KTCT

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

KHOA MARKETING THƯƠNG MẠI

THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM


GIA THỊ TRƯỜNG.LIÊN HỆ VẤN ĐỀ NÀY Ở VIỆT NAM

NHÓM : 3
LỚP HỌC PHẦN: 2115RLCP1211
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Đỗ Thị Mai

Hà Nội, tháng....năm 2021


LỜI MỞ ĐẦU
Từ những ngày còn yếu kém về nền kinh tế và sau vài lần có những đổi mới để đi lên. Việt
Nam từ một nước có thu nhập thấp đã chọn tham gia vào nhóm nước có thu nhập trung bình,từ
đó hội nhập sâu rộng nền kinh tế thế giới. Nhưng để phù hợp trong yêu cầu đổi mới của nền kinh
tế và đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững. Đảng và nhà nước đang nghiên cứu và xem
xét những vấn đề để hoàn thiện hơn thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam

Mục tiêu cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa VN được đặt ra trước đó
là góp phần thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Sau đó đưa ra
những chính sách xã hội hợp lý ; đảm bảo phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của
chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện. Trước khi đạt được
những mục tiêu trên, ta cần phải có những kiến thức nền tảng nhất định về đề tài thị trường và
vai trò chủ thể tham gia thị trường

