một giới hạn nào cho những đối tượng liên
quan đến du lịch văn hóa như du khách, các tổ chức Nhà nước và tư nhân, nhà đầu
tư trong nước/nước ngoài, người làm du lịch (nhân viên, hướng dẫn viên du lịch…),
cộng đồng địa phương… Tất cả các tập đối tượng đó gồm nhiều thành phần khác
nhau trong xã hội, phong phú về cơ cấu độ tuổi/nghề nghiệp/giới tính/thành phần
dân tộc…họ đều tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các hoạt động du lịch văn hóa.
- Tính đa mục tiêu: Du lịch văn hóa mang lại lợi ích nhiều mặt như bảo tồn
các tài nguyên thiên nhiên, môi trường, di tích lịch sử - văn hóa, duy trì và phát triển
văn hóa phi vật thể, nâng cao chất lượng phục vụ du khách, nâng cao chất lượng đời
sống của người phục vụ du lịch, mở rộng học hỏi và giao lưu văn hóa, kinh tế, nâng
cao ý thức trách nhiệm cho cộng đồng.
- Tính liên vùng: Du lịch văn hóa nâng cao ý thức của du khách về văn hóa,
thẩm mỹ… vì vậy nên có sự liên kết giữa các cơ sở du lịch, các vùng văn hóa với
nhau trong việc hoạch định các tuyến, điểm du lịch văn hóa phục vụ cho du khách.
- Tính mùa vụ: đặc trưng này được thể hiện trong du lịch văn hóa ở hiện
tượng du khách thường tập trung rất đông ở những tuyến, điểm du lịch văn hóa vào
những ngày nghỉ cuối tuần, nghỉ hè, nghỉ đông, nghỉ lễ và đặc biệt là dịp lễ hội.

21
- Tính tiềm năng: Du lịch văn hóa là loại hình du lịch tiềm năng bởi vì nó ít chịu
sự chi phối của yếu tố thời vụ du lịch vì nó dựa vào các tài nguyên du lịch nhân văn và
văn hóa của cộng đồng dân cư tại điểm đến, nhưng nó lại phụ thuộc vào đặc điểm nhân
khẩu học như giới tính, độ tuổi, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, tôn giáo của du khách..
1.2.1.3. Vai trò
Văn hóa chính là nền tảng, là động lực thúc đẩy phát triển du lịch và du lịch văn
hóa phải tạo ra môi trường văn hóa vừa tiên tiến vừa đậm đặc đà bản sắc văn hóa dân
tộc, làm sống lại các giá trị văn hóa truyền thống, giữ vững sự ổn định chính trị và an
ninh xã hội. Du lịch văn hóa phát triển đã tích cóp và gạn lọc muôn ngàn tinh hoa từ
muôn nẻo, không ngừng truyền tải, giao lưu, biến đổi và nâng cao để góp phần vào sự
giàu có và cường thịnh về nền văn hóa, kinh tế xã hội của dân tộc, của đất nước.
Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hóa đối với kinh doanh du lịch là hết sức
quan trọng, góp phần thúc đẩy du lịch vươn lên, tạo đà cho du lịch ngày càng phát
triển đem lại hiệu quả to lớn và ổn định cho nền kinh tế. Nhận biết được vấn đề đó,
các nhà kinh doanh du lịch/các nhà quản lý kinh tế không những phải kiểm tra ngăn
chặn những mặt phi văn hóa bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan
trọng hơn là tạo ra các sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn từ bản sắc dân tộc, góp
phần bảo tồn thuần phong mỹ tục, nâng cấp các di tích lịch sử văn hóa kiến trúc.
1.2.2. Tài nguyên du lịch văn hóa
Luật Du lịch Việt Nam 2005 chia tài nguyên du lịch thành 2 dạng chính là tài
nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Trong đó tài nguyên du lịch
nhân văn là nhóm tài nguyên du lịch có nguồn gốc nhân tạo – do con người sáng tạo từ
bàn tay và khối óc của mình trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội. Như vậy, tài nguyên du lịch nhân văn cũng được hiểu là những tài nguyên
du lịch văn hóa. Tuy vậy, không phải sản phẩm văn hóa nào cũng đều là tài nguyên du
lịch nhân văn. Chỉ những sản phẩm văn hóa có giá trị phục vụ du lịch mới được coi là tài
nguyên du lịch nhân văn. Điều này cũng được khẳng định trong Khoản 1, Điều 13,
Chương II, Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền
thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo
cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật
thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch” [20, tr.7].

22
Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng “Du lịch văn hóa sử dụng văn hóa
như là nguồn lực. Có 2 loại tài nguyên thuộc về văn hóa sử dụng trong loại hình du
lịch này là tài nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên du lịch xã hội. Tài nguyên du
lịch nhân văn: là những của cải vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, có
khả năng thu hút con người tiến hành hoạt động du lịch văn hóa. Tài nguyên du lịch
xã hội: là những nét riêng về phong tục tập quán, quan niệm và phương thức sản
cuất, sinh hoạt trong đời sống dân cư của mỗi dân tộc” [2, tr.15].
Dù được nhìn nhận theo quan điểm nào thì bản chất của tài nguyên du lịch văn
hóa chính là những giá trị văn hóa tiêu biểu cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Thông qua
những hoạt động du lịch dựa trên việc khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn, khách
du lịch có thể hiểu được những đặc trưng cơ bản về văn hóa của dân tộc, địa phương
nơi mình đến. Tuy nhiên không phải giá trị văn hóa nào cũng là tài nguyên du lịch văn
hóa mà chỉ có các giá trị di sản văn hóa được khai thác đưa vào trong hoạt động du lịch
và có tính hấp dẫn du khách thì mới trở thành tài nguyên du lịch nhân văn hóa.
1.2.3. Sản phẩm và điểm đến trong du lịch văn hóa
1.2.3.1. Sản phẩm du lịch văn hóa
Du lịch là một ngành kinh tế vì vậy không thể không nhắc đến hệ thống sản
phẩm/dịch vụ du lịch mà trong khuôn khổ của luận văn này là các sản phẩm du lịch
văn hóa. Nếu sản phẩm du lịch là “tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu
cầu của du khách trong chuyến đi du lịch” [20, tr.4] thì sản phẩm du lịch văn hóa
chính là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch văn
hóa trong chuyến đi của họ. Hay theo tác giả Nguyễn Phạm Hùng (2013) trình bày
trong công trình khoa học Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa vùng đồng bằng
sông Hồng thì “sản phẩm du lịch văn hóa là sự kết hợp giữa tài nguyên du lịch văn
hóa và các dịch vụ du lịch văn hóa thích hợp phục vụ nhu cầu thưởng thức, khám
phá, trải nghiệm của du khách về những điều khác biệt, mới lạ của các nền văn hóa
khác nhau” [tr. 19]. Như vậy, giống như các sản phẩm của các loại hình du lịch
khác, sản phẩm du lịch văn hóa cũng chứa đựng yếu tố dịch vụ của ngành “công
nghiệp không khói” nhưng lại mang đặc trưng riêng biệt gắn liền với văn hóa bản
địa – nơi diễn ra hoạt động du lịch văn hóa.
1.2.3.2. Điểm đến trong du lịch văn hóa

23
Theo Điều 4, Chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005), thì “điểm du lịch là
nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch”
[20, tr.2]. Tuy nhiên, trong du lịch văn hóa điểm đến thường bao gồm những di tích
lịch sử, những thành phố lớn với các cơ sở văn hóa như bảo tàng, nhà hát hoặc
những vùng nông thôn nơi trưng bày hiện vật truyền thống văn hóa của cộng đồng
dân cư như các lễ hội, các nghi thức thể hiện lối sống, giá trị và văn hóa của họ. Bên
cạnh đó, điểm đến của du lịch văn hóa còn là các thành phố hiện đại, công viên, câu
lạc bộ, các hệ sinh thái ven biển, hải đảo và đất liền, các kỳ quan trên thế giới để
khám phá nền văn hóa nơi đó.
1.2.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa
Hiểu theo nghĩa rộng, cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch được xem là toàn
bộ cơ sở hạ tầng, phương tiện, vật chất và kỹ thuật tham gia vào hoạt động du lịch.
Bao gồm cả cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch như nhà hàng, khách sạn, hệ
thống điện nước vệ sinh phục vụ tại điểm du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật của các
ngành kinh tế khác có liên quan (mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc,
hệ thống điện, nước của vùng…). Hiểu theo nghĩa hẹp thì cở sở vật chất kỹ thuật
của du lịch là toàn bộ những cơ sở hạ tầng, vật chất, kỹ thuật được các nhà làm du
lịch đầu tư xây dựng để phục vụ cho hoạt động du lịch như nhà hàng, khách sạn,
đường giao thông nội bộ trong khu/điểm du lịch, công trình điện nước tại khu/điểm
du lịch, các khu vui chơi giải trí, phương tiện giao thông và các công trình bổ trợ
khác gắn liền với hoạt động du lịch. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch
văn hóa là toàn bộ những cơ sở vật chất kỹ thuật tại điểm du lịch văn hóa và cơ sở
hạ tầng của ngành nghề khác tham gia vào hoạt động du lịch văn hóa như: hệ thống
giao thông, thông tin liên lạc, các công trình cung cấp điện nước, cơ sở phục vụ ăn
uống, cơ sở lưu trú, các cửa hàng, khu giải trí/thể thao, cơ sở y tế, trạm xăng dầu,
nhà ga, bến cảng, bãi đỗ xe… phục vụ trực tiếp cho du khách đến tham quan tìm
hiểu du lịch văn hóa. Cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa góp phần quyết
định đến chất lượng dịch vụ và hiệu quả của điểm đến du lịch văn hóa.
1.2.5. Nhân lực du lịch văn hóa
Nguồn nhân lực được hiểu là tất cả người lao động làm việc trong một tổ
chức, bao gồm trí lực và thể lực. Như vậy, nguồn nhân lực trong du lịch là toàn bộ
đội ngũ nhân viên làm việc có liên quan đến lĩnh vực du lịch. Bao gồm cả nguồn

24
nhân lực thường xuyên và nguồn nhân lực không thường xuyên như: nhân viên
quản lý nhà nước về du lịch, quản lý trong các doanh nghiệp du lịch, hướng dẫn
viên du lịch, nhân viên y tế, nhân viên ngân hàng, nhân viên hàng không… và tất cả
những người lao động khác có liên quan đến hoạt động du lịch. Nhìn theo hướng
chuyên biệt thì nhân lực du lịch chính là đội ngũ nhân viên làm việc tại các cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch, các doanh nghiệp du lịch, các khu/điểm du lịch… Do
vậy, nguồn nhân lực trong du lịch văn hóa là toàn bộ những người lao động trực tiếp
và gián tiếp làm việc có liên quan đến hoạt động du lịch văn hóa, bao gồm đội ngũ
quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp và kinh doanh du lịch văn hóa. Lực lượng
này quyết định hiệu quả kinh doanh và sự tồn tại của du lịch văn hóa. Như vậy,
muốn phát triển du lịch văn hóa bền vững cần phải có đội ngũ nhân lực giỏi chuyên
môn nghiệp vụ, am tường văn hóa, đủ khả năng đảm nhiệm vai trò truyền tải hình
ảnh về đất nước, con người và văn hóa Việt Nam cho du khách.
1.2.6. Thị trường du lịch văn hóa
Thành phần du khách của du lịch văn hóa chủ yếu là những người sống ở
thành thị, ở những vùng phát triển, người nước ngoài, họ muốn tìm về nguồn cội, về
các di tích lịch sử, lễ hội… của dân tộc nào đó và đặc biệt là những làng bản ở vùng
quê xa xôi, tìm sự yên tĩnh và thư thái sau chuỗi ngày bận rộn. Những người đi du
lịch văn hóa thường là những người có trình độ học vấn, những người thích phiêu
lưu khám phá họ muốn tìm hiểu kiến thức mới lạ. Khách du lịch không ngoại trừ
trường hợp là những nhà nghiên cứu, đối tượng này họ có thu nhập ổn định, có khả
năng thanh toán, quyết định tiêu dùng nhanh và có nhu cầu dịch vụ tốt. Du lịch văn
hóa thường nhằm vào đối tượng khách là trung niên trở lên. Họ là những người có
tầm hiểu biết khá rộng, có nhu cầu khám phá, nghiên cứu, mở rộng sự hiểu biết.
Một đối tượng du khách nữa đó là độ tuổi thanh niên và thanh thiếu niên đây là độ
tuổi học sinh sinh viên với mong muốn nghiên cứu học tập, chỉ riêng với lễ hội đối
tượng khách được mở rộng hơn rất nhiều. Như vậy, thị trường du lịch văn hóa được
hiểu là một kiểu thị trường du lịch đáp ứng và thỏa mãn yếu tố văn hóa của du
khách. Đây chính là nơi diễn ra sự trao đổi, mua bán giữa người mua là khách du
lịch có nhu cầu thỏa mãn về sản phẩm văn hóa và người bán là những nhà cung cấp
dịch vụ có liên quan đến du lịch văn hóa trong một thời gian và không gian xác
định. Thị trường du lịch văn hóa chịu sự tác động chung của thị trường du lịch về

25
yếu tố địa lý, yếu tố cung cầu; về tính chất hoạt động và thành phần sản phẩm.
Đồng thời, thị trường du lịch văn hóa đảm nhiệm các chức năng như: chức năng
thực hiện, chức năng thừa nhận, chức năng thông tin và chức năng điều tiết.
1.2.7. Tổ chức, quản lý du lịch văn hóa
Đó là trình độ phối hợp các dịch vụ riêng lẻ thành các sản phẩm du lịch văn
hóa hoàn chỉnh và tạo điều kiện dễ dàng trong việc mua sản phẩm của khách hàng.
Hay nói một cách khác, đó chính là sự tổ chức, điều hành của từng đơn vị kinh
doanh lữ hành, đồng thời cũng là mối quan hệ giữa các đơn vị kinh doanh lữ hành
với nhau và giữa các đơn vị kinh doanh lữ hành với các đơn vị cung ứng dịch vụ du
lịch văn hóa. Ngoài ra, trình độ tổ chức quản lý Nhà nước về du lịch văn hóa còn
thể hiện ở việc xây dựng và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, tổ chức tuyên truyền
quảng cáo, thanh tra các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có
kinh doanh du lịch văn hóa… Đó cũng là sự hình thành và tổ chức hoạt động du lịch
văn hóa giữa các điểm du lịch và các mạng lưới tổ chức du lịch được thể hiện trong
quy hoạch. Công tác tổ chức, quản lý du lịch văn hóa cũng đồng nghĩa với công tác
tổ chức quản lý, phát huy và bảo tồn các di sản văn hóa. Đây là điều kiện quan trọng
để đảm bảo tính hiệu quả và bền vững để phát triển du lịch văn hóa. Tổ chức quản
lý Nhà nước về du lịch văn hóa hiện nay đang là vấn đề được lãnh đạo Nhà nước,
lãnh đạo ngành và các doanh nghiệp quan tâm. Việc quản lý phải được cụ thể hóa
trong công tác quy hoạch, ban hành các quy chế, các chính sách phát triển du lịch
văn hóa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương.
1.2.8. Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá
Trong ngành du lịch, xúc tiến là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động
nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch. Như vậy, công tác xúc tiến trong
du lịch góp phần quan trọng trong việc giới thiệu hình ảnh sản phẩm du lịch đến với
du khách trong và ngoài nước, đồng thời nó cũng mang lại hiệu quả thiết thực cho
ngành du lịch. Trên cơ sở đó, có thể hiểu xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá trong du
lịch văn hóa là tranh thủ mọi cơ hội để có thể quảng bá hình ảnh du lịch văn hóa đến
với thị trường du lịch trong và ngoài nước. Việc giới thiệu các hoạt động và sản
phẩm du lịch văn hóa này nhằm mục đích để du khách có thể chiêm ngưỡng, đánh
giá, nghiên cứu, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy du lịch văn hóa phát triển và mang
lại hiệu quả kinh doanh cao nhất cho ngành du lịch nói chung.

26
1.2.9. Bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch
Văn hóa là tài nguyên cốt lõi để cấu thành sản phẩm du lịch văn hóa. Nếu nhìn
về góc độ tổng thể, nơi nào có yếu tố du lịch nói chung và du lịch văn hóa nói riêng thì
nơi có chắc chắn tồn tại yếu tố văn hóa, thậm chí là những nét văn hóa đặc sắc. Do mối
quan hệ không thể tách rời nên sản phẩm du lịch văn hóa bao giờ cũng mang hình ảnh
của văn hóa. Vì thế, bảo vệ các giá trị văn hóa cũng chính là bảo vệ tài nguyên du lịch
văn hóa nói riêng và tài nguyên du lịch nói chung, đồng thời đây cũng là nghĩa vụ và
quyền lợi thiết thực của mỗi con người trong xã hội. Luật Di sản văn hóa Việt Nam đã
khẳng định “Di sản văn hóa Việt Nam là tàn sản quý giá của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta” [19, tr.2]. Như vậy, việc bảo tồn di
sản văn hóa và các giá trị văn hóa trong du lịch bao giờ cũng là cần thiết và cấp bách..
Việc tìm hiểu hệ thống lý luận về du lịch văn hóa như trên là cơ sở để nghiên
cứu phát triển loại hình du lịch này ở một địa bàn cụ thể, mà trong phạm vi luận văn
này là nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên –
một địa danh gắn liền với lịch sử vệ quốc vĩ đại của dân tộc.
1.3. Bài học kinh nghiệm trong phát triển du lịch văn hóa
Việt Nam có đủ các yếu tố để phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn, với tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú. Trong những năm gần
đây du lịch Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về chất và lượng. Đặc biệt là phát
triển du lịch văn hóa là hướng đi là xu thế của các nước đang phát triển loại hình du
lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm
nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch. Ở Việt
Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên những đặc điểm của
vùng miền. Năm Du lịch quốc gia được tổ chức luôn phiên hàng năm ở các
tỉnh/thành trên cả nước, Hội nghị quốc tế “Du lịch tâm linh vì sự phát triển bền
vững”, chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” từ lần thứ I (2009)
đến lần lần thứ VI (2014) được tổ chức lần lượt ở 6 tỉnh Việt Bắc, Con đường Di
sản miền Trung (Lễ hội dân gian kết hợp tham quan những di sản văn hóa được
UNESCO công nhận), Chương trình Du lịch về nguồn kết hợp giữa 3 tỉnh Yên Bái,
Lào Cai và Phú Thọ... đây là những hoạt động của du lịch văn hóa, thu hút nhiều
khách du lịch trong và ngoài nước.

27
Việt Nam với 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc lại mang một nét văn hóa độc
đáo, nên văn hóa Việt Nam đa sắc màu đó cũng chính là một tài nguyên du lịch văn
hóa hết sức độc đáo. Đánh giá được đây là tiềm năng những năm gần đây các công
ty du lịch, chính quyền địa phương, ngành du lịch Việt Nam đã có các chương trình
du lịch, hướng phát triển du lịch hết sức tạo bạo cho mình, bằng chứng đó là đã xây
dựng được rất các bản du lịch cộng đồng đậm đà bản sắc dân tộc như bản Lác, bản
Văn (Mai Châu – Hòa Bình), Tả Phìn (Lào Cai)…, xây dựng các tour du lịch thu
hút khách đến với các di tích lịch sử như Điện Biên Phủ, khu di tích ATK Định
Hóa,… khôi phục được các lễ hội truyền thống, các làng nghề đã bị mai một…
Tuy nhiên, từ hơn 20 năm phát triển du lịch, Việt Nam chỉ chú trọng khai thác
thiên nhiên và thiếu định hướng chiến lược phát triển, đầu tư một cách bài bản cho du
lịch, và kém xa các nước khác trong khu vực và vẫn chưa có được một sân khấu, nhà
hát biểu diễn nghệ thuật dân tộc nào độc đáo để giới thiệu đến du khách quốc tế, để đa
dạng hóa sản phẩm du lịch. Đồng thời hoạt động du lịch văn hóa của nước ta từ nhiều
năm nay, cũng đang bị báo động về nạn "chặt chém", các chương trình bị “loãng”, bắt
nạt du khách, cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ, quản lý kém, ô nhiễm môi trường tại
các điểm du lịch, nhiều di tích không được bảo quản đúng mức, gây hư hỏng nghiêm
trọng hay bị sửa lại khác so với lúc ban đầu… tạo ấn tượng xấu với du khách. Vì những
yếu kém như vậy nên ngành du lịch Việt Nam nói chung và du lịch văn hóa nói riêng
thường chỉ chú trọng khai thác quá mức các tài nguyên du lịch nhân văn như một điểm
mạnh, nhưng việc "xã hội hóa" các di tích (cho phép các công ty đầu tư khai thác và
bán vé vào cửa) và các công ty này lại không quan tâm bảo trì đúng mức, do đó cảnh
quan đang bị xuống cấp hay phá hủy nhanh chóng.
1.3.1. Kinh nghiệm của huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc vĩ đại, Quảng Trị là tiền đồ của miền Bắc
Xã hội chủ nghĩa và là điểm đầu của chiến trường miền Nam – Thần đồng Tổ quốc.
Trong hệ thống dày đặc các di tích lịch sử tại vùng đất lửa, có thể nói đến huyện Gio
Linh – nơi có Thành cổ Quảng Trị. Đây là một điểm đến tiêu biểu, có vai trò quan trọng
trong hành trình du lịch xứ Quảng nói riêng và du lịch miền Trung nói chung. Bởi nơi
đây đã ghi lại dấu ấn ác liệt của mùa hè đỏ lửa năm 1972, với sự chiến đấu anh dũng
trong suốt 81 ngày đêm của các chiến sĩ cách mạng. Những hồi ức ấy mãi sống trong
lòng người dân cả nước, đặc biệt là quân và dân Quảng Trị. Sau ngày giải phóng đất

28
nước, với những giá trị lịch sử cách mạng của mình, Thành cổ Quảng Trị được Nhà nước
quan tâm, trở thành di tích cấp Quốc gia cùng với tour DMZ và các nét văn hóa độc đáo
khác của Quảng Trị đã trở thành sản phẩm du lịch đặc sắc của tỉnh.
Như vậy, có thể thấy Quảng Trị nói chung và huyện Gio Linh nói riêng có tiềm năng
rất lớn về di tích lịch sử, văn hóa, biểu hiện bằng sự phong phú về chủng loại, đa dạng về loại
hình, giàu có về nội dung và tiềm ẩn diễn trình văn hóa – lịch sử của một vùng đất đã trải qua
nhiều biến động. Dù không có lợi thế về khí hậu như các địa phương khác nhưng bằng những
tiềm năng của mình, du lịch Gio Linh đang ngày càng phát triển, tạo ra được những sản phẩm
độc đáo, hấp dẫn. Một trong những sản phẩm đó là chương trình du lịch hoài niệm – một sản
phẩm mang thương hiệu không chỉ của huyện Gio Linh mà còn là trên phạm vi toàn tỉnh
Quảng Trị, thu hút đông đảo đối tượng khách tham quan. Cùng với sự phát triển của chương
trình du lịch hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội, Thành cổ Quảng Trị đang là điểm
đến được nhiều người quan tâm, là một điểm nhấn trong Tour DZM, mang những giá trị lịch
sử vô cùng lớn lao. Thành cổ Quảng Trị là khu di tích lịch sử cách mạng tiêu biểu nhất trong
hàng trăm di tích về chiến tranh cách mạng ở tỉnh Quảng Trị.
Trong mỗi con người, tìm hiểu về quá khứ, nhận thức lịch sử là một nhu cầu tất yếu
bởi “nhận thức đúng bài học lịch sử sẽ giúp hiểu biết sâu sắc và nhận thức thực tại tốt hơn.
Điều nay giúp ta ứng phó tốt với mọi thay đổi trong tương lai” (trích lời Thượng tướng
Nguyễn Huy Hiệu). Thế nên, việc phát huy giá trị các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn
huyện Gio Linh là yếu tố để thu hút khách tham quan du lịch và cũng là phát huy tính độc đáo
của du lịch Quảng Trị - du lịch thăm lại chiến trường xưa, tham quan di tích chiến tranh có một
đặc điểm không một địa phương nào trên hành lang kinh tế Đông Tây có được. Việc khai thác,
phát triển du lịch hoài niệm tại Thành cổ Quảng Trị là một yêu cầu tất yếu, khai thác giá trị di
tích lịch sử cách mạng đóng góp cho sự phát triển chung của toàn tỉnh. Để đạt được hiệu quả
du lịch cao, huyện Gio Linh đã có sự phối hợp linh hoạt giữa các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền như UBND huyện với Phòng Văn hóa – Thông tin huyện, Sở Văn hóa – Thể thao và
Du lịch Quảng Trị, Ban quản lý Khu di tích và các công ty du lịch trên địa bàn.
Như vậy, có thể thấy ngoài những điểm khác biệt mang tính đặc trưng thì Di tích
Thành cổ Quảng Trị có những nét tương đồng với hệ thống di tích lịch sử của huyện Định
Hóa. Dựa vào bài học phát triển du lịch ở Thành cổ Quảng Trị, Định Hóa có thể học hỏi kinh
nghiệm về việc xác định sản phẩm du lịch đặc thù (du lịch hoài niệm) và kinh nghiệm về sự

29
liên kết giữa các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý với công ty du lịch nhằm khai thác có hiệu
quả di tích lịch sử trong phát triển du lịch tại địa phương.
1.3.2. Kinh nghiệm của thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
Trong lịch sử hiện đại, Điện Biên được nhắc đến như một chiến thắng vĩ đại của
một đất nước thuộc địa nhỏ bé ở Đông Nam Á chống lại đội quân hùng mạnh của
cường quốc phương Tây. Thành phố Điện Biên được biết đến với trận Điện Biên Phủ
năm 1954, giữa quân đội Việt Minh (do tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy) và quân đội
Pháp (do tướng Christian de Castries chỉ huy). Cuộc chiến mang ý nghĩa rất lớn trong
việc kết thúc vai trò của người Pháp ở bán đảo Đông Dương, và đưa tới việc kí kết hiệp
định chia Việt Nam ra thành 2 miền: Bắc và Nam. Trận Điện Biên Phủ được nhắc đến
như một chiến thắng vĩ đại nhất của các nước Đông Nam Á chống lại một cường quốc
phương Tây. Bằng cách huy động sức người một cách tối đa và với lực lượng hậu cần
đông đảo của mình, Việt Minh đã làm nên một trong những chiến thắng quan trọng
nhất trong lịch sử chiến tranh của Việt Nam.
Quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ được chính thức xếp hạng di tích lịch sử
quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được xây
dựng nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (2004). Hiện nay chạy dọc
thung lũng Mường Thanh, nơi diễn ra cuộc đọ sức lịch sử năm xưa là đại lộ 279, con phố
chính và lớn nhất thành phố Điện Biên Phủ. Mảnh đất này đã trở thành biểu tượng cho
hòa bình, độc lập dân tộc và dân chủ, là thiên anh hùng ca về tinh thần quyết chiến, quyết
thắng, là niềm tin của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới, làm nức lòng bạn bè khắp
năm châu. Với vai trò là một “chiến thắng lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” của
dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vĩ đại, Điện Biên Phủ đã
tạo ra một ấn tượng sâu đậm, đặc trưng đối với du khách.
Ngoài các di tích lịch sử nói trên, thành phố Điện Biên Phủ còn là địa bàn cư
trú của nhiều dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc ở đây có những luật tục quy định riêng
về đồ dùng trong gia đình, vị trí ăn/nghỉ trong nhà, kiêng kị của gia đình/bản làng…
Đây chính là những “quy ước chung” để răn dạy con cái, gắn kết các thành viên
trong gia đình nhưng đồng thời cũng phản ánh tính cộng đồng cao. Những chuẩn
mực nghi lễ, ứng xử đẹp của dân tộc được người Điện Biên gìn giữ từ đời này sang
đời khác. Có thể coi đây như nguồn tài nguyên quý giá để phát triển du lịch phong
tục nói riêng và du lịch văn hóa nói chung.

30
Để khai thác những giá trị đặc sắc của các di tích lịch sử và các giá trị văn
hóa tộc người nói trên, từ nhiều năm nay các phương tiện và cơ sở dịch vụ du lịch
đã và đang được chú trọng đầu tư xây dựng. Cùng với đó, thành phố Điện Biên Phủ
cũng phát huy tiềm năng du lịch văn hóa cộng đồng, xây dựng các bản văn hóa du
lịch nhằm hấp dẫn, thu hút khách du lịch đến với thành phố Điện Biên Phủ nói riêng
và tỉnh Điện Biên nói chung. Đến đây, du khách sẽ được tham quan tìm hiểu các giá
trị văn hóa dân tộc; giao lưu văn hóa văn nghệ với cộng đồng địa phương; tìm hiểu
phong tục tập quán của đồng bào dân tộc, thưởng thức các món ẩm thực đặc sản
như: thịt hun khói, cá nướng, gà nướng, thịt băm gói lá dong nướng, cơm lam, xôi
ngũ sắc… Đồng thời, khách du lịch cũng có thể lưu trú ngay tại bản văn hóa và
được đồng bào phục vụ tận tình, chu đáo.
Một trong những kinh nghiệm của thành phố Điện Biên Phủ để phát triển du
lịch văn hóa nói riêng và phát triển du lịch nói chung là thường xuyên có sự tương
tác đối với các phương tiện truyền thông đại chúng (báo, tạp chí, truyền hình, sách,
phim) cả trong và ngoài nước. Có thể kể đến hàng chục bộ phim (cả điện ảnh và tư
liệu) đã khai thác và quay phim về điểm đến này. Trong đó có một số bộ phim do
các nhà sản xuất nước ngoài thực hiện như “Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và
voi” (2004) của đạo diễn Daniel Roussel, hay “Việt Nam trên đường thắng lợi” của
đạo diễn Nga Roman Carmen, “Ngày D ở Điện Biên Phủ” của đạo diễn Georges
Guillot. Ngoài ra, còn có các bộ phim Việt Nam như “Hoa ban đỏ”, “Ký ức Điện
Biên”, “Đường lên Điện Biên”… Những bộ phim này đã được công chiếu rộng rãi,
góp phần giúp cho hình ảnh của Điện Biên ngày càng trở nên phổ biến với đại
chúng nói chung và với khách du lịch nói riêng.
Một kinh nghiệm phát triển du lịch văn hóa thành công khác của thành phố
Điện Biên Phủ chính là việc đầu tư xây dựng điểm nhấn thu hút du khách. Với tính
chất định hướng cho du khách về một sự hiểu biết chung cho toàn bộ điểm đến,
điểm nhấn thu hút đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc quản lý thương
hiệu, đặc biệt trong lĩnh vực nhận diện thương hiệu điểm đến. Nhận thức được điều
này, ngành du lịch Điện Biên đã xây dựng quần thể di tích Điện Biên Phủ trở thành
điểm nhấn thu hút cho thương hiệu du lịch của tỉnh. Với những ảnh hưởng tích cực
mà một điểm nhấn thu hút có thể mang lại trong việc xây dựng hình ảnh điểm đến,

31
việc xây dựng và đầu tư cho quần thể di tích Điện Biên Phủ chính là cách hữu hiệu
để để quảng bá, giới thiệu và thu hút khách du lịch đến với tỉnh Điện Biên.
Như vậy, mặc dù quy mô phát triển du lịch văn hóa của thành phố Điện Biên
Phủ và của huyện Định Hóa (Thái Nguyên) là khác nhau nhưng dựa trên đặc điểm
tài nguyên du lịch giữa 2 địa phương này, chúng ta thấy hoạt động du lịch văn hóa
của Định Hóa có thể học tập những bài học kinh nghiệm sau của thành phố Điện
Biên Phủ: xây dựng điểm nhấn thu hút, đầu tư cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ du lịch, đa dạng hóa sản phẩm du lịch, phát triển hình thức du lịch
bản làng dân tộc, bảo tồn và phát huy giá trị di tích/di sản, xúc tiến du lịch văn hóa.
1.3.3. Kinh nghiệm của huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang
Huyện Sơn Dương là một huyện miền núi của tỉnh Tuyên Quang. Đây là địa
bàn sinh sống của 10 dân tộc gồm: Kinh, Tày, Nùng, Cao Lan, Dao, Hoa, H’ Mông,
Sán Dìu, Mường, Ngán. Sơn Dương có nhiều khu di tích lịch sử nổi tiếng như: khu
di tích lịch sử Tân Trào – ATK; cụm di tích Bác Tôn; Ban thường trực Quốc Hội;
mặt trận liên Việt ở xã Trung Yên; đình Hồng Thái; lán Nà Lừa; làng Sảo; cụm 43
điểm di tích tại xã Tân Trào; cụm di tích phủ Chủ tịch, Thủ tướng Chính phủ tại
thôn Lập Binh, xã Bình Yên; cụm di tích Nha Công an và các bộ ngành ở xã Minh
Thanh. Ngoài các di tích lịch sử, Sơn Dương còn là mảnh đất giàu tiềm năng văn
hoá, du lịch sinh thái: làng văn hoá dân tộc Tày(Tân Lập – xã Tân Trào), chợ văn
hoá Nà Ho – xã Trung Sơn, khu sinh thái Lũng Tẩu – xã Tân Trào, hang đá Yên
Thượng – xã Trung Yên, Thác Rẫng - Lập Binh – Xã Bình Yên…. Hiện tại, Sơn
Dương đang xây dựng làng văn hoá du lịch của người Sán Dìu kết hợp với du lịch
sinh thái mạo hiểm của vùng đệm Vườn Quốc gia Tam Đảo.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Tuyên Quang đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020 có hướng phát triển khu du lịch lịch sử - văn hoá ở
Sơn Dương gồm toàn bộ các di tích lịch sử cách mạng, văn hoá ở khu Tân Trào-
ATK tại các xã Tân Trào, Trung Yên, Minh Thanh, Bình Yên, Hợp Thành, Tú
Thịnh. Trong đó, Khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào có giá trị lịch sử vô cùng
quan trọng. Trong thời gian qua, các di tích trong khu di tích đã được tỉnh quan tâm
đầu tư tôn tạo, bảo tồn; thu hút khách trong tỉnh, trong nước và nước ngoài đến
tham quan, du lịch... Tuy nhiên, để khai thác tốt nhất giá trị lịch sử của khu di tích,

32
phục vụ cho phát triển du lịch nói chung và du lịch văn hóa nói riêng, các hoạt động
tại đây cần chuyên nghiệp hơn nữa.
Thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch của tỉnh, các cấp ủy, chính quyền và
nhân dân trên địa bàn huyện đã nhận thức rõ việc phát triển du lịch là sinh kế bền
vững trong phát triển kinh tế. Đặc biệt, Sơn Dương có lợi thế to lớn để phát triển du
lịch văn hóa, đó chính là hệ thống các di tích lịch sử của huyện và bản sắc văn hóa
độc đáo của đồng bào các dân tộc trong huyện. Dựa vào thế mạnh đó, hiện tại, du
lịch văn hóa huyện Sơn Dương có 3 sản phẩm chính là du lịch phong tục, du lịch
tham quan di tích lịch sử và du lịch tâm linh. Tuy nhiên, cách tiếp cận và triển khai
những hoạt động du lịch còn thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu đồng bộ, chưa có nhiều
biện pháp để giữ chân du khách, ít sản phẩm đặc thù, hạ tầng giao thông nối các
điểm di tích còn hạn chế, hướng dẫn viên còn yếu, chất lượng dịch vụ chưa cao…
Trong những năm gần đây, nhờ chú trọng làm tốt công tác tuyên truyền quảng
bá, hoạt động du lịch ở Sơn Dương có bước khởi sắc. Từ năm 2005 đến này, hàng loạt
các sự kiện du lịch được tổ chức quy mô và bài bản, thu hút du khách trong và ngoài
nước. Có thể kể đến các hoạt động như: lễ kỷ niệm 60 năm cách mạng tháng Tám và
quốc khánh 2/9; Tuần văn hoá du lịch 2006 với một chương trình nghệ thuật đặc sắc có
chủ đề: “Về với Tân Trào - Thủ đô kháng chiến” đã gây được tiếng vang lớn; Tuần văn
hóa du lịch các năm 2006, năm 2007, 2008, 2009 với chủ đề “Du xuân trên thủ đô
kháng chiến”; “Hành trình về Thủ đô kháng chiến”; “Về với xứ Tuyên”; Các hội chợ
xúc tiến thương mại du lịch; Phối hợp cùng UBND tỉnh Tuyên Quang tổ chức các hoạt
động văn hoá, thể thao dân tộc, giao lưu hợp tác phát triển du lịch vùng Việt Bắc với
thủ đô Hà Nội và các tỉnh thành trong cả nước…
Mặc dù điều kiện về nguồn lực, kinh phí còn hạn chế nhưng trong những
năm qua, công tác xúc tiến, tuyên truyền du lịch đã được ban quản lý đặc biệt chú
trọng và không ngừng cải tiến nhằm thu hút hách đến với Tân trào ngày một đông
hơn. Đơn vị đã chủ động phối hợp với Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Cách
mạng, trung tâm văn hoá thông tin tỉnh Tuyên Quang và triển lãm tỉnh Tuyên
Quang tổ chức nhiều đợt triển lãm với nhiều chủ đề gắn với các sự kiện chính trị
diễn ra tại khu di tích. In và phát hành hơn 10.000 tờ gấp; dựng hàng trăm biển chỉ
dẫn, sơ đồ, pano, có nội dung tuyên truyền, giới thiệu khu di tích. Phối hợp với nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản và phát hành hàng chục ngàn ấn phẩm. Phối

