Professional Documents
Culture Documents
KTCT
KTCT
KTCT
NHÓM : 3
LỚP HỌC PHẦN: 2115RLCP1211
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Đỗ Thị Mai
Mục tiêu cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa VN được đặt ra trước đó
là góp phần thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Sau đó đưa ra
những chính sách xã hội hợp lý ; đảm bảo phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của
chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện. Trước khi đạt được
những mục tiêu trên, ta cần phải có những kiến thức nền tảng nhất định về đề tài thị trường và
vai trò chủ thể tham gia thị trường
Sir John Templeton từng nói: ‘ thị trường đầu cơ sinh ra trong sự ảm đạm, lớn lên bằng sự hoài
nghi, phát triển nhờ lạc quan và chết bởi sự thỏa mãn’. Đằng sau câu nói ấy chúng ta có thể hiểu
được thị trường như một cuộc đua rượt đuổi cơ hội không đến thường xuyên. Do đó chúng ta
phải biết nắm bắt thời cơ ‘ khi cơn mưa vàng rơi xuống, hãy lấy xô ra để hứng chứ đừng dựng
một con đê để chắn nó’’ . Thế nhưng cho đến hiện nay tốc độ lây lan chóng mặt của COVID-19
đã buộc các quốc gia phải áp đặt các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để chống dịch đã
gây ra tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến tất cả các khâu của quá trình sản xuất -
phân phối - trao đổi - tiêu dùng vốn được liên kết trên cấp độ thế giới rơi vào tình trạng tê liệt. Vì
thế nó đang trở thành vấn đề đáng báo động cũng như ở Việt Nam bị ảnh hưởng bởi COVID-19,
các doanh nghiệp các nhà đầu tư đang gặp khó khăn về vấn đề thua lỗ. Vì sự cần thiết đó tôi đã
chọn đề tài với hy vọng sẽ cung cấp phần nào kiến thức cơ bản về thị trường và vai trò của chủ
thể tham gia thị trường.
I. THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA MỘT SỐ CHỦ THỂ THAM
GIA THỊ TRƯỜNG
1. Thị trường.
1.1. Khái niệm.
Theo nghĩa hẹp, thị trường là nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các
chủ thể kinh tế với nhau.
theo nghĩa rộng, thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán
hàng hóa trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất
định.
=> Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các
gia đình về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản
xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu cho ai đều được
dung hòa bằng sự điều chỉnh giá cả.
1.2. Vai trò của thị trường.
Một là, thị trường là điều kiện, môi trường cho sản xuất phát triển.
Hai là, thị trường kích thích sự sáng tạo của mọi thành viên trong xã hội, tạo ra cách thức
phân bố nguồn lực hiệu quả trong nền kinh tế.
Ba là, thị trường gắn kết nền kinh tế thành một chỉnh thể, gắn kết nền kinh tế quốc gia với nền
kinh tế thế giới.
1.3. Cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là hệ thống các quan hệ kinh tế mang đặc tính tự điều chỉnh các cân đối của
nền kinh tế theo yêu cầu của các quy luật kinh tế.
Dấu hiệu đặc trưng của cơ chế thị trường là cơ chế hình thành giá cả một cách tự do. Người
bán và người mua thông qua thị trường để xác định giá cả của hàng hóa, dịch vụ.
Cơ chế thị trường là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn vốn, tài nguyên,
công nghệ, sức lao động, thông tin, trí tuệ,... Đây là một kiểu cơ chế vận hành nền kinh tế mang
tính khách quan, do bản thân nền sản xuất hàng hóa hình thành.
1.4. Nền kinh tế thị trường,
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế
hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường,
chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường.
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn với nhiều mô hình khác nhau, song chúng
đều có những đặc trưng bao gồm:
- Thứ nhất, kinh tế thị trường đòi hỏi sự đa dạng của các chủ thể kinh tế, nhiều hình
thức sở hữu. Các chủ thể kinh tế bình đẳng trước pháp luật,
- Thứ hai, thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bố các nguồn lực xã hội
thông qua các hoạt động của các thị trường bộ phận như thị trường hàng hóa, thị
trường dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản,
thị trường khoa học công nghệ,...
- Thứ ba, giá cả được hình thành theo nguyên tắc thị trường; cạnh tranh vừa là môi
trường, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển.
- Thứ tư, động lực trực tiếp của các chủ thể sản xuất kinh doanh là lợi ích kinh tế - xã
hội.