Sir John Templeton từng nói: ‘ thị trường đầu cơ sinh ra trong sự ảm đạm, lớn lên bằng sự hoài
nghi, phát triển nhờ lạc quan và chết bởi sự thỏa mãn’. Đằng sau câu nói ấy chúng ta có thể hiểu
được thị trường như một cuộc đua rượt đuổi cơ hội không đến thường xuyên. Do đó chúng ta
phải biết nắm bắt thời cơ ‘ khi cơn mưa vàng rơi xuống, hãy lấy xô ra để hứng chứ đừng dựng
một con đê để chắn nó’’ . Thế nhưng cho đến hiện nay tốc độ lây lan chóng mặt của COVID-19
đã buộc các quốc gia phải áp đặt các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để chống dịch đã
gây ra tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến tất cả các khâu của quá trình sản xuất -
phân phối - trao đổi - tiêu dùng vốn được liên kết trên cấp độ thế giới rơi vào tình trạng tê liệt. Vì
thế nó đang trở thành vấn đề đáng báo động cũng như ở Việt Nam bị ảnh hưởng bởi COVID-19,
các doanh nghiệp các nhà đầu tư đang gặp khó khăn về vấn đề thua lỗ. Vì sự cần thiết đó tôi đã
chọn đề tài với hy vọng sẽ cung cấp phần nào kiến thức cơ bản về thị trường và vai trò của chủ
thể tham gia thị trường.
I. THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA MỘT SỐ CHỦ THỂ THAM
GIA THỊ TRƯỜNG
1. Thị trường.
1.1. Khái niệm.
 Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hóa giữa  các
chủ thể kinh tế với nhau.
 theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán
hàng hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất
định.
=> Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các
gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu cho ai đều được
dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả.
1.2. Vai trò của thị trường.
Một là, thị trường là điều kiện, môi trường cho sản xuất phát triển.
Hai là, thị trường kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra cách thức
phân bố nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế.
Ba là, thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền
kinh tế thế giới.
1.3. Cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự điều chỉnh các cân đối của
nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Dấu hiệu đặc trưng của cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá cả một cách tự do. Người
bán và người mua thông qua thị trường để xác định giá cả của hàng hóa, dịch vụ.
Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn vốn, tài nguyên,
công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ,... Đây là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang
tính khách quan, do bản thân nền sản xuất hàng hóa hình thành.
1.4. Nền kinh tế thị trường,
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế
hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường,
chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mô hình khác nhau, song chúng
đều có những đặc trưng bao gồm: 
- Thứ nhất, kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình
thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật,
- Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bố các nguồn lực xã hội
thông qua các hoạt động của các thị trường bộ phận như thị trường hàng hóa, thị
trường dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản,
thị trường khoa học công nghệ,...
- Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa là môi
trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
- Thứ tư, động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế - xã
hội.
- Thứ năm, nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các quan
hệ kinh tế, đông thời, nhà nước thực hiện khắc phục những khuyết tật của thị trường,
thức đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn
bộ nền kinh tế.
- Thứ sáu, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị
trường quốc tế.
Nền kinh tế thị trường có một số ưu thế và khuyết tật sau:
 Ưu thế của nền kinh tế thị trường :
- Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự hình thành ý tưởng
mới của các chủ thể kinh tế.
- Hai là, nền kinh tế thị trường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể,
các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới.
- Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của
con người, từ lúc thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
 Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
- Một là, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
những rủi ro khủng hoảng.
- Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên
không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
- Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong
xã hội.
1.5. Một số quy luật kinh tế chủ yếu của thị trường
a. Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của
hao phí lao động xã hội cần thiết. Người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị trường, muốn
được xã hội thừa nhận sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hóa cá biệt phải phù hợp với thời
gian lao động xã hội cần thiết.
b. Quy luật cung - cầu
Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) và cầu (bên mua)
hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất, nếu không có sự
thống nhất giữa chúng thì sẽ có các nhân tố xuất hiện điều chỉnh chúng.
Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao
hơn giá trị; nếu cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị.
Quy luật cung - cầu có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa; làm biến
đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường.
c. Quy luật lưu thông tiền tệ
Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kỳ cần phải đưa vào lưu thông một số
lượng tiền tệ thích hợp. Số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hóa được xác định theo một quy
luật là quy luật lưu thông tiền tệ. Theo quy luật này, số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng
hóa ở mỗi thời kỳ nhất định được xác định bằng công thức tổng quát sau:
P .Q
M=
V
Trong đó: M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định.
P là mức giá cả.
Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông.
V là số vòng lưu thông của đồng tiền.
Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở nên phổ biến thì số
lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:
P .Q−(G 1+G2)+G3
M=
V
Trong đó: P.Q là tổng giá cả hàng hóa
G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu
G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau
G3 là tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán
V là số vòng quay trung bình của tiền tệ
d. Quy luật cạnh tranh
Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh đua kinh
tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa nhằm có được những ưu thế về sản xuất
cũng như tiêu thụ và thông qua đó mà thu được lợi ích tối đa.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên thường xuyên, quyết
liệt hơn.
Cạnh tranh nội bộ trong ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng một ngành,
cùng sản xuất một loại hàng hóa.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh giữa các ngành với
nhau.
Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
 Tích cực:
- Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
- Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường.
- Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ các nguồn lực.
- Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
 Tiêu cực:
- Thứ nhất, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại môi trường kinh doanh.
- Thứ hai, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội.
- Thứ ba, cạnh tranh không lành mạnh gây làm tổn hại phúc lợi của xã hội.
2 .Vai trò của một số chủ thể tham gia thị trường.
a. Người sản xuất
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra thị trường
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm các nhà sản xuất, đầu tư,
kinh doanh hàng hóa dịch vụ… Họ là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm cho
xã hội để phục vụ tiêu dùng.
Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối với con người,
trách nhiệm cung cấp những hàng hóa dịch vụ không làm tổn hại tới sức khỏe và lợi ích của con
người trong xã hội.
b. Người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn như cầu tiêu
dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự thành bại của người sản xuất.
Người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định hướng sản xuất. Do đó, ngoài việc thỏa mãn
nhu cầu mình, người tiêu dùng cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã
hội.
c. Các chủ thể trung gian trong thị trường
Do sự phát triển của sản xuất và trao đổi dưới tác động của phân công lao động xã hội, làm cho
sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và trao đổi ngày càng sâu sắc, các chủ thể trung gian trong
thị trường đã xuất hiện.
Những chủ thể này có vai trò ngày càng quan trọng để kết nối, thông tin trong các quan hệ mua,
bán; làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cho sản xuất và tiêu dùng trở nên ăn
khớp với nhau.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị trường không
phải chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều chủ thể trung gian phong phú trên tất cả
các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới chứng khoán, trung gian môi giới nhà đất, trung
gian môi giới khoa học công nghệ,...Các trung gian trong thị trường không chỉ hoạt động trên
phạm vi thị trường trong nước mà còn trên phạm vi quốc tế.
Bên cạnh đó có nhiều loại hình trung gian không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức (lừa đảo,
môi giới bất hợp pháp,...) cần được loại trừ.
d. Nhà nước
 Đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế.
“Ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người,
tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn,
hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ
mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự đồng thuận đó. Là những
công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho phát triển và tăng trưởng
kinh tế, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải phản ánh đúng những nhu cầu
chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế…; mặt khác, phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu,
lợi ích cụ thể của các chủ thể đó.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhìn chung, không ngừng được nâng cao: thời kỳ 1986 – 1990, tăng
trưởng GDP bình quân đạt 4,5%/năm; 1996 – 2000: 7%/năm; 2001 – 2005: 7,5%/năm; năm 2007
đạt 8,48%. Năm 2008, dù phải đối mặt với không ít khó khăn, nhưng Việt Nam vẫn đạt mức tăng
trưởng GDP là 6,23%.
 Bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội
Mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là góp
phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Thu nhập của nhân
dân đã có bước cải thiện đáng kể. Năm 1995, GDP bình quân đầu người mới đạt 289 USD; năm
2005: 639 USD; năm 2007: 835 USD. Năm 2008, GDP bình quân theo đầu người đã đạt trên
1.000 USD. Với mức thu nhập này, Việt Nam vượt qua ngưỡng nước thu nhập thấp(2)…. Có
chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính
sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực của nhiều
chủ thể kinh tế khác nhau… là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề này.
 Đảm bảo công bằng xã hội
Bảo đảm yêu cầu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện đầy đủ ngay trong từng bước
và từng chính sách phát triển kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước ta trong việc thực
hiện chức năng phát triển, tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Nhà nước chủ động tham gia kinh tế thị trường nhằm bảo hộ cho hình thức tổ chức sản xuất chứa
đựng các yếu tố của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho chúng phát huy ưu
thế của mình; tạo vị thế cho kinh tế nhà nước có sức mạnh định hướng xây dựng mô hình kinh
tế ; ngăn chặn các xu hướng phát triển kinh tế không có lợi cho quảng đại người lao động.
Nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường cho thị trường phát triển, như tạo lập kết cấu
hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo lập sự phân công lao động theo ngành,
nghề, vùng kinh tế qua việc nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng
vùng, ngành và nhu cầu chung của xã hội…
Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác những cơ quan truyền thông mạnh nhất của
quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp thông tin thị trường cho các chủ thể kinh tế để các chủ thể
này chủ động lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện các
giao dịch kinh tế, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của
mình.
 Nhà nước ta là chủ thể chính của nền giáo dục – đào tạo
Nhà nước đã có nhiều chính sách về giáo dục – đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học từ 13,5% năm 1996 tăng lên 19,7% năm 2005. Năm
1996 mới có 12,31% lực lượng lao động được đào tạo, đến nay, tỷ lệ này đạt 31%. Về nỗ lực
nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế: năm 1990, tỷ lệ tích lũy so với GDP mới đạt 2,9%, năm
2004 là 35,15% và những năm gần đây đều có xu hướng tăng lên…
- Ngoài ra Tổng quyết toán chi ngân sách cho lĩnh vực giáo dục năm 2013 là 155.604 tỷ đồng và
năm 2017 là 248.118 tỷ đồng.
II . LIÊN HỆ VẤN ĐỀ Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng về thị trường hàng hóa Việt Nam hiện nay
Sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị
trường hàng hoá, dịch vụ. Thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ta từ sau năm 1986 đã có sự
biến đổi về chất và phát triển vượt bậc về lượng. Qua 17 năm đổi mới (1986- 2003) ta có thể
khái quát tình hình thị trường hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam như sau:
- Một là, thị trường được thống nhất trong toàn quốc và bước đầu hình thành hệ thống thị
trường hàng hoá với các cấp độ khác nhau. Thực hiện tự do hoá thương mại, tự do hoá
lưu thông đã làm cho hàng hoá giao lưu giữa các vùng, các địa phương không bị ách tắc
và ngăn trở.
- Hai là, trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế, đông đảo thương nhân với các
hình thức sở hữu khác nhau.

