Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-----------------------

TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG


Đề tài:
XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
VÀ CÁCH GIẢI QUYẾT

Sinh viên thực hiện: Lê Hoàng Mai


Mã sinh viên: 211210070
Số thứ tự: 59
GV hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Lan

Hà Nội, tháng 01 năm 2022


BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN

HỌC PHẦN: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG


Học kỳ 1 năm học 2021-2022

Họ và tên sinh viên: Lê Hoàng Mai Ngày thi: 9/1/2022


Ngày sinh: 12/11/2003 Ca thi: Ca 2
Mã số sinh viên: 2111210070 Tổ thi: 001
Lớp tín chỉ: PLU111 (GĐ2-HK1-2122).BS2 Số trang bài làm:
Khóa: K60

Điểm bài thi Họ tên và chữ ký của giáo viên chấm thi

Bằng số Bằng chữ

GV chấm thi 1:

GV chấm thi 2:

1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 3
NỘI DUNG........................................................................................................... 3
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG TƯ
PHÁP QUỐC TẾ ............................................................................................. 3
1. Khái niệm chung về xung đột pháp luật ............................................. 3
1.1. Khái niệm về xung đột pháp luật ................................................... 3
1.2. Nguyên nhân hình thành xung đột pháp luật .............................. 4
1.2.1. Nguyên nhân khách quan ........................................................................... 4
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan ............................................................................... 4
1.3. Phạm vi xung đột pháp luật ........................................................... 5
2. Các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật ............................... 5
2.1. Phương pháp dùng quy phạm xung đột........................................ 5
2.1.1. Các đặc điểm chung của quy phạm xung đột ........................................... 5
2.1.2. Ưu điểm của phương pháp dùng quy phạm xung đột ............................. 6
2.1.3. Nhược điểm của phương pháp dùng quy phạm xung đột ....................... 7
2.2. Phương pháp thống nhất luật thực chất ....................................... 7
2.2.1. Các đặc điểm chung của quy phạm pháp luật thực chất ......................... 7
2.2.2. Ưu điểm của phương pháp thống nhất luật thực chất ............................. 8
2.2.3. Nhược điểm của phương pháp thống nhất luật thực chất ....................... 9
2.3. Mối liên hệ giữa hai phương pháp giải quyết xung đột pháp
luật 9
PHẦN II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT
XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM .............................................. 10
1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về các phương pháp giải
quyết xung đột pháp luật .............................................................................. 10
1.1. Đối với phương pháp thống nhất luật thực chất ........................ 10
1.2. Đối với phương pháp xung đột .................................................... 10
2. Vấn đề áp dụng phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong
những vụ việc cụ thể ...................................................................................... 11
2.1. Thực tiễn áp dụng phương pháp xung đột ................................. 11
2.2. Thực tiễn áp dụng phương pháp thực chất ................................ 11
KẾT LUẬN.................................................................................................... 12
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 13

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện đại mọi việc không ngừng vận động và phát triển, mỗi quốc
gia đều tự xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật riêng nhằm khẳng định chủ quyền
cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân nước mình. Tuy nhiên, dưới tác động của quá
trình toàn cầu hóa, đã tạo ra các mối quan hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh
tế, sự gia tăng của lưu thông hàng hóa và di chuyển dân cư… khiến các quan hệ pháp lý
phát sinh giữa công dân, pháp nhân của các quốc gia ngày càng nhiều và đa dạng trong
mọi lĩnh vực. Ở thế kỉ XXI ngày nay, hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu, trong đó, các
quốc gia đã tổ chức giao lưu, kí kết và làm phát sinh những mối quan hệ dân sự mang
yếu tố nước ngoài và chúng ngày càng trở nên phong phú, phức tạp. Một tất yếu đặt ra
là khi có quan hệ dân sự thì việc xảy ra tranh chấp, xuất hiện các vấn đề cần giải quyết
là điều không thể tránh khỏi. Do đó, các quốc gia cần phải tìm cách giải quyết chúng.
Từ vấn đề có ít nhất hai hệ thống pháp luật thuộc hai quốc gia khác nhau cùng điều chỉnh
một vấn đề, tư pháp quốc tế gọi vấn đề này là quan hệ có “xung đột pháp luật”.

NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT
TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1. Khái niệm chung về xung đột pháp luật
1.1. Khái niệm về xung đột pháp luật
Xung đột pháp luật là hiện tượng khi có hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác
nhau cùng có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ có yếu tố nước ngoài và cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành chọn một hệ thống pháp luật để áp dụng cho
quan hệ đó.
Như vậy, xung đột không phải là sự xung khắc hay sự khác biệt giữa hệ thống
pháp luật, đó là một hiện tượng đặc thù của tư pháp quốc tế. Xung đột xuất hiện khi có
hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế.
Ví dụ: Một nam công dân Việt Nam muốn kết hôn với một nữ công dân Anh. Lúc
này, những vấn đề cần giải quyết là luật pháp nước nào sẽ điều chỉnh quan hệ hôn nhân
này hay nói chính xác hơn là họ sẽ tiến hành các thủ tục kết hôn theo luật nước nào. Câu
trả lời là hoặc luật của Anh hoặc luật của Việt Nam. Giả sử, hai công dân này đều thỏa
mãn các điều kiện về kết hôn của pháp luật Anh và Việt Nam, lúc đó, vấn đề chọn luật
nước nào không còn quan trọng.
Bởi vì, luật nào thì họ cũng được phép kết hôn. Nhưng, nếu nam công dân Việt
Nam mới chỉ 19 tuổi, nữ công dân Anh 17 tuổi thì theo quy định của pháp luật hôn nhân
và gia đình của Việt Nam, cả hai đều chưa đủ độ tuổi kết hôn (Điều 9, Luật Hôn nhân
và Gia đình năm 2014 quy định độ tuổi kết hôn với nam – đủ 20 tuổi trở lên, nữ – đủ 18
tuổi trở lên). Trong khi đó, luật hôn nhân của Anh thì quy định độ tuổi được phép kết
hôn đối với nam và nữ là 16 tuổi. Như vậy, đều về độ tuổi được phép kết hôn nhưng
pháp luật của cả hai quốc gia đều hiểu không giống nhau. Đây chính là xung đột pháp
luật.
3
Vì vậy, xung đột pháp luật là một nhánh của tư pháp quốc tế điều chỉnh mọi vụ
việc pháp lý có sự tham gia của yếu tố “nước ngoài”, trong đó các khác biệt về kết quả
sẽ xảy ra, phụ thuộc vào việc hệ thống luật pháp nào được áp dụng. Là việc cùng một
sự kiện pháp luật như nhau nhưng các nơi khác nhau lại có các quy định khác nhau để
hướng dẫn cách xử sự của pháp luật.
1.2. Nguyên nhân hình thành xung đột pháp luật
Xung đột pháp luật là hiện tượng đặc thù của tư pháp quốc tế, nó xuất phát do
hai nhóm nguyên nhân:
1.2.1. Nguyên nhân khách quan
• Thứ nhất, do pháp luật các nước có sự khác nhau
Một là, do trên thế giới tồn tại những chế độ chính trị, xã hội khác nhau dẫn
đến sự hình thành các hệ thống luật khác nhau. Trong xã hội tư bản, giai cấp thống trị là
giai cấp tư sản, còn trong xã hội xã hội chủ nghĩa, giai cấp thống trị là giai cấp công
nhân đại diện cho quyền lợi của nhân dân lao động. Lợi ích, ý chí của giai cấp này đối
lập nhau, mâu thuẫn nhau. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đưa lên thành
luật nên từ đó hình thành hai hệ thống pháp luật khác nhau.
Hai là, do sự phát triển không đồng đều về chính trị, kinh tế, xã hội ở các
nước. Pháp luật phản ánh tình hình chính trị, kinh tế, xã hội…, do điều kiện kinh tế quyết
định mà điều kiện kinh tế, chính trị ở các nước khác nhau dẫn đến việc ban hành các
quy phạm luật ở các nước không giống nhau.
Ba là, do truyền thống lịch sử và tập quán khác nhau. Truyền thống lịch sử
của mỗi nước có ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành và phát triển của pháp luật nước
đó.
• Thứ hai, do quan hệ tư pháp quốc tế luôn có yếu tố nước ngoài
Đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là các quan hệ mang tính chất dân
sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Quan hệ do tư pháp quốc tế điều chỉnh luôn
có yếu tố nước ngoài tham gia và luôn liên quan đến ít nhất là hai hệ thống pháp luật.
Cũng chính vì tính chất quốc tế nên mới xuất hiện xung đột pháp luật. Trong sự phát
triển không ngừng của đời sống xã hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xuất
hiện càng nhiều sự lưu chuyển các dòng lao động, dòng vốn giữa các quốc gia, các cuộc
hôn nhân quốc tế, sở hữu tài sản ở nước ngoài hay việc ký kết các hợp đồng với các đối
tác nước ngoài… Các quan hệ này luôn tiềm ẩn vấn đề xung đột pháp luật vì luôn liên
quan đến hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau. Bên cạnh đó, các hệ thống
pháp luật là bình đẳng với nhau nên các hệ thống pháp luật đó đều có thể được áp dụng
để điều chỉnh một quan hệ, khi đó xung đột pháp luật nảy sinh – một hiện tượng đặc thù
trong tư pháp quốc tế.
1.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân chủ quan là do có sự thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật
nước ngoài của nhà nước.
Xung đột pháp luật xảy ra do nhà nước thừa nhận khả năng áp dụng của pháp
luật nước ngoài cho những trường hợp quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Sự thừa
nhận này đặt ra vấn đề cho các cơ quan tố tụng của mỗi quốc gia khi xem xét áp dụng
pháp luật nước nào để giải quyết.
Có thể thấy, tiền đề quan trọng để xuất hiện hiện tượng xung đột bắt nguồn
từ các lý do khách quan. Và yếu tố quyết định có tồn tại quan hệ xung đột hay không
4
phụ thuộc vào lý do chủ quan. Cụ thể trong trường hợp các quan hệ tư pháp có yếu tố
nước ngoài, nhưng pháp luật quốc gia trong trường hợp đó không cho phép áp dụng
pháp luật của nước ngoài để điều chỉnh thì không hề đặt ra vấn đề chọn luật áp dụng
cũng tức là không có xung đột.
1.3. Phạm vi xung đột pháp luật
Phạm vi của xung đột pháp luật: xung đột pháp luật chỉ xảy ra trong các quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài. Còn trong các lĩnh vực quan hệ pháp luật
khác như hình sự, hành chính… không xảy ra xung đột pháp luật bởi vì: Luật Hình sự,
Hành chính mang tính hiệu lực lãnh thổ rất nghiêm ngặt (quyền tài phán công có tính
lãnh thổ chặt chẽ); Luật Hình sự, Hành chính không bao giờ có các quy phạm xung đột
và tất nhiên cũng không bao giờ cho phép áp dụng luật nước ngoài.
Về nguyên tắc việc áp dụng pháp luật đối với tài sản được xác định theo pháp
luật của nước nơi có tài sản. Đa phần những quan hệ dân sự liên quan đến quyền tài sản
hữu hình sẽ xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật do tính chất của loại tài sản này mình