- Thứ năm, nhà nước là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các quan
hệ kinh tế, đông thời, nhà nước thực hiện khắc phục những khuyết tật của thị trường,
thức đẩy những yếu tố tích cực, đảm bảo sự bình đẳng xã hội và sự ổn định của toàn
bộ nền kinh tế.
- Thứ sáu, kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, thị trường trong nước gắn liền với thị
trường quốc tế.
Nền kinh tế thị trường có một số ưu thế và khuyết tật sau:
Ưu thế của nền kinh tế thị trường :
- Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự hình thành ý tưởng
mới của các chủ thể kinh tế.
- Hai là, nền kinh tế thị trường luôn thực hiện phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể,
các vùng miền cũng như lợi thế quốc gia trong quan hệ với thế giới.
- Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của
con người, từ lúc thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội.
Khuyết tật của nền kinh tế thị trường
- Một là, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
những rủi ro khủng hoảng.
- Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên
không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội.
- Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong
xã hội.
1.5. Một số quy luật kinh tế chủ yếu của thị trường
a. Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa. ở đâu có sản xuất và trao đổi
hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị
Quy luật giá trị yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải được tiến hành trên cơ sở của
hao phí lao động xã hội cần thiết. Người sản xuất muốn bán được hàng hóa trên thị trường, muốn
được xã hội thừa nhận sản phẩm thì lượng giá trị của một hàng hóa cá biệt phải phù hợp với thời
gian lao động xã hội cần thiết.
b. Quy luật cung - cầu
Quy luật cung cầu là quy luật kinh tế điều tiết quan hệ giữa cung (bên bán) và cầu (bên mua)
hàng hóa trên thị trường. Quy luật này đòi hỏi cung - cầu phải có sự thống nhất, nếu không có sự
thống nhất giữa chúng thì sẽ có các nhân tố xuất hiện điều chỉnh chúng.
Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thấp hơn giá trị; ngược lại, nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao
hơn giá trị; nếu cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị.
Quy luật cung - cầu có tác dụng điều tiết quan hệ giữa sản xuất và lưu thông hàng hóa; làm biến
đổi cơ cấu và dung lượng thị trường, quyết định giá cả thị trường.
c. Quy luật lưu thông tiền tệ
Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, ở mỗi thời kỳ cần phải đưa vào lưu thông một số
lượng tiền tệ thích hợp. Số lượng tiền cần cho lưu thông hàng hóa được xác định theo một quy
luật là quy luật lưu thông tiền tệ. Theo quy luật này, số lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng
hóa ở mỗi thời kỳ nhất định được xác định bằng công thức tổng quát sau:
P .Q
M=
V
Trong đó: M là số lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong một thời gian nhất định.
P là mức giá cả.
Q là khối lượng hàng hóa dịch vụ đưa ra lưu thông.
V là số vòng lưu thông của đồng tiền.
Khi lưu thông hàng hóa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt trở nên phổ biến thì số
lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:
P .Q−(G 1+G2)+G3
M=
V
Trong đó: P.Q là tổng giá cả hàng hóa
G1 là tổng giá cả hàng hóa bán chịu
G2 là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau
G3 là tổng giá cả hàng hóa đến kỳ thanh toán
V là số vòng quay trung bình của tiền tệ
d. Quy luật cạnh tranh
Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh đua kinh
tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa nhằm có được những ưu thế về sản xuất
cũng như tiêu thụ và thông qua đó mà thu được lợi ích tối đa.
Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở nên thường xuyên, quyết
liệt hơn.
Cạnh tranh nội bộ trong ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong cùng một ngành,
cùng sản xuất một loại hàng hóa.
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh giữa các ngành với
nhau.
Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Tích cực:
- Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
- Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường.
- Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ các nguồn lực.
- Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu của xã hội.
Tiêu cực:
- Thứ nhất, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại môi trường kinh doanh.
- Thứ hai, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội.
- Thứ ba, cạnh tranh không lành mạnh gây làm tổn hại phúc lợi của xã hội.
2 .Vai trò của một số chủ thể tham gia thị trường.
a. Người sản xuất
Người sản xuất hàng hóa là những người sản xuất và cung cấp hàng hóa, dịch vụ ra thị trường
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Người sản xuất bao gồm các nhà sản xuất, đầu tư,
kinh doanh hàng hóa dịch vụ… Họ là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất, sản phẩm cho
xã hội để phục vụ tiêu dùng.
Ngoài mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, người sản xuất cần phải có trách nhiệm đối với con người,
trách nhiệm cung cấp những hàng hóa dịch vụ không làm tổn hại tới sức khỏe và lợi ích của con
người trong xã hội.
b. Người tiêu dùng
Người tiêu dùng là những người mua hàng hóa, dịch vụ trên thị trường để thỏa mãn như cầu tiêu
dùng. Sức mua của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự thành bại của người sản xuất.