33
hợp với Đài truyền hình Việt Nam, Đài truyền hình Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Đài truyền hình kỹ thuật số VTC, đài truyền hình Tuyên Quang, Đài tiếng
nói Việt Nam… và nhiều tờ báo cao uy tín đăng tải nội dung, giới thiệu hình ảnh về
khu di tích vơi đồng bào cả nước. Cùng với tuyên truyền quảng bá, huyện Sơn
Dương cũng đặc biệt trú trọng đến công tác chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng
của chuyến tham quan,bước đầu đáp ứng được nhu cầu của khách. Đã làm tốt công
tác bảo tồn, tu bổ di tích, tạo cảnh quan môi trường ngày càng sạch, đẹp, phát huy
tốt các giá trị di sản văn hoá phục vụ cho hoạt động du lịch. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng thuyết minh viên được trú trọng.
Tuy nhiên, hoạt động du lịch văn hóa của huyện Sơn Dương còn nhiều hạn chế
cần khắc phục. Trong đó phải kể đến các dịch vụ ăn uống, lưu niệm, lưu trú… chưa
phong phú, chưa quy củ; sản phẩm du lịch còn nghèo nàn. Đặc biệt, công tác xúc tiến
quảng bá của địa phương còn yếu, chưa có website giới thiệu thông tin; yếu tố văn hóa
trong phát triển du lịch cộng đồng không rõ nét; hiện trạng bị bê tông hóa nhiều; chưa
kết nối được với doanh nghiệp và nhà đầu tư. Bên cạnh đó, các yếu tố liên quan như
nhà vệ sinh, sản phẩm lưu niệm, dịch vụ giải trí đều chưa đáp ứng được nhu cầu.
Với thực trạng hoạt động du lịch văn hóa như trên, huyện Sơn Dương định
hướng nâng cao chất lượng dịch vụ; xác định thị trường du lịch nội địa là chính,
tăng cường quảng bá, xúc tiến; phát triển thêm yếu tố văn hóa dân tộc như phong
tục tập quán, trang phục, nghề truyền thống; không đầu tư tràn lan mà tập trung đầu
tư vào một số khu, điểm trọng điểm; tạo dựng điểm nhấn, thương hiệu cho điểm
đến, sản phẩm đặc thù; xây dựng cơ chế chính sách thuận lợi cho nhà đầu tư… Sơn
Dương cũng đã ưu tiên nhiều hơn về triển khai các chủ trương, dự án đã được phê
duyệt, đầu tư vào xây dựng các sản phẩm đặc thù như khôi phục phong tục tập
quán, nghề truyền thống, văn hóa bản địa… Ngành du lịch Sơn Dương cũng đang
tích cực nghiên cứu phát triển sản phẩm, xúc tiến quảng bá; đào tạo tập huấn, kỹ
năng hướng dẫn viên du lịch; xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch; khảo
sát xây dựng tuyến du lịch tâm linh gắn với các điểm đến về nguồn cách mạng. Đặc
biệt, huyện cũng định hướng xây dựng thương hiệu “Về thủ đô kháng chiến”; đầu tư
xây dựng những sản phẩm khác biệt; tạo cơ chế thuận lợi để huy động nguồn lực
đầu tư từ doanh nghiệp có uy tín; tập trung quảng bá hướng vào thị trường nội địa
dựa trên những nghiên cứu thị trường cụ thể; chủ động kết nối các địa phương,

34
doanh nghiệp; đề xuất Bộ VHTTDL hỗ trợ các dự án đầu tư hạ tầng, xúc tiến đầu
tư, quản lý điểm đến và đào tạo nhân lực.
Với thực trạng phát triển du lịch văn hóa của huyện Sơn Dương (Tuyên
Quang) – một địa phương nằm liền kề và có nhiều mối liên hệ mật thiết với huyện
Định Hóa thì bài học kinh nghiệm của Sơn Dương về phát triển du lịch văn hóa mà
Định Hóa cần học tập chính là: một là xác định sản phẩm du lịch đặc thù; hai là xác
định công cụ xúc tiến du lịch phù hợp và đẩy mạnh công tác xúc tiến, tuyên truyền,
quảng bá du lịch văn hóa nói riêng và du lịch của địa phương nói chung.
1.4. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
1.4.1. Lịch sử hình thành và phát triển huyện Định Hóa
Tuyên Hoá là tên gọi cổ xưa nhất của huyện Định Hoá, điều này đã ghi nhận
trong “Đại Nam nhất thống chí” [tr.150]. Dưới thời Lê sơ theo sách “Dư địa chí”
của Nguyễn Trãi (1438) thì huyện Định Hóa đổi thành châu Định Hóa thuộc phủ
Phú Bình, gồm 40 xã, 12 trang. Châu Định Hóa tồn tại suốt thời Lê sơ (1428-1527),
qua các thời nhà Mạc (1527-1532), Lê Trung Hưng (1533-1778), Tây Sơn (1778-
1802) đến thời nhà Nguyễn (1802-1945). Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế
kỷ XIX - thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra - Nhà xuất bản Khoa học xã hội (1981)
thì: “Đến thời Nguyễn, châu Tuyên Hoá được gọi là châu Định Hoá. Năm Minh
Mạng thứ IV (1823), Định Hoá đổi thành Định Châu, năm 1835 Minh Mạng tách
một số châu huyện thuộc Phủ Phú Bình lập ra phủ mới gọi là phủ Tòng Hoá và
châu Định Hoá thuộc phủ Tổng Hoá gồm 9 tổng 36 xã” [tr.208]. Dưới ách thống trị
của thực dân Pháp, Định Hóa có thời kỳ gọi là phủ, có thời gọi là châu.
Sau ngày khởi nghĩa giành chính quyền 26/3/1945, Định Hoá được cách
mạng đặt tên là phủ Ngô Quyền. Cuối năm 1945 đổi tên là phủ Vạn Thắng. Đến
năm 1948 theo Nghị quyết của Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Thái Nguyên
phủ Vạn Thắng đổi thành huyện Định Hoá. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp
(1946 - 1954) Định Hoá là trung tâm thủ đô kháng chiến, nơi đặt đại bản doanh của
cơ quan đầu não kháng chiến, tổng hành dinh quân đội nhân dân Việt Nam. Trung
ương Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổng bí thư Trường Chinh và nhiều
lãnh đạo của Đảng và Chính phủ đã lấy Định Hoá làm đất căn bản để lãnh đạo toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) và xây dựng Chủ nghĩa xã hội,

35
huyện Định Hoá là hậu phương có tính chiến lược của cả nước nói chung và Việt
Bắc nói riêng. Chính từ những đóng góp của đất và người Định Hoá, năm 1998,
Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng cho Định Hoá
danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Định Hoá đã trở thành
khu di tích lịch sử sinh thái của tỉnh Thái Nguyên, hàng năm đón hàng vạn lượt du
khách về thăm quan để nhìn lại 9 năm kháng chiến của dân tộc với những dấu tích
hào hùng của lịch sử chiến tranh giữ nước vĩ đại.
Hiện nay, Định Hóa có 24 đơn vị hành chính, gồm 23 xã và 1 thị trấn (Thị
trấn Chợ Chu) với tổng diện tích tự nhiên là: 52.075ha và dân số là 89.125 người
(T12/2012), mật độ dân số bình quân là 172 người/km2. Toàn huyện có 3 xã vùng
cao (Linh Thông, Quy Kỳ, Bảo Linh), 17 xã nằm trong diện 135 giai đoạn II và
24/24 xã, thị trấn đều được công nhận là xã ATK.
1.4.2. Đặc điểm tự nhiên
Vị trí địa lí
Định Hóa là một huyện miền núi ở phía Tây – Tây Bắc của tỉnh Thái Nguyên, với diện
tích 52.027 km2 và được giới hạn ở tọa độ địa lí từ vĩ độ bắc 21o45’ đến 22o03’, kinh độ đông
từ 105o30’ đến 105o47’, cách thành phố Thái Nguyên 50km theo quốc lộ 3 và tỉnh lộ 254.
Định Hóa có đường ranh giới tiếp giáp với 6 huyện: Bắc giáp Chợ Đồn, Bạch Thông (tỉnh
Bắc Kạn); Nam giáp Đại Từ; Đông giáp Phú Lương; Tây giáp Sơn Dương và Yên Sơn (tỉnh
Tuyên Quang). Huyện lỵ là thị trấn Chợ Chu, diện tích khoảng 520km2, bên cạnh đó là 23 xã
trải dài trên hơn 51.000km2 còn lại.
Địa hình
Định Hóa được biết đến là một miền đồi núi hiểm trở có địa thế chiến lược về quân sự.
Do tính chất địa hình huyện Định Hóa chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam nên tạo ra diện
mạo địa hình của vùng lãnh thổ này chủ yếu là địa hình vùng núi cao, đồi và núi đá đan xen
nhau. Nhìn chung, toàn huyện có địa hình khá phức tạp, phần lớn diện tích trên lãnh thổ huyện
là vùng núi cao, có độ dốc lớn, địa hình hiểm trở bị chia cắt mạnh. Những vùng đất tương đối
bằng phẳng thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ, phân tán dọc theo các khe,
ven sông, suối hoặc thung lũng vùng núi đá vôi. Sự phân bố địa hình trên lãnh thổ cùng với
quá trình sản xuất đã hình thành 3 tiểu vùng sinh thái: tiểu vùng núi cao, tiểu vùng thung lũng
lòng chảo Chợ Chu và tiểu vùng đồi thoải.

36
Thổ nhưỡng
Định Hoá có 520.75km2 ha đất tự nhiên, trong đó: 99.29km2 đất nông
nghiệp, 221.7km2 ha đất lâm nghiệp, 8.46km2 đất chuyên dùng, 7.33km2 đất ở,
183.98km2 đất chưa sử dụng. Thành phần của đất được chia ra làm 5 loại chính: đất
thuộc loại hình Mác mưa chua, chủ yếu là Grnid, có diện tích 19.97km2, tầng dầy
trung bình chiếm ưu thế, tập trung chủ yếu ở các xã vùng 3; đất Zera lid nâu đỏ phát
triển trên đá gabvô, có diện tích khoảng 2.8km2, tầng dầy trung bình chiếm u thế, tỷ
lệ xét hoá học biến đổi từ 52 đến 73% trong tổng số cấp hạt loại đất, phân bổ rải rác
trong huyện; đất dốc tụ, có tổng diện tích khoảng 27.68km2, phân bố rộng khắp
trong huyện, có địa hình phức tạp; đất phù sa suối, có khoảng 17.73km2, phân bố
tập trung hai bên các sông, suối trong huyện, tạo thành những cánh đồng vừa và
nhỏ; đất dốc tụ có ảnh hưởng CaCo3, diện tích khoảng 1.82km2, phân bổ tập trung
xung quanh khu vực có những dãy núi đá vôi, có phản ứng trung tính hoặc hơi
kiềm. Căn cứ vào độ dốc có thể phân ra: Đất có độ dốc trên 250 có 116.18km2, đất
có độ dốc dưới 250 có 145.96km2, đất núi 152.67km2..
Khí hậu, thủy văn
Khí hậu của huyện mang đặc điểm chung của khí hậu miền núi Bắc Bộ. Mùa
mưa từ tháng 4 đến tháng 11 đến tháng 3 năm sau, lượng mưa trung bình năm là
1.710mm, tuy nhiên lượng mưa phân bố không đều. Nhiệt độ trung bình cả năm là
22,5oC, các tháng nóng là các tháng mùa mưa, nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ trung
bình là 28,7oC. Số giờ nắng trung bình năm là 1.560 giờ. Về mùa khô nhiệt độ xuống
thấp nhất là trong tháng 12 là tháng hạn chế rất lớn tới sự phát triển của cây trồng.
Do cấu trúc địa chất theo hướng Tây Bắc – Đông Nam và địa hình đồi, núi
đất, núi đá xen nhau, chia cắt mạnh tạo nên hệ thống sông suối phân bố khá đều trên
lãnh thổ với các nguồn nước phong phú, dồi dào. Mặc dù có nhiều khe, suối nhưng
do có độ dốc thấp so với hạ lưu nên ít cản trở đến việc đi lại. Huyện Định Hóa là
nơi bắt nguồn của 3 hệ thống sông chính là sông Chu, sông Công và sông Đu.
Hệ sinh thái
Ẩm độ trung bình trong năm biến động từ 80 – 85 %, các tháng mưa có độ
ẩm khá cao từ 83-87%. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hệ sinh thái
rừng và sinh vật. Nằm giữa trung tâm Việt Bắc, núi non liên hoàn hiểm trở nên
37
Định Hóa đặc trưng cho hệ sinh thái rừng vùng Đông Bắc với các kiểu chính đó là
rừng nhiệt đới trên núi đá và núi đất. Độ che phủ 47% rừng có các loại lâm sản quý
như gỗ, nghiến, lim, lát, sến và các loại tre nứa, vầu, trám, cọ… Đặc biệt rừng ở các
xã phía nam có nhiều cây cọ, đây là một cây đặc trưng của huyện Định Hoá. Không
những vậy rừng còn có nhiều cây thuốc quý phục vụ chữa bệnh cho nhân dân. Động
thực vật trong rừng rất phong phú và đa dạng, tuy nhiên ngày nay rừng đã bị thu
hẹp nhanh chóng, nguồn tài nguyên đang dần cạn kiệt, hệ sinh thái rừng và động
thực vật có nguy cơ bị hủy hoại, nhiều loại đã biến mất như báo, gấu… Do đặc
điểm địa lí và tập quán tín ngưỡng của cư dân nơi đây nên cảnh quan đặc trưng của
Định Hóa là sự phân chia thành các khu nhỏ, ứng với mỗi khu đó là bản làng lưng
dựa vào đồi, phía trước là cánh đồng nhỏ hẹp nằm hai bên bờ suối.
1.4.3. Đặc điểm dân cư, kinh tế, xã hội
Dân cư
Định Hóa là mảnh đất giàu tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội và có vị trí
chiến lược về mặt quân sự, đây cũng là nơi tụ cư của nhiều dân tộc Tày, Nùng,
Kinh, Dao, Cao Lan – Sán Chí, Hoa, Sán Dìu, Hmông, Mường… Các dân tộc này
cùng cư trú gần gũi với nhau, cùng nhau đoàn kết, bảo vệ và xây dựng quên hương
Định Hóa. Tính đến T12/2012, dân số toàn huyện là 89.125 người, mật độ dân số
của huyện là 172 người/km2. Trong đó, người Tày chiếm tỉ lệ xấp xỉ 50% và là dân
tộc có số dân đông nhất huyện, họ là chủ thể văn hóa của mảnh đất này. Tiếp đến là
người Kinh/Việt, có số lượng 30698 người, chiếm tỉ lệ gần 35% dân số toàn huyện
(xem bảng 1 – Phụ lục 4), sau đó là người Cao Lan (9.1%) và người Nùng (3.3%).
Mỗi dân tộc huyện Định Hóa lại có đặc điểm cư trú, phong tục tập quán riêng cùng
tồn tại, đan xen tạo nên bức tranh dân cư văn hóa của vùng đất này.
Người Tày có lịch sử cư trú lâu đời ở huyện Định Hóa, chiếm gần 50% dân số
toàn huyện và là dân tộc đông nhất ở đây. Một số xã của Định Hóa có 90% dân số là
người dân tộc Tày như Linh Thông, Bộc Nhiêu, Điềm Mặc, Bình Yên. Đây chính là cơ
sở quan trọng để cộng đồng nơi đây hình thành và gìn giữ nét văn hóa truyền thống của
mình. Người Tày Định Hóa có nền văn hóa riêng mang đậm bản sắc dân tộc. Bản là
đơn vị tụ cư của nhiều dòng họ người Tày, lấy quan hệ láng giềng làm cơ sở, có thiết
chế tự quản và những quy định riêng. Bản thường đặt tên theo người đến khai phá mở
đất đầu tiên hoặc tên cầm thú có ở đó. Các bản đều có địa vực cư trú riêng bao gồm đất

38
ở, đất canh tác, rừng rú, sông suối, bãi chăn thả gia súc. Ranh giới giữa các bản thường
được xác định bằng đường phân thủy, eo núi, sông suối hoặc đường xá. Quy mô các
bản vừa và nhỏ, mỗi bản thường chỉ có 30 đến 60 hộ gia đình, sống mật tập hay rải rác
thành nhiều chòm xóm phân bố tương đối độc lập…
Kinh tế
Kinh tế truyền thống của người dân Định Hóa là sản xuất nông nghiệp, trong đó
nổi lên vai trò của việc canh tác lúa đặc sản – Bao Thai – và hoạt động sản xuất của các
làng nghề truyền thống như: chuyên canh chè, dệt mành cọ, nuôi cá ruộng… Nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào nhân dân trong huyện, Huyện ủy đã chỉ đạo xây
dựng và triển khai các đề án toàn khóa trong lĩnh vực này như xây dựng vùng lúa cao
sản, lúa bao thai, khôi phục và củng cố các công trình thủy lợi, mở rộng và phát triển
vùng chè được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Công nghiệp - thủ công nghiệp và thương
mại, dịch vụ có bước phát triển tích cực, nhất là từ khi củng cố mạng lưới đường giao
thông liên xã và mạng lưới điện nông thôn. Huyện đã quy hoạch được 4 khu công nghiệp
truyền thống của địa phương như: đan mành cọ, cót, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến
lâm sản và phát triển nghề mây tre đan... Hiện nay, trên địa bàn huyện có 2 nhà máy chè
và 1 nhà máy giấy, gỗ đang hoạt động.
Xã hội
Trong những năm gần đây do kinh tế của huyện có nhiều thay đổi theo hướng
CNH-HĐH nên tỷ lệ dân số thành thị cũng có thay đổi song phần lớn dân tập trung chủ
yếu ở nông thôn sống bằng nghề nông lâm nghiệp. Được sự hỗ trợ của Đảng và Nhà
nước, huyện Định Hóa trong những năm gần đây đã thực hiện các chương trình, dự án
của chính phủ đầu tư cho kinh tế xã hội miền núi, giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo… góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Giáo dục và
đào tạo có bước phát triển, công tác văn hóa thông tin, thể dục thể thao, truyền thanh
truyền hình có nhiều hoạt động thiết thực, bám sát nhiệm vụ chính trị từng thời kỳ, tích
cực tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và từng
bước đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân.
1.4.4. Cơ sở hạ tầng
Giao thông vận tải
Được hỗ trợ của Nhà nước, các tuyến đường giao thông thường xuyên được
tu bổ, sửa chữa và nâng cấp. Trên địa bàn huyện hiện có đường liên tỉnh 254 dài

39
37km là đường rải nhựa. Đường liên xóm, đường trong khu dân cư dài 655 km,
cũng đã bê tông hóa ở một số thôn. Kết quả năm 2013, chỉ với nguồn lực từ ngân
sách Nhà nước hỗ trợ 29,515 tỷ đồng, cùng với xã hội hóa nhiều nguồn lực đầu tư
xây dựng, các xã trong huyện đã xây dựng được 36,45 km đường bê-tông, trong đó
có 32,13 km đường loại B, 4,32 km đường loại C. Trong những năm qua huyện đã
huy động xã hội hóa để làm giao thông nông thôn, do đó đến nay các tuyến đường
liên xã, liên huyện, liên thôn được nâng cấp, sửa chữa, việc đi lại vận chuyển hàng
hóa trên địa bàn huyện được cải thiện, tạo điều kiện góp phần phát triển kinh tế xã
hội nông nghiệp và nông thôn. Điều này đồng nghĩa với việc khách du lịch sẽ dễ
dàng tiếp cận, đi lại thuận tiện đến các điểm du lịch của Định Hóa.
Hệ thống điện, nước, thông tin liên lạc
Hệ thống thông tin liên lạc ngày càng phát triển, tại các xã đều có trạm bưu điện
điểm văn hóa. Do thu nhập của nhân dân trong huyện còn thấp, đời sống còn khó khăn
nên số máy điện thoại trên 1000 dân không nhiều, hiện nay có khoảng 2000 máy điện
thoại tại các hộ gia đình. Ngoài mạng lưới bưu điện, truyền hình, đài phát thanh Trung
ương và Tỉnh, huyện thì các xã có hệ thống loa là phương tiện quan trọng, chủ yếu và
hữu hiệu cung cấp thông tin tuyên truyền đến nhân dân trong huyện, đặc biệt là những
vùng sâu, vùng xa. Sự phát triển này tuy chậm nhưng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho
nhân dân và phần nào đáp ứng nhu cầu cần thiết của khách du lịch. Lưới điện quốc gia
kéo đến các xã đã tạo điều kiện điện khí hóa nông nghiệp, nâng cao đời sống văn hóa,
tinh thần cho nhân dân trong huyện; cung cấp điện cho các cơ sở lưu trú du lịch, nhà
hàng ăn uống, giúp cho khâu phục vụ du khách được liên hoàn.
1.4.5. Tài nguyên du lịch văn hóa
1.4.5.1. Di tích lịch sử cách mạng
Nhắc đến Định Hóa chúng ta không thể không nói đến hệ thống di tích lịch
sử cách mạng dày đặc, trải dài ở 23/24 xã và 1 thị trấn (Chợ Chu). Bởi đây chính là
An toàn khu Trung tâm, là “thủ đô kháng chiến” của dân tộc. Lịch sử đã ghi dấu son
chói lọi trên 128 di tích (126 di tích lịch sử cách mạng, 02 điểm danh lam thắng
cảnh), trong đó có 13 điểm di tích được Nhà nước xếp hạng cấp quốc gia, 5 điểm
xếp hạng di tích cấp tỉnh. Quần thể di tích này được chia làm các trung tâm: Chợ
Chu – Quán Vuông, Phú Đình – Điềm Mặc, Định Biên – Bảo Linh, Thanh Định,
Trung Lương, Bình Thành, Đồng Thịnh và các xã phía Nam – Đông Nam huyện

40
Định Hóa (Phượng Tiến, Quy Kỳ, Linh Thông…). Đây chính là nguồn tài nguyên
quan trọng để Định Hóa đẩy mạnh khai thác loại hình du lịch văn hóa, đặc biệt là
hình thức du lịch gắn liền với loại hình di tích lịch sử - cách mạng.
1.4.5.2. Các giá trị văn hóa tộc người
Lễ hội: Theo số liệu thống kê của Phòng Văn hóa – TT Định Hóa
(năm 2010) thì hằng năm toàn huyện có tới gần 30 lễ hội, nhưng do điều kiện kinh
tế xã hội phát triển nên đã có nhiều lễ hội bị lãng quên. Trong bức tranh lễ hội
truyền thống đa dạng và phong phú ấy, có thể kể đến những lễ hội đặc sắc và nổi
bật như: Lễ hội Lồng Tồng (mùng 10 giáng Giêng AL, tại xã Phú Đình), Lễ hội
Nàng Hai (mời nàng Trăng) được tổ chức vào tháng 3 âm lịch, Lễ hội chùa Hang
(diễn ra vào ngày 14 tháng Giêng tại tại xóm Đồng Chùa, thị trấn Chợ Chu), Lễ hội
rước Đất, rước Nước diễn ra vào ngày rằm tháng giêng hàng năm.
Dân ca dân vũ: Ngoài tính chất phong phú về lễ hội truyền thống thì
sự cộng cư lâu đời của 9 dân tộc anh em trên mảnh đất Định Hóa cũng đã góp phần
làm nên sự đặc sắc, và đa dạng của các điệu múa, lời ca dân gian.
STT Tên gọi Chủ thể Mô tả khái quát
sáng tạo
1 Soọng Cô Dân tộc Sán
Là phương tiện truyền tải những tâm tư, tình cảm và ước
Dìu muốn trong cuộc sống thường ngày
2 Hát Sli (vả Dân tộc
Dùng trong các ngày hội, ngày chợ, ngày cưới, ngày vào
Sli) Nùng nhà mới.
Phản ánh tập quán, tín ngưỡng, cuộc sống sinh hoạt, tâm
4 Lượn Dân tộc Tày tư nguyện vọng con người, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên
của người Tày
5 Hát Then Dân tộc Tày, Là một thể loại ca nhạc tín ngưỡng của người Tày, Nùng.
Nùng
6 Rối cạn Dân tộc Tày là loại hình rối que thể hiện khá sinh động cuộc sống lao
động sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của người dân
7 Sình ca Dân tộc Sán hát đối đáp nam – nữ giao duyên vào mùa xuân
Chí
8 Páo dung Dân tộc Dao Là phương tiện chuyển tải những tâm tư, tình cảm và ước
muốn của người Dao trong cuộc sống thường ngày.
9 Múa Tắc Dân tộc Cao Vũ điệu dân giã trong các dịp lễ hội, đặc biệt là trong lễ
xình Lan hội Cầu mùa.
10 Múa nàng Dân tộc Tày Là điệu múa phổ biến trong cộng đồng người Tày ở Việt
Then Bắc, có âm nhạc hay, vũ đạo đẹp, biểu hiện sự đoàn kết
thân thiện gắn bó cộng đồng có tính tập thể và dân chủ
cao
Bảng 1.1. Các loại hình dân ca dân vũ tiêu biểu của Định Hóa
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

41
Những làn điệu dân ca mượt mà, tha thiết cùng với những hình thức nghệ
thuật dân gian truyền thống khác của cộng đồng các dân tộc Định Hóa là di sản văn
hóa tộc có giá trị lớn không chỉ đối với phát triển du lịch văn hóa. Nhưng do nhiều
tác động, hiện nay các loại hình nghệ thuật dân gian này đã ít nhiều bị mai một, hay
không còn được sử dụng rộng khắp.
Văn hóa ẩm thực và đặc sản địa phương: Bức tranh dân tộc đa sắc
màu cũng mang lại cho Định Hóa nét văn hóa ẩm thực rất riêng biệt. Đó là những
món ăn hết sức lạ và ngon miệng như Khẩu thuy của người Tày, món Khẩu nhục
của người Nùng/Sán Dìu, bánh ngải của người Tày, bánh Cooc mò của người Tày,
Nùng… Đặc biệt là đặc sản bánh trứng kiến của người Tày được làm từ bột nếp
nương, trứng kiến và lá cây vả. Ngoài ra, nhờ những đặc điểm về khí hậu và chất
đất riêng nên Định Hóa rất phù hợp với giống lúa “Bao Thai lùn”, sản phẩm gạo
Bao Thai Định Hóa đã trở thành một loại đặc sản mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho
vùng đất chiến khu xưa. Các sản phẩm được chế biến từ loại gạo này (như mì sợi,
bánh đa, bánh phở, bánh cuốn…) cũng có những hương vị riêng rất đặc biệt.
Làng nghề truyền thống
- Các làng nghề dệt mành cọ xã Đồng Thịnh (Làng Bầng, Co Quân, Ru Nghệ
1, Ru Nghệ 2): Sản phẩm mành cọ của Đồng Thịnh khá đặc biệt với nan mành dệt
kín, phẳng, đều và có độ xanh bóng hơn sản phẩm của các nơi khác bởi người làm
cẩn thận từ khâu chọn nguyên liệu và có kỹ thuật dệt điêu luyện...
- Nghề Mộc (xã Lam Vỹ): Nghề làm mộc ở xã Lam Vỹ đã có từ lâu đời, hiện nay
trên toàn huyện có 10 xưởng làm mộc, nhưng do không được quan tâm thích đáng của
cơ quan chính quyền nên hiện nay 10 xưởng này tuy vẫn còn hoạt động nhưng không
lớn, các mặt hàng sản phẩm chủ yếu là đóng đồ gia dụng phục vụ trên địa bàn xã.
- Làng nghề chè: xóm Quỳnh Hội xã Trung Hội, thôn Phú Hội 1 và 2 xã Sơn
Phú, làng chè Điềm Mặc…
- Làng nghề nuôi cá ruộng: ở các xã Bảo Cường, Đồng Thịnh, Kim Phượng,
Phượng Tiến, Đồng Thịnh...
Kiến trúc nhà ở truyền thống: với gần 50% dân số là người Tày, kiến
trúc văn hóa nhà sàn của Định Hóa đã trở thành yếu tố hấp dẫn du khách gần xa. Nhà sàn
truyền thống người Tày nơi đây thường có kết cấu vì kèo liên kết với nhau bằng hệ thống
liên xà xiên. Đặc biệt, ở các xã như Lam Vỹ, Linh Thông, Tân Thịnh, Quy Kỳ, Bộc

42
Nhiêu, Sơn Phú, Bình Thành... khách du lịch sẽ được tham quan những ngôi nhà sàn
đậm nét truyền thống vì đây là các xã có tới 90% là dân tộc Tày. Gắn liền với những giá
trị về mặt kiến trúc xây dựng còn là những nét bản sắc văn hóa được lưu giữ trong thiết
chế gia đình, làng bản, trong phong tục tập quán đẹp của cộng đồng dân cư địa phương.
Đây chính là nét văn hóa vô cùng đẹp thu hút sự tò mò khám phá của du khách.

Tiểu kết chương 1

Ngày nay, du lịch văn hóa đang là sự lựa chọn của nhiều du khách. Nắm bắt
được nhu cầu này, nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam đang có kế
hoạch cụ thể trong việc khai thác hợp lý các giá trị tài nguyên du lịch văn hóa để
làm mũi nhọn phát triển kinh tế. Tuy nhiên, mỗi quốc gia/mỗi địa phương đều có lộ
trình thực hiện riêng tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng
vùng/miền. Định Hóa là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên, với danh xưng
“Thủ đô gió ngàn” của cách mạng Việt Nam, nơi đây có tới 128 di tích cấp quốc gia
và địa phương. Bên cạnh đó, Định Hóa cũng sở hữu những di sản văn hóa tộc người
độc đáo. Chính vì vậy, nơi đây được đánh giá là địa phương có tiềm năng phát triển
du lịch văn hóa rất lớn. Trong khuôn khổ một luận văn cao học ngành Du lịch,
chương 1 đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề chung về du lịch văn hóa để làm luận
chứng lý thuyết cho các nội dung được triển khai trong chương 2, 3. Bên cạnh đó,
chương 1 cũng trình bày tổng quan về địa bàn nghiên cứu (huyện Định Hóa, Thái
Nguyên) và phân tích kinh nghiệm trong phát triển du lịch văn hóa của một số địa
phương như huyện Sơn Dương (Tuyên Quang), thành phố Điện Biên Phủ (Điện
Biên) và huyện Gio Linh (Quảng Trị) nhằm rút ra những bài học quý giá cho phát
triển du lịch văn hóa huyện Định Hóa.

43
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA HUYỆN ĐỊNH
HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN

2.1. Thị trường khách du lịch văn hóa ở Định Hóa


2.1.1. Lượng khách và phân kỳ khách du lịch đến Định Hóa
Vốn dĩ là vùng đất nghèo của Thái Nguyên nhưng nhờ có chính sách phát
triển của Đảng và Nhà nước, Định Hóa ngày nay đã thay đổi rất nhiều. Tuy nhiên sự
phát triển mau lẹ ấy không phá vỡ cảnh quan chung của hệ thống hàng trăm di tích
lịch sử nằm rải khắp núi rừng nơi đây. Chính vì vậy, mỗi năm ATK đón tới hàng
trăm nghìn lượt khách đến thăm quan và đang là điểm du lịch văn hóa, cội nguồn
cách mạng thu hút đông du khách khi đến Việt Bắc. Tính từ ngày Thủ tướng Chính
phủ Võ Văn Kiệt cắt băng khai trương Nhà trưng bày ATK Định Hoá (19/5/1997)
đến nay có gần 10 triệu lượt khách về với ATK Định Hoá. Trên cơ sở đó, Định Hóa
phấn đấu năm 2015 sẽ thu hút được 680.000 lượt khách và dự báo đến năm 2020 sẽ
vào khoảng 800.000 lượt khách (xem Bảng 2 - Phụ lục 4).
Số lượng du khách (lượt)

900000

800000

700000

600000

500000

400000

300000

200000

100000

0
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2020 Năm

Biểu đồ 2.1: Lượng khách du lịch văn hóa Định Hóa giai đoạn 2009-2014
Trên biểu đồ, chúng ta thấy từ 2009 đến 2014, vào năm 2011, lượng khách
du lịch đến Định Hóa tăng trưởng vượt bậc. Lý do là lần đầu tiên Festival trà Quốc
44
tế Thái Nguyên được tổ chức, mà Định Hóa là điểm đến quan trọng trong sự kiện
này. Giai đoạn cuối năm 2013 đầu 2014, số lượng khách du lịch sụt giảm bởi thời
tiết xấu, mưa bão nhiều ảnh hưởng đến các hoạt động bảo tồn di sản gắn với phát
triển du lịch; đồng thời một nguyên nhân khác là tuyến đường 264B đoạn giáp ranh
Thái Nguyên – Tuyên Quang bị hư hỏng nặng.
Số liệu kế thừa và khảo sát thực địa cho thấy khách du lịch trong nước đến
Định Hóa thường tập trung nhiều vào mùa xuân (từ tháng 2 đến tháng 4 hàng năm).
Bởi đây là khoảng thời gian diễn ra các lễ hội đặc sắc như lễ hội Lồng tồng (được
tổ chức vào ngày 10/01 ÂL), hội chùa Hang và có ngày kỷ niệm thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam (03/02), ngày truyền thống Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh 26/03 và ngày Thống nhất đất nước 30/04 (xem Bảng 3 – Phụ lục 4). Khách
đến Định Hóa cũng tập trung nhiều vào mùa hè và mùa thu (khoảng thời gian từ
tháng 5 đến tháng 8), bởi một trong số lượng khách chủ đạo của điểm đến này là
học sinh-sinh viên, do đặc thù về thời gian rỗi nên họ chọn những chuyến đi thăm
quan Định Hóa vào dịp hè. Ngoài ra, các đoàn khách là cựu chiến binh hoặc công
nhân-viên chức của các đơn vị/doanh nghiệp/cơ quan/tổ chức cũng thường đến “thủ
đô kháng chiến” vào dịp này và một số ngày lễ kỷ niệm lớn trong năm như sinh
nhật Bác 19/05, ngày Cách mạng tháng Tám 19/08, Quốc khánh 02/09, kỷ niệm
chiến thắng Điện Biên Phủ 07/05, ngày Giải phóng Thủ đô 10/10…
Ở Thái Nguyên hiện nay có số lượng khách Hàn Quốc và Trung Quốc khá
cao, họ có nhu cầu tham quan Định Hóa vào các dịp cuối tuần, nhất là từ tháng 5
đến hết tháng 7 dương dịch (chiếm tỉ lệ 28.4%). Ngoài ra, từ tháng 11 đến tháng 1
dương lịch, Định Hóa cũng là điểm dừng chân của một số khách du lịch đến từ Anh,
Pháp, Mỹ (chiếm khoảng 14.9%). Khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 4 dương
lịch thông thường là dịp lễ hội Lồng tồng và một số các hội truyền thống khác của
đồng bào các dân tộc huyện Định Hóa, vì vậy đây là thời điểm 35.8% du khách
nước ngoài đến tham quan. Tiết trời mùa thu mát mẻ, cùng với dịp kỷ niệm Quốc
khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và dịp kỷ niệm ngày Giải phóng
Thủ đô 10/10, vì vậy khoảng thời gian từ tháng 8 đến tháng 10 dương lịch Định Hóa
cũng thu hút khoảng 20.9% du khách nước ngoài

45
40
%
35
30
25
20
15 Khách nội địa
10 Khách quốc tế
5
0
T2 - T4 T5 - T7 T8 - T11 -
T10 T1
Tháng trong năm

Biểu đồ 2.2: Phân kỳ khách du lịch văn hóa Định Hóa


Đồng thời, trong khoảng thời gian diễn ra Festival trà Quốc tế do Thái
Nguyên đăng cai tổ chức (2011, 2013 và dự kiến T11/2015) thì lượng khách du lịch
(cả nội địa và quốc tế) đến với “thành phố gang thép” nói chung và huyện Định Hóa
nói riêng càng tăng cao. Năm 2011, vào dịp fesival trà Quốc tế lần thứ nhất, Định
Hóa đón 21.000 lượt khách chiếm 3.62% tổng lượt khách cả năm là 580.000 lượt.
Năm 2013, địa phương này cũng phục vụ 18.655 lượt khách tham dự Festival Trà
Thái Nguyên Việt Nam Lần thứ II lên tham quan, dâng hương tưởng niệm Chủ tịch
Hồ Chí Minh, trong khi số tổng lượt khách cả năm là 564.989 lượt khách, chiếm tỉ
lệ 3.3%. Dự kiến, trong dịp Liên hoan trà Quốc tế lần thứ III 2015, Định Hóa sẽ đón
tiếp khoảng 21.000 lượt khách đến tham quan.
Như đã nói ở trên, riêng với tập khách nội địa đến Định Hóa tập trung rất nhiều
vào dịp lễ Tết – chiếm tỉ lệ 67%, điển hình là thời gian địa phương tổ chức lễ hội Lồng
Tồng, hội Chùa Hang… Ngoài ra, có khoảng 17% lượng khách thích chọn Định Hóa
làm điểm du lịch cuối tuần, đối tượng khách này hầu hết đều là học sinh – sinh viên, họ
đến Định Hóa với các tour về nguồn cách mạng kết hợp sinh hoạt lửa trại, đồng thời cuối
tuần cũng là dịp để các “phượt tử” từ nhiều nơi chinh phục những cung đường đến Định
Hóa. Bên cạnh đó, vào ngày thường cũng có khoảng 14% du khách đến Định Hóa, họ
chủ yếu là khách lẻ, đi thành nhóm (số lượng ít) theo hình thức tour tự tổ chức.