có thể cầm, nắm, nhìn thấy, có thể kiểm soát nó được như thế, do mang những tính chất
đó cộng với trình độ khác nhau giữa các quốc gia nên pháp luật của các quốc gia có
những quy định riêng, nguyên tắc riêng để bảo vệ quyền tài sản đó khác nhau là điều tất
yếu (đại đa số), do đó hiện tượng xung đột pháp luật diễn ra đối với tài sản hữu hình là
đại đa số.
Ngược lại với tài sản vô hình, tài sản, quyền sở hữu trí tuệ là loại tài sản vô hình,
nhiều chủ thể khác nhau cùng một lúc đều có thể sử dụng nó, ví dụ như các phần mềm
máy tính, sách… như vậy, chúng ta sẽ không thể đặt ra việc dùng pháp luật của nước
nơi có tài sản để giải quyết các tranh chấp đối với loại tài sản này. Mặt khác nếu dùng
pháp luật gốc của nước nó được tạo ra lần đầu tiên thì cũng không thể bảo vệ được quyền
tác giả, quyền sở hữu tác giả vì các cá nhân, tổ chức ở nước khác có thể sử dụng và có
thể làm tổn hại đến tác phẩm do không thể kiểm soát một phạm vi rộng lớn như thế
được.
Do đó, tài sản trí tuệ phát sinh trên cơ sở pháp luật nước nào, yêu cầu bảo hộ ở
đâu thì chỉ được bảo hộ ở đó và chỉ được bảo hộ ở nước đó mà thôi là điều hoàn toàn
hợp lý và giúp cơ quan có thẩm quyền có thể kiểm soát và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
một cách thiết thực được. Như vậy, xung đột pháp luật sẽ không xảy ra với quyền bảo
hộ tài sản trí tuệ, tuy nhiên các hợp đồng dân sự có liên quan đến chuyển giao quyền sở
hữu trí tuệ thì vẫn xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật do tính chất dân sự của nó.
2. Các phương pháp giải quyết xung đột pháp luật
Xung đột pháp luật được giải quyết bằng hai phương pháp chủ yếu, đó là phương
pháp thống nhất luật thực chất và phương pháp áp dụng quy phạm xung đột.
2.1. Phương pháp dùng quy phạm xung đột
2.1.1. Các đặc điểm chung của quy phạm xung đột
Phương pháp dùng quy phạm xung đột bắt nguồn từ các công trình nghiên
cứu của Friedrich Carl von Savigny, một nhà luật gia người Đức rất nổi tiếng và có ảnh
hưởng lớn vào thế kỷ 18 trong giới luật gia với học thuyết ‘Luật của trái chủ’. Sau đó
phương pháp này được sử dụng phổ biến để giải quyết xung đột trong tư pháp quốc tế
và còn được gọi là ‘Luật xung đột’ (Conflitct of laws) tại các nước theo hệ thống luật
Anh – Mỹ. Phương pháp này được áp dụng chủ yếu và rộng rãi như một công cụ để thiết
lập và bảo đảm trật tự pháp lý trong các quan hệ do tư pháp quốc tế điều chỉnh. Hiện
nay phương pháp dùng quy phạm xung đột được sử dụng cả trong hệ thống Common
Law hay hệ thống Civil Law.
5
Trước hết cần phải hiểu khái niệm về quy phạm xung đột. Quy phạm xung
đột là quy phạm pháp luật trong đó chỉ ra luật nào trong số các luật xung đột được đem
áp dụng để giải quyết một loại quan hệ cụ thể. Ví dụ: Điều 33: Hiệp định tương trợ tư
pháp về dân sự, gia đình và hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Bungary quy định: “Quyền thừa kế bất động sản áp dụng pháp luật của nước kí kết nơi
nào có bất động sản”.
Quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể khi tham gia quan hệ pháp luật mà chỉ đưa giải pháp gián tiếp cho việc giải quyết sự
xung đột về mặt quyền lợi giữa các chủ thể đó. Có thể nói, quy phạm xung đột luôn
mang tính chất ‘dẫn chiếu’ khi nó thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn việc lựa chọn một cách
khách quan nguồn luật có mối liên quan nhất và có hiệu lực áp dụng nhất cho loại quan
hệ pháp luật nhất định. Quy phạm xung đột khi dẫn chiếu tới việc áp dụng luật thì luật
được áp dụng có thể là luật của nước nơi có Tòa án giải quyết tranh chấp hoặc là luật
của một nước khác.
Khác với các quy phạm pháp luật thông thường nói chung được cấu thành
bởi ba bộ phận là giả định, quy định và chế tài, quy phạm xung đột về cơ cấu chỉ bao
gồm hai bộ phận là phạm vi và lệ thuộc. Đây là hai bộ phận không thể thiếu trong mỗi
quy phạm xung đột. Phần phạm vi nêu lên những mối quan hệ nào chịu sự điều chỉnh
của quy phạm xung đột, còn phần hệ thuộc chỉ ra đích danh luật nào là luật sẽ được áp
dụng. Trong ví dụ trên, “quyền thừa kế bất động sản” là phần phạm vi, còn “pháp luật
của nước kí kết nơi có bất động sản” là phần hệ thuộc.
Thực tế, luật thực chất thống nhất không thể điều chỉnh tất cả các quan hệ
thuộc phạm vi của tư pháp quốc tế. Mặt khác, đối với một nhóm quan hệ cụ thể có điều
ước quốc tế điều chỉnh thì điều ước quốc tế này cũng không thể quy định hết cách giải
quyết mọi quan hệ xã hội. Vì vậy, vẫn phải sử dụng luật quốc gia để điều chỉnh các quan
hệ giữa công dân, pháp nhân của các nước khác nhau với nhau. Để biết cụ thể luật nước
nào được đem áp dụng thì phải dựa vào quy phạm xung đột. Do đó, dùng quy phạm
xung đột là một phương pháp giải quyết xung động pháp luật.
Phương pháp dùng quy phạm xung đột có tác dụng giải quyết xung đột đã
xảy ra, tức là khi một mối quan hệ xã hội có liên quan đến hai hệ thống pháp luật trở lên
không biết áp dụng hệ thống pháp luật nào thì dùng quy phạm xung đột sẽ biết được hệ
thống pháp luật được áp dụng cho mối quan hệ đó. Bởi do, phương pháp xung đột được
hình thành và xây dựng trên nền tảng hệ thống các quy phạm xung đột của quốc gia.
Các quốc gia tự ban hành các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật nước mình
để hướng dẫn chọn luật áp dụng để chủ động trong việc điều chỉnh các quan hệ tư pháp
quốc tế trong khi chưa xây dựng được đầy đủ các quy phạm thực chất thống nhất. Các
nước cùng nhau kí kết các điều ước quốc tế để xây dựng lên các quy phạm xung đột
thống nhất.
2.1.2. Ưu điểm của phương pháp dùng quy phạm xung đột
Do xuất phát từ đặc điểm của quy phạm xung đột, có thể thấy phương pháp
xung đột mang tính chất chung, gián tiếp giải quyết các quan hệ cụ thể. Việc xây dựng
các quy phạm xung đột có một ý nghĩa quan trọng trong tư pháp quốc tế hiện nay, cụ
thể: Trong điều kiện hiện nay khi mà nền kinh tế chính trị ở các quốc gia ngày càng phát
triển, đòi hỏi các nước phải có quan hệ mật thiết với nhau. Và lúc đó, việc bảo hộ cho
công dân nước mình tại nước ngoài cũng như trong nước sẽ là một vấn đề cần phải được
đặt lên hàng đầu. Đặc biệt, các quan hệ pháp luật dân sự, thương mại, gia đình, lao động
có yếu tố nước ngoài thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế là những quan hệ