Người tiêu dùng có vai trò rất quan trọng trong định hướng sản xuất. Do đó, ngoài việc thỏa mãn
nhu cầu mình, người tiêu dùng cần phải có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của xã
hội.
c. Các chủ thể trung gian trong thị trường
Do sự phát triển của sản xuất và trao đổi dưới tác động của phân công lao động xã hội, làm cho
sự tách biệt tương đối giữa sản xuất và trao đổi ngày càng sâu sắc, các chủ thể trung gian trong
thị trường đã xuất hiện.
Những chủ thể này có vai trò ngày càng quan trọng để kết nối, thông tin trong các quan hệ mua,
bán; làm tăng sự kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng, làm cho sản xuất và tiêu dùng trở nên ăn
khớp với nhau.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, các chủ thể trung gian thị trường không
phải chỉ có các trung gian thương nhân mà còn rất nhiều chủ thể trung gian phong phú trên tất cả
các quan hệ kinh tế như: trung gian môi giới chứng khoán, trung gian môi giới nhà đất, trung
gian môi giới khoa học công nghệ,...Các trung gian trong thị trường không chỉ hoạt động trên
phạm vi thị trường trong nước mà còn trên phạm vi quốc tế.
Bên cạnh đó có nhiều loại hình trung gian không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức (lừa đảo,
môi giới bất hợp pháp,...) cần được loại trừ.
d. Nhà nước
Đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế.
“Ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người,
tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn,
hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách phát triển vĩ
mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự đồng thuận đó. Là những
công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho phát triển và tăng trưởng
kinh tế, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải phản ánh đúng những nhu cầu
chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế…; mặt khác, phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu,
lợi ích cụ thể của các chủ thể đó.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhìn chung, không ngừng được nâng cao: thời kỳ 1986 – 1990, tăng
trưởng GDP bình quân đạt 4,5%/năm; 1996 – 2000: 7%/năm; 2001 – 2005: 7,5%/năm; năm 2007
đạt 8,48%. Năm 2008, dù phải đối mặt với không ít khó khăn, nhưng Việt Nam vẫn đạt mức tăng
trưởng GDP là 6,23%.
Bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội
Mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là góp
phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Thu nhập của nhân
dân đã có bước cải thiện đáng kể. Năm 1995, GDP bình quân đầu người mới đạt 289 USD; năm
2005: 639 USD; năm 2007: 835 USD. Năm 2008, GDP bình quân theo đầu người đã đạt trên
1.000 USD. Với mức thu nhập này, Việt Nam vượt qua ngưỡng nước thu nhập thấp(2)…. Có
chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính
sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực của nhiều
chủ thể kinh tế khác nhau… là nhân tố có vai trò quyết định trong vấn đề này.
Đảm bảo công bằng xã hội
Bảo đảm yêu cầu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể hiện đầy đủ ngay trong từng bước
và từng chính sách phát triển kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước ta trong việc thực
hiện chức năng phát triển, tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Nhà nước chủ động tham gia kinh tế thị trường nhằm bảo hộ cho hình thức tổ chức sản xuất chứa
đựng các yếu tố của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho chúng phát huy ưu
thế của mình; tạo vị thế cho kinh tế nhà nước có sức mạnh định hướng xây dựng mô hình kinh
tế ; ngăn chặn các xu hướng phát triển kinh tế không có lợi cho quảng đại người lao động.
Nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường cho thị trường phát triển, như tạo lập kết cấu
hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo lập sự phân công lao động theo ngành,
nghề, vùng kinh tế qua việc nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng
vùng, ngành và nhu cầu chung của xã hội…
Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác những cơ quan truyền thông mạnh nhất của
quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp thông tin thị trường cho các chủ thể kinh tế để các chủ thể
này chủ động lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện các
giao dịch kinh tế, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của
mình.
Nhà nước ta là chủ thể chính của nền giáo dục – đào tạo
Nhà nước đã có nhiều chính sách về giáo dục – đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Số lao động tốt nghiệp phổ thông trung học từ 13,5% năm 1996 tăng lên 19,7% năm 2005. Năm
1996 mới có 12,31% lực lượng lao động được đào tạo, đến nay, tỷ lệ này đạt 31%. Về nỗ lực
nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế: năm 1990, tỷ lệ tích lũy so với GDP mới đạt 2,9%, năm
2004 là 35,15% và những năm gần đây đều có xu hướng tăng lên…
- Ngoài ra Tổng quyết toán chi ngân sách cho lĩnh vực giáo dục năm 2013 là 155.604 tỷ đồng và
năm 2017 là 248.118 tỷ đồng.