46
Có thể khẳng định rằng tất cả các địa danh kháng chiến ở Định Hóa đã trở thành
một bộ phận tạo thành quần thể các di tích Chiến khu Việt Bắc quan trọng bậc nhất của
dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, như Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã
khẳng định “Định Hóa là nơi gửi gắm tình cảm của Đảng, Chính phủ trong những
năm kháng chiến, là điểm đến của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế đối với ATK
Thái Nguyên”. Đây cũng là một trong những căn cứ để Định Hóa phấn đấu đạt được
mục tiêu đón 680.000 lượt khách du lịch trong năm 2015, năm 2020 sẽ là 800.000 lượt.
2.1.2. Nhu cầu của khách du lịch
2.1.2.1. Mục đích chuyến đi
Hầu hết chuyến đi của du khách đến Định Hóa chủ yếu tập trung vào một số
mục đích như: tham quan tìm hiểu các di tích lịch sử, thăm lại chiến khu xưa, tìm
hiểu phong tục của đồng bào Định Hóa; tham gia lễ hội như Lồng Tồng…
%

35

30

25

20

15

10

0
Tham Tham gia Thăm lại Thưởng Thưởng Tham Khác Tham
quan di lễ hội chiến khu thức nghệ thức ẩm quan làng quan tìm
tích xưa thuật thực và nghề hiểu văn
truyền đặc sản hóa
thống
Mục đích chuyến di
Khách nội địa Khách quốc tế

Biểu đồ 2.3: Mục đích của du khách đến Định Hóa


47
Với vị thế là “thủ đô gió ngàn” giữa lòng Việt Bắc, Định Hóa trở thành “địa
chỉ đỏ” phục vụ nhu cầu tham quan di tích lịch sử cách mạng của 32% du khách.
Bên cạnh đó, hàng năm cứ vào dịp lễ hội của các đồng bào dân tộc thiểu số (hội
Lồng Tồng, hội Chùa Hang, hội nàng Hai…), điểm đến này cũng thu hút khoảng
20.7% số lượng khách du lịch (so với số liệu tổng kết cả năm). Đặc biệt là từ 2002,
chính quyền và nhân dân huyện Định Hóa đã khôi phục lễ hội Lồng tồng và tổ chức
hàng năm với quy mô càng ngày càng rộng khắp thì lượng khách tới điểm đến này
ngày càng cao. Ngoài ra, không thể không kể tới 17.3% khách du lịch là cựu chiến
binh đã từng sống, công tác ở Định Hóa, họ trở về với mảnh đất này để thăm lại
chiến khu xưa - nơi từng là an toàn khu Việt Bắc, là thủ đô kháng chiến của dân tộc.
Vì thế, đối với họ, mỗi di tích lịch sử đều mang dáng dấp của một thời oai hùng.
Định Hóa là mảnh đất cộng cư của 9 dân tộc anh em, trong đó người Tày có số
lượng đông nhất và giữ vai trò chủ thể văn hóa vùng. Đây cũng là địa phương còn lưu
giữ được những nét độc đáo trong phong tục tập quán truyền thống mang đậm bản sắc
dân tộc. Chính điều này đã thu hút tới 13.7% số lượng du khách nội địa và 25.3%
khách quốc tế đến với Định Hóa. Ngoài ra, cũng có khoảng 8% du khách trong nước và
24% khách nước ngoài muốn được thưởng thức nghệ thuật truyền thống của đồng bào
các nhân dân huyện Định Hóa (như Then, Sli, Lượn, rối cạn...). Hình thức du lịch lễ
hội hấp dẫn 20.7% khách nội địa và 18.4% khách quốc tế. Lượng khách còn lại đến
Định Hóa còn vì mục đích tham quan làng nghề, ẩm thực...
Tuy mục đích du lịch khi đến Định Hóa là khác nhau, nhưng điều quan tâm
chung của du khách chính là du lịch văn hóa. Nắm bắt được cán cân cung – cầu của
thị trường du lịch ở địa phương này sẽ giúp các nhà kinh doanh xác định được thị
trường mục tiêu, sản phẩm chủ đạo, sản phẩm kế thừa, đối tượng du khách, đối
tượng cạnh tranh… Đồng thời, việc nghiên cứu thị trường sẽ giúp chính quyền, cơ
quan quản lý Nhà nước có chính sách quy hoạch và phát triển du lịch văn hóa với
mục tiêu vừa phát triển kinh tế, vừa phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa.
2.1.2.2. Nhu cầu lưu trú
Ngày lưu trú của khách có vai trò rất lớn trong việc gia tăng doanh thu cho
ngành du lịch. Tuy nhiên, hiện nay ở Định Hóa đang đối mặt với hiện tượng khách
du lịch có thời gian lưu lại ít. Như đã phân tích ở trên, thế mạnh của du lịch ở Định
Hóa là loại hình du lịch văn hóa. Tuy nhiên, so với các điểm đến và vùng phụ cận,

48
thị trường du lịch văn hóa Định Hóa không mấy nhộn nhịp. Mặc dù lượng khách du
lịch đến đây tương đối ổn định và có tăng trưởng qua các năm nhưng chủ yếu họ có
nhu cầu tham quan di tích lịch sử cách mạng. Thời gian lưu trú của khách du lịch ở
Định Hóa thường ngắn, phổ biến nhất là hành trình đi về trong ngày (80%). Tuy
nhiên, cũng có khoảng 20% lượng du khách có như cầu lưu trú qua đêm. Đối tượng
khách này thường chọn những nhà nghỉ hoặc khách sạn tiêu chuẩn trung bình làm
nơi lưu trú. Có một số ít khách du lịch có nhu cầu lưu trú ở những khách sạn cao
cấp hơn nhưng do cơ sở vật chất kỹ thuật ở Định Hóa còn hạn chế nên tập khách
này lại không nghỉ ở Định Hóa mà lại quay về thành phố Thái Nguyên để nghỉ đêm.
Điều này làm thất thoát một số lượng khá lớn doanh thu từ lưu trú của Định Hóa.
Đặc biệt, không thể không kể đến một số lượng hiếm hoi khách du lịch quốc tế
tham gia các tour du lịch trọn gói hay các tour du lịch từng phần (open tour) thông
qua các công ty du lịch ở Hà Nội (là chủ yếu). Tập khách này lại thích thú với việc
lưu trú homestay cùng cộng đồng bản địa. Và bản Quyên (xã Điềm Mặc) là một địa
chỉ homestay được nhiều du khách nước ngoài yêu thích.
%
90
86
Khách quốc tế
72,4
80 Khách nội địa
70
60
50
40
27,6
30
14
20
10
0
Không lưu trú Lưu trú 1 đêm
Nhu cầu lưu trú

Biểu đồ 2.4: Nhu cầu lưu trú của khách du lịch văn hóa đến Định Hóa
Biểu đồ trên đã thể hiện rõ sự “thất bại” của Định Hóa trong việc thu hút du
khách du lịch dài ngày. Có tới 86% khách nội địa đến đây với những tour đi về
trong ngày, chỉ có14% lượng du khách nghỉ lại Định Hóa một đêm. Tình trạng này
cũng xảy ra với tập khách quốc tế, chỉ có 27.6% trong số họ lưu trú lại Định Hóa 1
đêm, số còn lại (72.4%) không có nhu cầu lưu trú. Điều này đã ảnh hưởng không
nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của du lịch Định Hóa. Khách đến Định Hóa chủ yếu là

49
theo những tour tham quan di tích lịch sử kết hợp thưởng lãm giá trị văn hóa bản
địa. Chính vì vậy ngoài những nhu cầu cơ bản ăn, ở đi lại và nhu cầu đặc trưng
tham quan tìm hiểu, khách du lịch đến đây còn có một số nhu cầu khác như mua
sắm đặc sản, quà lưu niệm hay giải trí vui chơi. Tuy nhiên, du lịch văn hóa Định
Hóa còn nhiều hạn chế, trong đó có sự nghèo nàn về sản phẩm và dịch vụ du lịch
chính vì vậy, các nhu cầu này của du khách hầu như không được đáp ứng một cách
thỏa đáng. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh du lịch nói chung
và hiệu quả kinh doanh du lịch văn hóa nói riêng. Đồng thời, đây cũng chính là
nguyên nhân trực tiếp làm giảm công suất lưu trú của du khách và thất thoát một
nguồn lợi nhuận lớn cho các nhà kinh doanh du lịch cũng như người lao động (bao
gồm cả quản lý) của các ngành nghề có liên quan.
2.1.3. Đặc điểm của du khách
2.1.3.1. Nguồn khách
Khảo sát thực tế cho thấy, hiện nay khách du lịch văn hóa trong nước đến
Định Hóa chủ yếu là khách nội tỉnh chiếm 37% và các tỉnh Đông – Tây Bắc chiếm
trên 31% tổng số khách. Phân đoạn thị trường đến từ Hà Nội và đồng bằng Bắc Bộ
chiếm khoảng 20%, các khu vực còn lại chiếm khoảng 12%. Do tính chất điểm đến
của Định Hóa là điểm du lịch với những di tích lịch sử đặc biệt cấp quốc gia nên
khách đến với du lịch văn hóa của Định Hóa cũng khá đa dạng. Kết quả điều tra sơ
bộ trong khuôn khổ luận văn này đã chỉ ra các tập khách như: Học sinh sinh viên,
công chức/viên chức Nhà nước, doanh nghiệp/đơn vị kinh tế, hưu trí, nông dân,
công nhân, cựu chiến binh và những người làm nghề tự do. Đối với thị trường
khách quốc tế, Định Hóa có điều kiện khá thuận lợi để đón khách. Tuy nhiên, sản
phẩm du lịch văn hóa nghèo nàn, công tác xúc tiến, quảng bá du lịch còn yếu kém
nên số lượng khách quốc tế đến với địa chỉ du lịch đỏ này vẫn còn rất hạn chế.
2.1.3.2. Đặc điểm tiêu dùng du lịch
Nhìn nhận về góc độ di chuyển, khách đến Định Hóa chủ yếu đi theo đường bộ
với phương tiện vận chuyển phổ biến là ô tô. Ngoài ra khách du lịch cũng sử dụng xe
máy trong những chuyến đi của mình. Với các nhóm khách tự tổ chức chuyến đi
(khoảng 21.7%) thì họ thích tự sắp xếp hành trình cho mình. Tất nhiên cũng có một số
lượng lớn khách đi theo chương trình cố định cùng đoàn tức là đã mua tour của các
hãng/đại lý lữ hành, đối tượng khách này chiếm tỉ lệ khoảng 78.3%.

50
Nhìn chung, khách đến Định Hóa thường đi về trong ngày, nếu có ở lại thì thời gian
lưu trú của khách thông thường không quá 01 đêm. Chính vì vậy, họ ít có thời gian chi tiêu
vào việc lưu trú, ăn uống và vận chuyển. Đồng thời hệ thống dịch vụ bổ sung ở đây còn
hạn chế nên ngoài nhu cầu cơ bản (tham quan, tìm hiểu, khám phá) thì những nhu cầu đặc
trưng (mua sắm, vui chơi, giải trí...) của khách du lịch hầu như chưa được đáp ứng.
Qua khảo sát thực tế (xem thông tin phụ trợ ở Bảng 4,5,6 – Phụ lục 4), lượng
khách du lịch nội địa đến Định Hóa chi trả cho các dịch vụ du lịch và tiêu dùng ở
mức dưới 500.000đ/khách chiếm tới 57%. Đối tượng khách này thường lựa chọn
những tour tự phát (tự thiết kế, tự đi, tự chi trả...), hoặc mua tour trọn gói đi về trong
ngày. Lượng khách có khả năng chi trả từ 500.000đ – 800.000đ chiếm khoảng 29%,
thông thường là những khách đi theo đoàn, mua tour trọn gói 2 ngày 1 đêm và họ
thích nghỉ tại nhà dân (homestay). Còn lại khoảng 14% khách du lịch đến Định Hóa
chịu chi trả trên 850.000đ/khách, chủ yếu là khách đoàn lưu trú tại các nhà nghỉ,
hoặc các đối tượng khách đi dự hội thảo/hội nghị/dự án...

14%

29% 57%

Dưới 500000 đồng Từ 500000 đồng đến 800000 đồng Trên 800000 đồng

Biểu đồ 2.5: Mức chi tiêu của khách nội địa đến Định Hóa (Đơn vị tính: %)
Đặc điểm của khách du lịch văn hóa chính là sự khâm phục, lòng ngưỡng mộ
về một căn cứ địa cách mạng giữa lòng núi rừng Việt Bắc. Bên cạnh đó, du khách
cũng có xu hướng muốn khám phá nét đẹp văn hóa tộc người trên mảnh đất này.
Tuy nhiên, sự phát triển du lịch ở Định Hóa còn chưa đồng bộ, cùng với việc nghèo
nàn về sản phẩm du lịch và hạn chế trong công tác xúc tiến khiến cho thị trường
khách du lịch văn hóa của Định Hóa có nguy cơ bị thu hẹp.

51
2.2. Nguồn nhân lực
2.2.1. Lao động thường xuyên
Định Hóa có rất nhiều tiềm năng về lao động trong du lịch văn hóa vì của
huyện có cơ cấu dân số trẻ, dồi dào về lực lượng lao động. Tính đến năm 2012
nguồn nhân lực có khoảng 300 người, trong đó lao động trực thường xuyên là 80
người, lao động thời vụ là 220 người. Đội ngũ nhân lực du lịch thường xuyên được
bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu tham quan của du
khách. Điển hình như ở Ban quản lý Khu di tích lịch sử sinh thái ATK-Định Hóa,
lực lượng lao động ở đây gồm 60 người. Trong đó đại đa số là người Tày chiếm tỉ lệ
75% và 15 cán bộ/viên chức là dân tộc Kinh chiếm tỉ lệ khoảng 25% (xem Phụ lục
5). Đây cũng là một đặc thù của BQL Khu di tích lịch sử-sinh thái ATK Định Hóa
bởi đơn vị đứng chân trên địa bàn huyện điển hình của Thái Nguyên về việc mật tập
quần cư của dân tộc Tày. Điều này càng trở nên có giá trị khi chính những con em
của đồng bào Tày – Nùng lại hàng ngày hàng giờ thực hiện công tác giữ gìn, phát
huy và quảng bá những giá trị di sản của quê hương Định Hóa.
Việc phát triển nguồn nhân lực du lịch là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, nhất là
đối với Định Hóa – một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên. Đặc biệt là trong bối
cảnh khách du lịch càng ngày càng có trình độ thẩm nhận cao về giá trị của những di sản
văn hóa. Trên thực tế, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của một số bộ
phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu/nhiệm vụ trong tình hình mới, nhất là về lĩnh vực
quản lý và kinh doanh du lịch. Đồng thời, có một thực trạng là sinh viên người Thái
Nguyên (hoặc các khu vực phụ cận) sau khi học xong đại học, cao đẳng du lịch nhưng có
rất ít người xin về làm việc tại huyện Định Hóa nói riêng. Lý do cũng bởi cơ quan hành
chính không có biên chế, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch hiệu quả chưa cao nên
lương trả thấp hơn nhiều so với các đơn vị kinh doanh du lịch ở nơi khác.
Trình độ Số lượng Tỷ lệ (%)
Tổng số lao động thường xuyên 60 100
Đại học 30 50
Trình độ chuyên môn Cao đẳng – Trung cấp 21 35
Trình độ khác 9 15
Bảng 2.1: Trình độ nguồn nhân lực du lịch tại Khu di tích lịch sử-sinh thái
ATK Định Hóa
Nguồn: BQL Khu di tích lịch sử-sinh thái ATK Định Hóa

52
Một trong những nguyên nhân khiến du lịch Định Hóa chưa thực sự phát
triển là người lao động thường tự bằng lòng với trình độ đã đạt được, ngại đi học vì
trường lớp ở xa, tốn kém về kinh phí, hiệu quả thiết thực chưa nhìn thấy ngay. Đây
chính là thách thức lớn nhất trong công tác đào tạo mới và đào tạo lại nguồn nhân
lực du lịch của Định Hóa.
2.2.2. Lao động thời vụ
Ở Định Hóa, nguồn nhân lực du lịch thời vụ phổ biến nhiều ở các cơ sở kinh
doanh du lịch và thường xuyên biến động theo mùa vụ, theo thị trường. Nhìn chung, đơn
vị quản lý Nhà nước ở Định Hóa có liên quan đến hoạt động du lịch văn hóa rất ít sử
dụng đối tượng này. Bởi vì, công việc ở các cơ quan này đòi hỏi người lao động phải có
một trình độ và khả năng nghiên cứu nhất định trong khi đó lực lượng lao động thời vụ
hầu hết là chưa qua đào tạo. Thế nhưng trong nhiều trường hợp đội ngũ lao động này
được trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh
doanh của các cơ sở kinh doanh du lịch. Có một thực tế là ở Định Hóa, lực lượng lao
động thời vụ lại chiếm số lượng đáng kể trong các các doanh nghiệp kinh doanh du lịch
như nhà hàng, điểm di tích… Họ được sử dụng dưới hình thức tính lương và ngày công
theo thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, tất nhiên không đề cập
đến chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn và các loại bảo hiểm khác đối với quyền
lợi của người lao động.
2.2.3. Cộng đồng địa phương
Nắm bắt được nhu cầu du lịch văn hóa của thị trường đồng thời dựa trên thế
mạnh tài nguyên sẵn có, huyện Định Hóa xác định xây dựng và phát triển mô hình
du lịch gắn liền với các giá trị văn hóa truyền thống lịch sử, đặc biệt là phát triển du
lịch văn hóa dựa vào cộng đồng ngay chính tại các bản làng dân tộc. Tuy nhiên,
nhân dân các dân tộc huyện Định Hóa chủ yếu làm nông nghiệp nên hoạt động du
lịch đối với cộng đồng địa phương nơi đây còn là một khái niệm lạ. Đồng thời, vì
chưa nhận thức được lợi ích của du lịch văn hóa nên có một bộ phận không nhỏ
trong cộng đồng cảm thấy làm du lịch là mạo hiểm. Mặt khác, do phong tục tập
quán và thói quen sinh hoạt nên cư dân bản địa khó thích ứng, khó chấp nhận sự có
mặt của du khách. Tuy nhiên, nhận được sự hỗ trợ tích cực của chính quyền các
cấp, Định Hóa đã và đang triển khai nhiều giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hóa
một cách đồng bộ và bền vững. Một trong những phương án đã được thực hiện là

53
tuyên truyền, tập huấn kiến thức nhằm giúp cộng đồng nâng cao nhận thức về du
lịch văn hóa. Hiện nay ở Định Hóa, nhiều hộ gia đình, nhiều thôn/bản đã chủ động
tham gia, chỉnh trang nhà cửa, vệ sinh sân vườn, chuẩn bị những sản phẩm hàng hóa
địa phương, những chương trình văn hóa, nghệ thuật đặc sắc phục vụ du khách.
2.3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, huyện
Định Hóa đã được đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, bảo tồn tôn tạo các di tích,
đầu tư xây dựng giao thông vận tải, đặc biệt đẩy mạnh phát triển dịch vụ - thương mại
phục vụ du lịch. Đối với cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ lưu trú cho du khách ở Định
Hóa, có một số nhà nghỉ đã và đang phục vụ du khách như Phương Lan, Nguyên Thảo,
Ngọc Ánh, Lí Thị Phượng, Hằng Nga, Thảo Nguyên, Tiến Trình, Vũ Hoa, Huy Hoàng
Linh,… Các cơ sở lưu trú này đều nằm gần đường quốc lộ, khách có thể dễ dàng tiếp
cận. Nhìn chung các nhà nghỉ có sức chứa nhỏ, chỉ khoảng từ 20 – 25 người/đêm tuy
nhiên đều đầy đủ tiện nghi như điện thoại, wifi. Buồng/phòng ở đây được xây dựng khép
kín, đảm bảo phục vụ các nhu cầu cơ bản cho du khách.
Bên cạnh hệ thống nhà nghỉ là các cơ sở phục vụ nhu cầu ẩm thực của khách du
lịch như: Bằng Mai, Lường Sao, Hoàng Đạo, Hạnh Trường, Quân Hoàng, Biển Hương,
Công Bích, Hương Hiền, Phố Núi, Long Duyên, Hồng Thái, Phương Cương… với thực
đơn gồm nhiều món ăn đặc sản núi rừng, đặc sản của các dân tộc của huyện Định Hóa
(măng rừng, rau bò khai, lợn rừng quay, thịt nướng,…). Các nguồn nguyên liệu này đều
tươi ngon, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và được chế biến theo nghệ thuật ẩm thực
truyền thống của cộng đồng các dân tộc huyện Định Hóa. Về cơ bản, hầu hết nhà hàng
trên địa bàn huyện Định Hóa có sức chứa ở mức nhỏ (từ 20 - 50người) nhưng vẫn đảm
bảo không gian thoáng mát, sạch sẽ, gần gũi với thiên nhiên. Riêng nhà hàng Bằng Mai
(bản Đèo De-xã Phú Đình) có sức chứa 1000 người, gồm 1 nhà sàn bố trí cơ sở vật chất
phục vụ ăn uống cả 2 tầng, 1 nhà hiện đại 3 tầng, hệ thống hội trường, phòng hát
Karaoke, không gian tổ chức sự kiện ngoài trời khá rộng rãi…
Trên địa bàn huyện, có thể nói các cơ sở phục vụ du lịch văn hóa chưa có nhiều
và tập trung chủ yếu ở thị trấn Chợ Chu và trong Khu di tích ATK. Cụ thể là Khu di tích
lịch sử-sinh thái ATK Định Hóa được đầu từ xây dựng hiện đại, quy hoạch trên diện tích
rộng, với cảnh quan đẹp phù hợp với đặc điểm địa hình của vùng đồi núi Định Hóa.
Ngoài những hạng mục như Phòng Thông tin tư liệu ATK, Phòng di tích du lịch và văn

54
hóa phi vật thể, Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà trưng bày ATK… thì Khu
di tích còn có Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK với hệ thống nhà nghỉ
gồm 28 phòng, nhà ăn, hội trường đủ điều kiện tổ chức các hội nghị, gặp mặt, tọa đàm…
đáp ứng cho các đoàn khách hành hương về nguồn cách mạng. Đến đây, du khách sẽ
được phục vụ tận tình chu đáo, được thưởng thức các món ăn đặc sản núi rừng như: gà
đồi, thịt trâu khô xào măng chua, bi chuối rừng, cá bống, uống rượu men lá, trà xanh…
tổ chức đêm lửa trại, giao lưu văn nghệ với các làn điệu then, đàn tính, hát sli… do đội
văn nghệ dân gian ATK biểu diễn.
Cùng với việc bảo tồn, tôn tạo các di tích gốc, Ban quản lý Khu di tích lịch sử-
sinh thái ATK Định Hóa cũng xây dựng các dự án đầu tư các công trình bảo tồn hệ sinh
thái, cảnh quan môi trường du lịch tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa,
trong đó ưu tiên xây dựng tổ hợp vệ sinh, xử lý rác thải ở trung tâm du lịch ATK, khoanh
vùng bảo vệ; xây dựng công viên lịch sử sinh thái ATK dọc theo tuyến đường qua các di
tích trọng yếu và danh lam thắng cảnh suối Khuôn Tát dài 6km; bảo tồn cảnh quan sinh
thái vùng lõi. Đồng thời, nhân dân và Đảng bộ huyện Định Hóa còn chung sức chung
lòng bảo tồn và tôn tạo làng văn hóa Tày tiêu biểu bản Quyên (xã Điềm Mặc).
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ
du lịch văn hóa, song Chính phủ cũng đã có nhiều quyết sách cho Định Hóa. Đó là
việc nâng cấp con đường nối quốc lộ 3 với ATK Định Hóa thông với Chợ Đồn, Bắc
Kạn, hoàn thiện đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên… Đồng thời, càng ngày việc
xã hội hóa du lịch ở Định Hóa càng được quan tâm. Một trong những bằng chứng
tiêu biểu là vào tháng 8/2013, Cục Quân y-Bộ Quốc phòng hiến tặng Khu di tích
Quốc gia đặc biệt ATK Định Hoá trang thiết bị 1 trạm y tế (tương đương với trạm y
tế cấp xã) và hiện nay đã có 01 bác sĩ, 01 y sĩ, 02 điều dưỡng viên phục vụ, chăm
sóc sức khoẻ cho cán bộ viên chức của BQL, nhân dân và du khách thập phương.
Những tiền đề cơ sở hạ tầng này đã mang đến nguồn sinh lực mới thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội của Định Hóa nói chung và của du lịch văn hóa huyện nói riêng.
2.4. Vốn đầu tư
Trong những năm qua được sự quan tâm của các cơ quan Trung ương, các ban
ngành của huyện và chính quyền địa phương, du lịch văn hóa Định Hóa đã được quan
tâm rất nhiều đặc biệt. Theo “Đề án Phân kì đầu tư và khai toán vốn thực hiện đề án
thương mại – dịch vụ từ năm 2006 – 2010” ngân sách tỉnh và Trung ương đầu tư cho du

55
lịch của huyện Định Hóa là 12.450 triệu đồng trong đó đầu tư cho du lịch là 11.900 triệu
đồng đặc biệt trong đó đầu tư cho du lịch văn hóa là 2820 triệu đồng (xem Bảng 7 - Phụ
lục 4). Như vậy, có thể thấy nguồn vốn từ ngân sách huyện đầu tư cho du lịch văn hóa
không hề nhỏ và tăng theo từng năm, từ năm 2006 đến 2010, lượng tài chính này ngày
càng tăng và đạt tới ngưỡng 552 triệu trong tổng 727 triệu đồng.

Biểu đồ 2.6: Vốn thực hiện đầu tư cho du lịch 2006 – 2010 (Đơn vị: triệu đồng)
Biểu đồ trên thể hiện chi phí đầu tư mà Định Hóa dành cho du lịch văn hóa tăng
qua từng năm và luôn cao hơn so với các loại hình du lịch khác: năm 2007 tăng 20 triệu
so với năm 2006 và năm 2008 cũng tăng 20 triệu so với năm 2007. Nhưng tới năm 2009
đầu tư cho du lịch nói chung đều giảm do khủng hoảng kinh tế. Bắt đầu từ năm 2010
tăng trở lại huyện đầu tư 150 triệu cho các hạng mục liên quan đến du lịch văn hóa và
gấp 3 lần so với các hạng mục cho các du lịch khác. Trên đà thắng lợi của việc kêu gọi
các nguồn vốn đầu tư cho Định Hóa từ giai đoạn 2010 trở về trước, năm 2012 nhằm bảo
tồn, phát huy những giá trị lịch sử và thu hút đông đảo khách du lịch đến tham quan, tỉnh
Thái Nguyên đã huy động nguồn vốn xã hội hóa trên 3 tỷ đồng đầu tư, tôn tạo các điểm
di tích lịch sử, cải tạo cảnh quan và xây dựng bổ sung nhiều hạng mục tài nguyên du lịch
văn hóa của Định Hóa. Dự kiến, tổng nhu cầu vốn đầu tư thực hiện dự án bảo tồn, tôn
tạo, phát huy giá trị di tích ATK Định Hóa giai đoạn 2012-2020 là gần 600 tỷ đồng,

56
trong đó giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015 cần 420 tỷ đồng (xem Bảng 8 – Phụ lục
4). Như vậy, có thể thấy, Định Hóa không chỉ chú trọng đến phát triển du lịch theo bề nổi
mà còn ý thức được văn hóa là nguồn lực quan trọng để có thể khai thác phục vụ phát
triển du lịch văn hóa nói riêng và du lịch nói chung.
2.5. Sản phẩm du lịch văn hóa
2.5.1. Du lịch thăm quan di tích lịch sử
Định Hóa có cả một quần thể di tích lịch sử (128 di tích). Đó chính là những
chứng tích ghi dấu lại một kỳ hào hùng của dân tộc mà tiêu biểu là 13 di tích lịch sử
cấp quốc gia cùng với những hạng mục công trình hiện đại tạo nên điểm nhấn của
du lịch văn hóa huyện (xem Phụ lục 1), trong đó có thể kể đến các di tích như:
Lán Tỉn Keo: nằm trên đồi tỉn Keo thuộc xóm Nà lọm- xã Phú Đình. Đồi
Tỉn Keo còn có tên gọi là chân Đèo De hoặc Khuôn Tát ngoài. Nơi đây trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở và làm việc nhiều lần. Tại
đây các đồng chí lãnh đạo cao cấp thường xuyên đến làm việc với Bác Hồ, ở đây
cũng diễn ra nhiều cuộc họp của thường vụ Trung ương Đảng. Đặc biệt vào đêm
6/12/1953 chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương
Đảng để thông qua kế hoạch tác chiến Đông- Xuân 1953-1954, hạ quyết tâm tiêu
diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Di tích Khuôn Tát: Lán Khuôn Tát nằm trên đồi Khuôn Tát thuộc xóm
Khuôn Tát- xã Phú Đình. Nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đã ở đây 3 lần và làm việc
trong thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp. Nơi đây Bác Hồ và Quốc hội đã tổ
chức lễ phong quân hàm cấp tướng cho 10 cán bộ cao cấp của Quân đội nhân dân
Việt Nam, đồng chí Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại Tướng.
Di tích Khau Tý: di tích Khau Tý thuộc xóm Nà Tra, xã Điềm Mạc, huyện
Định Hóa Nằm cách trung tâm Thành phố Thái Nguyên khoảng 55km. Đây là địa
điểm đầu tiên Bác Hồ đặt chân về mảnh đất ATK Định Hóa, Thái Nguyên vào ngày
20/5/1947 để chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Di tích cơ quan Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam: thuộc
xóm Bảo Biên, xã Bảo Linh, huyện Định Hoá. Di tích gồm 2 điểm chính là nơi ở và
làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp kiêm văn phòng Quân uỷ
Di tích Làng Quặng: nơi thành lập Việt Nam Giải phóng quân, đơn vị chủ
lực đầu tiên của Đảng ta là kết quả một quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường,

57
bền bỉ của nhân dân ta, là sự phát triển trưởng thành của lực lượng vũ trang dưới sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhà tù Chợ Chu: nằm trên đồi cao ở xóm Vườn Rau, thị trấn Chợ Chu. Di
tích là biểu tượng sinh động của người chiến sỹ cách mạng nguyện hiến dâng cuộc
sống, chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc.
Trong Khu di tích lịch sử ATK Định Hoá có gian bày bán các ấn phẩm, lưu
niệm. Du khách khi đến tham quan Khu di tích lịch sử ATK Định Hoá ngoài việc
được nghe hướng dẫn viên giới thiệu, thuyết minh có thể mua những ấn phẩm, lưu
niệm như: Sửa đổi lối làm việc với bút danh X.Y.Z của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bác
Hồ ở ATK của Đồng Khắc Thọ, Bác Hồ với Thái Nguyên – Thái Nguyên với Bác
Hồ do Tỉnh uỷ Thái Nguyên biên soạn, ATK in dấu lịch sử của Đồng Khắc Thọ, Di
tích quốc gia đặc biệt - An toàn khu (ATK) Định Hóa Thái Nguyên do Đồng Khắc
Thọ chủ biên… Ngoài ra, du khách còn có thể mua một số đồ lưu niệm như mê-ca
đặt bàn Về Thủ đô gió ngàn, Chiến khu Việt Bắc, đĩa phíp in hình ảnh Chủ tịch Hồ
Chí Minh và những người thân trong gia đình Bác.
Để tạo nên sức hấp dẫn cho sản phẩm du lịch này, Định Hóa đã chú trọng xây
dựng các tour chuyên đề mà nòng cốt là hoạt động hướng dẫn làm sống động lại các sự
kiện lịch sử cách mạng gắn liền với các điểm di tích và sinh hoạt lửa trại. Điều đặc biệt là
với sản phẩm du lịch này của Định Hóa du khách không phải chi trả phí tham quan.
“Không thu vé” là quan điểm đúng đắn của UBND tỉnh Thái Nguyên, UNND huyện
Định Hóa bởi đây là khu di tích quốc gia đặc biệt, là địa chỉ vàng trong việc giáo dục
lòng yêu nước, tinh thần cách mạng cho các thế hệ Việt Nam. Cùng với đội ngũ hướng
dẫn viên/thuyết minh viên tại điểm chắc kiến thức lịch sử, giàu kinh nghiệm và có tâm
huyết, mật độ dày đặc của hệ thống 128 di tích trên giữa vùng đồi núi Đông Bắc đã tạo
nên đặc trưng của sản phẩm du lịch thăm quan di tích lịch sử của Định Hóa. Tuy nhiên,
sản phẩm du lịch văn hóa này còn bộc lộ rõ những hạn chế, đó chính là nội dung thuyết
minh chưa thực sự phong phú, nghiệp vụ của thuyết minh viên còn hạn chế, sự kết nối
giữa các điểm di tích còn lỏng lẻo, hoạt động bổ trợ khá nghèo nàn.
Hiện nay, Định Hóa đang tập trung đầu tư phục hồi, bảo tồn, tôn tạo các di tích để
xứng với tầm vóc một khu di tích lịch sử cách mạng đặc biệt quan trọng, một điểm hành
hương về cội nguồn cách mạng, xứng đáng với tầm vóc của nó trong lịch sử dân tộc. Khách
du lịch đến với trung tâm thủ đô kháng chiến sẽ cảm nhận được sự vĩ đại của cuộc kháng

58
chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược 1946- 1954 do Bác Hồ và Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, để vững tâm đi tiếp con đường mà Bác Hồ và thế hệ cha ông ta đã từng đi.
2.5.2. Du lịch lễ hội
Định Hóa là mảnh đất cộng cư của 9 dân tộc anh em vì thế cũng là nơi lưu giữ
nhiều lễ hội dân gian độc đáo. Hàng năm, lễ hội Lồng Tồng (xuống đồng) ATK Định
Hóa được tổ chức vào ngày 09, 10 tháng Giêng âm lịch tại trung tâm ATK nhằm cầu trời
cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, vạn vật sinh sôi, nảy nở, mùa màng bội thu, bản
làng yên vui, no ấm. Đây là một lễ hội truyền thống của dân tộc Tày nhưng ngày nay đã
trở thành tài sản chung, biểu trưng của tình đoàn kết giữa các dân tộc anh em trong và
ngoài huyện. Tham dự Lễ hội Lồng Tồng ATK Định Hóa, du khách được chiêm ngưỡng
những nghi lễ truyền thống của các dân tộc như: Lễ cầu mùa của dân tộc Tày, Dân tộc
Sán Chay, lễ cầu phúc của dân tộc Dao, lễ xuống đồng (cày tịch điền) của dân tộc,…
Đồng thời, khách du lịch cũng được tham gia, hòa mình vào các trò hội dân gian như
tung còn, múa lân, bịt mắt bắt dê, đi cầu thăng bằng,… Du khách còn được thưởng thức
những điệu hát then, điệu hát ví mượt mà, những màn múa rối dân gian đặc trưng của
đồng bào dân tộc thiểu số huyện Định Hóa, được thăm các trại được dựng theo cách điệu
nhà sàn và trang trí phong phú. Và đặc biệt, lễ hội còn là điểm dừng chân thú vị của du
khách gần xa để thưởng thức hương vị đậm đà của trà Định Hóa. Không chỉ là hoạt động
văn hóa tinh thần của nhân dân địa phương mà lễ hội Lồng Tồng còn là dịp để người dân
Định Hóa giới thiệu với bạn bè trong và ngoài nước về lòng hiếu khách, về nguyện vọng
được mở rộng giao lưu với các địa phương bạn, giới thiệu và quảng bá về những sản vật
về những danh lam thắng cảnh, về quần thể di tích có giá trị lịch sử và văn hóa- một tiềm
năng to lớn để phát triển du lịch của địa phương.
Cùng trong không khí náo nức của mùa xuân, mùa của vạn vật sinh sôi, đâm
chồi này lộc, cứ vào ngày 14 tháng Giêng âm lịch tại xóm Đồng Chùa, thị trấn Chợ
Chu, huyện Định Hóa lại tưng bừng khai mạc Lễ hội xuân Chùa Hang nhằm tạ ơn
trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa, bản làng ấm no, hạm phúc, cây cối tốt tươi,
đâm chồi nẩy lộc... Lễ hội mở đầu bằng bằng nghi lễ dâng hương, hoa lên Chủ tịch
Hồ Chí Minh, cùng với đó là màn trống hội rộn rã và rước kiệu từ chùa Hang ra
đình Quan đế. Trong phần Lễ, người dân địa phương đã dâng lên những mâm lễ
mặn để tạ ơn các vị thần đất, thần sông, thần suối... Phần hội diễn ra với các trò chơi
dân gian đặc sắc mang bản sắc các dân tộc địa phương như: đi cà kheo, ném còn,