6
luôn có tính chất vượt ra khỏi “biên giới” của quốc gia hay nói cách khác nó luôn luôn
liên quan đến một hoặc nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, thực tế cho thấy mỗi quốc gia
có một chế độ chính trị, văn hóa và trình độ phát triển khác nhau kể cả có cùng chế độ
chính trị, vì vậy khó khăn nằm ở chỗ hệ thống pháp luật của các quốc gia cũng sẽ khác
nhau khi quy định về cùng một vấn đề. Do đó, việc thừa nhận quy phạm xung đột là
công cụ chủ yếu để thiết lập và bảo đảm một trật tự pháp lý trong quan hệ pháp luật dân
sự quốc tế. Chính vì thế, phương pháp xung đột được sử dụng cả ở các nước theo hệ
thống luật thực định cũng như ở các nước theo hệ thống luật thực hành. Bên cạnh đó,
phương pháp xung đột giúp cho việc giải quyết các vấn đề dân sự có yếu tố nước ngoài
một cách thuận lợi, dễ dàng hơn. Qua đó, tránh được những tranh chấp giữa các quốc
gia, gây bất ổn đến quan hệ giữa các nước với nhau, quan trọng nhất là điều hòa được
lợi ích giữa các quốc gia.
2.1.3. Nhược điểm của phương pháp dùng quy phạm xung đột
Bên cạnh những ưu điểm của phương pháp này, còn phải nói đến những hạn
chế nhất định không thể tránh khỏi.
Vì pháp luật của các nước có những quy định khác nhau, việc sử dụng quy
phạm xung đột để giải quyết xem ra là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, do tính chất đặc
thù và riêng biệt của quy phạm xung đột mà vẫn có những trường hợp Tòa án không
chọn được luật thực chất để áp dụng bởi chưa có quy phạm xung đột trong lĩnh vực đó.
Lúc này Tòa án cần xem xét hệ thống luật pháp của nước mình để tìm ra các quy định
cần thiết để giải quyết vụ việc.
Khi xem xét nội dung của phương pháp xung đột ta thấy rất trừu tượng, đòi
hỏi phải có chuyên môn sâu trong lĩnh vực pháp luật mới có thể hiểu được đầy đủ. Trong
khi đó, đội ngũ chuyên gia luật không phải ở nước nào cũng giỏi mà vấn đề áp dụng quy
phạm xung đột lại phức tạp. Vì vậy, dễ xảy ra tính chất không nhất quán đối với một vụ
việc nếu giải quyết ở Tòa án có thẩm quyền tại các nước khác nhau, dẫn đến việc các
bên khi ký kết các hợp đồng cần phải thấy trước luật của nước nào sẽ có khả năng áp
dụng hoặc phải chọn sẵn luật nước nào để áp dụng cho quan hệ đó.
2.2. Phương pháp thống nhất luật thực chất
2.2.1. Các đặc điểm chung của quy phạm pháp luật thực chất
Quy phạm pháp luật thực chất hay còn gọi là quy phạm thực chất là những
quy phạm trực tiếp giải quyết các quan hệ pháp luật mang tính quốc tế, trực tiếp quy
định quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với các chủ thể tham gia các quan hệ này.
Luật thực chất là luật được đem áp dụng để giải quyết một mối quan hệ cụ
thể, dựa vào luật thực chất mà giải đáp được quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.
Thống nhất luật thực chất là việc các nước cùng nhau thảo luận xây dựng
những quy phạm pháp luật để điều chỉnh từng nhóm quan hệ thuộc phạm vi của tư pháp
quốc tế. Thống nhất luật thực chất được tiến hành bằng cách kí kết các điều ước quốc tế
nhiều bên hoặc hai bên. Điều ước quốc tế được kí kết có hiệu lực đối với những nước kí
kết và những nước phê chuẩn.
Hiện nay, trong lĩnh vực tư pháp quốc tế các quốc gia đã kí được một số điều
ước quốc tế bao gồm các quy phạm pháp luật thực chất thống nhất để giải quyết xung
đột pháp luật. Ví dụ, về lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế, các nước đã kí Công ước
Vienna năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo đó, công ước đã xây
7
dựng hệ thống các quy phạm pháp luật thống nhất về kí kết, thực hiện hợp đồng mua
bán hàng quốc tế.
Nhìn chung, mỗi lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của tư pháp quốc tế có
một số điều ước quốc tế được coi là pháp luật thực chất điều chỉnh. Phương pháp được
xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực chất trực tiếp giải quyết các quan hệ
dân sự quốc tế, điều này có ý nghĩa là nó trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ rõ ràng
giữa các bên tham gia. Các quy phạm thực chất thống nhất trong các điều ước quốc tế,
tập quán quốc tế.
• Các quy phạm thực chất thống nhất hiện nay chủ yếu có trong điều ước quốc
tế về các lĩnh vực thương mại, hàng hải quốc gia hoặc các lĩnh vực quyền sở
hữu công nghiệp: Công ước Becnơ 1886 về bảo vệ quyền tác giả; Công ước
Vienna 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế.
• Các quy phạm thực chất còn được ghi nhận trong các tập quán quốc tế nhất
là trong lĩnh vực thương mại và hằng hải quốc tế: Tập hợp các quy tắc tập
quán INCOTERMS 2000 về các điều kiện mua bán mua bán hàng hoá quốc
tế.
• Các quy phạm thực chất trong luật của quốc gia (luật quốc nội): quy phạm
thực chất được quy định trong luật đầu tư, luật về chuyển giao công nghệ…
Tuy nhiên, không phải tất cả các nước đều là thành viên của các điều ước
quốc tế đó. Vì vậy, việc thống nhất luật thực chất chưa giải quyết triệt để vấn đề xung
đột pháp luật.
Phương pháp thống nhất luật thực chất có tác dụng ngăn ngừa xung đột pháp