Trong đó

Quốc doanh Tập thể Tư nhân

Năm Tổng số Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng số Tỷ trọng (%)

1990 19031,2 5788,7 30,4 519,2 2,7 519,2 66,9

1991 33403,6 9000,8 26,9 662,4 2,0 662,4 71,1

1992 51214,5 12370,6 24,2 563,7 1,1 563,7 74,7

1993 67273,3 14650,0 21,8 612,0 0,9 612,0 77,3

1994 93940,0 22921 24,4 751,5 0,8 751,5 74,8

1995 121160,0 27367,0 23,6 1060,0 0,9 1060,0 75,5

1996 145874,0 31123,0 23,3 1358,0 0,9 1358,0 75,8

1997 161899,7 32369,2 22,0 1244,6 0,8 1244,6 77,2

1998 185598,7 36093,8 19,4 1212,6 0,7 1212,6 79,9

1999 200923,7 37500,0 18,6 1400,0 0,7 1400,0 80,7

2000 220400 39231,2 17,8 1763,2 0,8 1763,2 81,4

2001 245300 40965,1 16,7 2453,0 1,0 2453,0 82,3

2002 277000 45428 16,4 3601 1,3 3601 82,3

2003 310500 50301 16,2 4036,5 1,3 4036,5 82,5

Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hoá phân theo thành phần kinh tế (giá hiện hành )
Nguồn: Niên giám Thống kê 2001 và kinh tế Việt Nam & thế giới 2003- 2004
Năm ĐVT Tổng KNXK Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu

1980 1.652,8 3386 13142

1985 25559 6985 18574

1990 51564 24040 27524

1991 44252 20871 23381

1992 51214 25807 25407

1993 69092 29852 39240

1994 98801 36000 50000

1995 136043 54489 81554

1996 183995 72559 111436

1997 207773 91850 115920

1998 208560 93610 114950

1999 231590 115230 116360

2000 301192 144827 156365

2001 31189 15027 16162

2002 Triệu R- USD 35830 16530 19300

2003 Triệu USD 44875 19880 24995


Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 1980- 2003

- Ba là, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường đã thay đổi một cách cơ bản từ chỗ thiếu
hụt hàng hoá sang  trạng thái đủ và dư thừa.Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật của
kinh tế thị trường - Quy luật cung cầu trong điều kiện tự do hoá.
- Bốn là, thị trường trong nước bước đầu đã có sự thông thương với thị trường quốc tế. Dù
ở mức độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị trường
quốc tế đã bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Điều này không chỉ diễn ra đối
với những hàng hoá xuất nhập khẩu mà cả hàng hoá nội địa .
Biểu đồ 1: Diễn biến kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và cán cân thương
mại giai đoạn 2006-2015