59
chọi gà, tung vòng cổ vịt, bắt chạch trong chum, múa sạp... Ngoài ra, du khách còn
có thể tham gia leo núi, khám phá hang sâu, chiêm ngưỡng nhiều thắng cảnh đẹp
trong quần thể di tích. Cùng với Lễ hội Lồng Tồng lớn nhất Thái Nguyên được tổ
chức hàng năm, Lễ hội xuân Chùa Hang - Định Hoá đã bảo tồn các giá trị văn hóa
truyền thống, phát huy giá trị di tích lịch sử và có ý nghĩa quan trọng trong việc thu
hút khách du lịch đến với “Thủ đô gió ngàn” mỗi độ xuân về.
2.5.3. Du lịch hoài niệm thăm lại chiến khu xưa
Định Hóa là một vùng đất có bề dày lịch sử, văn hóa. Với những tiềm năng
to lớn của vùng trung tâm "an toàn khu Việt Bắc", huyện đã xác định từng bước đưa
du lịch nói chung, sản phẩm du lịch trở lại chiến khu xưa nói riêng trở thành một
thương hiệu đặc trưng nằm trong ngành kinh tế đã được "quy hoạch" là mũi nhọn
của địa phương. Hiện nay, an toàn khu lừng lẫy một thời với những địa điểm như
lán Nà Mòn, di tích Khuôn Tát, đồi Phong Tướng, nhà tù Chợ Chu, đồi Khau Tý…
càng ngày càng thu hút sự quan tâm của khách du lịch. Sự quý giá của những di tích
lịch sử này không chỉ gắn liền với “thủ đô gió ngàn” một thời mà còn mang ý
nghĩa, tầm vóc của cả dân tộcViệt Nam. Đó chính là sức hút khó cưỡng cho du
khách trong và ngoài nước khi trực tiếp đến tham quan và chiêm nghiệm nhiều câu
chuyện lịch sử gắn với những bài học lịch sử, nghệ thuật quân sự, sức mạnh dân
tộc… phát khởi từ mảnh đất ATK Định Hóa.
Sản phẩm du lịch hoài niệm "chiến khu xưa" của Định Hóa đã phần nào tạo nên sự
khác biệt so với sản phẩm du lịch ở các địa phương, vùng miền khác. Đây là một hình thức
du lịch mới mẻ, hấp dẫn và là cầu nối giữa hiện tại và quá khứ, mang ý nghĩa về nguồn rất
rõ ràng, đầy tính giáo dục truyền thống. Khách du lịch đi thăm chiến khu xưa thường là các
cựu chiến binh, thân nhân, bạn bè của các quân nhân, nhưng cũng có rất nhiều người thuộc
lớp trẻ đến Định Hóa để tìm hiểu và muốn tri ân công lao của cha anh. Đây chính là hoạt
động nhằm giáo dục tinh thần yêu nước, giá trị của hòa bình, của nền độc lập cho thế hệ
trẻ, có tác dụng bồi đắp giá trị truyền thống của quốc gia mình. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện
tại, sản phẩm du lịch này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có của huyện Định
Hóa. Một trong những nguyên nhân là do các chương trình "thăm lại chiến khu xưa" của
Định Hóa còn nghèo nàn, cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ du lịch còn thiếu, đội ngũ hướng
dẫn viên, thuyết minh viên thiếu về số lượng và trình độ chuyên môn chưa cao. Đồng thời,
việc tuyên truyền, quảng bá chưa có chiều sâu, thiếu bài bản... Chính vì vậy, để phát triển

60
sản phẩm du lịch mang tính đặc thù như "chiến khu xưa", giải pháp mang tính cơ bản phải
được bắt đầu từ yêu cầu đổi mới cách thức tiếp cận với môn học lịch sử của giới trẻ, nhằm
khơi dậy niềm hứng thú khám phá di tích cách mạng kháng chiến...
2.5.4. Du lịch phong tục
Định Hóa có 9 dân tộc anh em cùng sinh sống nhưng giữ vai trò chủ thể văn
hóa là người Tày. Dân tộc Tày là dân cư chiếm số đông ở huyện Định Hóa. Hiện
nay, ở Định Hóa có 43.367 người Tày chiếm 49,2% dân số toàn huyện. Có những
xã của huyện Định Hóa người Tày chiếm tới 90% như: Linh Thông, Bộc Nhiêu,
Điềm Mặc, Bình Yên… Chính vì vậy, nơi đây có nhiều bản làng còn gìn giữ được
giá trị văn hóa dân tộc Tày, điển hình là bản Quyên (xã Điềm Mặc), bản Rịn (xã
Bộc Nhiêu).
Bản Quyên – Làng văn hóa Tày tiêu biểu
Tại Bản Quyên – Làng văn hóa Tày tiêu biểu, người dân vẫn gìn giữ được
nhiều bản sắc văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc Tày: Nhà sàn, ngôn ngữ, văn
hóa sinh hoạt cộng đồng, công cụ lao động... Bản Quyên có 158 nhân khẩu sinh
sống trong 36 mái nhà trong đó có 20 ngôi nhà sàn được xây dựng theo kiểu nhà sàn
truyền thống dân tộc Tày. Năm 2009, 15 nhà sàn ở Bản Quyên được Nhà nước hỗ
trợ tiền sửa chữa, nâng cấp để bảo đảm an toàn khi đón tiếp các đoàn khách du lịch
trong nước, quốc tế đến thăm quan, ăn, uống, ngủ, nghỉ.
Tại Làng văn hóa du lịch Bản Quyên, cấp ủy, chính quyền xã và đồng bào tổ
chức một số các hoạt động thường xuyên như trưng bày các sản phẩm hàng hóa đặc
trưng có thế mạnh của địa phương, trình diễn nghệ thuật pha trà, mời trà, biểu diễn nghệ
thuật, giao lưu văn hóa, văn nghệ giữa các câu lạc bộ hát Then. Không gian của bản luôn
được vệ sinh sạch sẽ từ nhà ra ngõ và các trục liên thôn liên xóm, khuôn viên vườn, nhà
từng hộ dân đảm bảo tiêu chí "3 sạch" (sạch nhà, sạch bếp, sạch ngõ). Cùng với đó, xã
Điềm Mặc còn phối hợp với Trạm Khuyến nông của huyện trồng và chăm sóc 2ha chè
có chất lượng cao; phối hợp với Phòng Kinh tế - Hạ tầng chuẩn bị các sản phẩm gồm
chè, các loại bánh truyền thống, mành cọ, nón Tày, gạo Bao Thai, rượu nếp, mật ong
rừng, thịt trâu khô... và một số đặc sản khác của quê hương vùng ATK trưng bày tại gian
hàng ở Bản Quyên phục vụ khách tham quan.
Bản Quyên không chỉ đặc trưng bởi nếp nhà sàn của người Tày mà còn là
hương vị của món ăn truyền thống, là những nét đẹp của văn hóa dân gian như tung

61
còn, đánh vật, thi giã bánh dày… Tuy nhiên có một thực tế là hiện nay Bản Quyên
chưa được nhiều khách du lịch biết đến. Đối với những đoàn khách ghé đến bản, họ
tham quan một số ngôi nhà sàn; nghe đàn tính, hát sli, lượn; thưởng thức văn hóa
ẩm thực với xôi ngũ sắc, nộm hoa chuối, gà đồi, khẩu nhục, rau bồ khai, ngót rừng
và chụp ảnh với các “diễn viên” mang trang phục của người Tày… nhưng du khách
ít có nhu cầu lưu trú lại bản. Và thực tế số khách hằng năm đến thăm bản cũng rất
hạn chế, theo khảo sát sơ bộ thì một trong những lý do là đường vào bản quá chật
hẹp, chỉ vừa đủ 1 làn xe, nên không ít đoàn khách khi dừng chân đầu bản, đã vội lên
xe đi ngay vì ngại phải đi bộ. Bên cạnh đó du lịch Bản Quyên mới có dịch vụ “đàn,
hát” được phục vụ bất cứ thời điểm nào trong ngày; còn ẩm thực, nếu du khách
không đặt từ ngày hôm trước, cũng đành chịu đói ra thị trấn huyện, hoặc về thành
phố tìm quán ăn… Theo như các hộ dân ở đây thì cũng vì không có du khách đến
thường xuyên, nên đồng bào không thể mua thực phẩm, chế biến sẵn món ăn để chờ
đợi. Vì những đặc sản như xôi ngũ sắc chí ít phải lấy lá dã, ngâm rất lâu để chế
biến; gà chạy đồi cũng phải nhốt lại từ đêm trước... vì vậy, người Bản Quyên đang
sống nhờ trồng lúa, trồng ngô nuôi du lịch.
Bản Rịn (xã Bộc Nhiêu)
Cũng như bản Quyên, người bản Rịn (xã Bộc Nhiêu) đa số là dân tộc Tày.
Đây cũng là một trong những điểm đến đầy hấp dẫn đối với khách du lịch văn hóa,
đặc biệt là vào dịp tết mừng mùa. Khi mẻ lúa cuối cùng của vụ mới đã được phơi
khô và cất vào rương vào bồ, người dân bản Rịn thường giã bánh giầy và làm rượu
đao để cúng tổ tiên, trời đất để tỏ lòng biết ơn về một vụ mùa tươi tốt. Ai đến nơi
đây vào khoảng thời gian này đều có thể nghe thấy đâu đó dưới các lùm cây trong
chân đồi thỉnh thoảng vọng về tiếng rậm rịch giã bánh giầy – một loại bánh mang
biểu tượng của ông trời trong quan niệm dân gian của dân tộc Tày. Bánh giầy làm
từ loại nếp hương, hạt tròn mẩy được trồng từ những thửa ruộng bậc thang cao trên
núi. Bánh giầy người Tày to bằng miệng chiếc bát con ăn cơm, nhân bánh được làm
bằng vừng hoặc đậu đã được tẩm đường hoặc tẩm muối tùy thuộc khẩu vị từng
người, bánh làm xong mang cúng tổ tiên trước sau mới được ăn.
Trong mâm cỗ mừng mùa của người Tày ở bản Rịn ngoài đĩa bánh giầy còn
có cút rượu đao. Đó là thứ rượu được làm từ men lá ủ với lõi cây đao trong rừng.
Cây đao để nguyên trong rừng (không mang về) lấy dao khoét một khoanh thân đao

62
rồi bỏ men vào. Dưới phần gần gốc lấy một ống nứa nhỏ có lỗ hổng cắm vào thân
đao, phía đầu ngoài ống nứa lấy một chai hứng rượu vào. Men lá và lõi cây đao
tướp lại với nhau chảy một dòng nước ra theo ống nứa. Còn gì thi vị hơn khi du
khách ngồi trên gian giữa gác nhà sàn, bên bếp lửa cháy bập bùng, nhâm nhi đĩa
bánh giầy và những chén rượu đao cứ đầy lại cạn. Và tiếng chày, tiếng cụm chén,
tiếng cười chúc tụng cứ văng vẳng trong men rượu say nồng...
2.5.5. Du lịch thưởng thức nghệ thuật dân gian
Định Hóa là mảnh đất có đời sống tinh thần vô cùng phong phú, là nơi lưu
giữ những loại hình nghệ thuật truyền thống của người Tày, người Sán Chay, người
Nùng… trong đó có thể kể đến:
Soọng Cô: là làn điệu dân ca độc đáo của người Sán Dìu ở Định Hóa. Theo tiếng
Sán Dìu thì Soọng có nghĩa là hát, còn Cô nghĩa là ca. Nó là phương tiện để truyền tải
những tâm tư, tình cảm và ước muốn của người Sán Dìu trong cuộc sống thường ngày
được thể hiện qua lời hát, là môi trường gìn giữ văn hóa tộc người. Lời ca và giai điệu
của Soọng cô không hề khô cứng mà mềm dẻo đầy sức lan tỏa, diễn đạt tâm tư tình cảm
của người hát, làm mê đắm lòng người. Môi trường diễn xướng của hát Soọng Cô khá tự
do. Có lẽ vì thế mà nó có sức sống kỳ diệu trong sinh hoạt văn nghệ của người Sán Dìu.
Sli (vả Sli): là làn điệu đặc trưng của dân tộc Nùng ở huyện Định Hóa (người
Nùng Cháo có Sli Slình làng, nguời Nùng Giang có Sli Giang, người Nùng Phàn slình có
Sli bốc, sli Phàn slình…). Thực chất Sli là một hình thức hát thơ (kiểu như Phong Slư
của dân tộc Tày nhưng cơ bản khác nhau về mặt tính chất). Sli được coi là một thể loại
trữ tình dùng trong các ngày hội, ngày chợ, ngày cưới, ngày vào nhà mới và dùng để hát
giao duyên. Có thể nói, Sli là một làn điệu mang đậm dấu ấn bản sắc của đồng bào dân
tộc Nùng. Đến nay, người biết hát Sli không nhiều, nhất là Sli theo đúng nguyên bản
ngày xưa. Đây chính là nét văn hóa đặc sắc rất cần được tôn vinh, bảo tồn và phát huy.
Lượn: là loại hình dân ca phản ánh tập quán, tín ngưỡng, cuộc sống sinh
hoạt, tâm tư nguyện vọng con người, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên, nhưng nổi bật
nhất là hình thức hát giao duyên của người Tày. Lượn Tày có 5 thể loại đồng thời là
làn điệu, đó là: Lượn Then, Lượn Slương, Lượn Cọi, Lượn Ngạn, Lượn Nàng Hai.
Những làn điệu hát lượn cổ truyền ấy được cất lên ngọt lành êm ái quanh năm, nhất
là khi tết đến, xuân về. Đồng bào Tày Định Hóa Lượn ở mọi lúc mọi nơi, họ dùng
lượn như một ngôn ngữ để giao tiếp, bày tỏ tâm tư tình cảm với nhau.

63
Then: là một thể loại ca nhạc tín ngưỡng của người Tày, Nùng. Then mang
trường ca, mang màu sắc tín ngưỡng thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu
xin Ngọc Hoàng giải quyết một vấn đề gì đó cho gia chủ. Âm nhạc là yếu tố xuyên
suốt cuộc hát then. Hát then có nhiều bài bản, làn điệu. Người Tày, người Nùng không
kể tuổi tác, giới tính, những người mê tín cũng như không mê tín rất thích nghe hát
Then. Lời hát theo hình thức diễn xướng tổng hợp ca nhạc đàn Tính, múa, diễn với
nhiều tình huống khác nhau.
Nghệ thuật múa rối cạn: về Thẩm Rộc, Định Hóa, Thái Nguyên, du khách có
thể vừa xem múa rối Tày, vừa tham gia chế tác con rối làm kỷ niệm cho chuyến du lịch
đến “thủ đô gió ngàn”. Gọi là rối que vì phần lớn các con rối ở Thẩm Rộc đều được
điều khiển bằng những thanh tre gắn vào thân, đầu, tay và chân của nhân vật. Trong khi
các nam giới đảm nhận vai trò điều khiển rối, thì phái nữ trong thôn sẽ cất cao giọng
hát và đọc lời thoại cho nhân vật. Đôi khi có người phải đảm nhiệm đến ba bốn vai một
lúc. Bằng những động tác đơn giản nhưng thuần thục những tiết mục múa rối đã thể
hiện khá sinh động cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt hàng ngày của người dân
như làm ruộng, leo cây... Rối cạn thường được người Tày biểu diễn vào dịp đầu năm,
trong ngày lễ Lồng tồng. Các màn trò rối nổi tiếng nhất, đậm đà bản sắc văn hóa Tày là
màn rối Tắc kè - Pú Cấy và màn rối Hội xuống đồng.
Sình ca: là điệu hát của người dân tộc Sán Chí, được tổ chức theo từng
nhóm: một nhóm nam và một nhóm nữ hát đối đáp. Các bài hát này thường được
chép bằng Hán Nôm, chia thành nhiều phần: hỏi thăm, làm quen, giới thiệu bản
thân, trao đổi tâm tư tình cảm, lời chúc..., những phần này được gộp chung một bài.
Mùa xuân lễ hội đem hát đối đáp giao duyên, bài hát gần gũi với đời thường của bà
con, hương đồng gió nội khắp bản làng vùng sâu vùng xa.
Páo dung: là hát dân ca của dân tộc Dao, là phương tiện chuyển tải những
tâm tư, tình cảm và ước muốn của người Dao trong cuộc sống thường ngày. Hát
Páo dung ra đời và phát triển từ trong lao động sản xuất, từ nhu cầu đời sống tinh
thần và tín ngưỡng của cộng đồng dân tộc Dao. Páo dung được lưu truyền qua nhiều
thế hệ, tồn tại cho đến ngày nay và trở thành một nét sinh hoạt văn hoá đặc sắc của
người Dao. Với người Dao, nghệ thuật hát Páo dung luôn được giữ gìn như báu vật.
Chỉ nói riêng về hát Then, Định Hóa được biết là 1 trong những huyện của Thái
Nguyên có phong trào hát Then rất mạnh, khi mà hầu hết các xã của huyện đều có các

64
Câu lạc bộ và rất đông các nghệ nhân hát then. Tất cả các câu lạc bộ đều có những hoạt
động thường kỳ và sẵn sàng tham dự nhiều cuộc liên hoan nghệ thuật quần chúng, giao
lưu giữa các câu lạc bộ, các xã với nhau. Các hoạt động văn nghệ cũng được tổ chức
nhiều hơn ví dụ như ngày hội văn hóa của xã, huyện, tỉnh. Khách du lịch khi đến thăm
vùng đất này sẽ dễ dàng được thưởng thức những loại hình biểu diễn nghệ thuật truyền
thống. Điểm biểu diễn có thể là nhà văn hóa thôn/xóm/xã cũng có thể là sân khấu ngoài
trời trong dịp lễ hội. Và đặc biệt, du khách có thể được thẩm nhận những giá trị nghệ
thuật dân gian trong ngay ngôi nhà sàn bình dị của người Tày Định Hóa.
2.5.6. Du lịch làng nghề
Các nghề thủ công truyền thống ở Định Hóa đã góp phần tạo dựng nên bản sắc văn
hóa của đồng bào các dân tộc, đóng góp vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội và
văn hóa, đặc biệt đây cũng là tiềm năng phát triển du lịch văn hóa của huyện Định Hóa. Đa
số các sản phẩm nghề thủ công truyền thống trên địa bàn huyện Định Hóa đều mang tính
đặc trưng riêng của từng dân tộc như đồ mộc, mành cọ, cá ruộng, chè, mỳ gạo, rượu nếp…
Tháng 8-2011, huyện Định Hóa đã xây dựng Đề án với tên gọi “Phát triển công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp, làng nghề và dịch vụ phục vụ du lịch giai đoạn 2011-2015”. Để thực
hiện được những mục tiêu đã đặt ra, huyện Định Hóa đã đưa ra nhiều giải pháp như: đầu
tư, khuyến khích phát triển sản xuất tại các làng sau khi khảo sát và xác định thành lập làng
nghề; hỗ trợ các làng có nghề về các thủ tục đăng ký, công nhận làng nghề; có chính sách
hỗ trợ bảo tồn các nghề trên địa bàn huyện về vốn, thị trường, đầu tư phát triển hạ tầng kỹ
thuật, thiết bị, máy móc, tổ chức dạy nghề, truyền nghề, xúc tiến thương mại…Kết quả là
hiện nay, Định Hóa có 7 làng nghề là Làng Bầng, Co Quân, Ru Nghệ 1, Ru Nghệ 2 (xã
Đồng Thịnh) với nghề dệt mành cọ; thôn Phú Hội 1, Phú Hội 2, xã Sơn Phú và thôn
Quỳnh Hội (xã Trung Hội) với nghề chế biến chè thủ công (xem Phụ lục 3).
Làng chuyên canh chè ở xóm Quỳnh Hội (xã Trung Hội) có 100% hộ sống
bằng nghề chè. Năm 2011, Quỳnh Hội được đầu tư thực hiện sản xuất chè an toàn
theo tiêu chuẩn VietGap với 90% số hộ tham gia. Khách du lịch khi đến tham quan
Quỳnh Hội sẽ được thưởng lãm những vườn chè xanh mướt mát của vùng chiến khu
Việt Bắc; được tự tay thực hiện các công đoạn sản xuất thức uống truyền thống này
(hái, sao, lấy hương…) cũng như được tham gia trồng và chăm sóc cho cây chè.
Đặc biệt du khách sẽ được thưởng thức những chén trà đượm vị thơm hương của
vùng đất ATK lịch sử tạo nên điểm nhấn hút khách du lịch về với Định Hóa.

65
Bên cạnh những búp chè truyền thống, mỳ gạo Cau Lầu đã trở thành một đặc
sản có tiếng của xóm Nản, thị trấn Chợ Chu (Định Hóa). Các công đoạn xay bột,
tráng bánh và cắt bánh trong quy trình sản xuất mỳ trước đây đều được thực hiện
thủ công rất cầu kỳ, những cơ sở sản xuất trong xóm đều không sử dụng hàn the,
thuốc tẩy và các chất phụ gia để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Vì vậy, mỳ
gạo Cau Lầu nổi tiếng tiếng thơm ngon, khi nấu chín, sợi mỳ dẻo, dai không bị nát,
sản phẩm làm ra không đủ cung cấp cho thị trường. Khi đến tham quan làng nghề,
khách du lịch sẽ được người dân địa phương hướng dẫn thực hiện các công đoạn
chế biến sản phẩm, từ việc vo gạo, nghiền bột, ngâm bột đến thao tác tráng, phơi
bánh, thái sợi và bó thành phẩm. Nếu muốn du khách có thể thưởng thức ngay sản
phẩm cho chính tay mình làm ra hoặc mua về làm quà cho người thân, bạn bè. Mỗi
kg mỳ gạo ở đây chỉ có giá 28 nghìn đồng.
Ngoài mỳ gạo Cao Lầu, Định Hóa còn được biết đến với nghề dệt mành cọ,
tập trung ở xã Đồng Thịnh (làng Bầng, xóm Co Quân, Ru Nghệ 1, Ru Nghệ 2.
Trung bình mỗi năm, các thôn này bán ra thị trường từ 200-250 nghìn chiếc mành
cọ, thu về từ 6-7 tỷ đồng, giải quyết cho gần 200 lao động tại địa phương. Đến với
làng nghề, du khách sẽ được tham quan và tham gia trực tiếp vào 6 công đoạn sản
xuất: lấy nan từ cây cọ, chẻ nan, vót nan, phơi nan, dệt, cắt chỉ. Sản phẩm làng nghề
cũng trở thành những món quà lưu niệm độc đáo đối với du khách, đó chính là
những mành cọ được dệt kín, phẳng, đều và có độ xanh bóng. Phát triển du lịch làng
nghề không chỉ giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn ở Định
Hóa mà còn góp phần bảo vệ cảnh quan rừng cọ - nét đặc trưng của vùng đất ATK.
Bên cạnh đó, du khách cũng dễ dàng tìm mua những món quà của núi rừng ở
khu trung tâm huyện lị hoặc tại các điểm di tích và các bản văn hóa như: quả cọ,
mành cọ, nón Tày, măng, miến, mộc nhĩ, nấm hương, gạo Bao Thai… Đồng thời,
khách du lịch cũng được chỉ dẫn đến các cơ sở sản xuất thịt trâu/bò khô, các lò nấu
rượu nếp ở thị trấn Chợ Chu và xã Phú Đình để thưởng thức sản phẩm và trao đổi
mua bán đặc sản địa phương. Ngoài ra, không chỉ ở điểm di tích mà trên toàn huyện
cũng có nhiều địa điểm bán chè sạch phục vụ nhu cầu cho du khách gần xa.
2.5.7. Du lịch ẩm thực
Nhắc đến Định Hóa, người ta thường nhớ tới mảnh đất nổi tiếng với “4G”
gà, gạo, gỗ, gừng. Đó là những sản vật đặc biệt của địa phương. Hơn thế nữa, khi

66
đến đây, khách du lịch còn được thưởng thức những món ăn độc đáo, mang đậm
dấu ấn của văn hóa tộc người.
Khẩu thuy: là một loại bỏng nở phồng, giòn thơm của người Tày. Khẩu thuy
được chế biết rất kỳ công. Đầu tiên phải là thóc khô, hạt mẩy để gạo không gẫy nát.
Gạo ngâm với nước thuốc nhiều loại cây như bèo tây, tro lá chuối tiêu, độn và đồ
với khoai sọ rồi đem giã thật nhuyễn, rang nhỏ lửa… Nếu là mâm bánh cho lễ hội
lồng tồng thì ngoài khẩu thuy, chà lam, bánh khảo in hình hoa lá nhiều màu sắc, kẹo
lạc, vừng, người ta còn kì công cắt, tạo dựng bánh bột thành cây hoa, vừa thể hiện
hoa tay chế biến để làm đẹp mâm lễ, vừa tỏ sự kính trọng với thần linh.
Món Khâu nhục: Đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu dùng món này để
đãi khách trong dịp cưới, hỏi, thôi nôi hay những ngày Tết cổ truyền. Nguyên liệu chính
để làm khâu nhục là thịt heo ba chỉ. Sau khi rửa sạch, luộc chín, thịt cạo sạch lông rồi
dùng cây xăm vào lớp da để ướp gia vị (hoa hồi, bột ngũ vị hương, tương hột, bột ngọt,
chao đỏ, chao trắng, tương hột, dầu mè, dầu hào, rượu, giấm, ớt, tiêu, vỏ quýt khô, địa
liền, túng xôi, hành tím, tỏi và một số vị thuốc bắc). Kế đến đưa miếng thịt vào chảo để
chiên hoặc quay cho đến khi da phồng và vàng óng lên. Chế biến xong, món khâu nhục
đặt trên đĩa sẽ có hình thù như quả bưởi bổ đôi vàng óng, chỉ cần thêm rau thơm trang trí
bề mặt món ăn là có thể thưởng thức. Khâu nhục được chấm với mắm hoặc muối ớt, ăn
vào thấy giòn mềm, khi nếm khâu nhục tan ra và mùi thơm không thể lẫn vào đâu được.
Bánh ngải: Giống như các dân tộc thiểu số khác ở Thái Nguyên, dân tộc Tày có
một loại đặc sản riêng thường làm vào tết Thanh minh, đó là bánh ngải. Bánh ngải có
màu xanh đặc trưng của thiên nhiên, hình thù và cách làm gần giống với bánh dày của
người miền xuôi. Để làm bánh ngải, người Tày đồ xôi từ nếp nương. Lá ngải rửa sạch,
đun nhừ trong nước tro bếp từ 2 đến 3 giờ rồi vắt kiệt, nắm thành từng nắm bằng nắm tay
rồi cho vào xôi đã đồ để giã nhuyễn. Nhân bánh được làm từ đường phên trộn với vừng
đen giã nhỏ. Bánh ngải dễ ăn, mát và không ngấy. Vị hăng hăng, thơm thơm là lạ của lá
ngải như dung hòa cái dẻo, cái ngọt của nếp, của đường, miếng bánh có sự tươi non của
đồi nương, cái hoang dã của lá rừng như gói cả mùa xuân trong mát.
Bánh Coóc mò: trong các món bánh của người Tày, Nùng ở Định Hóa, bánh
coóc mò là món ăn bình dị nhưng quyến rũ lạ lùng bởi mùi vị rất đặc trưng, riêng biệt.
Tiếng Tày, coóc mò có nghĩa là sừng bò (coóc: sừng, mò: bò). Bánh làm bằng gạo nếp,
gói bằng lá chuối hoặc lá dong, không nhân. Bánh coóc mò có màu xanh nhạt của lá

67
chuối, vị dẻo, thơm thanh khiết hương thơm của ruộng đồng vùng núi cao. Tuy bánh
không có nhân nhưng càng nhai càng cảm nhận được vị thơm, béo, dẻo ẩn chứa trong
từng hạt nếp. Người ưa ngọt có thể ăn bánh coóc mò kèm mật ong hay đường kính.
Bánh trứng kiến: được làm từ trứng kiến, lá vả và bột gạo nếp là món ăn
độc đáo của người Tày. Loại bánh này chỉ có thể làm được vào tháng 3 đến tháng 5
âm lịch vì nguyên liệu độc đáo là trứng kiến chỉ có vào mùa này. Loại kiến để lấy
trứng là kiến lành, làm tổ ở trên cây như cây xoan, cây quế, cây găng... Một chiếc
bánh ngon phải có nhân là trứng kiến nguyên chất, chỉ cần hành phi thêm chút mỡ
và muối không trộn thêm các nguyên liệu khác. Gạo nếp sau khi ngâm được xay
mịn, được đăng khô. Tiếp đến nhồi bột mịn, chia thành các phần đều nhau. Cho
nhân trứng kiến vào giữa bánh, vo tròn lại để nhân bánh không bị chảy ra ngoài. Lá
vả bỏ phần cuống và gân lá, gói bên ngoài bánh. Xếp bánh vào khay hấp, khoảng 30
– 45 phút là bánh chín. Một chiếc bánh trứng kiến ngon có các vị béo ngậy của
trứng kiến, vị thơm của hành, vị bùi của lá vả.
Bên cạnh các món ăn độc đáo, nổi tiếng ở trên, Định Hóa còn mời gọi thực
khách với rượu men lá; các món từ gà đồi, dê núi, lợn lửng… (xem thực đơn tham
khảo ở Bảng 9+Bảng 10 – Phụ lục 4). Giá cả của mỗi bữa ăn dao động từ 60.000 đồng
đến 250.000 người tùy vào nhu cầu ẩm thực của từng du khách. Như vậy, có thể thấy
dịch vụ ẩm thực ở đây khá phong phú và đang dạng. Du khách không những thoải mái
lựa chọn món ăn mà còn chủ động các khung mức chi trả cho dịch vụ ăn uống theo khả
năng tài chính của mình. Mức giá cũng rất hợp lý, phù hợp với những khách du lịch có
nhu cầu ẩm thực cơ bản và khách du lịch có nhu cầu ăn uống cao cấp. Cung cách phục
vụ khá linh động, khách không những có thể lựa chọn nhiều món ăn theo khẩu vị mà
còn được thay đổi món nếu cần. Ngoài nét văn hóa ẩm thực truyền thống của địa
phương với những sản vật của núi rừng, dịch vụ ẩm thực ở đây cũng khá đang dạng và
thể hiện rõ sự giao lưu mạnh mẽ với văn hóa của người Kinh/Việt.

68
2.5.8. Một số chương trình du lịch phổ biến
Chương trình 1 (2ngày 1 đêm tham quan các điểm di tích lịch sử)
- Đón đoàn tại ngã ba Quán Vuông
- Thăm một số điểm di tích lịch sử: Đình Làng Quặng – nơi thành lập Việt
Nam giải phóng quân ngày 15/5/1945 (xã Định Biên); Báo Quân đội nhân
Sáng dân ra số đầu ngày 20/10/1950 (xã Định Biên); Văn phòng Bộ tổng tư lệnh
Quân đội nhân dân Việt Nam – nơi ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên
Ngày 1 Giáp, 1949 – 1954 (xã Bảo Linh); Khau Tý – nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và
làm việc đầu tiên tại ATK Định Hoá năm 1947 (xã Điềm Mặc)
Trưa Nhận phòng và nghỉ ăn trưa tại Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích
ATK (xã Phú Đình)
- Dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Nhà Tưởng nịêm Chủ
tịch Hồ Chí Minh trên đỉnh đèo De (xã Phú Đình)
Chiều - Thăm di tích lịch sử Khuôn Tát – nơi Bác Hồ ở, làm việc từ năm 1947 –
1954; Nhà trưng bày ATK Định Hoá; Lán Tỉn Keo – nơi Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị ngày 06/12/1953 quyết định mở Chiến
dịch Điện Biên Phủ
- Du ngoạn ngắm thác Khuôn Tát 7 tầng
Tối Du khách có dịp thưởng thức các món ăn dân tộc, giao lưu văn nghệ, đốt lửa
trại…
- Thăm Khu di tích lịch sử văn hoá – sinh thái Tân Trào (Lán Nà Lừa, Đình
Ngày 2 Hồng Thái, Cây đa Tân Trào…) và di tích Nha Công an Trung ương tại Sơn
Dương, Tuyên Quang.
Kết thúc chương trình tham quan.
Nguồn: Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK Định Hóa

Chương trình 2 (3 ngày 2 đêm tham quan, tìm hiểu lịch sử, văn hoá)
Sáng - Đón đoàn tại Làng văn hoá du lịch Bản Quyên, xã Điềm Mặc, du khách
có thể ở và sinh hoạt với bà con xóm Bản Quyên, tham quan, tìm hiểu đời
Ngày 1 sống văn hoá con người nơi đây.
Tối Giao lưu văn nghệ, thưởng thức ẩm thực với bà con tại nhà sàn
Sáng - Thăm các điểm di tích lịch sử như: Khau Tý, Hội Nhà báo, Tổng Bộ
Việt Minh, Uỷ ban hoà bình Việt Nam, Uỷ ban kiểm tra Trung ương.
Trưa Ăn trưa tại Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK
Chiều - Dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Nhà Tưởng niệm
Ngày 2 Chủ tịch Hồ Chí Minh ở thôn đèo De, xã Phú Đình.
Tối Nghỉ tại Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK, thưởng thức
các món ăn dân tộc, giao lưu văn nghệ với đội văn nghệ dân gian ATK
Định Hoá…
Ngày 3 Thăm các điểm di tích lịch sử như: Khuôn Tát, Tỉn Keo, Nhà Trưng bày,
thắng cảnh thác Khuôn Tát 7 tầng.
Kết thúc chương trình tham quan
Nguồn: Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK Định Hóa

69
Chương trình 3 (2 ngày 1 đêm tham quan học tập, hội nghị, thực tế…)
Ngày 1 Sáng HDV đón đoàn tại Trung tâm ATK Định Hoá, dâng hương tưởng niệm
Chủ tịch Hồ Chí Minh, họp, hội nghị, toạ đàm…tại Hội trường Trung
tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK
Trưa Ăn trưa tại Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK
Chiều Tham quan các điểm di tích lịch sử như: Khuôn Tát, Tỉn Keo, Nhà
Trưng bày, thắng cảnh thác Khuôn Tát 7 tầng.
Tối Thưởng thức các món ăn dân tộc, giao lưu văn nghệ, đốt lửa trại
Du khách đi thăm Khu di tích lịch sử văn hoá – sinh thái Tân Trào, Sơn
Ngày 2 Dương, Tuyên Quang.
Kết thúc chương trình tham quan
Nguồn: Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK Định Hóa
Chương trình 4: Thời gian 1 ngày
Sáng - Đón đoàn tại ngã ba Quán Vuông
- Tham di tích lịch sử nhà tù Cho Chu
- Tham quan di tích lịch sử Khau Tý
Trưa - Ăn trưa tại Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích
Chiều - Dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Tham quan các điểm di tích: Khuôn Tát, Tỉn Keo…
- Kết thúc chương trình
Nguồn: Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK Định Hóa
Chương trình 5: Thời gian ½ ngày
Đón đoàn tại Trung tâm ATK Định Hoá, dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, thăm các
điểm di tích: Khuôn Tát, Tỉn Keo, Nhà trưng bày ATK… Kết thúc chương trình tham quan.
Nguồn: Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK Định Hóa
Chương trình 6: 1 đêm Lửa trại về nguồn cách mạng thưởng thức những nét
văn hóa độc đáo của vùng ATK
- Bắt đầu từ 17h30: thưởng thức văn hóa ẩm thực đa dạng, các món ăn dân tộc của núi rừng như:
Xôi ngũ sắc, cơm gạo bao thai, cơm lam, bánh trứng kiến, Bánh Cóoc Mò, cá suối om mẻ, thịt gà
rang gừng, canh nóng gà gừng, thịt trâu khô, thịt lợn nướng, rau bò khai, tầm bóp... và không thể
thiếu được rượu men lá thắm đượm hương vị núi rừng. Sau bữa tối du khách nghỉ ngơi, đi dạo vãn
cảnh, hít thở khí trời trong lành, lắng nghe tiếng chim rừng hót, tiếng thác đổ, suối chảy róc rách
từ Núi Hồng, Khau Nhị...
- Đến khoảng 20h: du khách sẽ được thưởng thức, giao lưu văn hóa phi vật thể với các tiết mục
đặc sắc như: cầu mùa của dân tộc Tày, cầu phúc của dân tộc Dao, cầu an của dân tộc San Chí,
màn múa Vui xuân, Hội mùa dân tộc Nùng, trình diễn trang phục dân tộc vùng ATK, hát then,
đàn tính, tìm hiểu và thưởng thức trình diễn Rối Tày Thẩm Rộc (xã Bình Yên) của nghệ nhân Ma
Quang Chóng... các bài hát ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quê hương Việt Bắc...
- Khoảng 21h30p: chương trình đốt lửa trại với các màn: Giao lưu cùng thần lửa, đẩy lùi vị thần bóng đêm,
ánh lửa hồng được cháy lên rực sáng, tay nắm tay quay quanh lửa trại với sự hướng dẫn của người dẫn
chương trình, với những động tác, khỏe mạnh, vui tươi đoàn kết, phối hợp nhịp nhàng cho đến khi lửa tàn.
Khi lửa đã tắt nhưng than vẫn rực hồng, trong không khí đầm ấm, ta lại được thưởng thức ẩm thực về đêm