luật xảy ra bởi vì khi có một quan hệ có yếu tố nước ngoài phát sinh đã được luật thực
chất thống nhất để điều chỉnh, không cần chọn luật của bất kì nước nào. Hơn nữa, khi
dùng luật thực chất thống nhất điều chỉnh một mối quan hệ thì các quy phạm luật quốc
gia có liên quan không có giá trị đối với mối quan hệ đó.
Ngoài ra trong trường hợp khi tư pháp quốc tế xảy ra không có quy phạm
thực chất và quy phạm xung đột, vấn đề điều chỉnh quan hệ này được thực hiện dựa trên
nguyên tắc luật điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo quan điểm chung hiện nay, trong
trường hợp quan hệ tư pháp quốc tế xảy ra mà không có quy phạm thực chất thống nhất
cũng như quy phạm xung đột nếu các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan
hệ đó phát sinh trên cơ sở pháp luật nước nào thì áp dụng pháp luật nước đó trừ khi hậu
quả của việc áp dụng đó trái với những nguyên tắc kể trên.
2.2.2. Ưu điểm của phương pháp thống nhất luật thực chất
Nhìn chung việc sử dụng phương pháp thực chất chính là việc các cơ quan
có thẩm quyền giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ Tư pháp quốc tế sẽ chiếu
theo các quy phạm thực chất đã được quy định sẵn trong các điều ước quốc tế hoặc đã
được quy định trong luật quốc gia để chiếu xem xét và giải quyết các xung đột. Điều
này có nghĩa là sẽ trực tiếp áp dụng quy phạm đó để giải quyết mà loại trừ việc phải
chọn luật và áp dụng luật nước ngoài. Qua đây ta có thể thấy phương pháp này có ưu
điểm hơn so với phương pháp xung đột đó là nó giải quyết trực tiếp các quan hệ và nó
chỉ áp dụng trong các quan hệ, lĩnh vực cụ thể. Do đó, mà phương pháp này sẽ giúp cho
việc giải quyết các xung đột được nhanh chóng hơn, do không phải qua giai đoạn chọn
hệ thống luật và các quy phạm của hệ thống luật đó để giải quyết. Hơn nữa, do phương
8
pháp này chỉ sử dụng đối với các bên tham gia quan hệ cụ thể trong các không gian giới
hạn và đôi khi chỉ áp dụng với các chủ thể cụ thể. Vì thế mà các chủ thể này thường biết
trước các điều kiện pháp lý đó, để hợp tác với nhau trong các quan hệ, tránh được các
xung đột xảy ra. Bênh cạnh đó, phương pháp này còn điều chỉnh trực tiếp bằng cách các
quốc gia kí kết điều ước quốc tế mà trong các điều ước quốc tế đó tồn tại các quy phạm
thực chất thống nhất, vì vậy nó đã làm tăng khả năng điều chỉnh hữu hiệu của luật pháp,
tính khả thi cao hơn, loại bỏ được sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn trong luật pháp giữa
các nước với nhau.
2.2.3. Nhược điểm của phương pháp thống nhất luật thực chất
Các quy phạm thực chất, do tính cụ thể và trực tiếp của phương pháp mà đôi
khi nó không thể trù liệu được hết các lĩnh vực cũng như quan hệ phát sinh.
Không những thế, phần lớn giữa các quốc gia có điều kiện kinh tế-chính trị-
xã hội khác nhau do đó việc xây dựng một quy phạm thực chất thống nhất chung giữa
các quốc gia là điều không hề đơn giản. Vì để đi đến thống nhất ý chí giữa các bên còn
phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.
Bên cạnh đó, để có thể đi đến kí kết được các quy phạm thực chất, không
đơn giản các quốc gia chỉ ngồi lại với nhau mà đôi bên còn phải bỏ ra một lượng chi
phí nhất định mới có thể bảo đảm quy phạm thực chất được xây dựng thành công. Trong
khi đó, điều kiện kinh tế các quốc gia không phải lúc nào cũng cho phép. Do vậy, càng
thêm khó khăn cho việc xây dựng các quy phạm này.
2.3. Mối liên hệ giữa hai phương pháp giải quyết xung đột pháp luật
Có thể thấy, phương pháp xung đột và việc áp dụng các quy phạm xung đột là
phương pháp chủ yếu được sử dụng hiện nay bởi nó xuất phát từ thực tiễn áp dụng trong
tư pháp quốc tế, khả năng dễ xây dựng cũng như ít tốn kém về chi phí vì chỉ thông qua
thỏa thuận giữa hai bên mà thôi. Mặc dù, đi sâu vào nghiên cứu hai phương pháp trên,
ta thấy phương pháp thực chất thể hiện được tính ưu việt hơn hẳn so với phương pháp
xung đột bởi sự nhanh chóng, cụ thể trong việc áp dụng luật điều chỉnh một quan hệ
pháp luật nào đó. Tuy nhiên, phương pháp thực chất khó có thể xây dựng và đi đến thống
nhất giữa các bên bởi hầu hết các quốc gia không có sự tương đồng về lịch sử, dân tộc,
trình độ phát triển và lợi ích… Do đó, việc xây dựng được một quy phạm thực chất quả
rất khó khăn.
Về mặt nào đó, ta có thể nói việc thống nhất hóa các quy phạm xung đột nó cũng
góp phần củng cố cho việc nhất thể hóa các quy phạm thực chất. Khi quy phạm xung
đột dẫn chiếu tới một hệ thống pháp luật cụ thể mà các quy phạm thực chất được áp
dụng để giải quyết quan hệ một cách dứt điểm, thì ở đây ta lại thấy tính chất “song hành”
giữa quy phạm xung đột với quy phạm thực chất trong điều chỉnh pháp luật.
Như vậy, sự thống nhất trong cơ cấu, hệ thống các quy phạm xung đột và quy
phạm thực chất của tư pháp quốc tế là nền tảng cần thiết của hai phương pháp điều chỉnh
để giải quyết một loại quan hệ pháp luật, đó là quan hệ dân sự quốc tế. Qua đó, ấn định
một quy tắc xử sự chung, bảo đảm tốt nhất cho quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham
gia vào quan hệ đó.