II . LIÊN HỆ VẤN ĐỀ Ở VIỆT NAM
2.1 Thực trạng về thị trường hàng hóa Việt Nam hiện nay
Sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị
trường hàng hoá, dịch vụ. Thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ta từ sau năm 1986 đã có sự
biến đổi về chất và phát triển vượt bậc về lượng. Qua 17 năm đổi mới (1986- 2003) ta có thể
khái quát tình hình thị trường hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam như sau:
- Một là, thị trường được thống nhất trong toàn quốc và bước đầu hình thành hệ thống thị
trường hàng hoá với các cấp độ khác nhau. Thực hiện tự do hoá thương mại, tự do hoá
lưu thông đã làm cho hàng hoá giao lưu giữa các vùng, các địa phương không bị ách tắc
và ngăn trở.
- Hai là, trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế, đông đảo thương nhân với các
hình thức sở hữu khác nhau.
Trong đó
Năm Tổng số Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng số Tỷ trọng (%)
Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hoá phân theo thành phần kinh tế (giá hiện hành )
Nguồn: Niên giám Thống kê 2001 và kinh tế Việt Nam & thế giới 2003- 2004
Năm ĐVT Tổng KNXK Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu
- Ba là, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường đã thay đổi một cách cơ bản từ chỗ thiếu
hụt hàng hoá sang trạng thái đủ và dư thừa.Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật của
kinh tế thị trường - Quy luật cung cầu trong điều kiện tự do hoá.
- Bốn là, thị trường trong nước bước đầu đã có sự thông thương với thị trường quốc tế. Dù
ở mức độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị trường
quốc tế đã bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Điều này không chỉ diễn ra đối
với những hàng hoá xuất nhập khẩu mà cả hàng hoá nội địa .
Biểu đồ 1: Diễn biến kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và cán cân thương
mại giai đoạn 2006-2015
- => Dù ở mức độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị
trường quốc tế đã bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Điều này không chỉ diễn
ra đối với những hàng hoá xuất nhập khẩu mà cả hàng hoá nội địa .
- Năm là, thị trường quốc tế của Việt Nam đã có bước phát triển cả về lượng và chất.
- Sáu là, sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại đã có
nhiều đổi mới.
- Bảy là, trên thị trường đang tồn tại những ách tắc và mâu thuẫn lớn.
2.2.1 Lợi thế thị trường hàng hóa ở Việt Nam hiện nay.
Dù hàng hóa từ nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều nhưng sản phẩm của doanh
nghiệp (DN) trong nước vẫn còn nhiều lợi thế khi người tiêu dùng bên cạnh việc quan
tâm đến yếu tố giá cả, chất lượng còn chú trọng đến nguồn gốc quốc gia.
Niềm tự hào quốc gia là yếu tố rất quan trọng đối với người tiêu dùng trong việc quyết định
mua sản phẩm của DN nội hay ngoại tại Việt Nam. Đã có gần phân nửa người tiêu dùng tham
gia khảo sát cho biết sẽ chọn sản phẩm nội địa (48%) thay vì sản phẩm của DN ngoại (9%). Bên
cạnh đó, yếu tố giá (40% người Việt chọn nhãn hàng nội địa) và các thành phần chế biến an toàn
(27%) cũng ảnh hưởng đến quyết định chọn lựa sản phẩm nội hay ngoại của người tiêu dùng.
+ Khảo sát này cũng phù hợp với thực tế những năm qua. Chính niềm tự hào quốc gia đã giúp
hàng Việt có chỗ đứng trên thị trường. Kết quả cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam" do Bộ Chính trị phát động đã cho thấy điều đó. Sau hơn 6 năm triển khai, có
đến 92% người tiêu dùng rất quan tâm đến cuộc vận động, 93% người tiêu dùng xác định khi
mua sắm sẽ ưu tiên chọn hàng Việt Nam, 54% người tiêu dùng khuyên người thân trong gia
đình, bạn bè, người quen biết nên mua hàng Việt Nam.
Việc tận dụng tốt mạng lưới phân phối trực tiếp đến các cửa hàng cùng với kiến thức thị
trường và mối quan hệ tốt với nhà bán lẻ đã giúp các DN này hoạt động linh hoạt trong thị
trường truyền thống. Người tiêu dùng đánh giá sản phẩm của DN trong nước có chất lượng
không thua gì hàng của các công ty đa quốc gia.