70
với các món ăn đồ nướng như: ngô nếp, sắn, khoai, cơm lam..., Không phân biệt miền xuôi hay miền
ngược, chủ hay khách cùng nhau thưởng thức trong một không gian văn hóa thân thiện đa sắc màu cho đến
khi kết thúc bằng chóe rượu thơm nồng pha chút men say của hương vị lá rừng.
Nguồn: Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK Định Hóa
Chương trình 7: Lửa trại 2 ngày 1 đêm
Dâng hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh theo đúng nghi thức trang
trọng tại đỉnh Đèo De – Nhà tưởng niệm Bác Hồ ( tại đây du khách sẽ được
ban nghi lễ và hướng dẫn viên hướng dẫn và cùng đoàn tiến hành theo quy
định ), lễ dâng hương được phục vụ theo yêu cầu của khách đặt gồm hai hình
thức: Lễ mặn (xôi gà, thủ lợn...), lễ ngọt (ngũ quả, hoa tươi... ), giá cả được
trao đổi trước với khách. Thời gian dâng hương khoảng 30 phút
Đoàn sẽ thăm khu di tích lịch sử Khuôn Tát thuộc bản Khuôn Tát, xã Phú
Sáng Đình, cách Nhà tưởng niệm 2 km nơi Bác Hồ ở và làm việc, thăm cây đa
trăm tuổi, suối Khuôn Tát – nơi Bác Hồ tắm giặt, câu cá, đánh bóng chuyền
đã đi vào dấu ấn lịch sử, các thước phim tư liệu. Thời gian khoảng 1 giờ
Du khách đi bộ xuôi dòng suối Khuôn Tát, thăm 1 địa điểm danh thắng quốc
gia Thác 7 tầng, thời gian 2 giờ, đoàn sẽ trở về Trung tâm dịch vụ du lịch và
bảo tồn di tích ATK nghỉ ăn trưa, nhận phòng nghỉ.
Ngày 1 Từ 13h 30 du khách khởi hành đến thăm địa điểm thứ 4: Khu di tích lịch sử
Tỉn Keo – nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp Bộ chính trị thông qua
kế hoạch tác chiến chiến cuộc Đông xuân 1953 – 1954 quyết định mở chiến
dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Chiều Nhà trưng bày ATK Định Hóa và sa bàn phân bố các địa điểm di tích lịch sử
danh lam thắng cảnh.
Thăm nhà sàn đồng bào dân tộc Tày được nghe nghệ nhân hát then đàn tính
( phục vụ theo nhu cầu ) và mua sắm các sản phẩm lưu niệm vùng căn cứ địa
Việt Bắc xưa và nay.
Kết thúc ngày thứ nhất đoàn trở về Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di
tích ATK ăn tối chuẩn bị giao lưu đêm lửa trại. Từ 20h30: Giao lưu lửa trại
Tối phối hợp với đội ngũ hướng dẫn viên và Ban tổ chức chuẩn bị lửa trại, MC
chương trình theo các nội dung:
1. Giao lưu văn hóa văn nghệ truyền thống giữa các đơn vị, nhân
dân khoản 45 phút.
2. Giao lưu cùng thần lửa trong khối đoàn kết cùng các động tác trẻ,
khỏe, vui nhộn thể hiện tinh thần đoàn kết và sức mạnh.
3. Dạ hội, vũ quốc tế ...
4. Giao lưu ẩm thực theo đơn đặt hàng như: Nướng cơm Lam,
thưởng thức xôi Ngũ sắc, thịt dê nướng, thịt lợn nướng, thịt gà nướng, ngô,
khoai... Uống rượu men lá dân tộc cùng các cô gái, chàng trai trong bản, thời
gian kết thúc trước 23 giờ.
Đoàn dùng bữa sáng sau đó khởi hành thăm các địa điểm di tích: Nà Lọm
thuộc Tỉn Keo, Phú Đình địa điểm nơi phong quân hàm cấp tướng đầu tiên
của Quân đội nhân dân Việt Nam, thăm địa điểm di tích Nà Mòn, Phú Đình,
Ngày 2 nơi ở và làm việc của Văn phòng Trung ương Đảng và Tổng bí thư Trường
Chinh. Thăm khu di tích lịch sử Khau Tý, làng văn hóa Bản Quên, xã Điềm
Mặc, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở và làm việc đầu tiên tại ATK Định Hóa,
nơi Người đã viết bài thơ Cảnh khuya,... có hướng dẫn viên đi tới điểm
Nguồn: Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK Định Hóa

71
2.6. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch văn hóa
2.6.1. Các cấp chính quyền và quản lý Nhà nước
Lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên nói chung và chính quyền huyện Định Hóa nói
riêng nắm bắt được nhu cầu của du khách cũng như tiềm năng và thế mạnh du lịch
văn hóa của địa phương nên đã nỗ lực tuyên truyền, quảng bá, thiết kế website,
quan hệ công chúng, phát động thị trường và giới thiệu sản phẩm du lịch văn hóa
đến với thị trường trong và ngoài nước thông qua các hoạt động cụ thể như:
- Tổ chức lễ hội Lồng tồng ATK Định Hóa vào dịp Rằm tháng Giêng âm lịch
hàng năm. Điều này sẽ góp phần giới thiệu, quảng bá hình ảnh tiềm năng kinh tế du
lịch Định Hóa, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch kinh tế, nâng cao thu
nhập cho nhân dân vùng căn cứ địa cách mạng.
- Đăng cai tổ chức Hội thảo Liên kết du lịch giữa Thái Nguyên, Bắc Giang,
Hải Dương và Quảng Ninh. Ở Hội thảo này, ngành du lịch Thái Nguyên đã thống
nhất với các tỉnh về việc mở các tour du lịch mới gắn kết các điểm du lịch nổi tiếng
trong vùng gồm: Hồ Núi Cốc, Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa,
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam (Thái Nguyên), Khu di tích Yên Thế, chùa
Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang), di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương), danh thắng
Yên Tử, vịnh Hà Long (Quảng Ninh)…
- Tham gia Chương trình du lịch Qua những miền di sản Việt Bắc từ lần I
đến lần VI. Đặc biệt là đóng góp nhiều hoạt động trong chuỗi sự kiện đăng cai tổ
chức Chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc” lần thứ VI (diễn ra từ
18 - 20/11/2014) tại Thái Nguyên. Đây là một hoạt động xúc tiến nhằm liên kết các
di sản văn hóa vùng Việt Bắc để cùng phát triển du lịch, đặc biệt là với Thái
Nguyên, trung tâm vùng Việt Bắc.
- 08/06/2013, Đài PTTH Thái Nguyên phối hợp với Đài Truyền hình T.P Hồ
Chí Minh tổ chức Cầu truyền hình “Ngàn hoa dâng Bác” tại hai điểm cầu: Khu Di
tích ATK Phú Đình (Định Hóa) và Bảo tàng Hồ Chí Minh, chi nhánh TP.HCM
(Bến Nhà Rồng).
- Được sự đồng ý về chủ trương của UBND tỉnh, Ban quản lý Khu di tích Lịch
sử - Sinh thái ATK Định Hóa, Thái Nguyên đã tổ chức phát động cuộc thi thiết kế biểu
trưng (logo) của Khu di tích. Sau hơn 4 tháng phát động, có 54 mẫu thiết kế của 13 tác
giả, họa sĩ trong và ngoài tỉnh tham gia. Ngày 28/01/2015, tại hội trường Bảo tàng Lực

72
lượng Vũ trang Việt Bắc - Quân Khu I, Ban quản lý Khu di tích Lịch sử - Sinh thái
ATK Định Hóa, Thái Nguyên đã tổ chức lễ công bố, ra mắt biểu trưng (logo) Di tích
Quốc gia đặc biệt (ATK) Định Hóa
- Tham gia tích cực trong chuỗi hoạt động của mùa Du lịch Thái Nguyên qua
các năm.
- Tích cực tham gia và là điểm đến đặc biệt quan trọng trong khuôn khổ
chương trình các Festival trà Quốc tế Thái Nguyên 2011, 2013 và dự kiến 2015.
Định Hóa cũng xác định việc tổ chức các sự kiện lịch sử, chính trị, văn hóa du
lịch là các hoạt động thiết thực nhằm tuyên truyền quảng bá và thu hút khách du lịch.
Huyện cũng chủ động hoàn thiện các tài liệu giới thiệu về lịch sử, danh thắng, điểm di
tích, phong tục tập quán văn hóa của các dân tộc trong huyện để sản xuất các ấn phẩm
phục vụ truyền thông, quảng bá rộng rãi trong nhân dân và khách du lịch. Du lịch Định
Hóa cũng chú trọng vào những bảng quảng cáo lớn treo bên đường, những hình ảnh,
bảng chỉ dẫn đến các khu/điểm du lịch. Đặc biệt, vào những tháng lễ hội, đường phố
được chỉnh trang, banderol chào mừng, treo cờ khắp nơi làm cho cảnh quan thêm đẹp
và không khí rộn ràng hơn. Bên cạnh đó, hàng năm Phòng Văn hóa Thông tin huyện,
Ban quản lý Khu di tích lịch sử-sinh thái ATK Định Hóa phát động thiết kế tập gấp,
brochure, in và phát hành những ấn phẩm cần thiết nhằm giới thiệu hình ảnh của du
lịch nói chung và du lịch văn hóa của Định Hóa nói riêng đến với du khách gần xa. Đặc
biệt, để bắt kịp xu hướng công nghệ thông tin hiện nay, Ban quản lý Khu di tích lịch
sử-sinh thái ATK Định Hóa đã xây dựng website để cung cấp thông tin về du lịch Định
Hóa cũng như là cầu nối đón khách. Đồng thời, các nhà quản lý cấp tỉnh và địa phương
cũng tận dụng những kênh truyền thông để quảng bá hình ảnh du lịch Định Hóa.
Bên cạnh đó để du lịch văn hóa Định Hóa nói riêng và du lịch Thái Nguyên
từng bước phát triển xứng tầm, từ nhiều năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã có các hoạt
động tăng cường liên kết hợp tác phát triển giữa các tỉnh trong vùng Việt Bắc, là: Cao
Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang và Lạng Sơn; đồng thời xác định hoạt động
liên kết hợp tác là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của ngành du lịch. Đặc biệt,
ngoài các tỉnh trong “miền di sản Việt Bắc”. Ngoài ra, du lịch văn hóa Định Hóa cũng
nằm trong kế hoạch Thái Nguyên mở rộng liên kết hợp tác phát triển du lịch với nhiều
tỉnh trong cả nước, như: Chương trình liên kết hợp tác phát triển du lịch 4 tỉnh: Thái
Nguyên - Vĩnh Phúc - Tuyên Quang - Hà Nội (ký kết vào tháng 11/2010).

73
Như vậy, trong thời gian qua, việc tuyên truyền, quảng bá du lịch văn hóa ở
Định Hóa đã có nhiều chuyển biến. Song thực tế thì hoạt động này chỉ tập trung vào
những kỳ lễ hội, kỷ niệm, hay thời gian diễn ra những sự kiện văn hóa hoặc du lịch.
Tính thường xuyên của công tác xúc tiến còn rất hạn chế. Đồng thời, những điểm
quảng bá mang tính quen thuộc, chưa mở rộng quy mô để giới thiệu hình ảnh điểm
đến mới, sản phẩm du lịch văn hóa mới. Vì thế, hiệu quả của việc tuyên truyền
quảng bá này còn chưa cao, hình ảnh điểm đến du lịch văn hóa chưa bắt mắt và
chưa gây ấn tượng sâu sắc cho du khách.
2.6.2. Các đơn vị kinh doanh du lịch
Hiện nay, ccông ty lữ hành khai thác tour đi Định Hóa vẫn chưa mặn mà với
việc quảng bá hình ảnh du lịch văn hóa của điểm đến này. Điều này ít nhiều đã làm
giảm tính năng động của sản phẩm và làm cho sản phẩm du lịch văn hóa của Định
Hóa có ít cơ hội được du khách biết đến. Cách làm quảng bá hình ảnh du lịch địa
phương của các công ty lữ hành thường hạn chế và ăn theo các sự kiện du lịch
chung. Tuy nhiên, có một điển hình về vai trò xúc tiến của đơn vị kinh doanh du
lịch văn hóa ở Định Hóa là trường hợp của Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di
tích ATK. Là một bộ phận thuộc Khu di tích lịch sử-sinh thái ATK Định Hóa,
Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn ATK hoạt động như một đơn vị kinh doanh tự
thu-tự chi dưới sự chỉ đạo và giám sát trực tiếp của Ban quản lý Khu di tích. Để giới
thiệu, quảng bá hình ảnh của Trung tâm nói riêng và của Định Hóa nói chung,
Trung tâm đã thực hiện những giải pháp đồng bộ và hữu ích. Đó là việc thiết kế và
sử dụng lo-go của đơn vị mang đậm dấu ấn của “Thủ đô gió ngàn”. Với mục đích
tiếp cận với khách du lịch dễ hơn và nhiều hơn, ngoài cổng thông tin chính thức của
Ban quản lý Khu di tích thì Trung tâm dịch vụ du lịch và bảo tồn di tích ATK còn
chủ động quảng bá về du lịch Định Hóa qua các trang báo điện tử và mạng xã hội.
Trung tâm sở hữu riêng một account trên mạng xã hội facebook và thường xuyên
cập nhật thông tin về hình ảnh, sản phẩm, dịch vụ du lịch của Định Hóa. Ngoài ra,
Trung tâm cũng sử dụng những chiến lược marketing truyền thống như in ảnh, chữ
lên áo, mũ/nón, đồ lưu niệm; in lô-gô lên cờ của hướng dẫn viên; tặng quà có kèm
thông tin cho khách du lịch; phát hành tờ rơi/tập gấp về du lịch Định Hóa…

74
2.6.3. Cộng đồng địa phương
Ở Định Hóa, cộng đồng bản địa đóng vai trò quan trọng trong phát triển du lịch
văn hóa nói riêng và du lịch toàn huyện nói chung. Mặc dù, trình độ nhận thức về du lịch
văn hóa, về xúc tiến du lịch văn hóa còn hạn chế song người dân nơi đây rất sẵn lòng
giới thiệu với du khách về lịch sử oai hùng và những truyền thống văn hóa đẹp của quê
hương mình. Họ vừa là người tiếp đón, người cung cấp thông tin, người dẫn đường, vừa
là hướng dẫn viên, người phục vụ ăn/nghỉ, vừa là nghệ nhân biểu diễn nghệ thuật truyền
thống phục vụ du khách, vừa là những mắt xích trong kênh truyền thông quảng bá hình
ảnh của quê hương mình. Tuy nhiên, xét về góc độ chuyên môn thì những cư dân này chỉ
làm công tác xúc tiến theo cảm tính, không qua trường lớp, không có kế hoạch cụ thể và
phương pháp truyền miệng và chủ yếu. Nguồn tư liệu mà họ biết được nhiều khi chưa
phải là nguồn thông tin chính thống nên rất có thể trong quá trình quảng bá đôi khi làm
lệch lạc ý nghĩa, chủ trương và chính sách của Nhà nước.
2.7. Công tác tổ chức, quản lý du lịch văn hóa
Định Hóa là một huyện của tỉnh Thái Nguyên vì thế du lịch của Định Hóa
nói chung và du lịch văn hóa của Định Hóa nói riêng phải chịu sự chỉ đạo, quản lý
và giám sát của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên. Đặc biệt, trong
công tác tổ chức quản lý du lịch văn hóa có vai trò quan trọng của BQL Khu di tích
lịch sử - sinh thái ATK Định Hóa vì đây là đơn vị trực thuộc UBND tỉnh Thái
Nguyên. Bên cạnh đó, du lịch văn hóa trên toàn huyện cũng chịu sự chỉ đạo của
UBND huyện Định Hóa, vai trò tư vấn hợp tác của Phòng Văn hóa thông tin huyện
cũng như Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên. Đây là cơ quan cao
nhất để tham mưu cho chính quyền huyện quản lý Nhà nước về lĩnh vực du lịch nói
chung và du lịch văn hóa nói riêng. Tuy nhiên, Định Hóa thuộc vào vùng ATK, nằm
trọn trong khu di tích lịch sử quốc gia có tính chất đặc biệt, nên du lịch văn hóa của
Định Hóa phải tuân thủ những định hướng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
và chiến lược phát triển du lịch của tỉnh Thái Nguyên.
Một trong những đơn vị quản lý Nhà nước về du lịch văn hóa ở Định Hóa
còn phải kể đến Ban quản lý khu di tích lịch sử - sinh thái ATK Định Hoá Thái
Nguyên, được thành lập theo quyết định số: 23/QĐ-UBND ngày 05/01/2010 của Uỷ
ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên và trực thuộc UBND tỉnh. Trên cơ sở chuyển đổi
Ban quản lý Di tích và Danh thắng Thái Nguyên trực thuộc Sở Văn hoá, Thể thao

75
và Du lịch theo quyết định số: 505/QĐ-UB ngày 01/4/2005 của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Thái Nguyên. Nhiệm vụ của cơ quan này là:
- Bảo tồn, khai thác, phát huy giá trị các di tích lịch sử và hệ sinh thái, rừng
cảnh quan phục vụ phát triển kinh tế và du lich vùng ATK Định Hóa.
- Phối hợp với các cấp, các ngành thực hiện việc tuyên truyền, quảng bá giới
thiệu lợi thế tiềm năng phát triển và giá trị lịch sử vùng ATK Định Hóa; thực hiện
việc huy động, tiếp nhận các nguồn lực xã hội để phục vụ công tác tu bổ, tôn tạo
Khu di tích lịch sử - sinh thái ATK Định Hoá.
- Phục vụ, hướng dẫn du khách về thăm quan các di tích lịch sử và dâng
hương tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ATK Định Hóa; tổ chức các hoạt động
dịch vụ đáp ứng nhu cầu của du khách đến thăm quan ATK Định Hóa.
- Tổ chức thực hiện các dự án xây dựng phục hồi, tôn tạo di tích và sinh thái
trên cơ sở quy hoạch tổng thể và chi tiết được phê duyệt; phối hợp với các Sở, Ban,
Ngành có liên quan lập kế hoạch thực hiện đầu tư xây dựng, tôn tạo các công trình
trong Khu di tích lịch sử - sinh thái ATK Định Hoá.
- Nghiên cứu lập hồ sơ khoa học về di tích lịch sử ATK Định Hóa; sưu tầm
tài liệu, hiện vật lịch sử vùng ATK Định Hóa.

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Khu di tích lịch sử - sinh thái ATK Định Hóa
Nguồn: BQL khu di tích lịch sử - sinh thái ATK Định Hóa

76
Đánh giá được tầm quan trọng của phát triển kinh tế ngành du lịch nói chung
và du lịch văn hóa nói riêng, huyện đã có những chính sách, tổ chức quản lý để tạo
điều kiện phát triển du lịch. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ huyện đến
cơ sở đã phối hợp cùng các Sở Ban ngành liên quan của tỉnh và Tổng cục Du lịch để
có chỉ đạo cụ thể với từng vị trí chuyên môn. UBND huyện đã chỉ đạo thực hiện các
đề án liên quan, phối hợp cùng các cơ quan, phòng tổ chức thực hiện công việc như
thu hút vốn đầu tư, xây dựng sản phẩm mới,… Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn có
nhiệm vụ thực hiện các chủ trương, đề án, nhiệm vụ đã được giao, quản lý đôn đốc
phát triển du lịch, dịch vụ trên địa bàn, tổng hợp khó khăn, vướng mắc, các đề xuất
biện pháp tháo gỡ và trình với Ủy ban nhân dân quyết định. Tính đến thời điểm hiện
tại, có rất nhiều đề án, dự án, chương trình, kế hoạch, văn bản hướng dẫn, quy định,
quyết định… có liên quan đến phát triển du lịch văn hóa ở Định Hóa. Nổi bật là:
- Quyết định số 1318/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Đề án phát triển kinh tế-xã hội vùng trung tâm ATK Định Hoá, Thái Nguyên, giai
đoạn 2013-2020
- Quyết định số 321/QĐ-UBND tỉnh Thái Nguyên về việc Phê duyệt Đề án
hỗ trợ bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh, kiến trúc nghệ thuật đã được xếp hạng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 2014 – 2020
- Đề án "Phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - làng nghề - thương
mại dịch vụ phục vụ du lịch huyện Định Hóa, giai đoạn 2011-2015"
- Quyết định số 1523/QĐ-UBND của UBND tỉnh Thái Nguyên về việc tổ
chức lại Ban quản lý Khu di tích Lịch sử - Sinh thái ATK Định Hóa Thái Nguyên.
Tuy nhiên, muốn tổ chức, quản lý hoạt động du lịch văn hóa phải có sự kết
hợp đồng bộ giữa các đơn vị quản lý Nhà nước với doanh nghiệp kinh doanh du lịch
và cộng đồng bản địa. Đây cũng là hướng đi đúng đắn của Định Hóa, bằng chứng là
huyện đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong nhiều sự kiện văn hóa, du lịch
của tỉnh/huyệnnhư festival trà Quốc tế lần I (2011), lần II (2013); công tác bảo tồn giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể trên địa bàn, phục dựng và phát huy nghề truyền
thống/nghệ thuật dân gian… Có được kết quả đó chính là nhờ sự quản lý chặt chẽ,
đúng hướng, hợp lí của các cơ quan quản lý Nhà nước về văn hóa-du lịch cũng như
có sự chung tay giúp sức của doanh nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương.

77
2.8. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa trong du lịch
2.8.1. Về kiến trúc nhà sàn, đình, chùa
Qua điều tra thống kê trên địa bàn toàn huyện cho thấy hiện tại tập quán nhà sàn
và số lượng nhà sàn vẫn còn bảo tồn khá tốt ở một số địa phương như Linh Thông, Tân
Thịnh, Thanh Định, Phú Đình, Lam Vỹ… Bên cạnh đó đã có nhiều hộ gia đình làm
thêm nhà sàn mới tuy nhiên đã có những cải biến nhỏ về kiến trúc như: chiều cao của
nhà, số lượng cột, vật liệu làm mái, vật liệu làm sàn... Kết quả thống kê giai đoạn 2006-
2011: tổng số nhà sàn trên toàn huyện là 1165 nhà, trong đó số nhà sàn đã bán ra ngoài
địa bàn huyện là 96 nhà; đồng bào cũng làm mới thêm 158 nhà. Ban chỉ đạo các cấp
đã tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động để nhân dân nâng cao nhận thức
về giá trị của những nét văn hóa truyền thống độc đáo của nhà sàn, giá trị về mặt kinh
tế, nét văn hóa trong kiến trúc nhà sàn của dân tộc Tày. Ngoài ra, Định Hóa đã tiến
hành điều tra khảo sát tại các xã Định Biên, Thanh Định, Sơn Phú, Bình Thành, thị trấn
Chợ Chu… trong đó phát hiện một số đình, chùa còn lưu giữ sắc phong, bia đá nhhư ở
làng Quặng (xã Định Biên), bản Cái (xã Thanh Định), Khang Hạ (xã Bình Yên)… Đây
là cơ sở cho việc nghiên cứu chọn lọc và bảo tồn.
2.8.2. Về nghề thủ công truyền thống và văn hóa ẩm thực
Nhiều sản phẩm đan lát được khôi phục khá tốt như nón Tày, dậu, mủng, rổ,
rá, pện. Đồng thời tập trung điều tra, sưu tầm về các sản phẩm, vật dụng như quần
áo, khăn, túi, mũ nón, giày dép, đồ trang sức (vòng cổ, vòng tay, dây đeo cổ… bằng
kim loại bạc) nghề rèn, nghề mộc, nghề dệt thổ cẩm của dân tộc Tày… Các cấp
chính quyền khuyến khích người dân thường xuyên sử dụng trang phục truyền
thống trong những dịp lễ tết, sự kiện chính trị của địa phương, trong sinh hoạt cộng
đồng, trong các buổi liên hoan, giao lưu văn nghệ.
Các loại bánh, các món ăn hiện nay người dân ít làm như bánh trứng kiến,
khẩu thi, thực phẩm hun khói, thịt nướng… tiếp tục được khảo sát, điều tra và sưu
tầm để khôi phục. Một số món ăn dân tộc khác như xôi trám đen, xôi ngũ sắc, bánh
lẳng, bánh sắn, cơm lam, bánh khảo, thịt trâu khô… cũng được bảo tồn khôi phục
và phục vụ trực tiếp cho cuộc sống. Các sản phẩm này đã trở thành hàng hóa trên
thị trường nói chung và sản phẩm du lịch nói riêng tạo nên nét văn hóa ẩm thực
riêng của Định Hóa, được du khách ưa chuộng.

78
2.8.3. Về lễ hội, phong tục tập quán
Việc nghiên cứu điều tra sưu tầm về các lễ hội, phong tục tập quán của các
dân tộc trên địa bàn đã và đang được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thái Nguyên
và huyện Định Hóa tích cực tổ chức nghiên cứu để chọn lọc đầu tư khôi phục như:
- Đã khôi phục được một số lễ, hội như lễ Kỳ yên của dân tộc Tày, lễ Cấp
sắc của dân tộc Sán Chí, dân tộc Dao, lễ Rước kiệu trong lễ hội Chùa Hang… Đặc
biệt là Lễ hội Lồng tồng ATK Định Hóa (tổ chức vào ngày mùng 9-10 tháng Giêng
âm lịch hàng năm) đã được phục dựng từ năm 2002 và được tổ chức thường niên
với quy mô lớn. Ngoài ra, lễ hội Chùa Hang thị trấn Chợ Chu (tổ chức vào ngày 14-
16 tháng Giêng âm lịch) cũng được khôi phục và duy trì hàng năm, năm 2011 đã
khôi phục được Lễ rước kiệu trong lễ hội.
- Một số môn thể thao truyền thống, trò chơi dân gian như tung còn, kéo co,
bịt mắt bắt dê, bắn nỏ, cờ tướng, đu quay… đã được khôi phục, tổ chức trong các
dịp lễ tết các ngày hội lớn của các địa phương, trong các dịp đại hội văn hóa – thể
thao các cấp.
- Đã thực hiện thành công dự án phục dựng, bảo tồn đám cưới của người Tày
ở xã Lam Vỹ (Định Hóa)
- Phong tục tập quán sinh hoạt, phép ứng xử trong sinh hoạt cộng đồng…
tiếp tục được sưu tầm và nghiên cứu để chọn lọc khôi phục đưa trở lại cuộc sống
nhằm giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ, động viên củng cố tính cố kết
cộng đồng làm tăng thêm sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.
2.8.4. Về nghệ thuật dân gian
Đã tiến hành sưu tầm và khôi phục nghệ thuật sân khấu múa rối Tày ở Thẩm
Rộc (xã Bình Yên) năm 2007, cùng với sự đầu tư của huyện và sự tâm huyết của
các nghệ nhân hiện tại múa rối Tày đã và đang phát huy tốt giá trị văn hóa truyền
thống đặc sắc được giới thiệu tới đông đảo du khách gần xa trong các dịp lễ hội.
Bên cạnh đó đã tổ chức khảo sát sưu tầm múa rối Tày (múa Tắc Kè) của xã Đồng
Thịnh phục vụ cho công tác khôi phục sau này. Các tác phẩm văn xuôi, các bài hát
then, hát sli, hát lượn, được quan tâm khôi phục đưa vào phục vụ trong các lễ hội,
sự kiện văn hóa và trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày của người dân, từ năm
2008 đến nay Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch Thái Nguyên đã phối hợp với
huyện sưu tầm và ghi âm 80 bài hát dân ca dân tộc, khảo sát được 700 bài hát, 48

79
cuốn sách cổ trong đó có các bài hát then, hát sli, hát phong Slư của dân tộc Tày-
Nùng, hát Đối của dân tộc Cao Lan-Sán Chí, hát Páo dung của dân tộc Dao; Phòng
Văn hóa thông Tin huyện chủ trì đề án xây dựng mô hình hát Sli, hát Lượn các dân
tộc Tày-Nùng vùng ATK Định Hóa, qua đó đã sưu tầm được trên 100 bài hát Sli,
hát Lượn phục vụ cho công tác khôi phục.
Ngoài ra, công tác khôi phục phát huy tinh hoa văn hóa đối với các làn điệu
Then, hát Đối… đã và đang được triển khai có hiệu quả trên địa bàn toàn huyện.
Năm 2010 Phòng Văn hóa-Thông tin huyện đã đăng ký và thực hiện Dự án xây
dựng mô hình hát Sli, hát Lượn của các dân tộc Tày-Nùng vùng ATK Định Hóa do
UBND tỉnh Thái Nguyên phê duyệt. Sau 2 lần Hội thảo dự án đã được thẩm định
hoàn chỉnh với tổng số 50 bài thuộc các làn điệu hát Sli, hát Lượn của dân tộc Tày-
Nùng và được các nghệ nhân truyền giảng tại 05 xã (Phúc Chu, Lam Vỹ, Điềm
Mặc, Định Biên, Bộc Nhiêu). Mô hình này đã được nghiệm thu cấp tỉnh năm 2011,
căn cứ vào kết quả nghiệm thu huyện đã đề nghị UBND tỉnh cho tiếp tục tổ chức
mở rộng trong những năm tiếp theo trên phạm vi toàn huyện.
2.8.5. Về các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh
Việc điều tra, khảo sát và nghiên cứu các điểm di tích lịch sử được tiến hành
đồng thời với công tác điều tra, sưu tầm văn hóa truyền thống kết hợp với việc phát
huy những giá trị lịch sử của những di tích đó nhằm giáo dục truyền thống cách
mạng cho thế hệ trẻ và phục vụ công tác du lịch. Đã cơ bản hoàn thành việc khảo
sát thống kê lại và lập hồ sơ đề nghị tỉnh công nhận xếp hạng 83/109 điểm di tích
lịch sử - danh thắng chưa xếp hạng trên địa bàn huyện. Một số di tích lịch sử và
danh lam thắng cảnh được đầu tư tôn tạo như lán Tỉn Keo, Khuôn Tát, Phụng Hiển,
Nà Mòn, đình làng Quặng, Thâm Tắng, Roòng Khoa, Chùa Hang… đã phát huy tốt
giá trị văn hóa là điểm đến của các tầng lớp cán bộ, nhân dân và du khách gần xa.
Những giá trị văn hóa truyền thống mà huyện Định Hóa bước đầu khôi phục,
bảo tồn và phát huy là kết quả của sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc
trong huyện đối với việc giữ gìn những giá trị văn hóa cho thế hệ sau. Tuy nhiên, có
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp hiện nay chưa được khôi phục, sưu tầm
và nghiên cứu, đồng thời, còn một bộ phận người dân chưa coi trọng văn hóa dân
tộc. Vì vậy, các cấp chính quyền ở Định Hóa nên cần tiếp tục khảo sát, sưu tầm,
khôi phục, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc cũng như đẩy mạnh

80
công tác tuyên truyền cho du khách, cho cộng đồng để văn hóa truyền thống sẽ là
thế mạnh để huyện phát triển du lịch văn hóa và khơi dậy niềm tự hào dân tộc.
2.9. Tác động của du lịch văn hóa đối với huyện Định Hóa
2.9.1. Tác động đến môi trường, cảnh quan
Du lịch văn hóa phát triển góp phần tích cực tu sửa phát triển cảnh quan của
Định Hóa (như Chợ Chu, khu du lịch hồ sinh thái Hồ Bảo Linh), cải thiện môi trường
cho cả du khách và cư dân địa phương bằng cách gia tăng phương tiện vệ sinh công
cộng, đường giao thông, thông tin, năng lượng, nhà cửa, xử lí rác và nước thải được
cải thiện, dịch vụ môi trường được cung cấp. Tuy nhiên, việc giải phóng mặt bằng và
xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ du khách có thể gây ra xói mòn và sụt lở đất, ảnh
hưởng nghiệm trọng tới đời sống của người dân ở đây (xẻ núi làm đường lên căng
Chợ Chu, xây dựng đường đi lên thác 7 tầng…). Không những vậy hoạt động xây
dựng cơ sở hạ tầng du lịch cũng làm mất đi cảnh quan thiên nhiên, những khu đất
chăn nuôi làm ảnh hưởng đến môi trường sống của hệ động thực vật. Ngoài ra, một
số hoạt động thái quá của du khách như chặt cây bẻ cành, săn bắn chim thú tại những
khu rừng khi tới đây hay chính hoạt động lấy gỗ, thuốc, săn bắt động vật quý hiếm
của cư dân để bán cho du khách vì lợi ích kinh tế cũng là nguyên nhân làm giảm sút
cả số lượng lẫn chất lượng tài nguyên thực vật - sinh vật trong phạm vi khu du lịch.
Việc vứt rác và xả rác nước thải trực tiếp ra môi trường của cả du khách và các cơ sở
kinh doanh du lịch văn hóa làm ảnh hưởng tới mỹ quan và chất lượng nguồn nước.
2.9.2. Tác động đến kinh tế
Hoạt động du lịch văn hóa đã và đang có bước phát triển, huyện đã phối hợp
với Ban quản lý di tích và danh thắng tỉnh tổ chức các sự kiện, các hoạt động, đón
tiếp nhiều đoàn khách trong nước và quốc tế bình quân mỗi năm đón hàng triệu lượt
khách đến với huyện Định Hóa và nhiều nhất là khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt
ATK Định Hóa, góp phần thay đổi bộ mặt của Định Hóa một cách đáng kể. Tính đến
nay, số lượng người dân tham gia vào làm du lịch văn hóa ở địa bàn huyện còn rất ít
chủ yếu vẫn là làm nông nghiệp và lâm nghiệp. Nhưng có khách du lịch tới trên cơ sở
tiềm năng và phát triển nông lâm nghiệp, huyện khuyến khích người dân làm nông
nghiệp, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, làm các loại thủ công mỹ nghệ,
các nghề truyền thống phục vụ du khách. Chính vì thế thu nhập của người dân đã
tăng lên rất nhiều qua các năm, năm 2011 đạt 14 triệu đồng/người/năm, năm 2012 đạt

81
15,2 triệu đồng/người/năm, năm 2013 đạt 17,1 triệu đồng/người/năm. Tăng trưởng
kinh tế ở mức cao và cơ cấu các ngành kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực
đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn và cải thiện một bước đời sống của nhân dân.
2.9.3. Tác động đến xã hội
Theo thống kê của Phòng Văn hóa Thông tin huyện Định Hóa, hoạt động du
lịch văn hóa tại đây đã giải quyết việc là cho khoảng 20% lao động của toàn huyện,
góp phần vào việc giải quyết việc làm cho lao động trong huyện. Mặt khác du lịch
văn hóa tạo ra việc làm ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định xã hội như: không để
cho các cộng đồng tan rã, giảm bớt được một lượng đáng kể thanh niên đi nơi khác
tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập của người dân địa phương thông qua việc cung
cấp các sản phẩm cho khách du lịch. Thực tế như làng chuyên canh chè ở xóm
Quỳnh Hội, xã Trung Hội, huyện Định Hóa có 100% hộ sống bằng nghề làm chè,
nhờ du lịch văn hóa mà sản phẩm chè của Quỳnh Hội đã được nhiều người tiêu
dùng biết đến và ưa chuộng.
Du lịch văn hóa góp phần nâng cao trình độ dân trí của người dân nhờ vào việc
giao lưu tiếp xúc giữa khách du lịch và cư dân địa phương để trao đổi buôn bán, giao
lưu về văn hóa. Tuy nhiên, sự giao lưu tiếp xúc này lại là điều kiện căn bản gây ra một
số thay đổi về mặt xã hội. Tại huyện Định Hóa tệ nạn cướp giật tại các trung tâm như
tại các điểm du lịch như ATK đã manh nha xuất hiện, mại dâm có xu hướng gia tăng,
tình trạng bán hàng giả hàng kém chất lượng lừa khách du lịch nhiều (như rao bán các
bài thuốc dân tộc)… Ngoài ta, du lịch làm thay đổi khuynh hướng tiêu dùng của người
dân, lệch lạc về lối sống hưởng thụ và thương mại hóa hoạt động văn hóa truyền thống
và xã hội (như trong lễ hội Lồng Tồng các nghi thức hay trò chơi dân gian đã biến tấu
nhiều). Ngoài ra việc tập trung du khách ngày càng nhiều tại cùng một thời điểm, địa
điểm sẽ làm cho các nhà nghỉ trở nên quá tải, đường xá tắc nghẽn làm ảnh hưởng đáng
kể đến chất lượng cuộc sống của người dân.
2.9.4. Tác động đến văn hóa
Du lịch giúp mở rộng giá trị của sản phẩm văn hóa. Nếu không có du lịch, sản
phẩm văn hóa chỉ đơn thuần có giá trị lịch sử, nghệ thuật hay khoa học không thể một
năm đóng góp một giá trị kinh tế nhất định cho nền kinh tế của huyện. Nếu không có du
lịch bạn bè thế giới không thể biết đến Định Hóa - nơi có những chứng tích lịch sử của
Việt Nam như Di tích Tỉn Keo, Đồi “Phong Tướng”, Di tích Nà Mòn, Nhà tù Chợ

82
Chu… Chính hoạt động du lịch giúp bảo tồn, duy trì lâu bền những giá trị văn hóa đang
dần mai một hoặc bị phá hủy bởi thời gian. Phát triển du lịch văn hóa khiến du khách biết
thêm về bản sắc dân tộc của đồng bào Định Hóa (âm nhạc, nghệ thuật, các món ăn
truyền thống…). Điều này sẽ tạo hình ảnh mới, đẹp và toàn diện về điểm đến này. Tuy
nhiên, du lịch văn hóa xâm nhập vào cộng đồng làm thương mại hóa những giá trị văn
hóa bản địa thuần túy. Ngày nay, dễ dàng nhận thấy những hình ảnh khách sạn, nhà nghỉ,
nhà hàng, các quán ăn tạm, các cửa hàng bán đồ ăn theo… mọc lên mọi nơi với các hoạt
động kinh doanh manh mún, xô bồ xung quanh khu vực di tích lịch sử của Định Hóa. Du
lịch nói chung ảnh hưởng đến lối sống của một bộ phận dân địa phương, làm mai một đi
những giá trị văn hóa trong tâm thức họ. Nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong
huyện có thể bị hủy hoại hoặc giảm giá trị, gia tăng xung đột giữa cái mới và cái cũ, bảo
thủ làm cho xã hội trở nên phức tạp hơn. Nếu không có những giải pháp hợp lý để kiềm
tỏa nguy cơ này thì Định Hóa nói riêng và các điểm du lịch văn hóa nói chung sẽ đối mặt
với hiện tượng văn hóa xuống cấp cả về quy mô lẫn tốc độ, làm tổn hại đến các hệ thống
văn hóa, gây ra những thay đổi về mối quan hệ xã hội.
2.10. Đánh giá chung
Định Hóa khai thác các giá trị lịch sử - văn hóa để phục vụ khách du lịch,
đây là một hướng đi đúng vừa thực hiện được mục tiêu bảo tồn di tích, vừa thực
hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương có di tích thông qua
phát triển du lịch – dịch vụ. Chính vì vậy, đặc điểm nổi bật nhất của du lịch Định
Hóa là sự chiếm ưu thế gần như tuyệt đối của hoạt động du lịch văn hóa. Như vậy,
có thể coi những số liệu thống kê về du lịch Định Hóa nói chung chính là những số
liệu về du lịch văn hóa ở địa phương này.
Năm Doanh thu từ du lịch Tổng doanh thu từ Tỉ lệ doanh thu từ du lịch
của Định Hóa du lịch của toàn tỉnh của Định Hóa/tổng doanh
(tỷ đồng) (tỷ đồng) thu du lịch toàn tỉnh (%)
2009 0.63 800 0.78
2010 0.68 955 0.7
2011 0.79 1100 0.72
2012 0.85 1210 0.7
Bảng 2.2: Doanh thu hoạt động du lịch của Định Hóa
Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên

83
Tuy nhiên có thể thấy doanh thu từ du lịch của Định Hóa chiếm tỉ lệ rất nhỏ
trong tổng doanh thu toàn xã hội về du lịch của tỉnh Thái Nguyên (dao động trong
khoảng 0.7%). Tuy nhiên, có một thực tế giải thích phần nào cho những con số
khiêm tốn này chính là du lịch Định Hóa còn hạn hẹp về nguồn kinh phí. Chủ yếu
do ngân sách Nhà nước cấp, phối hợp thêm nguồn thu từ công đức, hòm quỹ xã hội
từ thiện do các cơ quan/đơn vị/tổ chức/cá nhân hiến tặng/cung tiến. Còn nguồn thu
trực tiếp từ dịch vụ lưu trú/ăn uống của Định Hóa còn thấp. Hiện nay, con số này
chỉ chiếm khoảng 28% trên tổng thu từ các nguồn khác nhau của toàn huyện: năm
2009 đạt 173 triệu, 2010 đạt 180 triệu và 2011 đạt 219 triệu. Nguyên nhân là bởi
điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du khách ở đây còn yếu kém cả về số
lượng và chất lượng. Đồng thời, dịch vụ du lịch còn nghèo nàn, hầu như tập trung
nhiều vào du lịch tham quan tìm hiểu di tích lịch sử cách mạng. Khách du lịch đến
đây tham quan rất ít sử dụng dịch vụ lưu trú. Bởi vậy du lịch văn hóa Định Hóa
chưa có sức hút thực sự đối với du khách.
Những kết quả đạt được trong thời gian qua mới chỉ là bước đầu, chưa phản
ánh hết tiềm năng của Định Hóa, hầu như chỉ trú trọng khai thác các di tích lịch sử
mà chưa có kế hoạch phát triển du lịch văn hóa dựa trên văn hóa các dân tộc sống
trên địa bàn huyện. Trong thời gian tới, các tiềm năng du lịch văn hóa trên địa bàn
cần phải được nghiên cứu một cách khoa học, đánh giá một cách đầy đủ để từ đó có
định hướng, lộ trình phát triển thích hợp.