9
PHẦN II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT
XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM
1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về các phương pháp giải quyết xung
đột pháp luật
Pháp luật Việt Nam không có những điều luật cụ thể nói về khái niệm, định nghĩa các
phương pháp, nhưng chúng ta có thể rút ra từ những quy định mà bản chất chính là sự
áp dụng các phương pháp đó trong các vấn đề cụ thể.
1.1. Đối với phương pháp thống nhất luật thực chất
Xuất phát từ chủ quyền quốc gia, quốc gia có quyền tài phán đối với các chủ thể,
quan hệ có yếu tố nước ngoài trong lãnh thổ của mình. Chính vì thế, nhà nước Việt Nam
đã ban hành những văn bản pháp luật quy định trực tiếp quyền và nghĩa vụ đối với người
nước ngoài.
Phần lớn các quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam có liên quan đến người
nước ngoài là các quy phạm thực chất. Chúng được thể hiện ở nhiều văn bản như Luật
sở hữu trí tuệ, Luật đầu tư, Luật về chuyển giao công nghệ… Ví dụ: Tại Khoản 1 Điều
4 của Luật về chuyển giao công nghệ quy định: “Hoạt động chuyển giao công nghệ phải
tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật; trường hợp hoạt
động chuyển giao công nghệ đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định
của luật đó”.
Bên cạnh luật quốc gia, các quy phạm thực chất còn được thể hiện trong điều ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc gia nhập. Một số điều ước quốc tế quan trọng
như: Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Công ước Bécnow 1886
về bảo hộ quyền tác giả… Trong các điều ước quốc tế đó, các bên (có Việt Nam) thỏa
thuận với nhau nhưng cách thức, giải pháp giải quyết các vấn đề khi tranh chấp xảy ra.
Ngoài ra, phương pháp thực chất còn thể hiện ở ác tập quán quốc tế mà Việt Nam
công nhận. Khi đó, những tập quán đó được áp dụng và các chủ thể sẽ bị xử lý theo pháp
luật khi họ vi phạm, ví dụ: hệ thống tập quán trong Incoterms 1990 như CIF, FOB,
CFR…
1.2. Đối với phương pháp xung đột
Xu thế hội nhập với thế giới đã làm phát sinh những vấn đề liên quan đến hai hay
nhiều nước khi công dân, pháp nhân của họ tham gia quan hệ pháp luật với nhau… Để
giải quyết những vấn đề pháp lý trên, khi mà không thể sử dụng được ngay các quy
phạm thực chất thì luật pháp của mỗi nước đều đã xây dựng những quy phạm xung đột
riêng của mình.
Ở Việt Nam cũng vậy, quy phạm xung đột thường được thể hiện trong các văn
bản pháp luật quốc gia như: Bộ luật dân sự 2005, Luật hôn nhân và gia đình 2000,…
Tuy nhiên, quy phạm xung đột trong luật pháp thường được xây dựng trong Bộ luật dân
sự là chủ yếu. Bởi lẽ chúng điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Do đó,
quy phạm xung đột luôn mang tính chất dân sự. Hơn thế nữa, quy phạm xung đọt cùng
với các quy phạm thực chất mà nó dẫn chiếu tới quy định các quy tắt xử sự cho các bên
tham gia các quá trình quan hệ dân sự. Ví dụ: Căn cứ vào khoản 1 Điều 766 Bộ luật dân
sự Việt Nam 2005 quy định: “Việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở
hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó…”
Bên cạnh đó, các quy phạm xung đột còn được quy định trong các hiệp định
tương trợ tư pháp và pháp lý (song phương và đa phương) giữa Việt Nam và các quốc
gia khác. Ví dụ như hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình

10
sự giữa cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga năm 1998… Các quy
định này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng dân sự quốc tế.
2. Vấn đề áp dụng phương pháp giải quyết xung đột pháp luật trong những vụ
việc cụ thể
2.1. Thực tiễn áp dụng phương pháp xung đột
Thực tiễn những năm cải cách và mở cửa của nước ta cho thấy các giải pháp
nhằm xử lý các hiện tượng xung đột về thẩm quyền xét xử và xung đột về luật áp dụng
vẫn chưa đạt được sự thống nhất của Tòa án nhân dân tối cao. Nhiều vấn đề về nhận
thức, quan niệm và các nguyên tắc vẫn chưa được làm sáng tỏ ở góc độ nghiên cứu lẫn
thực tiễn xét xử. Cụ thể:
Theo quan niệm truyền thống thì khi có hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp
luật khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh, người
ta nói đến xung đột pháp luật. Vấn đề đặt ra là cơ quan tài phán nào có thẩm quyền và
sẽ phải chọn luật nào để áp dụng nhằm giải quyết tranh chấp đó? Có thể nói, xung đột
pháp luật là đặc thù của tư pháp quốc tế - được hiểu như một ngành luật trong nước. Tuy
nhiên, thật ra quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong tư pháp quốc tế cần được hiểu theo
khái niệm rộng hơn, bao hàm cả việc ký kết và thực hiện các hợp đồng giữa các doanh
nghiệp thuộc các nước khác nhau. Không những thế, nó còn mở rộng đến một loạt quan
hệ mới như bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, sở hữu công nghiệp, thương mại điện
tử… Vấn đề là ở chỗ, chính trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế thế giới và thương mại
điện tử đã khiến chúng ta phải đặt lại suy nghĩ, nhận thức, quan niệm về cái gọi là “yếu
tố nước ngoài”
“Yếu tố nước ngoài” không đơn giản chỉ là sự khác biệt nước này với nước kai,
mà bao hàm cả sự khác biết về quốc tịch, nơi xảy ra hành vi, nơi có tài sản, nơi giải
quyết xung đột… Vì thế, quan niệm coi tư pháp quốc tế như một “vùng đệm”, hay “sự
giao thoa” giữa luật quốc tế và luật quốc gia cần phải được tiếp tục nghiên cứu và phát
triển.
Ngoài ra, tư pháp quốc tế Việt Nam theo một số quan điểm còn xác định trong
một số trường hợp nhất định, các đương sự khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế có
thể tự do lựa chọn cho mình việc được áp dụng pháp luật của nước nào.
Để hiểu rõ hơn việc áp dụng phương pháp xung đột ở Việt Nam, ta sẽ xem xét cụ
thể dựa trên vấn đề dẫn chiếu tới pháp luật của quốc gia chưa được công nhận: Quan
điểm của Việt Nam được thể hiện rõ nét trong Hiến pháp 1992 cũng như trong các văn
bản pháp quy của nhà nước và cả trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí
kết đều nhất quán không có sự phân biệt, kì thị nào giữa các quốc gia chưa được công
nhận với các quốc gia khác. Theo đó, trong trường hợp phải áp dụng pháp luật của những
quốc gia này để giải quyết các quan hệ pháp luật phát sinh thì Việt Nam vẫn chấp nhận.
2.2. Thực tiễn áp dụng phương pháp thực chất
Các quy phạm thực chất luôn thế hiện những ưu thế hơn của nó so với quy phạm
xung đột. Tuy nhiên, việc khó xây dựng các quy phạm thực chất giải thích tại sao lại
không nhiều các quy phạm thực chất trong hệ thống pháp luật của các quốc gia hoặc các
điều ước quốc tế. Mặc dù vậy, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam nên
xây dựng thêm các quy phạm thực chất là điều cần thiết, nó làm giảm hoặc thậm chí
triệt tiêu sự khác biệt trong luật pháp của các quốc gia và có tính chất đơn gian hóa và
hữu hiệu hóa trong điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế.