- => Dù ở mức độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị
trường quốc tế đã bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Điều này không chỉ diễn
ra đối với những hàng hoá xuất nhập khẩu mà cả hàng hoá nội địa .
- Năm là, thị trường quốc tế của Việt Nam đã có bước phát triển cả về lượng và chất.
- Sáu là, sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại đã có
nhiều đổi mới.
- Bảy là, trên thị trường đang tồn tại những ách tắc và mâu thuẫn lớn.

2.2.1 Lợi thế thị trường hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.
Dù hàng hóa từ nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều nhưng sản phẩm của doanh
nghiệp (DN) trong nước vẫn còn nhiều lợi thế khi người tiêu dùng bên cạnh việc quan
tâm đến yếu tố giá cả, chất lượng còn chú trọng đến nguồn gốc quốc gia.  
Niềm tự hào quốc gia là yếu tố rất quan trọng đối với người tiêu dùng trong việc quyết định
mua sản phẩm của DN nội hay ngoại tại Việt Nam. Đã có gần phân nửa người tiêu dùng tham
gia khảo sát cho biết sẽ chọn sản phẩm nội địa (48%) thay vì sản phẩm của DN ngoại (9%). Bên
cạnh đó, yếu tố giá (40% người Việt chọn nhãn hàng nội địa) và các thành phần chế biến an toàn
(27%) cũng ảnh hưởng đến quyết định chọn lựa sản phẩm nội hay ngoại của người tiêu dùng.
+ Khảo sát này cũng phù hợp với thực tế những năm qua. Chính niềm tự hào quốc gia đã giúp
hàng Việt có chỗ đứng trên thị trường. Kết quả cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam" do Bộ Chính trị phát động đã cho thấy điều đó. Sau hơn 6 năm triển khai, có
đến 92% người tiêu dùng rất quan tâm đến cuộc vận động, 93% người tiêu dùng xác định khi
mua sắm sẽ ưu tiên chọn hàng Việt Nam, 54% người tiêu dùng khuyên người thân trong gia
đình, bạn bè, người quen biết nên mua hàng Việt Nam.
 Việc tận dụng tốt mạng lưới phân phối trực tiếp đến các cửa hàng cùng với kiến thức thị
trường và mối quan hệ tốt với nhà bán lẻ đã giúp các DN này hoạt động linh hoạt trong thị
trường truyền thống. Người tiêu dùng đánh giá sản phẩm của DN trong nước có chất lượng
không thua gì hàng của các công ty đa quốc gia.