Tiểu kết chương 2

Định Hóa là một huyện có nhiều tiềm năng du lịch văn hóa của Thái Nguyên
nói riêng và cả nước nói chung. Thực tế đã cho thấy, điểm đến đang được khách du
lịch trong và ngoài nước biết đến vì vậy nguồn khách đến Định Hóa ngày càng có
xu hướng mở rộng. Nơi đây không chỉ là địa chỉ đỏ bởi du lịch về nguồn cách mạng
mà còn hấp dẫn du khách với hình thức du lịch lễ hội, du lịch phong tục, du lịch ẩm
thực… Tuy nhiên, bên cạnh những sản phẩm du lịch văn hóa truyền thống, du lịch
Định Hóa đang đối mặt với thực trạng nghèo nàn về tour/tuyến du lịch, nhàm chán
về nội dung tham quan, hạn chế về dịch vụ bổ sung… Mặc dù vậy, không thể phủ
nhận những lợi ích mà du lịch văn hóa mang lại cho Định Hóa về kinh tế, xã hội,

84
văn hóa và môi trường. Nhưng cũng phải nhìn nhận và đánh giá đúng đắn những tác
động tiêu cực mà du lịch văn hóa ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác của đời sống
nhân dân nơi đây. Vì vậy, cần có những giải pháp đồng bộ và hợp lý để phát huy
mặt mạnh, hạn chế điểm yếu của du lịch văn hóa huyện Định Hóa.

85
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN
DU LỊCH VĂN HÓA HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN

3.1. Những căn cứ đề xuất giái pháp


3.1.1. Căn cứ vào chủ trương, chính sách của Nhà nước
Ngày 30/12/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2473/QĐ-
TTg phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030. Triển khai thực hiện Chiến lược, ngày 22/01/2013, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 201/QĐ-TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trong chiến lược
và quy hoạch, du lịch văn hóa được xác định xuyên suốt trong quan điểm, định
hướng và giải pháp phát triển, thể hiện tư tưởng chỉ đạo và chủ trương của Chính
phủ trong định hướng phát triển du lịch gắn liền với việc thực hiện Nghị quyết 05
khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020.
Ngày 03/05/200, Thủ tưởng chính phủ đã ra quyết định số 679/QĐ-TTg về
việc phê duyệt nhiệm vụ “Quy hoạch xây dựng vùng chiến khu cách mạng ATK
liên tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang và Bắc Kạn đến năm 2030” với một số mục
tiêu và định hướng chủ yếu như:
- Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Định Hóa, trong đó chú ý
các lĩnh vực du lịch cội nguồn, nghỉ dưỡng và sinh thái.
- Tạo mối liên kết về không gian, kết nối hạ tầng khung vùng chiến khu cách
mạng ATK giữa 3 tỉnh Thái Nguyên - Tuyên Quang - Bắc Kạn để khai thác hiệu
quả động lực của vùng ATK vào việc phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương
trong vùng, đảm bảo theo nguyên tắc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích
lịch sử cách mạng ATK.
- Phát triển hệ thống đô thị, dân cư nông thôn trong toàn vùng nghiên cứu
gắn với các hoạt động du lịch văn hóa lịch sử, nghỉ dưỡng sinh thái…
- Tổ chức hệ thống các trung tâm chuyên ngành, công trình dịch vụ hạ tầng
xã hội cấp vùng; các trung tâm dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng, tham
quan, nghiên cứu khoa học... có tính chất vùng, quốc gia.

86
Đặc biệt, ngày 06/8/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1318/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án phát triển kinh tế-xã hội vùng trung tâm ATK Định Hoá, Thái
Nguyên, giai đoạn 2013-2020. Xét về mặt phát triển du lịch văn hóa, mục tiêu của Đề
án đến 2020 là nâng cấp, phục hồi, tôn tạo một số điểm du lịch quan trọng; huy động
các nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, phấn đấu đến năm 2020 có trên
800.000 lượt khách đến tham quan. Phấn đấu đến năm 2020 có ít nhấn 30 % số lao
động đã qua đào tạo, 100% số xã, nông thôn bản có nhà văn hóa, 98% số hộ đạt tiêu
chuẩn gia đình văn hóa, 98% số thôn bản đạt tiêu chuẩn thôn, bản văn hóa. Xây dựng
mạng lưới dịch vụ du lịch góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho nhân
dân trong vùng căn cứ cách mạng. Tập trung đầu tư tôn tạo 18 di tích lịch sử quan
trọng bằng nguồn vốn ATK; huy động xã hội hóa từ các bộ, ngành và các doanh
nghiệp tôn tạo 28 di tích khác. Xây dựng hạ tầng các khu du lịch lịch sử ATK Phú
Đình và phát triển, hình thành thêm các khu du lịch lịch sử tại các xã Điềm Mặc, Định
Biên. Đồng thời tôn tạo, phục dựng các điểm di tích lịch sử để dần hình thành khu du
lịch lịch sử-văn hóa-sinh thái trọng điểm quốc gia.
Kết luận của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch – Hoàng Tuấn
Anh về buổi làm việc ngày 18/12/2014 tại Thái Nguyên với Phó Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh Thái Nguyên – Bà Ma Thị Nguyệt về thực trạng và phát triển du lịch
trên địa bàn có liên quan đến phát triển du lịch văn hóa huyện Định Hóa:
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi nhận sự nỗ lực của tỉnh Thái Nguyên
trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, khai thác tiềm năng du lịch, tổ chức
sự kiện để quảng bá, phát triển du lịch. Tuy nhiên, việc phát triển du lịch còn chưa
phát huy có hiệu quả và bền vững, tiềm năng, lợi thế, đóng góp có trách nhiệm và
khẳng định vị thế một trong những địa bàn trọng điểm về du lịch vùng Trung du và
miền núi Bắc Bộ theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
- Tiếp tục triển khai Đề án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vật thể, phi vật
thể của Trà Thái Nguyên, chuẩn bị tổ chức Festival Trà quốc tế 2015 tại Thái
Nguyên. Giao các Tổng cục, Cục, Vụ, đơn vị thuộc Bộ hỗ trợ tỉnh Thái Nguyên
thực hiện các Đề án góp phần quảng bá hình ảnh quốc gia.
- Quan tâm hơn nữa và có giải pháp phù hợp gắn phát triển du lịch với bảo
tồn, phát huy các giá trị di sản văn hoá, đặc biệt với đồng bào các dân tộc thiểu số,

87
lưu ý đảm bảo vấn đề sinh thái, môi trường với sự tham gia và mang lại lợi ích trực
tiếp cho cộng đồng các dân tộc trên địa bàn. Tập trung đầu tư phát triển du lịch tại
Khu di tích quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, liên kết với Bắc Kạn, Tuyên Quang
trong bảo tồn, phát huy giá trị khu di tích.
- Có kế hoạch đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt chú trọng
nhân lực du lịch cộng đồng, phát triển bền vững.
- Chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp quản lý môi trường, bảo
đảm an ninh, an toàn cho khách du lịch, chuẩn bị sơ kết 01 năm thực hiện Chỉ thị số
18/CT-TTg ngày 4/9/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
- Về hỗ trợ hạ tầng du lịch sinh thái nghỉ dưỡng gắn với văn hóa Trà Thái Nguyên
và du lịch hệ thống các di tích Quốc gia đặc biệt ATK - Định Hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch ghi nhận, đề nghị Tỉnh chỉ đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch có đề xuất dự
án cụ thể gửi Vụ Kế hoạch, Tài chính nghiên cứu, đề xuất báo cáo lãnh đạo Bộ xem xét
phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư cân đối, báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
3.1.2. Định hướng, chiến lược phát triển của địa phương
Đề án phát triển du lịch Thái nguyên giai đoạn 2009-2015 (được UBND tỉnh Thái
Nguyên phê duyệt tại Quyết định số 2543/QĐ-UBND ngày 8/10/2009). Đề án đề cập đến nội
dung không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch Thái Nguyên đến 2015 đối
với các khu du lịch trong đó có Khu du lịch lịch sử-sinh thái ATK Định Hoá. Xây dựng tuyến
du lịch Thành phố Thái Nguyên - Đền Đuổm - Cụm di tích ATK, từ đó mở rộng liên kết, liên
doanh các tour du lịch ngoại tỉnh và khu vực như: Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng
Sơn đặc biệt với thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận khác.
Quy hoạch phát triển tổng thể du lịch Thái Nguyên giai đoạn 2006-2010, định hướng
đến năm 2015, tầm nhìn chiến lược đến năm 2020: Quy hoạch đã đưa ra 8 nhóm giải pháp để
phát triển du lịch. Một trong số đó là đầu tư trọng tâm phát triển du lịch Định Hóa xứng tầm là
Khu di tích lịch sử đặc biệt quan trọng vào bậc nhất của đất nước. UBND tỉnh Thái Nguyên và
huyện Định Hóa cũng đã xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về du
lịch tại địa phương, chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch, nâng cao chất lượng
dịch vụ và sản phẩm du lịch. Đồng thời, ngành cũng chủ động tham mưu cho UBND tỉnh đầu
tư xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hạ tầng du lịch như: Dự án cụm công trình dịch vụ du
lịch ATK Phú Đình; dự án đầu tư tôn tạo di tích lịch sử Đồi Khau Tý, di tích Thẩm Khen, di

88
tích Tỉn Keo...Về cơ sở vật chất du lịch, các nhà nghỉ, khách sạn ngày càng mở rộng theo
hướng tăng các dịch vụ phụ trợ bổ trợ cho dịch vụ lưu trú.
Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên”
- Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tỉnh Thái Nguyên đang tập
trung xây dựng, triển khai, trong đó ưu tiên đầu tư cho việc giữ gìn và phát huy các loại
hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống của các dân tộc thiểu số, phục hồi và phát triển
một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ thất truyền.
- Theo kế hoạch, trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2020, Thái Nguyên
đầu tư gần 45 tỷ đồng từ vốn ngân sách Nhà nước, xã hội hóa và các nguồn vốn
khác để thực hiện Đề án. Với mục đích bảo tồn, phát huy bản, sắc văn hóa truyền
thống, tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số Thái
Nguyên, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới
- Đề án được triển khai với 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 từ năm 2014 đến năm
2015 điều tra, nghiên cứu, đánh giá thực trạng các giá trị văn hóa truyền thống của
đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn toàn tỉnh, sưu tầm, phục dựng các giá trị
văn hóa phi vật thể đang có nguy cơ bị thất truyền. Giai đoạn 2 từ năm 2016 đến
năm 2020, tiếp tục thực hiện các nội dung của giai đoạn 1 và bước đầu phát huy giá
trị các di sản văn hóa tiêu biểu.
- Theo đó, Đề án sẽ có 5 dự án phụ trợ được triển khai gồm: Khôi phục, bảo
tồn tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số của các huyện Định Hóa, Đại
Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ, Võ Nhai; đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực, phát huy
hiệu quả các thiết chế văn hóa cơ sở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; giới thiệu,
quảng bá các sản phẩm văn học nghệ thuật và các di sản văn hóa tiêu biểu của các
dân tộc thiểu số, đưa giáo dục văn hóa truyền thống của các dân tộc vào trường học;
gắn kết phát triển kinh tế và bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; xây
dựng các chương trình hoạt động, lễ hội và biểu diễn văn hóa, nghệ thuật các dân
tộc cấp huyện, cấp tỉnh, tham gia cấp vùng, quốc gia giai đoạn 2014 - 2020....
UBND Tỉnh Thái Nguyên cũng đã có Quyết định số 1112-QĐUB ngày
05/06/2014 về việc Phê duyệt nhiệm vụ Quy hoạch chi tiết khu du lịch lịch sử,
sinh thái liên hoàn Chùa Hang - Nhà tù Chợ Chu - Hồ Bảo Linh, huyện Định
Hóa, với nội dung chính như sau: Quy hoạch lập theo hướng phát triển du lịch bền

89
vững là một trung tâm du lịch sinh thái - văn hóa - lịch sử; là vùng bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa lịch sử và di tích cách mạng gắn với việc giáo dục các truyền
thống đấu tranh, yêu nước của dân tộc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tạo
mối liên kết về không gian, kết nối hạ tầng các điểm du lịch sinh thái và du lịch lịch
sử để khai thác hiệu quả vùng ATK vào việc phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương đảm bảo theo nguyên tắc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu du lịch
lịch sử, sinh thái liên hoàn Chùa Hang - Nhà Tù Chợ Chu - Hồ Bảo Linh.
Chính quyền và nhân dân huyện Định Hóa cũng đã thực hiện có hiệu quả Đề
án “Khôi phục, bảo tồn và phát huy những giá trị tinh hóa văn hoa truyền thống
các dân tộc huyện Định Hóa giai đoạn 2006-2010”. Trên tinh thần đó, hiện nay Đề
án “Tiếp tục khôi phục, bảo tồn và phát huy những giá trị tinh hóa văn hóa
truyền thống các dân tộc huyện Định Hóa, giai đoạn 2011-2015” cũng đang ở
thời kỳ gấp rút hoàn thiện. Mục tiêu chủ yếu của 2 Đề án này là:
- Chủ động phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, giá trị văn hóa các
di tích lịch sử-danh thắng phục vụ cho công tác giáo dục truyền thống cách mạng, lòng
yêu nước cho các thế hệ (đặc biệt là thế hệ trẻ); tạo cơ sở quan trọng cho phát triển du
lịch-dịch vụ và thu hút đầu tư góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển.
- Tập trung đầu tư để khôi phục không gian văn hóa vật thể, phi vật thể tại
làng Văn hóa – Du lịch bản Quyên (xã Điềm Mặc) trở thành mô hình điểm về xây
dựng làng văn hóa và là điểm đến cho khách du lịch.
- Xây dựng nhà thư viện huyện gắn với nhà trưng bày để lưu giữ bảo quản và
giới thiệu, quảng bá các giá trị văn hóa trên địa bàn huyện theo đúng yêu cầu, nội
dung và mục tiêu đã đề ra.
Dự án “Xây dựng mô hình hát Sli, hát Lượn của các dân tộc Tày, Nùng
vùng ATK Định Hoá”: triển khai trên tinh thần gắn phát triển văn hóa với phát
triển kinh tế, lấy phát triển văn hóa làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, tiếp tục
khôi phục, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá các dân tộc; nhân dân huyện Định
Hóa đã thực hiện thành công.
Đề án bảo tồn, tôn tạo, phát huy di tích giai đoạn 2012-2020: Để bảo tồn
các di tích gốc, tôn tạo các điểm di tích quan trọng trong thời kỳ kháng chiến gắn
với phát triển du lịch văn hóa-lịch sử vùng an toàn khu (ATK) Định Hóa

90
3.1.3. Căn cứ vào thực trạng phát triển du lịch văn hóa của Định Hóa
Trước hết, phải khẳng định huyện Định Hóa có đầy đủ các điều kiện thuận lợi
để phát triển loại hình du lịch văn hóa. Đó là quần thể 128 di tích lịch sử cấp quốc gia
và hàng trăm di tích địa phương, các lễ hội, làng nghề truyền thống… Hơn nữa đây là
mảnh đất quần cư của 9 dân tộc anh em, vẫn còn lưu giữ nhiều nét sinh hoạt văn hóa
độc đáo như ẩm thực, nghệ thuật truyền thống, phong tục tập quán... Giữa núi rừng
Việt Bắc, nhiều bản làng dân tộc của Định Hóa là nơi dừng chân lý tưởng cho du
khách khi đến với “Thủ đô gió ngàn”. Dưới mái nhà sàn truyền thống của người Tày,
khách du lịch được đắm mình trong không gian đặc trưng của vùng chiến khu xưa với
rừng cọ, đồi chè chạy hút tầm mắt, nhâm nhi chén rượu men lá thơm nồng, thả hồn
mình theo điệu Lượn, điệu Sli. Không những thế, người dân Định Hóa còn luôn thân
thiện, nồng hậu và mến khách. Cuộc sống thường nhật giữa trái tim của vùng ATK
của đồng bào nơi đây đã và đang thu hút sự quan tâm của du khách gần xa.
Lĩnh hội tinh thần phát triển du lịch trở thành một mũi nhọn kinh tế. Chính
quyền huyện Định Hóa đang dần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ du lịch. Nhất là hệ thống giao thông đã được cải thiện đáng kể phục vụ nhu cầu của
du khách. Được sự hỗ trợ to lớn của các cấp/ban/ngành từ Trung ương đến địa phương,
đường lên Định Hóa giờ đã khang trang, rộng rãi và an toàn hơn rất nhiều. Thời gian đi
lại được rút ngắn, hệ thống đường liên thôn, liên xã đang từng bước được hoàn thiện.
Điều kiện điện sáng, nước sạch, thông tin liên lạc cũng được nâng cấp vượt trội. Cơ sở
vật chất kỹ thuật tại các điểm tham quan cũng được chú ý đầu tư… Tất cả những điều
đó đã góp phần tạo thuận lợi cho du khách khi đến với Định Hóa.
Không chỉ quảng bá giới thiệu hình ảnh Định Hóa đến với du khách mà
công tác tuyên truyền, hướng dẫn cho các đơn vị kinh doanh dịch vụ du lịch thực
hiện đúng các quy định của luật du lịch cũng được thực hiện. Đài phát thanh huyện
cũng đã mở chuyên mục giới thiệu chuyên đề du lịch, phối hợp với cơ quan báo chí
giới thiệu điểm du lịch văn hóa của huyện Định Hóa. Huyện đã tranh thủ các kênh
thông tin để kịp thời quảng bá du lịch Định Hóa đến với bạn bè quốc tế và khách du
lịch trong nước. Các công cụ xúc tiến truyền thống cũng được thiết kế đẹp mắt và
sử dụng triệt để như: tập gấp, tờ rơi, pa-nô, áp-phích…
Chính quyền địa phương đã chủ động trong việc vận động sự tham gia của
cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch văn hóa, dự kiến trong thời gian tới du

91
lịch văn hóa là loại hình du lịch chủ đạo của huyện. Nhà nước đã có chính sách, kế
hoạch đầu tư vào ngành du lịch huyện một cách cụ thể, dự kiến năm 2020 Định Hóa
sẽ là điểm du lịch trọng điểm Thái Nguyên và thu hút khoảng 800.000 lượt khách
du lịch đến với nơi đây.
Bên cạnh những thuận lợi kể trên thì du lịch Định Hóa còn có các khó khăn
như: ngành du lịch của Định Hóa phát triển còn chậm, chưa tương xứng với tiềm
năng vốn có, hạ tầng du lịch còn ở mức sơ khai, chưa hình thành được các khu,
điểm du lịch, sản phẩm du lịch văn hóa và dịch vụ du lịch còn nghèo, số lượng cơ
sở lưu trú còn ít, công tác xúc tiến và quảng bá còn hạn chế, chất lượng lao động
trong lĩnh vực du lịch thấp, hầu hết chưa qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, công
tác bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức.
Tuy đã được hoàn thiện mạng lưới giao thông giúp người dân và du khách đi
lại thuận tiện nhưng bên cạnh đó giao thông cũng là một trong những bất lợi lớn
nhất cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và du lịch của huyện. Cơ sở hạ tầng
chưa được nhà nước đầu tư một cách đồng bộ. Điểm du lịch Làng văn hóa Tày tiêu
biểu bản Quyên (xã Điềm Mặc) là một ví dụ điển hình. Đường vào bản quá hẹp, chỉ
vừa một làn xe ô tô vì thế đã giảm thiểu tối đa lượng khách du lịch vào thăm và lưu
trú tại bản. Điều này đã làm hạn chế hiệu quả kinh doanh du lịch văn hóa ở đây và
tất nhiên nó cũng là nguyên nhân khiến những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
của người dân tộc ở bản Quyên ít được du khách trong và ngoài nước biết đến.
Do đặc thù là hoạt động kinh doanh du lịch mới được chú trọng trong cơ cấu
phát triển kinh tế của huyện, du lịch văn hóa bước đầu phát triển nhưng chủ yếu
mang tính tự phát. Mặt khác, du lịch là một lĩnh vực hấp dẫn nhưng chưa có nhiều
ngành nhiều cấp tham gia vào hoạt động du lịch trên địa bàn huyện. Phòng Văn hóa
Thông tin được thành lập, dù không ngừng được hoàn thiện nhưng đến nay bộ máy
tổ chức còn thiếu, chưa phát huy được các chức năng nhiệm vụ được giao, sự phối
hợp hoạt động giữa các cơ quan hữu quan còn chưa đầy đủ.
Ý thức người dân về bảo vệ môi trường chưa cao. Điều này được thể hiện việc
cộng đồng địa phương tại huyện sinh sống bằng việc làm chổi cọ, nên hàng ngày có rất
nhiều người dân đi chặt cọ về làm chổi bán, việc khai thác như vậy ảnh hưởng rất lớn
tới cảnh quan thiên nhiên tại rừng. Loại hình du lịch văn hóa mới được triển khai tại
Định Hóa trong thời gian gần đây, nhưng các cơ quan chính quyền và công ty du lịch

92
chưa có biện pháp để nâng cao hiểu biết về làm du lịch cho cộng đồng địa phương.
Công tác tuyên truyền về du lịch văn hóa còn hạn chế vì vậy chưa tác động sâu rộng
vào trong ý thức của người dân. Do đó, đồng bào chưa chủ động trong giữ gìn và phát
huy những giá trị văn hóa tộc người, cũng như chưa thực sự sẵn sàng làm du lịch.
Công tác xúc tiến, quảng bá chưa được triển khai toàn diện, hoạt động quảng
bá không cao nên các nhà đầu tư không thấy được những lợi thế sẵn có của Định
Hóa nên họ dường như rất hoang mang và không muốn đầu tư. Chính vì không có
chiến lược quảng bá rộng khắp nên Định Hóa đã bỏ qua rất nhiều cơ hội để phát
triển nên hoạt động xúc tiến quảng bá, marketing đối với Định Hóa thời gian này là
rất cần thiết. Hơn thế nữa, công tác xã hội hóa đối với một số lễ hội còn hạn chế nên
không thu hút được sự chung tay góp sức của cộng đồng, đồng thời còn ít khách du
lịch biết đến các lễ hội đặc sắc ở Định Hóa.
Mặc dù chính quyền các cấp đã có sự liên kết với đơn vị kinh doanh lao động trên
địa bàn cũng như với cộng đồng địa phương nhưng việc thực hiện còn chưa đồng bộ,
thiếu chặt chẽ và nhiều khi các văn bản, đề án, hoạt động còn chồng chéo lên nhau. Đã
xuất hiện hiện tượng “ăn xổi” trong hoạt động du lịch văn hóa đã xảy ra như chặt chém,
bớt điểm tham quan, cắt xén khẩu phần ăn của du khách… Những điều này đã gây ra
những tác động không nhỏ đến hiệu quả của việc phát triển du lịch văn hóa nơi đây.
3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hóa tại huyện Định Hóa
3.2.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
Giao thông: mở rộng mạng lưới giao thông có quy hoạch hợp lý, nâng cấp
các tuyến đường chính đi lên Định Hóa. Nhanh chóng hoàn thiện và xây dựng mới
các con đường liên xóm, liên huyện để du khách có thể dễ dàng tiếp cận điểm du
lịch văn hóa. Riêng đối với bản Quyên (xã Điềm Mặc), bản Rịn (xã Bộc Nhiêu) cần
nghiên cứu và tiến hành cải thiện, nâng cấp đường vào bản nhằm tạo điều kiện tốt
nhất cho du khách tiếp cận điểm du lịch này. Đặc biệt các xã khó khăn trong diện
135 nhưng có tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa nên có sự quan tâm đặc biệt
để nâng cao đời sống cho nhân dân đồng thời phát triển du lịch văn hóa trong huyện
Định Hóa.
Điện, nước: quan tâm phát triển lưới điện đặc biệt là chất lượng điện tới các
khu du lịch, điểm di tích để đảm bảo phục vụ phát triển sản xuất và sinh hoạt của
nhân dân địa phương và du khách. Hơn nữa cần thiết xây dựng trạm biến áp riêng

93
cho khu vực Đèo De – Phú Đình, vì đây là nơi có nhiều khách tới thăm và nghỉ lại
nhiều nhất. Cần xây dựng các phương án dự phòng khi xảy ra tình trạng cháy nổ,
mất điện để đảm bảo phục vụ cho khách du lịch một cách tốt nhất, ví dụ như đầu tư
máy phát điện, hoặc hệ thống pin năng lượng mặt trời để sử dụng trong những tình
huống cần thiết. Chỉnh trang lại hệ thống cột điện, đường dây truyền tải điện, trạm
biến áp nhằm mang lại cảnh quan đẹp mắt và tránh thất thoát điện năng.
Y tế: y tế của huyện đã phát triển, đời sống của nhân dân đã được nâng cao
rất nhiều, nhưng riêng về phục vụ cho du khách thì vẫn chưa thực sự tốt. Xã Phú
Đình là xã trung tâm của ATK đây là nơi có nhiều du khách ghé qua nhất, chính vì
thế cần có biện pháp củng cố trạm y tế ở đây, đảm bảo phục vụ kịp thời cho nhân
dân địa phương và du khách tại khu trung tâm ATK – Phú Đình. Đặc biệt là đầu tư
đồng bộ về y tế cho các xã, làng trong quy hoạch phát triển làng văn hóa. Mỗi điểm
du lịch cần có tủ thuốc miễn phí cung cấp cho du khách những loại thuốc thông
thường. Nên có chính sách tuyển dụng và thu hút y bác sĩ về công tác tại các điểm
du lịch ở Định Hóa. Đặc biệt, cần tập huấn cho nhân viên ở đây thuần thục các thao
tác sơ cứu cấp cứu phòng trường hợp khách du lịch gặp tai nạn bất ngờ.
Viễn thông, bưu chính, ngân hàng: cần có các chính sách thu hút các nhà
cung cấp dịch vụ đầu tư xây dựng hệ thống viễn thông, để không những phục vụ
cho nhu cầu của khách du lịch, đem lại sự tiện nghi, gián tiếp tuyên truyền quảng
cáo cho du lịch Định Hóa mà còn nâng cao chất lượng phục vụ của các điểm bưu
điện văn hóa xã. Ngoài hệ thống các ngân hàng Nhà nước và tư nhân, với xu hướng
tài chính hiện đại ngày nay, Định Hóa cũng nên đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ
thuật về dịch vụ tiền tệ nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu chuyển tiền, đổi ngoại tệ,
rút tiền từ máy ATM hay quyết toán khoản chi tiêu cho du lịch qua thẻ tín dụng.
Khách sạn, nhà hàng: Hiện nay Định Hóa chưa có khách sạn, chủ yếu chỉ có
một số nhà nghỉ sức chứa nhỏ phục vụ khách. Các nhà hàng chưa phát huy được thế
mạnh của mình về đặc sản của các dân tộc, còn quá phụ thuộc quảng cáo bằng các
món ăn quý hiếm ở rừng làm tổn thương tới môi trường. Vì vậy cần tập trung mời
gọi các dự án đầu tư hệ thống nhà hàng, khách sạn để làm nền tảng phát triển các
điểm du lịch. Đầu tư xây dựng hệ thống nhà hàng khách sạn khang trang sạch đẹp
mang nét đặc trưng của đồng bào các dân tộc Định Hóa, không làm phá vỡ mỹ
quan, khuyến khích các nhà hàng chế biến những món ăn truyền thống đáp ứng nhu

94
cầu ẩm thực của du khách. Đặc biệt, cần yêu cầu những nhà nghỉ, nhà hàng, quán ăn
phải có hệ thống xử lý nước và rác thải, sao cho hạn chế tốt đa tình trạng ô nhiễm
môi trường do hoạt động du lịch văn hóa gây ra.
Khu vui chơi, giải trí và mua sắm: đầu tư xây dựng cơ bản các khu vui chơi,
giải trí, mua sắm, ẩm thực phục vụ khách du lịch và chính người dân địa phương.
Khôi phục và phát triển Chợ Chu cũ thành chợ truyền thống của huyện, khuyến
khích thương nhân đầu tư kinh doanh các sản phẩm đặc trưng của địa phương nhằm
thu hút khách du lịch. Đây cũng là một trong những điều kiện quan trọng để kéo dài
thời gian thăm viếng, lưu trú của du khách khi đến Định Hóa. Phát triển hệ thống
cung cấp nước sạch sinh hoạt, xử lý rác thải, nước sinh hoạt, đảm bảo công tác bảo
vệ môi trường tại các khu du lịch. Xây dựng các chính sách ưu đãi, các cơ chế thông
thoáng cho các nhà đầu tư và các thành phần kinh tế tham gia vào kinh doanh du
lịch trên địa bàn. Tăng cường kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện các dự án đầu tư
du lịch theo đúng quy hoạch được phê duyệt.
3.2.2. Phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực quản lý Nhà nước về du lịch văn hóa
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dạy “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc,
muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém...”. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ, đội ngũ hướng
dẫn viên đủ về số lượng có trình độ, yêu nghề, yêu quê hương, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của khách tham quan là hết sức quan trọng. Chính vì vậy, Định Hóa
cần rà soát lại trình độ quản lý của các cán bộ lao động trong các cơ quan quản lý
Nhà nước về du lịch để từ đó có cơ sở lập kế hoạch đào tạo mới và đào tạo lại cho
phù hợp với nhu cầu quản lý hiện tại. Dành nguồn tài chính thỏa đáng để đào tạo
nhân viên, mời các chuyên gia cao cấp để tư vấn cho các cấp lãnh đạo những ngành
nghề có liên quan về vấn đề đầu tư, tuyên truyền quảng bá trong lĩnh vực du lịch
văn hóa. Từng bước xây dựng đội ngũ các nhà quản lý, các doanh nghiệp năng động
và sáng tạo có đủ năng lực để điều hành các hoạt động kinh doanh du lịch theo cơ
chế thị trường. Cử các cán bộ chủ chốt học tập và trao đổi kinh nghiệm, nghiên cứu
các mô hình hoạt động du lịch văn hóa thành công ở các địa phương trong nước.
Tham gia các hội thảo chuyên đề về du lịch văn hóa để từ đó rút ra được những ứng
dụng thiết thực cho địa phương mình.