11
Pháp luật Việt Nam đã chỉ rõ các phương thức giải quyết tranh chấp mà không cần
phải dẫn chiếu áp dụng luật của quốc gia nào. Ví dụ: khoản 1 Điều 4 của Luật về chuyển
giao công nghệ quy định: “Tranh chấp liên quan đến hoạt động đầu tư tại Việt Nam được
giải quyết qua thương lượng, hòa giải, Trọng tài hoặc Tòa án”.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn áp dụng các quy phạm thực chất từ nguồn quốc tế. Ví
dụ: Việt Nam đã gia nhập Công ước Becner 1886 về bảo hộ quyền tác giả; Công ước
Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán quốc tế (Công ước Viên 1980)…

KẾT LUẬN
Có thể thấy, việc nghiên cứu, tìm hiểu và tìm cách giải quyết hiện tượng này ngoài
việc giải quyết những tranh chấp trước mặt còn có ý nghĩa rất to lớn đối với hệ thống
pháp luật quốc gia, đặc biệt là những quốc gia như Việt Nam. Xét về cơ sở lý luận cũng
như thực tiễn, tư pháp quốc tế ở các quốc gia khác nhau còn có nhiều sự khác biệt, điều
này tạo ra những rào cản, hạn chế sự giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia. Sự hợp tác
quốc tế về mọi mặt giữa các quốc gia là hiện thực tất yếu khách quan trong mọi thời đại,
nhất là trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa hiện nay. Do đó, tư pháp quốc tế Việt Nam
phải không ngừng củng cố và hoàn thiện hơn nữa, nhất là với việc xây dựng ra một
phương pháp giải quyết xung đột pháp luật khách quan, hợp lý. Có như vậy mới tạo điều
kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức trong nước cũng như nước ngoài tham gia vào
các quan hệ pháp luật tư pháp, góp phần thúc đẩy nền kinh tế – xã hội đất nước ngày
càng phát triển.

12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.,TS Nguyễn Thị Mơ và PGS.,TS Hoàng Ngọc Thiết, Giáo trình “Pháp lý đại
cương”, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2008.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản
Công an Nhân dân Hà Nội, Hà Nội.
3. TS. Đỗ Văn Đại, Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong
Tư pháp quốc tế Việt Nam .
4. http://moj.gov.vn/tctccl/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=28
5. http://diendandanluat.vn
6. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Bo-luat-dan-su-2015-
296215.aspx

13

You might also like