2.2.2 Hạn chế thị trường hàng hóa ở Việt Nam .


Nói chung thị trường hàng hoá, dịch vụ ở Việt Nam mới bước đầu hình thành và trình độ còn
thấp. Về cơ bản thị trường vẫn là manh mún, phân tán và nhỏ bé.
+ Sức mua còn thấp.
+ Hàng hoá bị ứ đọng khó tiêu thụ đang là bài toán khó đối với Nhà nước, với doanh
nghiệp.
+ Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém phẩm chất lưu thông
tràn lan trên thị trường đang là vấn đề báo động đỏ.
+ Thị trường các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa chậm phát triển và không
đáp ứng được yêu cầu của nhân dân.
+ Thị trường xuất khẩu phát triển nhưng không ổn định, thiếu bền vững, khả năng cạnh
tranh sản phẩm, cạnh tranh của doanh nghiệp còn ở mức thấp. Sự tập trung quá mức vào
một vài thị trường nên khi có bất ổn ở đây thì lúng túng và khó khăn trong xuất khẩu.
+ Tình trạng nhập siêu lớn và tốc độ gia tăng cao.
+ Sự kết hợp điều tiết của Nhà nước và điều tiết của thị trường chưa thật linh hoạt, nhạy
bén đã gây ra những cơn sốt trên thị trường.
+ Thị trường hàng hoá, dịch vụ ở nước ta vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tự phát và bất ổn.
= > Những vấn đề trên đòi hỏi phải có các giải pháp quyết liệt và đồng bộ để cho thị
trường hàng hoá, dịch vụ phát triển ổn định, bền vững.
2.2.3 Xu hướng vận động của thị trường nước ta
Trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động, tiếp cận một cách tổng quát,
có thể dự báo các xu hướng vận động của thị trường nước ta trong những năm tới như sau:
- Một là, thị trường sẽ được thúc đẩy phát triển theo hướng hình thành thị trường cạnh
tranh thực sự do áp lực cả từ phía thực thi các chính sách của Chính phủ, từ phía hoạt
động của các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường cũng như yêu cầu của các cam kết
quốc tế.
- Hai là, thị trường sẽ phát triển theo hướng vừa gắn kết chặt chẽ giữa thị trường đô thị,
nông thôn, miền núi và có sự bứt phá nhanh, vượt trội của thị trường đô thị, thị trường
vùng - khu vực có lợi thế so sánh về quy mô sản xuất, khả năng thu gom, trung chuyển
hàng hoá.
- Ba là, thị trường ngày càng "nhạy cảm" hơn với các biến động của thị trường khu vực và
quốc tế.
Trong điều kiện nền kinh tế mở với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nhất là các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và các doanh nghiệp (hãng) phân phối hàng hoá sản xuất
ở nước ngoài trên thị trường Việt nam sẽ kéo theo những tác động của thị trường ngoài nước đến
thị trường nội địa nước ta. Cường độ của những tác động đó tỷ lệ thuận với tỷ trọng của các
doanh nghiệp nước ngoài trong nền kinh tế nói chung và hoạt động thương mại nói riêng. Trong
xu thế này, thị trường các hàng hoá cơ bản có ảnh hưởng lớn đến thị trường hàng hoá khác; các
hàng hóa, tư liệu đầu vào trung gian cho các ngành sản xuất trong nước sẽ "nhạy cảm" hơn đối
với những tác động của thị trường ngoài nước.
Sự nhích lại gần và dần dần thống nhất các vùng kinh tế lớn của đất nước về quy mô các loại thị
trường, tốc độ phát triển, cơ cấu và giá cả hàng hoá, dịch vụ (các loại) cũng là một xu thế. Song
song với xu thế trên sẽ là quá trình tiếp tục tự do hoá (có sự quản lý, định hướng vĩ mô của Nhà
nước) các yếu tố cơ bản và nhạy cảm nhất của thị trường (giá cả hàng hoá và dịch vụ, tỷ giá hối
đoái và lãi suất...) để chúng được hình thành và vận động theo các quy luật của thị trường, nhất
là quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh.
Văn hóa ưu tiên ủng hộ tiêu dùng nội địa là điều căn bản cho việc xác lập và phát triển sức cạnh
tranh của một nền kinh tế, một quốc gia. Vì thế, cần tập trung xây dựng một chiến lược cho hàng
hóa Việt Nam, chiến lược ấy phải hướng tới tạo lập một không gian đầy đủ cho tự do kinh
doanh, sản xuất, cho sáng tạo để thị trường dẫn dắt doanh nghiệp tồn tại và phát triển, trên
nguyên tắc thỏa mãn ngày càng cao nhu cầu của người tiêu dùng Việt Nam.
2.2.4 Giải pháp phát triển thị trường hàng hóa tại Việt Nam
a. Phát triển và đa dạng hóa các kênh phân phối
- Với hệ thống bán lẻ của các tập đoàn, tổng công ty ngành hàng, thiết lập và phát triển mối
liên kết dọc có quan hệ gắn kết chặt chẽ, ổn định và ràng buộc trách nhiệm trên từng công
đoạn của quá trình lưu thông từ sản xuất, xuất nhập khẩu đến bán buôn và bán lẻ thông
qua các quan hệ trực tuyến hoặc quan hệ đại lý, mua bán.
- Thiết lập hệ thống phân phối trên cơ sở xây dựng và phát triển hệ thống tổng kho bán
buôn, hệ thống trung tâm logisstics được bố trí theo khu vực thị trường để tiếp nhận hàng
hoá từ các cơ sở sản xuất, nhập khẩu và cung ứng hàng hoá cho mạng lưới bán buôn, bán
lẻ (cửa hàng trực thuộc, các đại lý) trên địa bàn.
- Khuyến khích các doanh nghiệp lớn kinh doanh các nhóm, mặt hàng có mối liên hệ trong
tiêu dùng tạo mối liên kết ngang trong khâu phân phối để giảm chi phí đầu tư, chi phí lưu
thông của doanh nghiệp và giảm chi phí của xã hội nhờ tiết kiệm được thời gian mua sắm
- + Có chính sách, giải pháp bảo vệ hệ thống bán lẻ trong nước khi thực hiện cam kết mở
cửa thị trường dịch vụ phân phối cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