95
Triển khai kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ cho cán bộ
công nhân viên. Từng bước đào tạo đội ngũ nhân viên tinh thông về nghiệp vụ để
phục vụ ngày càng tốt hơn. Đặc biệt là trang bị những kiến thức ban đầu cho họ nhất
là đối với các hướng dẫn viên du lịch, sẽ kém hấp dẫn khi hướng dẫn viên ít hiểu biết
về phong tục tập quán, về nếp sống truyền thống và các giá trị văn hóa của dân tộc.
Bên cạnh đó, cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho đội ngũ hướng dẫn viên, vì đây là
nghề đặc thù, đòi hỏi những những người hướng dẫn khách trước hết phải có sức
khỏe tốt và phải có kiến thức tổng hợp về lịch sử, địa lý, văn hóa, khoa học quân sự,
có năng khiếu và phương pháp sự phạm. Hiện nay, chế độ tiền lương, cùng với chế
độ đãi ngộ theo quy định của nhà nước cũng rất thấp, chưa đảm bảo được cuộc sống,
thu hút và giữ chân được những cán bộ, nhân viên có trình độ năng lực. Nên chăng,
chúng ta dần tính đến việc thu phần lệ phí (Phần lớn các di tích, danh thắng hiện nay
đều có thu lệ phí tham quan) để hỗ trợ thêm các chi phí cho các hoạt động của Khu di
tích và cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên.
Nguồn nhân lực trong các cơ sở kinh doanh du lịch
Xây dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực trong các cơ sở kinh doanh du
lịch. Có kế hoạch sử dụng lâu dài và hợp lý, đúng người đúng việc đối với lao động
đã qua đào tạo chuyên môn. Tạo môi trường làm việc lành mạnh và chất lượng cho
người lao động. Xây dựng kỷ luật, chế độ thưởng/phạt và nội quy lao động rõ ràng
trong doanh nghiệp. Khuyến khích người lao động sáng tạo và ưu đãi những sáng
kiến thiết thực của người lao động. Đối với hướng dẫn viên, thuyết minh viên, tài xế
và bộ phận lễ tân cần khuyến khích thường xuyên cập nhật thông tin, trau dồi trình
độ chuyên môn và ngoại ngữ. Tăng cường mở các lớp tập huấn để ôn lại kiến thức
chuyên môn, văn hóa ứng xử, kỹ năng giao tiếp và khả năng nhạy bén trong việc xử
lý các tình huống thường xuyên xảy ra trong công việc.
Tuyển các cộng tác viên bán tour trong mùa du lịch, nhận thực tập viên vào
các điểm du lịch huyện để thúc đẩy thêm doanh thu từ những tour đặt hàng, quảng
bá du lịch văn hóa huyện. Nếu có đoàn khách đặt tour cần phải chuẩn bị tiếp đón
chu đáo, gây ấn tượng tốt cho du khách. Việc tuyển dụng mới đội ngũ nhân viên
nghiệp vụ yêu cầu phải qua các trường đào tạo nghiệp vụ du lịch, trước khi tuyển
dụng cần có các cuộc phỏng vấn và kiểm tra kiến thức ở các mức độ phù hợp với vị
trí công tác. Đối với các khu du lịch như ATK phải có nhà quản lý giỏi để điều

96
hành, hướng dẫn viên cần phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ. Cần có những
cuộc sát hạch chuyên môn thường xuyên đối với toàn bộ đội ngũ nhân lực.
Nguồn nhân lực trong cộng đồng địa phương
Tổ chức các lớp tuyên truyền về tầm quan trọng của du lịch văn hóa đối với
địa phương, hướng dẫn quy trình làm du lịch cho cộng đồng. Khuyến cáo người dân
địa phương giữ gìn nguồn tài nguyên và môi trường sinh thái cho địa phương. Xã
hội hóa công tác giáo dục, nâng cao nhận thức về du lịch cho nhân dân địa phương
và khách du lịch hỗ trợ giáo dục cho những người dân tộc trực tiếp tham gia các
hoạt động du lịch. Mở các lớp dạy nghề cho người lao động ở các làng nghề thủ
công mỹ nghệ truyền thống. Bồi dưỡng và nâng cao tay nghề để khuyến khích
người lao động tạo ra những sản phẩm có chất lượng phục vụ du lịch và phát triển
đời sống kinh tế hộ gia đình. Đồng thời, chú trọng tập huấn nghiệp vụ cho đối tượng
hướng dẫn viên là người địa phương tại các làng nghề bởi họ sẽ vừa là hướng dẫn
viên vừa là người hướng dẫn du khách trải nghiệm các công đoạn sản xuất cũng như
thưởng lãm sản phẩm của làng nghề. Mở các chương trình học dành cho ban quản
lý địa phương, cộng đồng người dân đi học tập một số mô hình làm du lịch thành
công như Bản Lác, Kim Bôi, Nghĩa Lộ… từ những kinh nghiệm học tập trong
chuyến đi Định Hóa sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm áp dụng cho từng địa
phương, tránh những hạn chế của mô hình du lịch văn hóa các nơi khác mắc phải từ
đó hình thành sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo riêng biệt.
Chú trọng đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ cho hướng dẫn viên tại điểm,
và hướng dẫn viên là người địa phương. Có thể bồi dưỡng tại chỗ bằng cách mở các
lớp học thường xuyên tại địa phương, cơ quan hay gửi đi học để họ có cơ hội học
hỏi lẫn nhau và có môi trường rèn luyện. Thực hiện một xóm, một bản có một
người được tham gia để có thể truyền lại cho những người khác trong bản. Đây là
biện pháp vừa thu hút và tạo điều kiện cho cộng đồng tham gia hoạt động du lịch
ngày một nhiều hơn và hiệu quả hơn, nó còn là biện pháp phát triển bền vững cho
du lịch văn hóa để thu hút khách du lịch.
3.2.3. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch và phát triển sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù
3.2.3.1. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch
Đa dạng hóa sản phẩm du lịch là một trong những giải pháp quan trọng nhất để
thu hút khách du lịch. Nhìn chung sản phẩm du lịch của huyện còn đơn điệu chưa khai

97
thác được hết các giá trị văn hóa, lễ hội, làng nghề truyền thống tạo thành những sản
phẩm du lịch đặc sắc… Cả một khu di tích lịch sử rộng lớn như vậy nhưng rất ít dịch
vụ bổ sung (vui chơi giải trí, tắm lá thuốc, câu cá, thể thao…) bởi vậy không giữ được
khách lưu trú dài ngày. Vấn đề cần quan tâm là phát triển thêm nhiều loại hình du lịch
đặc trưng của địa phương, tạo thành những tour liên kết nhiều vùng, nhiều sắc thái
khác nhau tạo ra sự mới lạ và thích thú cho du khách có như vậy mới giữ khách lâu
ngày và đón khách quay lại. Nghiên cứu kỹ sở thích, khả năng chi tiêu của từng tập
khách du lịch để xây dựng và bố trí các tour thích hợp và sáng tạo những sản phẩm đặc
trưng đáp ứng sở thích của du khách và tăng nguồn thu cho hoạt động dịch vụ du lịch.
Tính thời vụ trong du lịch văn hóa phụ thuộc vào đặc điểm của sản phẩm du
lịch văn hóa. Chính vụ của du lịch văn hóa thường bắt đầu từ mùa xuân cho đến đầu
mùa hạ, nó gắn liền với du lịch lễ hội là loại hình mang tính mùa vụ điển hình. Vấn
đề không chỉ là ở chỗ mở mang xây dựng thêm các sản phẩm dịch vụ cho du khách
trong những lúc chính vụ mà còn phải xây dựng các chương trình du lịch để các địa
phương vẫn có thể thu hút được du khách trong thời gian không chính vụ. Thông
thường các lễ hội truyền thống được diễn ra vào mùa xuân. Nếu mở rộng khai thác
tốt sẽ làm kéo dài thời gian chính vụ của ngành du lịch trong năm. Tăng cường xây
dựng các chương trình tham quan giải trí vào thời gian không chính vụ để nâng cao
số lượng khách trong thời gian này. Tuy nhiên, việc tổ chức xây dựng ấy không
phải là đơn giản bởi nó còn ảnh hưởng đến thói quen tiêu dùng du lịch của du
khách. Do vậy, như trên đã nói đây là một việc làm mang tính chiến lược lâu dài,
trước tiên là phải xây dựng các chương trình du lịch mới một cách tỉ mỉ có sức hấp
dẫn về nội dung, có ưu đãi về giá cả, như vậy tức là đã dần dần tạo cho du khách
một thói quen mới, một ý tưởng mới. Một biện pháp khác để đa dạng hóa sản phẩm
du lịch văn hóa là trong cùng một thời điểm có thể khai thác nhiều loại hình du lịch
khác nhau như du lịch lễ hội; tham quan tìm hiểu về lịch sử, kiến trúc, văn hóa; du
lịch nghiên cứu về di tích, hoặc du lịch sinh thái.
3.2.3.2. Đầu tư phát triển sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù
Trước hết cần xác định sản phẩm du lịch đặc thù là sản phẩm có nét đặc
trưng riêng biệt của Định Hóa, đó chính là du lịch hoài niệm dựa trên hệ thống di
tích lịch sử cách mạng nằm trọn trong lòng núi rừng Định Hóa. Ngoài ra còn có các
sản phẩm du lịch khác như:

98
- Du lịch tham quan tìm hiểu di tích lịch sử
- Du lịch văn hóa lễ hội, sự kiện
- Du lịch thưởng thức nghệ thuật truyền thống
- Du lịch bản làng dân tộc
- Du lịch làng nghề
- Du lịch ẩm thực
- Du lịch về nguồn cách mạng kết hợp sinh hoạt lửa trại
Nhưng hiện nay, thực tế ở Định Hóa hầu như chỉ chú trọng vào khai thác sản
phẩm du lịch tham quan di tích lịch sử, tức là còn rất nhiều di sản khác chưa được
quan tâm một cách đúng mức để phục vụ phát triển du lịch của địa phương. Hình
thức du lịch hoài niệm thăm chiến khu xưa đã có nhưng chưa phong phú và kém
chất lượng, có một thực tễ của sản phẩm du lịch này là nghèo nàn, tẻ nhạt. Do đó,
cần bổ sung, chỉnh lý lại sao cho du lịch hoài niệm của Định Hóa sẽ không lẫn với
bất kỳ một sản phẩm tương tự nào (lấy Du lịch ký ức của Điện Biện làm ví dụ). Vì
vậy, cần xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa ở Định Hóa theo đặc tính tài nguyên
du lịch của huyện (thế mạnh là di tích lịch sử cách mạng) kết hợp với những nét văn
hóa đặc sắc của cộng đồng bản địa. Tuy nhiên, cần phát huy một cách đúng đắn các
di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Định Hóa (đặc biệt là người
Tày) để sản phẩm du lịch văn hóa của vùng đất này mang những đặc điểm riêng biệt
so với sản phẩm cùng loại ở địa phương khác.
Xây dựng các tour du lịch kết hợp với các làng bản của người dân tộc, nhằm
quảng cáo giới thiệu những nét văn hóa truyền thống trong những phong tục tập quán,
kiến trúc nhà cửa, ăn mặc của người dân nơi đây cũng như làm phong phú và hấp dẫn
thêm cho chuyến đi của du khách. Tăng cường xây dựng các tour du lịch văn hóa đưa
khách đến với các làng nghề, bản làng vùng sâu vùng xa kinh tế còn khó khăn, cảnh vật
hoang sơ cho khách du lịch tham gia vào các công việc sinh hoạt hàng ngày của cộng
đồng địa phương đặc biệt tổ chức các cơ sở lưu trú tại nhà ở của người dân để giữ chân
du khách ở lại để tăng thêm thu nhập cho người dân bằng việc bán dịch vụ du lịch, có
cơ hội quảng cáo văn hóa, nét đẹp sinh hoạt, sản xuất… của cư dân tại đó.
Định Hóa với cảnh vật vẫn còn hoang sơ, chưa chịu nhiều tác động từ con
người, với sự tập trung của 9 dân tộc khác nhau tất cả tạo nên một bức tranh muôn
màu về cuộc sống nơi đây. Vì vậy, Định Hóa là nơi lý tưởng cho những ai muốn trải

99
nghiệm cuộc sống. Đến đây du khách sẽ được tham gia sản xuất, tìm hiểu nguồn gốc
và ý nghĩa các sự tích gắn với văn hóa làng nghề, cùng tham gia hoạt động sản xuất,
hay tự tay nấu những món ăn truyền thống hoặc có thể được người dân dẫn đường lên
núi chọn nguyên liệu, được tự tay làm ra các sản phẩm mang về tặng người thân, đặc
biệt du khách sẽ được trải nghiệm cuộc sống thường ngày của các dân tộc như cùng
nấu những món ăn của đồng bào, cùng đi cấy lúa, gặt lúa, thu ngô, hay hái chè…tất
cả sẽ làm cho du khách thật sự hài lòng về những gì trong chuyến đi.
Thiết kế tour đến làng nghề rối que Thẩm Rộc (xã Bình Yên) (2 ngày 1 đêm)
Ngày Thời gian và địa điểm tham gia
Thái Nguyên – ATK Định Hóa – Thẩm Rộc
5h00: Xe và hướng dẫn viên Công ty du lịch đón đoàn tại điểm hẹn đi Thẩm Rộc
8h30: Quý khách tới ATK Định Hóa tại đây đoàn đi thăm khu du tích lịch sử ATK
(nơi làm việc của Hồ Chủ tịch và các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước từ năm
1947 đến năm 1954 là đại bản doanh Thủ Đô của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp. Du khách thăm nhà Trưng Bày, đồi Tỉn Keo, nhà tưởng niệm, di tích
Ngày 1 Khuôn Tát). Hướng dẫn viên chính là người dân địa phương.
11h30: Quý khách ăn trưa tại nhà khách của ATK và nghỉ tại nhà khách.
13h00: Xe đón quý khách đi Thẩm Rộc
14h30: Quý khách tới Thẩm Rộc, quý khách cất đồ và nghỉ tại một nhà dân trong
bản. Sau đó quý khách tự do đi tham quan bản.
17h30: Quý khách ăn tối tại nhà dân. Tại đây quý khách sẽ đươc thưởng thức các
món ăn truyền thống của người dân nơi đây như: Khẩu nhục, xôi ngũ sắc, măng
rừng, nem chua trong ống nứa, nộm hoa chuối.
18h30: Quý khách tham gia giao lưu văn nghệ tại bản, xem biểu diễn múa rối cạn
do đoàn múa rối của bản biểu diễn, nghe các làn điệu mượt mà như Lượn, Then…
7h00: Quý khách ăn sáng
7h30: Hướng dẫn viên tại bản sẽ dẫn quý khách đi tìm hiểu về nguồn gốc của
nghệ thuật múa rối cạn, các nghệ nhân múa rối tại bản. Đặc biệt hơn quý khách
Ngày 2 còn được trải nghiệm vào việc làm các con rối cạn, được hướng dẫn biểu diễn rối
cạn. Ngoài ra quý khách có thể mua đồ lưu niệm tại đây.
11h30: Quý khách ăn trưa
13h30: Xe đón quý khách trở về Hà Nội, trên đường về quý khách dừng chân tại
làng nghề bánh chưng Bờ Đậu và mua quà lưu niệm tại đây.
Đến Hà Nội HDV chia tay đoàn. Kết thúc chuyến đi và hẹn gặp lại.

Thiết kế tour du lịch trải nghiệm đến làng Bầng (xã Đồng Thịnh)
Ngày Thời gian và địa điểm tham quan
Thái Nguyên – Làng Bầng
- 7h00: Xe cùng hướng dẫn viên Công ty du lịch đón đoàn tại điểm hẹn đi Làng
Bầng
- 8h00: Quý khách tới Làng Bầng, sẽ nghỉ tại một nhà dân ngay trong bản.
- 8h30: Quý khách sẽ được người dân tại bản dẫn đi tham quan vòng quanh bản.
- 11h30: Quý khách quay trở lại nhà và ăn trưa. Quý khách sẽ được thưởng thức
những đặc sản địa phương.
- 13h00: Xe đón đoàn đi thăm khu du tích lịch sử ATK (nơi làm việc của Hồ Chủ

100
Ngày 1 tịch và các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước từ năm 1947 đến năm 1954 là đại
bản doanh Thủ Đô của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Du khách thăm nhà
Trưng Bày, đồi Tỉn Keo, nhà tưởng niệm, di tích Khuôn Tát). Hướng dẫn viên
chính là người dân địa phương.
- 16h30: Quý khách trở lại gia đình và tham gia vào việc chuẩn bị nguyên liệu chế
biến những món cho bữa tối của mình như: Khâu nhục, xôi ngũ sắc, măng rừng,
nem chua trong ống nứa, nộm hoa chuối...
- 18h00: Quý khách ăn tối tại gia đình. Buổi tối quý khách tham gia chương trình
giao lưu văn nghệ, đốt lửa trại, nghe các làn điệu mượt mà như Lượn, Then…
7h00: Quý khách ăn sáng tại gia đình
8h00: Quý khách đực chủ nhà đưa tới một nhà làm thủ công bằng cọ truyền thống,
được các nghệ nhân giới thiệu về nguồn gốc, cách chọn nguyên liệu, cách làm một
Ngày 2 số loại sản phẩm từ cọ như: mành cọ, chiếu cọ, quạt cọ, giỏ hoa quả, nón... Tham
gia vào quá trình làm một số sản phẩm trên. Mua quà lưu niệm.
11h30 : Quý khách ăn trưa,
13h00: Chuẩn bị hành lí cùng người địa phương dẫn đường lên rừng lấy cọ về làm
các đồ thủ công.
16h30: Về tới bản, nghỉ ngơi và chuẩn bị cho bữa tối
17h00: Du khách tự chuẩn bị bữa tối với sự giúp đỡ, chỉ giúp của chủ nhà
sáng hôm sau khởi hành về.
18h30: Du khách ăn tối cùng gia chủ.
Ngày 3 7h00: Khách ăn sáng chuẩn bị khởi hành ra về
8h30: Xe của công ty sẽ đón du khách (đưa khách vào làng nghề bánh chưng mua
quà)
9h30: Về đến bến xe Thái Nguyên

3.2.4. Nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch văn hóa hiện có
3.2.4.1. Chỉnh lý, nâng cao Nhà trưng bày ATK Định Hóa
Giá trị của các di tích ở ATK Định Hóa hiện nay, ngoài gắn với hoạt động của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính Phủ, thì còn chứa đựng nhiều giá trị về
lịch sử quân sự, nhiều di tích gắn với những hoạt động của các cơ quan Bộ Quốc phòng
của Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh, Tổng cục Chính trị, Tổng cục cung cấp, Nha thông
tin tuyên truyền, Cục cơ yếu, Cục quân huấn, Báo quân đội, Nhà máy in, Cục quân khí,
Cục quân giới, Các xưởng quân giới, nơi hợp nhất Việt Nam Giải Phóng Quân, địa điểm
phong quân hàm cấp tướng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam,… chưa được quan
tâm đúng mức cả về đầu tư kinh phí và phát huy giá trị của nó.
Khách tham quan đến ATK Định Hóa họ không chỉ mong muốn được tìm
hiểu, giới thiệu về những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ gắn với di tích, mà một vấn đề không kém
phần quan trọng đó là hoạt động của các cơ quan quân đội ở ATK như thế nào,
những sự kiện quan trọng của quân đội diễn biến ra sao. Trong khi thời gian hạn
hẹp không đủ để khách đi tham quan hết được những điểm di tích đó và ở các điểm
101
di tích cũng không có gì hấp dẫn họ ngoài những tấm bia, biển ghi dấu địa điểm, sự
kiện. Vậy khách tham quan muốn nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề đó ở đâu?
Hiện nay, chúng ta đã có Bảo tàng ATK, song số lượng tài liệu hiện vật còn
hạn chế, diện tích trưng bày còn chật hẹp, nội dung trưng bày đơn điệu, chưa thật sự
hấp dẫn, thuyết phục người xem, chưa phản ánh được đầy đủ những thông tin về
ATK trong thời kỳ kháng chiến xưa và nay, nhất là những hoạt động của các cơ
quan của quân đội. Còn tại các bảo tàng lớn như Bảo tàng LSQSVN, Bảo tàng lực
lượng vũ trang Việt Bắc Quân khu 1, Bảo tàng tỉnh Thái Nguyên trưng bày về
những nội dung này cũng rất khái quát chưa phản ánh được đầy đủ các hoạt động
của các cơ quan quân đội trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp ở ATK.
Từ những yêu cầu trên, Định Hóa cần phải chỉnh lý nâng cấp Nhà trưng bày
ATK Định Hóa thành Bảo tàng ATK Định Hóa với một diện tích trưng bày và
không gian đủ lớn để Bảo tàng ATK Định Hóa sẽ là một trung tâm văn hóa, khoa
học và giải trí đáp ứng được những những điều kiện về thời gian, nhu cầu nghiên
cứu tìm hiểu của du khách. Đây sẽ là “trung tâm thông tin” phản ánh đầy đủ về địa
lý, thiên nhiên, con người, văn hóa của ATK Định Hóa; về lịch sử đấu tranh cách
mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Định Hóa; về những hoạt động của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ, các cơ quan dân, chính, đảng
và quân đội đã ở và làm việc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
3.2.4.2. Đầu tư sâu hơn cho sản phẩm du lịch bản làng dân tộc
Tại các xã ở Định Hóa làng nghề vẫn được duy trì. Tạo điều kiện cho du
khách đi du lịch thăm các làng nghề. Không những vậy, đến với xã Bình Yên và cụ
thể đó là bản Thẩm Rộc có nghề làm rối que rất nổi tiếng được khôi phục và phát
triển từ năm 1999, khách du lịch tới đây sẽ được tham quan kiến trúc nhà sàn của
người Tày, phong tục tập quán người Tày đặc biệt hơn là được các nghệ nhân múa
rối ở đây nói về nguồn gốc làng nghề, cách chọn nguyên vật liệu, dạy cho cách chế
tác con rối. Du khách sẽ thích thú mua con rối về làm kỉ niệm điều này làm tăng thu
nhập cho người dân nhờ vào việc bán sản phẩm và biểu diễn múa rối. Ngoài địa
điểm nêu trên ở Định Hóa còn biết đến bởi các sản phẩm như rượu ngô, rượu men
lá, chè ngon… được nhiều người biết đến và ưa chuộng như xã Điềm Mặc có làng
chè truyền thống, làng Bầng xã Đồng Thịnh có làng thủ công làm từ cọ, xã Phú
Tiến có làng nghề nuôi ong lấy mật…

102
Tăng cường phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên
tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư khôi phục không gian văn hóa vật
thể, phi vật thể, phấn đấu đưa bản Quyên trở thành mô hình điểm về xây dựng làng
Văn hóa-Du lịch và là điểm đến cho khách tham quan, học tập và du lịch. Tuyên
truyền sâu rộng trong nhân dân về việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa nhà sàn,
văn hóa ẩm thực, văn nghệ dân gian, văn hóa giao tiếp, tiếng nói, phong tục tập
quán… Tổ chức hỗ trờ hướng dẫn cách thức làm du lịch, hỗ trợ kinh phí và xã hội
hóa các lĩnh vực để có thể nhân rộng mô hình làng Văn hóa-Du lịch bản Quyên trên
địa bàn toàn huyện nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung.
Tổ chức tập huấn, hướng dẫn các hộ dân trong làng về nghệ thuật giao tiếp, nghệ
thuật tiếp thị du lịch, tâm lí và tập quán du khách, về sản xuất/chế biến các sản phẩm
truyền thống, của dân tộc phục vụ khách du lịch. Hàng năm, tổ chức cho các hộ gia đình
ở bản Quyên đi tham quan, học tập kinh nghiệm về xây dựng làng Văn hóa-Du lịch ở
một số địa phương khác trong và ngoài tỉnh (như Tân Cương-Thái Nguyên, Bản Lác-
Hòa Bình, Cát Cát-Lao Cai…). Khuyến khích người dân chế biến các món ăn truyền
thống trong dịp lễ/tết. Một số món bánh và món ăn đưa ra thị trường để giới thiệu và bán
sản phẩm, tăng thu nhập cho người dân. Tổ chức các cuộc thi về văn hóa giao tiếp, văn
hóa mặc, văn hóa ẩm thực để từ đó có thể nhân rộng điển hình trên toàn bản.
3.2.4.3. Khai thác và phát huy thế mạnh về văn hóa ẩm thực
Khai thác văn hóa ẩm thực của các dân tộc trong huyện để làm điểm nhấn
trong tour du lịch, nhằm góp phần nâng cao các giá trị văn hóa trong du lịch Định
Hóa. Đó chính là cách chế biến món ăn của người Tày, người Nùng, người Cao
Lan… như món khâu nhục, cơm lam, xôi ngũ sắc, nem chua trong ống nứa, nộm
hoa chuối, trâu khô, thịt lợn gác bếp, cọ ỏm, bánh coóc-mò, muồm muồm chiên
giòn, gà nướng mật ong, sâu cọ… Đến Định Hóa, nếu chưa tìm hiểu và thưởng thức
những món ẩm thực này thì xem như chuyến du ngoạn của du khách chưa trọn vẹn.
Những món ăn dân giã của người dân vùng ATK tuy giản dị nhưng hương
sắc, mùi vị lại rất tuyệt vời. Điều này đã góp phần làm nên sức hấp dẫn cho du lịch
Định Hóa. Chính vì vậy, ngành du lịch Định Hóa cần có chiến dịch bảo tồn nghệ
thuật chế biến các món ăn truyền thống, tuyên truyền về giá trị của văn hóa ẩm thực
địa phương không chỉ cho du khách mà còn cho chính cộng đồng bản địa để đồng
bào nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy nét đẹp trong tập

103
quán ăn uống của quê hương mình. Đồng thời, có giải pháp hợp lý để bảo toàn số
lượng và chất lượng nguồn nguyên liệu truyền thông dành cho du lịch ẩm thực,
nhằm phục vụ một cách đầy đủ và tốt nhất nhu cầu ăn uống của du khách. Tuyên
truyền và giám sát công tác vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm bảo vệ sức khỏe cho
du khách. Tận dụng việc tham gia các Hội chợ Thương mại – Du lịch để giới thiệu
văn hóa ẩm thực của Định Hóa đến với du khách trong và ngoài nước.
3.2.4.4. Phát huy giá trị lễ hội, nghệ thuật dân gian trong du lịch
Việc tổ chức lễ hội Lồng tồng hàng năm tất nhiên sẽ là cơ hội thu hút khách du
lịch đến với Định Hóa. Tuy nhiên, để tránh sự nhàm chán và đảm bảo sự vẹn toàn của
không gian tâm linh tín ngưỡng truyền thống thì du lịch Định Hóa cần nghiên cứu
những sản phẩm du lịch mới từ lễ hội Lồng tồng. Lễ hội là không gian cộng cảm,
cộng mệnh của cộng đồng địa phương nhưng cũng là giá trị văn hóa thôi thúc khách
du lịch đến tham quan, tìm hiểu. Vì vậy, cần tận dụng thời gian diễn ra lễ hội để tuyên
truyền, quảng bá văn hóa các đồng bào dân tộc trong huyện cũng như những điểm
đến, sản phẩm và dịch vụ du lịch của Định Hóa đến với du khách. Đồng thời tăng
cường lực lượng an ninh nhằm đảm bảo an toàn cho khách du lịch tham dự lễ hội.
Cứ 2 năm 1 lần, Định Hóa lại là lựa chọn của ngành du lịch Thái Nguyên khi tổ
chức một số hoạt động quan trọng trong khuôn khổ Festival Trà Quốc tế. Để sản phẩm
du lịch di sản này đạt chất lượng cao hơn và hướng tới sự bền vững thì Định Hóa cần
triển khai đồng bộ những hành động cụ thể nhằm vào việc làm mới và tăng cường chất
lượng sản phẩm du lịch di sản. Có thể tổ chức trình diễn hát Then dưới nhiều hình thức
(truyền thống, đặt lời mới…), trong nhiều không gian (trong nhà, ngoài trời, trên sân
khấu…). Nghiên cứu biểu diễn Rối cạn với nhiều suất diễn trong một ngày, ngoài các
trò truyền thống, có thể nghiên cứu để biến tấu thêm một số nội dung biểu diễn cho
thêm đa dạng phong phú nhưng vẫn phải đảm bảo tính truyền thống.
3.2.5. Xây dựng điểm nhấn thu hút
Học hỏi kinh nghiệm xây dựng điểm nhấn thu hút từ thành phố Điện Biên
Phủ. Với những tiền đề sẵn có về tài nguyên du lịch văn hóa, về vị thế “quốc gia
đặc biệt” của Khu di tích ATK Định Hóa, về sự hỗ trợ thuận lợi của Tỉnh/huyện
cùng các cơ quan ban ngành có liên quan, du lịch văn hóa Định Hóa có nhiều điều
kiện để có thể xây dựng điểm nhấn thu hút. Vì nếu đầu tư dàn trải với tất cả 128 di
tích và danh thắng thì du lịch văn hóa Định Hóa sẽ khó có thể đột phá vươn lên. Vì

104
vậy nên nghiên cứu lựa chọn điểm/cụm điểm di tích/danh thắng để tập trung chú
trọng vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật tạo nên điểm
nhấn thu hút khách du lịch. Với đặc điểm tài nguyên du lịch văn hóa hiện tại của địa
phương, có thể chọn Khu di tích lịch sử - sinh thái ATK làm trọng tâm trong chiến
thuật tạo điểm nhấn thu hút.
3.2.6. Liên kết với các điểm du lịch phụ cận
Ngày 03/05/200, Thủ tưởng chính phủ đã ra quyết định số 679/QĐ-TTg về việc
phê duyệt nhiệm vụ “Quy hoạch xây dựng vùng chiến khu cách mạng ATK liên tỉnh
Thái Nguyên, Tuyên Quang và Bắc Kạn đến năm 2030”. Vì vậy, Thái Nguyên nói
chung và Định Hóa nói riêng phải đầu tư tôn tạo ưu tiên cho các di tích nằm trong cụm,
tuyến di tích chung, hệ thống di tích theo lộ trình Thái Nguyên-Tuyên Quang-Bắc Kạn.
Tuyến giao thông liên tỉnh ATK Định Hóa đi Tân Trào (Sơn Dương-Tuyên Quang) và
ATK Định Hoá đi Chợ Đồn (Bắc Kạn) cần hoàn thành đúng tiến độ với chất lượng tốt
để mở ra nhiều triển vọng mới trong phát triển du lịch của 3 địa phương liền kề. Đồng
thời, cùng với việc phát triển hệ thống giao thông, Định Hóa cũng tỉnh chủ trương xây
dựng các tuyến du lịch về nguồn cách mạng kết hợp du lịch sinh thái liên kết 3 tỉnh với
những điểm dừng chân nhu ATK Định Hóa, ATK Tân Trào, ATK Bắc Kạn, hồ Núi
Cốc, hồ Na Hang, hồ Ba Bể, vườn quốc gia Ba Bể…
Trong khuôn khổ Chương trình du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc”
lần thứ VI (diễn ra từ 18 - 20/11/2014), do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối
hợp với UBND tỉnh Thái Nguyên tổ chức, đã thu hút đông đảo du khách trong và
ngoài nước. Đây là một hoạt động xúc tiến nhằm liên kết các di sản văn hóa vùng
Việt Bắc để cùng phát triển du lịch, đặc biệt là với Thái Nguyên, trung tâm vùng
Việt Bắc. Tuy nhiên, để thực hiện có hiệu quả công việc này thì Định Hóa nói riêng
và Thái Nguyên nói chung cần tập trung vào một số giải pháp cụ thể sau:
- Chủ động xây dựng các chương trình phối hợp phát triển du lịch với các
tỉnh, thành như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Cao
Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn...
- Xây dựng nhiều tour liên kết giữa Thái Nguyên với các tỉnh như: Thái
Nguyên - Thiền viện Trúc Lâm - Chùa Tây Thiên (Vĩnh Phúc); Thái Nguyên -
Động Tam Thanh, Nhị Thanh, cửa khẩu Hữu Nghị Quan (Lạng Sơn); Thái Nguyên
- hồ Ba Bể (Bắc Kạn) - Pác Bó, thác Bản Giốc (Cao Bằng); ATK Định Hóa (Thái

105
Nguyên) - Khu di tích lịch sử Tân Trào, suối khoáng Mỹ Lâm (Tuyên Quang) -
Đồng Văn, Lũng Cú (Hà Giang)...
- Mở các tour du lịch mới gắn kết các điểm du lịch nổi tiếng trong vùng gồm:
Hồ Núi Cốc, Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa, Bảo tàng văn hóa
các dân tộc Việt Nam (Thái Nguyên), Khu di tích Yên Thế, chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc
Giang), di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc (Hải Dương), danh thắng Yên Tử, vịnh Hà
Long (Quảng Ninh)…
- Có kế hoạch liên kết hiệu quả giữa các tỉnh trong việc tăng cường, quảng bá
sản phẩm du lịch; xuất bản các ấn phẩm về du lịch, giới thiệu về điểm đến, nghiên
cứu xây dựng chương trình du lịch mới, tổ chức các cuộc giao lưu, nhằm gặp gỡ,
trao đổi với các đối tác, hoàn thiện chương trình tour hoặc nối kết tour giữa các
doanh nghiệp... để cùng đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu khách
du lịch trong nước và quốc tế.
3.2.7. Tổ chức, quản lý hoạt động du lịch văn hóa
Đối với cơ quan quản lý cần rà soát, đánh giá một cách khoa học nguồn tài
nguyên du lịch nhân văn, tiến hành điều chỉnh quy hoạch tổng thể cho phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội của huyện và toàn ngành, làm cơ sở cho việc lập các quy
hoạch chi tiết và các dự án phát triển. Đồng thời tổ chức triển khai thực hiện và chỉ
đạo thực hiện các dự án đầu tư phát triển du lịch văn hóa đã được phê duyệt một
cách hiệu quả. Có chính sách phát triển các ngành kinh tế du lịch một cách hợp lý
phải lựa chọn và xác định cơ cấu kinh tế hợp lý. Thực hiện tốt chức năng tham mưu
cho UBND huyện xây dựng các cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, quy chế
quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên du lịch và quy chế quản lý các khu du lịch đã
được đầu tư và xây dựng, thẩm định các dự án phát triển của ngành.
Tăng cường công tác kiểm tra các hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn,
hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế vào đầu tư kinh
doanh, tổ chức sản xuất kinh doanh du lịch. Tổ chức bồi dưỡng nguồn nhân lực cho
toàn ngành từng bước triển khai thực hiện tiêu chuẩn hóa lực lượng lao động. Phối
hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp trong huyện như: Ngành Văn hóa-thông tin,
giao thông vận tải, bưu điện và các ngành liên quan phối hợp đầu tư các dự án ở các
điểm, khu du lịch văn hóa và phối hợp với địa phương có các điểm du lịch văn hóa

106
nằm trong quy hoạch phát triển làm tốt công tác bảo vệ tài nguyên du lịch đã được
quy hoạch mà chưa có điều kiện khai thác.
Xây dựng đội quản lý các khu du lịch, các di tích lịch sử trong huyện để
thường xuyên kiểm tra đánh giá mức độ phát triển hay xuống cấp của nó. Đưa ra
các bài toán, các biện pháp cũng như sự can thiệp tốt nhất cho các di tích, điểm du
lịch tránh can thiệp thô bạo vào các di tích lịch sử, di tích lịch sử cách mạng,…
Huyện cần tăng cường mối quan hệ với các huyện khác trong tỉnh, tạo ra không
gian du lịch rộng lớn, thiết lập các tour du lịch liên huyện, liên tỉnh đưa sản phẩm
du lịch huyện sớm hòa nhập với du lịch cả nước.
Mỗi năm khu di tích Lịch sử - Sinh thái ATK Định Hóa đón từ 5 đến 7 vạn lượt
khách tham quan, công tác đảm bảo vệ sinh môi trường và xử lý rác thải cũng là một vấn
đề gặp rất nhiều khó khăn, số lượng trang thiết bị còn hạn chế, chưa có mô hình thu gom
và xử lý rác thải đồng bộ ảnh hưởng đến môi trường tham quan du lịch và chất lượng
phục vụ khách, vì vậy công tác bảo vệ, vệ sinh tại khu di tích là việc làm rất cần thiết đòi
hỏi có sự quan tâm, đầu tư kinh phí, trang thiết bị của các cấp, các ngành để đảm bảo cho
khu di tích lịch sử và hệ sinh thái ATK Định Hóa luôn xanh – sạch - đẹp.
Tập trung thực hiện nội dung “Nâng cao vai trò và trách nhiệm của chính quyền
địa phương trong việc đảm bảo môi trường, văn minh du lịch, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội tại các khu, điểm du lịch” đã được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số
2473/QĐ-TTg ngày 30 tháng 12 năm 2011. Tổ chức triển khai đồng bộ các giải pháp,
tăng cường công tác chỉ đạo, phối hợp liên ngành để kiểm tra, phát hiện và xử lý triệt để
những hành vi cướp giật tài sản, lừa đảo,... Với hành vi như gian lận, tăng giá, chặt chém,
đeo bám, ép khách du lịch thì chính quyền địa phương cần đưa ra quy định kinh doanh
dịch vụ với mức giá thống nhất, thường xuyên kiểm tra nếu phát hiện cơ sở kinh doanh,
hay người dân có những hành vi như trên sẽ xử phạt theo quy định.
Thiết lập đường dây nóng để tiếp nhận, giải quyết và phản hồi thông tin kịp thời
đến cho khách du lịch, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong nhân
dân nhằm xây dựng phong cách ứng xử văn minh, lịch sự, việc giữ gìn, đảm bảo an ninh,
an toàn, vệ sinh môi trường để phát triển du lịch du lịch. Khen thưởng, động viên các tổ
chức, cá nhân có những đóng góp tích cực và hiệu quả trong công tác đảm bảo an ninh,
an toàn, giữ gìn vệ sinh môi trường du lịch trên địa bàn. Ngoài ra cũng cần có những biện

107
pháp xử phạt kèm theo với những đối tượng có hành vi phá hoại môi trường, có những
hành động gây mất trật tự, đánh lộn trên địa bàn.
Thành lập các đội dân quân tại các khu, các điểm du lịch tuần tra vào ban
đêm, để đảm bảo an ninh trật tự tại khu điểm du lịch. Có biện pháp xử lý kịp thời
những trường hợp xấu xảy ra. Công tác tuần tra cần phải có sự tham gia hợp tác của
cả cộng đông trong điểm, khu du lịch. Thành lập các trạm kiểm soát tại các khu các
điểm du lịch, đặc biệt ở mỗi bản phát triển du lịch văn hóa cần có trạm kiểm soát sự
ra vào của khách và người lạ khi vào bản, việc này đảm bảo vai trò giữ trật tự an
ninh, tránh trường hợp xảy ra trộm cắp. Khi phát hiện nghi ngờ những đối tượng
xấu cần phải phân công theo dõi chặt chẽ, đối phó nhanh chóng.
Tuyên truyền nâng cao ý thức của người dân trong việc đảm bảo an ninh, an
toàn xã hội, việc phát triển du lịch văn hóa gắn liền với các giá trị văn hóa của cộng
đồng dân cư, người dân chính là người tiếp xúc trực tiếp với khách. Vì vậy ấn tượng
của khách về du lịch tại điểm ra sao phụ thuộc lớn vào cộng đồng. Tuyên truyền cho
người dân biết sự quan trọng trong việc bảo vệ tài sản của mình cũng như của du
khách, hình thành nét đẹp chung đó là không lấy bất cứ thứ gì của du khách hay
chính là của những người cùng địa phương vì làm được điều này đã là thành công
bước đầu để hấp dẫn du khách đến với địa phương.
3.2.8. Bảo tồn tài nguyên du lịch văn hóa
Bảo vệ và giữ gìn, đồng thời phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
của địa phương giá trị văn hóa của địa phương là một nguồn tài nguyên du lịch nhân
văn quan trọng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa riêng của một điểm du lịch văn
hóa. Chính vì vậy, huyện cần có biện pháp cụ thể hơn trong việc giữ gìn và phát huy
văn hóa truyền thống của huyện.
Xây dựng và tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, viết bài hay thi nấu các món ăn
truyền thống và mang đậm đà bản săc văn hóa địa phương. Qua đó cũng có dịp giới
thiệu đến khách du lịch, đồng thời đây cũng là sự kiện thu hút sự chú ý của du
khách và người dân địa phương. Cấp huyện hàng năm tổ chức Liên hoan Dân ca
dân vũ các dân tộc thiểu số trên địa bàn toàn huyện để củng cố và phát huy vốn văn
nghệ cổ truyền của địa phương. Tổ chức hội thi ẩm thực truyền thống và hội thi
trang phục truyền thống để giữ gìn cũng như quảng bá nét đẹp văn hóa của cộng
đồng các dân tộc Định Hóa.