b. Thực thi các chương trình khai thác thị trường nội địa
- Thứ nhất, cần sớm ban hành hệ thống luật liên quan tới bán lẻ như Luật Bán lẻ, Luật
Chất lượng sản phẩm… Bổ sung các quy chuẩn hiện có để hướng dẫn kinh doanh bán lẻ
phát triển lành mạnh và làm cơ sở để các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm soát thị
trường.
- Thứ hai, quy hoạch tổng thể ngành bán lẻ trong cả nước và từng địa phương. Từ đó, đầu
tư nâng cấp kết cấu hạ tầng thương mại theo hướng văn minh, hiện đại, trước mắt, tập
trung cho các chuỗi siêu thị bán lẻ, hệ thống các chợ.
- Thứ ba, có định chế tài chính, tín dụng, chính sách đầu tư, đất đai thích hợp để hỗ trợ
thực hiện quy hoạch xây dựng hạ tầng thương mại.
- Thứ tư, tổ chức cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” đi vào chiều sâu,
thực chất, đến với số đông người tiêu dùng. Hiệp hội Bán lẻ và Siêu thị phải làm đầu mối
vận động các đơn vị hội viên nâng cao tỷ trọng hàng Việt Nam tại các trung tâm bán lẻ và
siêu thị, kết hợp với các biện pháp quảng cáo, khuyến mại phù hợp.
c. Hỗ trợ doanh nghiệp phân phối Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh và phát triển thị
trường
- Tăng cường đối thoại công tư về chính sách phát triển hệ thống phân phối và các biện
pháp mở cửa thị trường phân phối (kể cả việc mở cửa ngoài phạm vi cam kết).
- Hoàn thiện quy chế quản lý về quảng cáo, ngăn chặn tình trạng các công ty mẹ ở nước
ngoài chi trả quảng cáo cho các công ty trong nước vượt quá định mức, tạo ra sự bất bình
đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
d. Ứng dụng thương mại điện tử để thu thập và sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin
thị trường
+ Thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp thu được nguồn thông tin thị trường phong phú,
cập nhật và giảm chi phí thu thập thông tin. Để tận dụng có hiệu quả sự hỗ trợ của Nhà nước, các
doanh nghiệp cần có giải pháp tích cực hoàn thiện kết cấu hạ tầng thông tin, sử dụng các chương
trình phần mềm hệ thống thích hợp với hoạt động của doanh nghiệp, hoàn thiện và đào tạo đội
ngũ làm thông tin để tận dụng được sự hỗ trợ của Nhà nước
e. Xây dựng hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT)
- Hàng rào được xây dựng bằng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, an toàn vệ sinh dịch tễ,
đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng có liên quan. Theo đó,
các tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng, các phương pháp sản xuất và chế biến, các
thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp nhận... cho đến các quy định về
phương pháp thống kê, chọn mẫu và đánh giá đều phải theo các định chuẩn quốc gia
được xây dựng phù hợp với quy định của quốc tế.
- Hàng rào được xây dựng theo các tiêu chuẩn chế biến và sản xuất dựa theo các quy định
về môi trường, chủ yếu áp dụng cho giai đoạn sản xuất, bao gồm từ các định chuẩn về
chế độ nuôi trồng... đến những quy định liên quan đến nguyên vật liệu dùng làm bao bì,
về tái sinh, về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng. Kèm theo đó là yêu cầu về nhãn
mác, đóng gói, bao bì, lệ phí môi trường, nhãn sinh thái... được quy định chặt chẽ bằng hệ
thống văn bản pháp luật.
III : ĐÁNH GIÁ
3.1. Ưu điểm của kinh tế thị trường:
a. Là điều kiện để thúc đẩy các hoạt động sản xuất:
Trong nền kinh tế thị trường nếu lượng cầu cao hơn cung thì giá cả hàng hoá sẽ tăng lên. Mức lợi
nhuận cũng tăng, điều này khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Ai có cơ chế sản xuất
hiệu quả hơn, thì có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Nhờ đó cho phép tăng quy mô sản xuất. Do đó
các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả hơn. Những người sản
xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp. Khả năng mua nguồn lực sản
xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải dần.
Do đó các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường thì đòi hỏi họ
phải không ngừng đổi mới. Đổi mới về công nghệ, quy trình sản xuất, quản lý, về các sản phẩm
của mình để đáp ứng thị trường.
b. Có được một lực lượng sản xuất lớn-đáp ứng tối đa nhu cầu của người tiêu dùng:
Kinh tế thị trường tạo ra nhiều sản phẩm giúp thỏa mãn nhu cầu của tiêu dùng ở mức tối đa. Tại
nhiều nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mức sống của người tiêu dùng đã bị trượt xuống thấp
hơn nhiều so với các quốc gia trong nền kinh tế thị trường.
Mặc dù về mặt nguyên lí, kinh tế kế hoạch hóa tập trung với mục tiêu là tạo ra một hệ thống
công bằng hơn đối với quá trình phân chia của cải. Nhưng khuyết điểm của hệ thống này là đã
không cung cấp đủ các mặc hàng thiết yêu. Chẳng hạn như thực phẩm, các dịch vụ công cộng,
nhà ở hoặc những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày vì không tạo được động
lực thúc đẩy sản xuất.
c. Tạo động lực để con người thoã sức sáng tạo:
Một nền kinh tế cho phép con người tự do cạnh tranh. Điều này đồng nghĩa đòi hỏi mọi người
phải không ngừng sáng tạo để tồn tại. Tìm ra những phương thức mới cải tiến cho công việc, đúc
rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển chọn,
sử dụng con người. Cũng là nơi để đào thải những quản lý chưa đạt được hiệu quả cao. Ngoài ra,
còn tạo nên một môi trường kinh doanh dân chủ, tự do, công bằng.
d. Kinh tế thị trường cung cấp nhiều việc làm hơn:
Một ví dụ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Hoa
Kỳ. Các doanh nghiệp có ít hơn 20 nhân viên ở Hoa Kỳ chiếm 89,6% lực lượng lao động tại
nước này. Với nền kinh tế thị trường, sự tập trung vào đổi mới cho phép các doanh nghiệp nhỏ
này tìm ra những thị trường ngách và cung cấp các công việc với mức lương cao ở địa phương.
3.2. Nhược điểm của kinh tế thị trường:
 Kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội:
Gia tăng khoảng cách giữa giàu và nghèo dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội. Người giàu sẽ sử
dụng lợi thế của mình để trở nên giàu hơn. Trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn.
Sau một thời gian cạnh tranh, các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các hãng sản xuất lớn mạnh thôn tính.
Cuối cùng chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất lớn có tiềm lực mạnh. Họ sẽ thâu tóm phần lớn
ngành kinh tế. Dần dần kinh tế thị trường biến thành độc quyền chi phối.
 Dễ dẫn đến mất cân bằng cung cầu dẫn đến khủng hoảng kinh tế:
Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất. Ban đầu, các công ty
đầu tư phát triển sản xuất khiến nguồn cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng.
Hiện tượng này tích lũy qua nhiều năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa. Nghĩa là hàng hoá bị ứ
đọng, dẫn đến giá cả sụt giảm. Hàng hoá không bán được để thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt
doanh nghiệp phá sản và khủng hoảng kinh tế là kết quả cuối cùng
Kinh tế thị trường phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển, lúc đó
vai trò của kinh tế nhà nước bị giảm sút và chịu sức ép mạnh mẽ tư các thành phần kinh tế khác.
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh trạnh gắt gao giã các nhà sản xuất, các nhà phân phối
dẫn đến thất nghiệp tăng cao hoạt động phúc lợi xã hội bị giảm sút.
Nền kinh tế thị trường do các nhà sản xuất hàng hoá dịch vụ chạy theo lợi nhuận gây ra hậu quả
về môi trường sinh thái làm giảm tốc độ tăng trưởng bền vững của quốc gia.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại là các tệ nạn xã hội mới nảy sinh càng ngày càng gia
tăng.
Nền kinh tế thị trường với bản chất của nó là lợi nhận tối đa thì việc cần định hướng cho các
thành phần kinh tế là rất quan trọng, nếu không sẽ có nguy cơ đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa
đối lập với bản chất của nhà nước ta.
3.3 Giải pháp khắc phục khó khăn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
a. Mở rộng phân công và phân công lao động xã hội
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng
hoá,cần phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân bố lại lao động và dân cư trong phạm cả
nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá nhằm khai
thác mọi quyền lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả, cơ sở vật chất-kỹ thuật
hiện có và tạo việc làm cho người lao động. Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong
nước, phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm gắn phân công lao động trong
nước với phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Cần nhận thức, xem xét đầy đủ cả về nội dung và cấu trúc quan hệ sở hữu. Xem xét mối quan hệ
biện chứng giữa quan hệ sở hữu với chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng kinh doanh.
Phải xây dựng quan hệ sản xuất, phải tiến hành từ thấp đến cao, đa dạng hoá hình thức sở hữu và
bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. Khắc phục những
nhận thức không đúng về vai trò của sở hữu nhà nước cũng như vai trò của thành phần kinh tế
nhà nước.
Kinh tế nhà nước phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác để trở thành nền
tảng của nền kinh tế có khả năng, có hướng dẫn các thành phần kinh tế khai thác phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
b. Giải quyết vấn đề sở hữu
Thực chất của quan hệ sở hữu là lợi ích, mà lợi ích đó lại được thể hiện ở quyền sở hữu, quyền
sử dụng, quyền làm chủ quá trình sản xuất và sản phẩm làm ra. Bảo đảm lợi ích không chỉ phản
ánh ở nguyên tắc phân phối mà còn ở những hình thức phân phối thể hiện trong quan hệ sở hữu
và phải được thể chế hoá.
Quan hệ sở hữu phải được xem xét và xây dựng trong mối tương quan với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và trình độ xã hội của nền kinh tế. Cần xây dựng các loại hình sở hữu, quy mô
và cấp độ phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đây là một vấn đề phức
tạp, cần nắm vững nội dung bản chất, hình thức biểu hiện và điều kiện hình thành các quan hệ sở
hữu.
Cần nhận thức, xem xét đầy đủ cả về nội dung cấu trúc quan hệ sở hữu. Xem xét mối quan hệ
biện chứng giữa quan hệ sở hữu với quan hệ phân phối và quan hệ quản lý giữa quyền sở hữu
với quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng kinh doanh.
Phải xây dựng quan hệ sản xuất tiến hành từ thấp đến cao, đa dạng hoá hình thức sở hữu và bước
đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. Khắc phục những nhận
thức không đúng về vai trò của sở hữu nhà nước cũng như vai trò của thành phần kinh tế nhà
nước.
c. .Xây dưng cơ sở hạ tầng
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng vai trò quan trọng cho sự
phát triển kinh tế hàng hoá. Hệ thống đó ở nước ta đã quá lạc hậu, không đòng bộ, cân đối
nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều đến quyết tâm của các nhà đầu tư cả ở trong nước lẫn nước
ngoài; cản trở phát triển kinh tế hàng hoá ở mọi miền đất nước.
Vì thế, cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấu đó. Trước mắt, nhà nước
cần tập trung ưu tiên xây dựng, nâng cấp một số yếu tố thiết yếu nhất như đường sá, cầu cống,
bến cảng, sân bay, điện nước, hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ, bảo hiểm.
d. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ
Trong kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thường
xuyên đổi mới công nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy, phải đẩy
mạnh công cuộc cách mạng khoa học-công nghệ vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá.
So với thế giới, trình độ công nghệ của ta còn thấp kém không đồng bộ, do đó khả năng cạnh
tranh của hàng hoá nước ta so với nước ngoài trên cả thị trường nội địa và thế giới còn kém.
Xuất phát từ những nhiệm vụ đó, giải pháp đặt ra đối với khoa học và công nghệ là:
-Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng
tạo và gắn ứng dụng khoa học và công nghệ với sản xuất kinh doanh, quản lý, dịch vụ.
-Tăng đầu tư ngân sách và có chính sách và có chính sách khuyến khích, huy động các nguồn lực
khác để đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao.
Coi trọng nghiêm cứu cơ bản trong các ngành khoa học. Sắp xếp và đổi mới hệ thống nghiên cứu
khoa học, phối hợp chặt chẽ việc nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học-công nghệ với khoa
học xã hội và nhân văn.Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ đặc biệt đối với các nhà khoa học có công
trình nghiên cứu xuất sắc.
e. .Mở rộng, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới: Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều
kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và dân chủ.
Giải pháp của vấn đề mở rộng quan hệ đối ngoại là:
-Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Nói chủ động hội
nhập nghĩa là độc lập tự chủ, tự quyết định công việc.
-Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước
láng giềng, các nước ASEAN.
-Tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thông, các nước độc lập dân
tộc, các nước trong phong trào Không liên kết.
-Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và tổ chức quốc tế.
-Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
-Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền.
-Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi
chính phủ quốc gia và quốc tế.
-Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại và văn hoá đối ngoại.
-Bồi dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, đạo đức, phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm
công tác đối ngoại.
-Hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp,
nâng cao hiệu quả của công tác đối ngoại.
Kết luận:
Kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, được Đảng và Nhà nước Việt Nam vận
dụng một cách đúng đắn, khách quan, khoa học, sáng tạo, trở thành nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh vị trí, vai trò của con người chính là động lực và
cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển.
Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do con người đóng vai
trò động lực không chỉ vì mục tiêu kinh tế mà quan trọng hơn còn vì các mục tiêu xã hội, vì sự
phát triển toàn diện các mặt của con người, vì cuộc sống hạnh phúc của con người. Trước đây, C.
Mác đã từng nói rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mỗi người đều coi người
khác là phương tiện để lợi dụng. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta đặt con người lên hàng đầu, coi con người là động lực nhưng cũng là mục tiêu
của sự phát triển. Bởi vậy, Đảng và Nhà nước ta chủ trương không đợi đến khi kinh tế phát triển
cao rồi mới thực hiện các mục tiêu xã hội. Từ rất sớm, Đảng và Nhà nước đã chủ trương “tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt
quá trình phát triển”(9). Chủ trương này xuyên suốt các kỳ đại hội của Đảng và ngày càng được
cụ thể hóa trên tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm phục vụ cho sự phát triển con người một
cách tốt nhất. Đây là sự lựa chọn đúng đắn, khoa học, táo bạo, sáng tạo và đầy tính nhân văn. Sự
lựa chọn tất yếu ấy dựa trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm, kế thừa có chọn lọc những điểm mạnh
trong thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường đã có trong lịch sử, đồng thời cũng là xuất
phát từ bản chất nhân văn của chủ nghĩa xã hội để khẳng định đường lối xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa lấy con người làm động lực và mục tiêu phát triển, nghĩa là
tất cả là do con người và vì con người.

You might also like