108
Nghiên cứu, khôi phục lại nét văn hóa truyền thống của người dân trên
huyện: lễ hội, các điêu múa, bài hát, thơ văn… Tăng cường công tác tuyên truyền
cho người dân hiểu được những: tập quán sinh hoạt, văn hóa ứng xử, văn hóa kết
bạn, văn hóa trong sinh hoạt cộng đồng, văn hóa văn nghệ dân gian của các dân tộc
thiểu số, các loại nhạc cụ dân tộc, một số trò chơi truyền thống, các lễ/hội truyền
thống. Từ đó, chính quyền và ngành du lịch địa phương có kế hoạch tuyên truyền,
hướng dẫn, khôi phục, bảo tồn và phát triển những nét văn hóa tinh túy độc đáo và
đặc sắc của từng loại hình văn hóa. Ví dụ như: khuyến khích đồng bào mặc trang
phục dân tộc mình trong những dịp lễ/tết, những sự kiện chính trị, các ngày hội văn
hóa thể thao, trong các sự kiện lớn của địa phương và của tỉnh. Mỗi năm tổ chức mở
từ 05 lớp hát Then, đàn Tính; 05 lớp hát Sli, hát Lượn trở lên cho các xã trong
huyện. Mở rộng mô hình hát Sli, hát Lượn dân tộc Tày-Nùng vùng ATK Định Hóa.
Lựa chọn một số bài hát Then, hát Sli, hát Lượn để đưa vào truyền dạy tại các
trường học thông qua sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt Đoàn/Đội.
Tìm hiểu về các nghề truyền thống của địa phương, đồng thời có biện pháp khôi
phục lại các nghề này vừa bảo tồn, tôn tạo lại những ngành nghề truyền thống của địa
phương bằng cách mở các lớp học nghề mời các nghệ nhân trong làng truyền lại, vừa tạo
cơ hội phát triển kinh tế cho người dân, giải quyết vấn đề việc làm. Đối với những nghề
truyền thống có khả năng tái hoạt động và tạo ra sản phẩm có thể sử dụng trong cuộc
sống và phục vụ cho du khách tham quan như nghề dệt, nghề đan lát… thì biện pháp bảo
tồn là sưu tầm/ghi chép/quay phim tư liệu những kinh nghiệm của người cao tuổi hiện
còn sống. Đồng thời, huyện phải có những hoạt động nhằm truyền dạy nghề từ nghệ
nhận cao tuổi cho các thế hệ sau, tiếp đó phục dựng lại không gian hoạt động truyền
thống đưa các sản phẩm đó nhân rộng, trưng bày trong nhà trưng bày hoặc nhà văn hóa
để lưu giữ và giới thiệu với khách tham quan. Các sản phẩm làng nghề khi được khôi
phục, ngoài yếu tố phục vụ cuộc sống và phát huy văn hóa truyền thống thì cần chú trọng
đến công tác quảng bá phục vụ phát triển du lịch văn hóa và đưa các sản phẩm đó ra thị
trường biến chúng thành sản phẩm du lịch văn hóa.
Giữ gìn và phát huy lễ Cầu phúc, lễ Cầu mùa và các nghi lễ chủ yếu của từng
dân tộc theo phương châm: khai thác pháy huy mặt tích cực/tiến bộ, loại bỏ những
mặt tiêu cực/lạc hậu; kiên quyết loại bỏ những tập tục lạc hậu, tệ mê tín dị đoan
trong sinh hoạt văn hóa; thực hiện tiết kiệm, tránh lãng phí. Từng bước khôi phục

109
một số mô hình không gian văn hóa về lễ hội và không gian diễn xướng dân ca dân
tộc như hát Then, hát Lượn, hát Đối… Hạn chế hình thức “sân khấu hóa” làm mất
không gian văn hóa dân tộc cổ truyền. Đưa một số trò chơi dân gian vào trong
chương trình hoạt động hè và ngoài trời dành cho các em thiếu nhi. Đầu tư kinh phí
xây dựng các mô hình trình diễn nghi lễ, lễ hội cổ truyền và không gian diễn xướng
dân gian. Qua đó, tổ chức quay phim/ghi âm/chụp ảnh làm tư liệu lâu dài. Đặc điệt
là đối với những nét văn hóa truyền thống có nguy cơ thất truyền và những bài dân
ca, điệu vũ dân tộc còn lại của các nghệ nhân cao tuổi.
Cần tăng cường công tác tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp dân cư về
trách nhiệm bảo tồn các di sản cũng như để người dân thấy được tầm quan trọng của
công tác bảo tồn các giá trị truyền thống của dân tộc mình, cũng như để họ biết cách
giữ gìn truyền thống ấy bằng một số biện pháp như: mở các cuộc thi hiểu biết văn hóa
giữa các làng, có chính sách khen thưởng tuyên dương những cá nhân, làng bản có
thành tích trong việc giữ gìn văn hóa truyền thống… Xây dựng các đội văn nghệ dân
gian thu hút sự tham gia của tất cả các hộ gia đình trong xã, thường xuyên tổ chức giao
lưu học hỏi kinh nghiệm, đây là đội văn nghệ nòng cốt cho phong trào văn hóa, văn
nghệ của xã và sẽ là đội văn nghệ tham gia biểu diễn phục vụ cho du khách.
3.2.9. Xúc tiến và quảng bá nhằm mở rộng thị trường du lịch văn hóa
Hiện nay điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt đang diễn ra giữa
các doanh nghiệp. Đồng thời khách hàng có thể tự do lựa chọn những sản phẩm và
dịch vụ ưa thích. Như vậy vấn đề tuyên truyền quảng bá thu hút sự quan tâm là hết
sức cần thiết. Chính vì vậy du lịch Định Hóa phải tích cực, chủ động và sáng tạo
trong công tác xúc tiến du lịch nhằm mở rộng thị trường.
- Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền quảng bá trên các phương tiện thông
tin đại chúng; thường xuyên cập nhật thông tin cho khách tham quan, giới thiệu về
ATK Định Hóa, các dịch vụ du lịch trên Internet, xuất bản các ấn phẩm, tờ rơi; - tận
dụng các trang web của Đài truyền hình Thái Nguyên, thường xuyên gửi bài viết và
thông tin du lịch về du lịch huyện Định Hóa, các chương trình khuyến mại, các sản
phẩm du lịch mới,…
- Chủ động và sáng tạo trong việc tổ chức các sự kiện về tuần lễ du lịch,
chuỗi sự kiện cần mở rộng đến di tích vùng ATK Định Hoá để góp phần thúc đẩy
về chất lượng quảng bá du lịch

110
- Phối hợp với Sở Giáo dục Đào tạo, các nhà trường trên địa bàn nhằm đưa
học sinh đến tham quan di tích góp phần phát huy hiệu quả phòng trào “Xây dựng
trường học thân thiện - học sinh tích cực”, gắn kết chặt chẽ với các Công ty du lịch,
ký kết các hợp đồng phục vụ khách tham quan nhằm khai thác tối đa thị trường
khách nội địa.
- Lấy một số địa danh ở ATK để gắn biển tên phố, đường ở thành phố Thái
Nguyên và Thủ đô Hà Nội góp phần để tri ân lịch sử và mang nhiều ý nghĩa trong
việc giáo dục truyền thống lịch sử cho các thế hệ.
- Thiết kế biển quảng cáo, panô, áp phích độc đáo đổi mới theo năm (theo
chủ đề) để treo ở các ngã ba, ngã tư đường lên Định Hóa vừa có chức năng chỉ
đường vừa gây sự chú ý và quan tâm của người dân cũng như du khách.
- Liên kết với các nhà xe, bến xe khách Thái Nguyên để thuê lại diện tích bề
mặt xe để dán quảng cáo du lịch Định Hóa, có thể treo băng rôn những nơi gây
được chú ý như bến xe, UBND huyện,…
- Học hỏi bài học kinh nghiệm của Điện Biên về việc xây dựng phim ảnh
giới thiệu về đất và người Định Hóa với nền văn hóa truyền thống và tiềm năng du
lịch văn hóa gửi tặng cho du khách, các cơ quan trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, tặng
cho Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, trình chiếu trên màn ảnh rộng của
trung tâm Thành phố Thái Nguyên để thu hút sự quan tâm chú ý của người dân.
- Các điểm du lịch thiết kế tập gấp, tờ rơi lạ mắt và đầy đủ về thông tin cho
du khách để tiếp cận đến các sản phẩm du lịch dễ dàng hơn.
- Tận dụng tối đa phương tiện mạng xã hội như facebook, email… mời các
blogger viết bài bình luận, chia sẻ kinh nghiệm đi du lịch, mẹo vặt… lên trang của
huyện. Ngoài ra có thể nhận đặt tour qua facebook, email để từ đó tận dụng email
của họ thực hiện chính sách tri ân, cảm ơn khách hàng lên trang cá nhân của họ, đó
cũng là hình thức quảng cáo tốt.
- Hợp tác với các công ty kinh doanh các lĩnh vực liên quan nhưng không cạnh
tranh với du lịch ở huyện để cùng tài trợ ví dụ như các doanh nghiệp chè Hoàng Bình,
bến xe khách Thái nguyên,… chính sự liên kết này tạo ra sản phẩm du lịch nói chung và
du lịch văn hóa nói riêng được phong phú đa dạng, tạo tính liên kết chặt chẽ giữa các
doanh nghiệp đem đến sự thuận tiện và hài lòng nhất cho du khách.

111
- Thiết kế và xuất bản các cuốn sách, ảnh giới thiệu các nghề sản xuất thủ
công truyền thống như nghề sản xuất rượu, thổ cẩm, chè,… Trong sách sẽ giới thiệu
về nguồn gốc, các dụng cụ lao động, phương thức sản xuất cũng như hình ảnh các
sản phẩm đặc trưng, cuốn sách này sẽ như một đặc phái viên du lịch của địa
phương, giới thiệu với bạn bè trong nước và quốc tế.
- Nên gắn liền công tác xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch văn hóa Định Hóa
ngay tại điểm cung cấp bưu chính, viễn thông. Có thể kết hợp với những đơn vị đó thực
hiện chiến dịch nhắn tin quảng cáo về du lịch văn hóa của Định Hóa đến với du khách, ví
dụ như tin chào mừng, tin giới thiệu ngắn về các điểm tham quan, tin thời tiết, tin lưu ý
về những hiện tượng tiêu cực như nạn trộm cắp, móc túi trong lễ hội…
3.2.10. Chia sẻ lợi ích giữa các bên tham gia
Để lợi ích kinh tế từ du lịch được phân phối hợp lý giữa các bên tham gia,
đồng thời nâng cao sự ủng hộ của cộng đồng đối với việc phát triển du lịch, qua tìm
hiểu một số điểm du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng đã phát triển như bản Lác, bản
Văn ở Hòa Bình,… Qua khảo sát thực tế cũng như kế thừa kết quả nghiên cứu từ
nhiều công trình khoa học, tác giả luận văn mạnh dạn đề xuất xây dựng các mức
thỏa thuận lợi ích mà các bên tham gia có thể được hưởng trong quá trình làm du
lịch văn hóa như sau:
Chọn đối tượng tham gia
Cần ưu tiên cho những người nghèo, phụ nữ vào tham gia cung cấp các hoạt động
dịch vụ cho khách du lịch để được hưởng lợi từ du lịch. Cụ thể người nghèo có thể tham
gia vào các hoạt động sau: tham gia tổ biểu diễn văn nghệ, tổ nấu ăn phục vụ khách và
thuyết minh dẫn đường; bán các sản phẩm nông sản của gia đình cho tổ nấu ăn để phục
vụ khách như: cá, thịt gà, rượu, chuối, rau quả…; tham gia tổ dệt vải và bán các sản
phẩm dệt hoặc đặc sản địa phương. Đặc biệt quan tâm đến các nghệ nhân trên địa bàn,
kêu gọi và thu hút họ tham gia hoạt động du lịch văn hóa với các công việc như: truyền
dạy cho các thế hệ trẻ các nghê thủ công truyền thống, phát triển nghề và làng nghề; dạy
lại cho thế hệ trẻ, các thành viên trong nhóm biểu diễn nghệ thuật phục vụ du khách
những làn điệu dân ca cổ truyền đã bị mai một, hạn chế tối thiểu các làn điệu biểu diễn
sai lệch; là hướng dẫn viên cho những du khách muốn tìm hiểu về các làng nghề thủ
công truyền thống, những làn điệu cổ truyền.

112
Ngày công lao động của các thành viên
Để cộng đồng tham gia nhiệt tình đảm bảo tính công bằng và hợp tác lâu dài
giữa các bên cần có định mức ngày công làm việc của các tổ dịch vụ, định mức này
có thể điều chỉnh cao hơn hoặc thấp hơn một chút tùy theo thu nhập từ mỗi đoàn
khách và phải được sự thống nhất của tất cả các tổ dịch vụ và ban quản lý.
- Các thành viên tham gia biểu diễn văn nghệ được hưởng 40.000 đồng cho
mỗi xuất diễn.
- Các thành viên phục vụ nấu ăn được hưởng 50.000 đồng một người nếu nấu
cho 1 bữa ăn chính và 15.000 đồng nếu nấu cho bữa ăn sáng.
- Các thành viên tổ phục vụ đón tiếp và nghỉ qua đêm tại nhà sàn được hưởng
80.00đồng/ngày làm việc
- Các hướng dẫn viên đưa khách đi tham quan suối, rừng thác được hưởng
100.000 đồng cho mỗi chuyến đi
- Các hướng dẫn viên đưa khách đi tham quan thôn bản được hưởng 50.000
đồng cho mỗi chuyến tham quan.
- Các hộ gia đình làm nghề dệt vải, đan lát và làm vườn có nhận khách tham
quan tại nhà được hưởng 20.000 đồng cho mỗi đoàn tham quan.
- Thành viên các tổ thủ công mỹ nghệ không được trả công mà chỉ được
hưởng lợi khi bán được sản phẩm cho khách
Xây dựng cơ chế luân phiên
Ban quản lý du lịch bàn họp với dân để xây dựng cơ chế luân phiên tham gia
cũng như phục vụ khách để lợi ích kinh tế được phân phối công bằng và rộng rãi
trong cộng đồng.
Xây dựng quỹ phát triển cộng đồng
Nguồn thu:
- Đóng góp của các hộ dân cung cấp dịch vụ homestay và những người tham
gia phục vụ du lịch với mức 15% doanh thu mỗi lần phục vụ khách
- Ủng hộ tự nguyện của khách du lịch và công ty du lịch bằng tiền hoặc hiện vật.
- Hỗ trợ của nhà nước.
- Các hộ tham gia làm du lịch sẽ trích phần trăm theo quy định vào quỹ phát
triển du lịch cộng đồng.
Danh mục chi:

113
- Phụ cấp cho Ban quản lý
- Chi dọn vệ sinh môi trường và bảo dưỡng các tiện nghi chung của bản như
đường xá, nhà vệ sinh chung tại nhà văn hóa bản…
- Ủng hộ các gia đình nghèo khi có việc khẩn cấp như đám tang, bệnh nặng
hoặc bị thiệt hại do thiên tai.
- Khen thưởng cho những người có công, có những sáng kiến hay, việc làm
tốt cho phát triển du lịch tại đây
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
- Kiến nghị Chính phủ và bộ kế hoạch và đầu tư tiếp tục cấp vốn quy hoạch các
khu du lịch quốc gia trên địa bàn huyện, cần có kế hoạch quy hoạch chi tiết các khu, các
điểm du lịch. Định hướng các loại hình du lịch văn hóa, tập trung phát triển các loại hình
du lịch như: du lịch lễ hội (Đèo De- Phú Đình), du lịch làng nghề (Lam Vỹ, Điềm Mặc),
du lịch sinh thái (suối Khuôn Tát)… và mở rộng hơn nữa nếu đã có.
- Kiến nghị Chính phủ và Bộ văn hóa Thể thao và du lịch ưu tiên vốn đầu tư
để bảo vệ, nâng cấp các di tích lịch sử văn hóa, các di tích đã được xếp hạng trên
địa bàn huyện đặc biệt có kế hoạch đầu tư vốn cho các khu du lịch như khu sinh thái
Khuôn Tát, hồ Bảo Linh để tăng thêm sự đa dạng sản phẩm du lịch.
- Tổng cục du lịch tập trung giúp đỡ du lịch huyện trong các công tác đào tạo
nguồn nhân lực đặc biệt là nhân lực chính là những người dân địa phương. Giúp
huyện tuyên truyền, xúc tiến phát triển du lịch văn hóa, thu hút các nguồn đầu tư
của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
- Các Bộ ngành ở Trung ương lồng ghép các chương trình các dự án có liên
quan phát triển du lịch văn hóa trên địa bàn huyện để tháo gỡ khó khăn về vốn đầu
tư phát triển du lịch văn hóa cho địa phương.
- Xúc tiến quảng bá du lịch tới du khách thông qua các sự kiện văn hóa, qua báo,
truyền hình, đặc biệt sử dụng tối đa trang web điện tử của Đài truyền hình Thái Nguyên
hoặc một số trang quảng cáo tiếp thị sản phẩm và dịch vụ du lịch trực tuyến…
- Tăng cường kiểm tra chất lượng các cán bộ, nhân viên, các dịch vụ ở các
đơn vị, các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Xây dựng quy chế, có quy định phạt
thích đáng đối với các cơ quan không đủ tiêu chuẩn, xa thải hoặc có chương trình

114
đào tạo đào tạo thêm cho các cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, kĩ năng trong
làm du lịch văn hóa.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên
trong ngành, mời những người có kiến thức vững vàng về nghiệp vụ du lịch nói
chung và du lịch văn hóa nói riêng để dạy cho cán bộ công nhân viên cũng như
khuyến khích người dân tham gia làm du lịch để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của khách du lịch.
3.3.2. Kiến nghị đối với chính quyền địa phương
- Lập quỹ hỗ trợ phát triển du lịch, hàng năm dành một khoản kinh phí để
đầu tư phát triển sản phẩm mới, tổ chức các cuộc thi nâng cao chất lượng sản phẩm,
dịch vụ du lịch.
- Giáo dục toàn dân về nền du lịch bền vững, nền du lịch dựa vào văn hóa
bản địa vốn có.
- Lập kế hoạch cụ thể và quản lý những thông tin về mục tiêu, ý nghĩa, trách
nhiệm và quyền lợi của du lịch văn hóa. Thông tin đó cần được chuyển tải đến mọi thành
viên của cộng đồng cư dân nơi làm du lịch văn hóa bằng nhiều hình thức khác nhau.
- Trú trọng công tác giữ vững an ninh trật tự, đảm bảo an ninh cho cư dân địa
phương cũng như du khách.
3.3.3. Kiến nghị đối với công ty lữ hành
- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của doanh nghiệp, nâng cao chất
lượng dịch vụ, tuyên truyền quảng cáo hình ảnh du lịch văn hóa trên mọi phương
tiện: đài, báo, tập gấp, mạng internet…
- Tạo ra nhiều tour du lịch văn hóa kết hợp với các loại hình du lịch khác, tạo
ra sự khác biệt và tăng tính hấp dẫn của tour du lịch, thu hút khách du lịch đến với
Định Hóa.
- Các doanh nghiệp cần tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ kinh phí cho cán bộ
nhân viên của các đơn vị học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ về du lịch.
- Cùng với huyện Định Hóa có các chính sách hỗ trợ các hộ gia đình tham
gia vào hoạt động du lịch văn hóa, tham gia vận động cộng đồng địa phương tham
gia vào hoạt đông du lịch văn hóa

115
3.3.4. Kiến nghị đối với cộng đồng địa phương
- Bảo đảm an ninh và an toàn cho khách du lịch trong thời gian khách đến
viếng thăm tại khu, điểm du lịch.
- Giá cả dịch vụ và hàng hóa hợp lý và thống nhất. Bán hàng đúng giá quy
định, tuyệt đối không lừa khách du lịch và các công ty lữ hành.
- Không xin bất cứ thứ gì của khách ví dụ như tiền, bánh kẹo, vật dụng..
- Giữ mối quan hệ đúng mực, văn hóa với khách đến thăm thôn bản
- Giữ vệ sinh môi trường trong thôn và bảo quản tốt cơ sở vật chất phục vụ
du lịch.
- Không gây tổn hại đến cây cối và động vật ở trong khu vực
- Khuyến khích và giám sát các công ty lữ hành và khách du lịch thực hiện
đúng nội quy du lịch văn hóa.
- Thông báo ngay cho Ban quản lý du lịch văn hóa của bản nếu công ty lữ
hành hoặc du khách vi phạm nội quy.
- Tôn trọng và thực hiện đúng các nội quy do Ban quản lý đưa ra.
- Ăn mặc lịch sự đúng theo phong tục truyền thống khi có khách du lịch đến
thăm thôn
- Tôn trọng sự riêng tư của khách khi nghỉ qua đêm.
- Sự tham gia của cộng đồng địa phương là vô cùng quan trọng, vì vậy cần có
sự tham gia của số lượng lớn cộng đồng địa phương tham gia phát triển du lịch văn
hóa, trên tình thần tự nguyện làm du lịch văn hóa.
3.3.5. Kiến nghị đối với khách du lịch
Điểm du lịch văn hóa đó có hấp dẫn hay không được thể hiện bằng số lượng
du khách tơi tham quan tại đó, số lượng khách du lịch càng nhiều thì chứng tỏ điểm
du lịch đó có độ hấp dẫn càng cao. Để du lịch văn hóa ở Định Hóa phát triển một
cách bền vững, du khách nên:
- Ăn mặc lịch sự, áo quần nên phủ gối và vai; đồng thời tôn trọng văn hóa
truyền thống và tập quán của các dân tộc
- Bảo vệ môi trường bằng cách không chặt cây, bẻ cành, không săn bắt động
vật hoang dã.
- Không nên cho trẻ em kẹo và tiền bởi hành động này khuyến khích sự xin
cho và ỷ lại.

116
- Nếu bạn muốn ủng hộ quà hoặc tiền cho địa phương hãy trao cho Ban quản
lý hoặc bỏ vào thùng quỹ ủng hộ phát triển cộng đồng.
- Giúp cộng đồng giữ gìn thôn xóm sạch đẹp bằng cách không xả rác, vứt rác
bừa bãi, phải vứt đúng nơi quy định
- Khách nam và khách nữ không ngủ chung khi qua đêm ở nhà dân bản, trừ
trường hợp là vợ chồng.

Tiểu kết chương 3

Định Hóa là huyện có tiềm năng tài nguyên du lịch nhân văn để phát triển du
lịch văn hóa. Hoạt động du lịch văn hóa ở đây đang từng bước phát triển nhưng qua
nghiên cứu thực trạng, chúng ta thấy vẫn còn nhiều tồn đọng trong phát triển du lịch
văn hóa. Nhằm đưa hoạt động du lịch văn hóa trở nên phổ biến hơn và trở thành
một trong những hoạt động kinh tế chủ lực tại huyện Định Hóa, chính quyền địa
phương cần phải đầu tư phát triển hệ thống giao thông nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho việc đi lại và di chuyển của khách du lịch. Bên cạnh đó, muốn du lịch văn hóa
Định Hóa giữ chân được du khách ở lại dài ngày, huyện phải đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao, sản phẩm du lịch đa dạng, đội ngũ cán bộ quản lý làm việc phải
có trách nhiệm, sáng tạo, luôn đưa ra các ý tưởng mới nhằm tạo nên sức hấp dẫn
cho du lịch văn hóa tại Định Hóa. Ngoài ra, du lịch văn hóa tại huyện Định Hóa
hiện nay chưa được thực hiện một cách đồng bộ, chưa có sự quản lý thống nhất, từ
các ban ngành lãnh đạo của huyện. Chính vì vậy huyện phải có sự liên kết chặt chẽ
các ban ngành, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư để cùng đưa ra chính
sách, chiến lược lâu dài và hiệu quả nhất cho phát triển du lịch văn hóa của huyên.

117
KẾT LUẬN

Định Hóa là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên có bề dày truyền
thống lịch sử, cách mạng. Nơi đây có tới 128 di tích quốc gia và hàng trăm di tích
cấp tỉnh/huyện. Ngoài ra, với sự cộng cư của 9 dân tộc anh em, đồng bào Định Hóa
đang bảo lưu một khối lượng di sản văn hóa tộc người quý giá. Nó được xem là chìa
khóa của các quốc gia trong nền văn minh nhân loại. Những giá trị văn hóa vật thể,
phi vật thể của đồng bào các dân tộc Định Hóa ấy đã trở thành nguồn lực quan trọng
để phát triển du lịch văn hóa nói riêng và phát triển kinh tế-xã hội nói chung. Hiện
nay giá trị văn hóa các dân tộc ngày nay càng được phát huy và tuyên truyền rộng
rãi với nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế góp phần vào việc nhận rõ chân dung
văn hóa của ta cho nhân loại hiểu ta. Đặc biệt trong đó hoạt động du lịch là một việc
rất quan trong “Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu
sắc”. Tuy nhiên du lịch lại khác với các ngành kinh tế ở chỗ nó được khai thác trên
giá trị văn hóa của các tộc người, bởi đây chính là nhân tố làm nên diện mạo văn
hóa vùng miền tạo thành diện mạo văn hóa vật thể, phi vật thể.
Văn hóa tộc người được coi là tiềm năng, là nguồn tài nguyên để khai thác
du lịch và ngược lại chính hoạt động du lịch đã có tác động mạnh mẽ đến nghiên
cứu làm hồi sinh nhiều giá trị văn hóa giúp chúng ta có thể ngược dòng thời gian trở
về với những phong tục tập quán truyền thống, văn hóa nếp sống sinh hoạt mà trải
qua bao thăng trầm, bao biến thiên của lịch sử vẫn còn giữ được. Trên cơ sở ấy,
cộng với đặc điểm quần cư của 9 tộc người ở Định Hóa mà nơi đây có một nền văn
hóa vô cùng phong phú, với các phong tục tập quán, các lễ hội, và thói quen sinh
hoạt đa dạng. Đây chính là một lợi thế tạo nên tiềm năng phát triển du lịch văn hóa
tại khu vực này.
Thời gian qua, sự phát triển du lịch văn hóa của Định Hóa chưa tương xứng
với tiềm năng vốn có của huyện và quá trình phong tục còn nhiều bất cập. Bên cạnh
đó, thực tế cũng cho thấy bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu thiếu bền vững, thay đổi
tiêu cực di sản văn hóa của đồng bào nơi đây, suy giảm nguồn tài nguyên du lịch
văn hóa vốn có. Những nguyên nhân khiến điều đó xảy ra là quy hoạch du lịch văn
hóa của Định Hóa còn chưa đồng bộ, dù đã được Đảng, Nhà nước và các cấp chính
quyền quan tâm nhưng nguồn vốn dành cho phát triển du lịch văn hóa còn thiếu.

118
Đặc biệt, cộng đồng địa phương còn chưa được nâng cao nhận thức đối với việc làm
du lịch văn hóa dựa vào cộng đồng. Các chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch còn
gặp nhiều khó khăn. Và hơn thế nữa, sản phẩm du lịch văn hóa của Định Hóa còn
thiếu và yếu, thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Hiện nay, dù đã có ý thức và
một số hành động thiết thực để phát triển du lịch văn hóa dựa vào cộng đồng song
sản phẩm du lịch ở đây vẫn chỉ tập trung vào các tour tham quan di tích lịch sử cách
mạng. Làng Văn hóa Du lịch bản Quyên đã được đầu tư xây dựng nhưng vì hạn chế
trong xúc tiến quảng bá và cộng thêm các lý do khác nên lượng khách đến đây
không nhiều, doanh thu từ du lịch ít.
Bởi vậy, ngoài những tài nguyên du lịch văn hóa sẵn có, Định Hóa cần có
những giải pháp đồng bộ và ráo riết để thực hiện hiệu quả việc đưa du lịch trở thành
lĩnh vực kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế của huyện. Đồng thời phải xây
dựng hệ thống sản phẩm du lịch văn hóa đa dạng, phong phú nhưng không kém
phần đặc sắc, độc đáo. Không chỉ dựa vào quần thể di tích lịch sử cách mạng ATK
mà Định Hóa còn phải chú trọng đến vấn đề bảo tồn và phát huy vốn văn hóa truyền
thống của người Tày, người Nùng, người Dao, người Sán Chay… đang sinh sống
trên địa bàn. Chính quyền, doanh nghiệp du lịch phải bắt tay với cộng đồng để
hướng tới phát triển du lịch văn hóa bền vững. Các nhà chuyên môn cần nghiên cứu
những phương án xúc tiến, quảng bá hình ảnh Định Hóa sao cho hiệu quả để thu hút
khách du lịch đến đây ngày càng nhiều hơn. Và cần có sự liên kết phát triển với các
điểm du lịch phụ cận, điểm du lịch cùng chuyên đề, điểm du lịch theo những
tour/tuyến hợp lý để nâng cao chất lượng và sức hấp dẫn của du lịch văn hóa Định
Hóa nói riêng và của du lịch Định Hóa nói chung.
Tuy còn rất nhiều vấn đề còn tồn tại trong phát triển loại hình du lịch văn hóa
huyện Định Hóa nhưng du lịch nói chung và du lịch văn hóa nói riêng đang không
ngừng đóng góp vào sự phát triển của ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
tăng thu nhập cho người dân. Chọn đề tài Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên là tác giả muốn góp phần giải quyết các vấn
đề trên trong phạm vi huyện Định Hóa nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung qua
loại hình du lịch văn hóa.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn nhiều hạn chế, tuy nhiên tác giả đã
cố gắng vận dụng những tư liệu của các ngành có liên quan, tham khảo thêm các ý

119
kiến của chuyên gia về du lịch học, văn hóa học, lịch sử học, các tổ chức du lịch có
uy tín trong nước và trên thế giới để từng bước tiếp cận đề tài. Để giải quyết các vấn
đề được đặt ra, luận văn lần lượt làm rõ các thuật ngữ cũng như cơ sở lý luận có liên
quan đến du lịch văn hóa; nghiên cứu các kinh nghiệm làm du lịch văn hóa trong
nước, đặc biệt là kinh nghiệm du lịch văn hóa của Điện Biên - một điểm đến có
nhiều nét tương đồng về hệ thống di tích lịch sử với địa bàn mà luận văn đang
nghiên cứu; trình bày một cách có hệ thống về tài nguyên du lịch phục vụ cho phát
triển du lịch văn hóa của Định Hóa. Trên cơ sở đó, đề tài đi sâu trình bày, phân tích
thực trạng hoạt động du lịch văn hóa trên địa bàn huyện và rút ra nhận xét đánh giá.
Đồng thời, dựa vào những căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế, luận văn mạnh dạn đề
xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch văn hóa của huyện Định Hóa theo
hướng bền vững nhằm vừa đạt hiệu quả cao về mặt kinh tế, lại vừa bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa dân tộc.

120
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Trần Thúy Anh (2004), Ứng xử văn hóa trong du lịch, sách tham khảo,
Nxb Đại học Quốc gia
2. Trần Thúy Anh (Chủ biên) (2011), Du lịch văn hóa những vấn đề lý luận
và nghiệp vụ, Nxb Giáo dục Việt Nam
3. Ban quản lý Khu di tích lịch sử-sinh thái ATK Định Hóa, Thái Nguyên (2014),
Di tích quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa – Thái Nguyên, Nxb Quân đội nhân dân
4. Bảo tàng Thái Nguyên (2003), Thái Nguyên di tích danh thắng và triển
vọng tương lai
5. Nguyễn Văn Bình (2005), Phát triển du lịch sinh thái, du lịch văn hóa –
một công cụ bảo vệ môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, Bảo vệ môi trường,
Tổng cục Du lịch, tr.98
6. Trương Quốc Bình (2005), Vai trò các di sản văn hóa với sự phát triển du
lịch Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 3, tr.22-23
7. Nguyễn Văn Chiến (2206), Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch
Thái Nguyên
8. Nguyễn Văn Đính-Trần Thị Minh Hòa, Giáo trình kinh tế du lịch, Nxb
Đại học Kinh tế quốc dân
9. Hồ Hoàng Hoa (1998), Lễ hội, một nét đẹp trong văn hóa cộng đồng, Nxb
Khoa học xã hội
10. Nguyễn Phạm Hùng (2010), Đa dạng văn hóa và sự phát triển du lịch ở
Việt Nam, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11
11. Nguyễn Phạm Hùng (2012), Bảo tồn văn hóa như một hoạt động phát triển du
lịch, Hội thảo khoa học “Phát triển du lịch trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế”, Trường
Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngày 06/04/2012
12. Đinh Trung Kiên (2004), Một số vấn đề về du lịch Việt Nam, Nxb ĐHQG
Hà Nội
13. Nguyễn Thị Kim Loan, Nguyễn Trường Tân (2012), Quản lý di sản văn
hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội
14. Hoàng Lương (2005), Văn hóa các dân tộc Đông Bắc Việt Nam, Trường
ĐH Văn hóa Hà Nội

121
15. Phạm Trung Lương (2005), Cơ sở khoa học và giải pháp phát triển du
lịch bền vững ở Việt Nam, Nxb Giáo dục
16. Nguyễn Thị Bích Ngọc (2008), An toàn khu Định Hóa trong căn cứ địa
kháng chiến Việt Bắc, Luận văn thạc sĩ ngành Lịch sử, Thái Nguyên
17. Nhà xuất bản chính trị quốc gia (2005), Thái Nguyên thế và lực mới
trong thế kỷ XXI
18. Trần Quang Phúc (tổng hợp và biên soạn) (2013), Việt Nam sắc màu văn
hóa 54 dân tộc anh em, Nxb Đồng Nai
19. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Di sản văn hóa
20. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật Du
lịch, Nxb Lao động
21. Dương Văn Sáu (2009), Du lịch lễ hội và lễ hội du lịch ở Việt Nam, Tạp
chí du lịch Việt Nam, số 4, tr.26-27
22. Dương Văn Sáu, Phát triển sản phẩm du lịch ở Việt Nam, Tạp chí Du
lịch Việt Nam, số 3/2010, tr.33
23. Sở Thương mại và Du lịch Thái Nguyên (2006), Sổ tay du lịch Thái Nguyên
24. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thái Nguyên (2008), Đề án phát triển
du lịch Thái Nguyên giai đoạn 2009 – 2015, tầm nhìn đến 2020
25. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thái Nguyên (2009), Đề án phát triển
du lịch Thái Nguyên giai đoạn 2009-2015
26. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thái Nguyên (2014), Đề án Hỗ trợ bảo tồn,
tôn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, kiên trúc nghệ
thuật đã được xếp hạng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2014 – 2020
27. Phạm Thị Phương Thái (Chủ biên) (2014), Sắc diện văn hóa dân tộc
thiểu số vùng núi phía Bắc, Nxb Giáo dục
28. Trần Đức Thanh (2005), Nhập môn khoa học du lịch, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội
29. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp Hồ
Chí Minh.
30. Đồng Khắc Thọ (2003), Di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
Thái Nguyên
31. Đồng Khắc Thọ (2013), ATK – In dấu lịch sử, Nxb Hội nhà văn

122
32. Thủ tướng chính phủ, Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Quyết định số 201/QĐ-TTg
33. Thủ tướng chính phủ (2013), Quyết định phê duyệt Đề án phát triển kinh
tế-xã hội vùng trung tâm ATK Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2013-2020
34. Tổ chức Lao động quốc tế, Bộ công cụ hướng dẫn giảm nghèo thông qua
du lịch (bản tiếng Việt)
35. Tổng cục Du lịch (1998), Non nước Việt Nam, Sách hướng dẫn du lịch
36. Đoàn Huyền Trang (2009), Lễ hội văn hóa và du lịch Việt Nam, Nxb Lao động
37. Nguyễn Minh Tuệ và đồng sự (1999), Địa lý du lịch, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh
38. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2011), Thái Nguyên trên đường hội
nhập, Nxb Lao động-Xã hội
39. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2013), Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế-xã hội tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
40. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2009), Quyết định Phê duyệt đề án
phát triển du lịch Thái Nguyên giai đoạn 2009-2015
41. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên (2014), Quyết định phê duyệt Đề án
“Hỗ trợ bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích lịch sử văn hóa, danh lam
thắng cảnh, kiên trúc nghệ thuật đã được xếp hạng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên,
giai đoạn 2014 – 2020
42. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (2008), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb
Giáo dục
43. Bùi Thị Hải Yến (2008), Tuyến điểm du lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục,
44. Bùi Thị Hải Yến, Phạm Hồng Long (2007), Tài nguyên du lịch, Nxb
Giáo dục
Tiếng nước ngoài
45. Carter, E. (1993), Ecotourism in the Third World: Problem for
sustainable Tourism Development, Tourism Management, N04, Page 85-90
46. Dallen J.Timothy, Stephen W.Boud (2003), Heritage Tourism, Prentice
Hall, Page 10

123
124

You might also like