Tiểu Luận Triết Học Mác Lênin Lê Hoàng Mai - 211210070 - Anh02 QTKD

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

-----------------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC


Đề tài:

QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ


GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Lê Hoàng Mai

Mã sinh viên: 211210070

Lớp: Anh 02 - QTKD

GV hướng dẫn: Đào Thị Trang

Hà Nội, tháng 11 năm 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................2
NỘI DUNG..........................................................................................................3
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC........................................................................3
1. Vật chất..............................................................................................................3
1.1. Định nghĩa vật chất..................................................................................3
1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất............................................................3
1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới.......................................................3
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức.....................................................4
2.1. Nguồn gốc của ý thức...............................................................................4
2.2. Bản chất của ý thức..................................................................................5
2.3. Kết cấu của ý thức....................................................................................5
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức...............................................................4
3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức...........................................................4
3.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất...........................................................5
3.3. Ý nghĩa của phương pháp luận.................................................................5
Phần II: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY...................8
1. Thực trạng nước ta trước giai đoạn đổi mới..................................................8
2. Công cuộc đổi mới đất nước...........................................................................10
2.1. Đổi mới kinh tế.......................................................................................10
2.2. Đổi mới chính trị....................................................................................10
KẾT LUẬN........................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................16

1
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử thế giới đã trải qua bao cuộc đấu tranh sinh tồn để phát triển. Cũng từ các
cuộc đấu tranh đó mà nhân loại đã có những bước tiến quan trọng qua những bậc thang của
thời đại, từ thuở loài người bắt đầu xuất hiện để trở thành cong người văn minh như ngày
nay. Trong quá trình ấy, con người đã tích lũy được những tư tưởng có giá trị đóng góp vào
kho tàng tư tưởng của thế giới. Dựa trên cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại, tổng
kết thực tiễn thời đại triết học Mác – Lênin được hình thành và phát triển. Nội dung của chủ
nghĩa Mác – Lênin bao quát các lĩnh vực tri thức hết sức rộng lớn mang nhiều giá trị khoa
học và thực tiễn trong đó chủ nghĩa duy vật biện chứng là “hạt nhân lý luận triết học” của
thế giới khoa học Mác – Lênin. Đó là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật; là
hệ thống quan điểm lý luận “được xác lập trên cơ sở giải quyết theo quan điểm duy vật biện
chứng đối với vấn đề cơ bản của triết học”. Xem xét sự vật hiện tượng dưới góc độ của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, Ph. Ăngghen viết: “Vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là
triết học hiện đại, là vấn đề cơ bản giữa tư duy và tồn tại”. Mặt khác, mối quan hệ giữa tư
duy và tồn tại hay chính là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có vai trò quan trọng trong
công cuộc đổi mới, phát triển đất nước. Đảng và nhà nước đã vận dụng mối liên hệ ấy vào
mối liên hệ giữa kinh tế và chính trị, vào đường lối phát triển kinh tế xã hội giúp đất nước
phát triển bền vững. Hơn nữa nước ta đang trong quá trình hội nhập và quá độ lên xã hội chủ
nghĩa, việc nhận thức và vận dụng đúng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào đường lối
phát triển ngày càng quan trọng. Bởi vậy em quyết định chọn đề tài: “Quan điểm duy vật
biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay”.

2
NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẬT CHẤT, Ý THỨC VÀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1. Vật chất
1.1. Định nghĩa vật chất
Các nhà triết học trước C.Mác tuy đã có những quan niệm về vật chất song vẫn còn
hạn chế. Các nhà triết học duy tâm, cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm
chủ quan, từ thời cổ đại đến hiện đại buộc phải thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện
tượng của thế giới nhưng lại phủ nhận đặc tính tồn tại khách quan của vật chất. Các nhà duy
vật thời Cổ đại quy vật chất về một hay một vài dạng cụ thể của nó và xem chúng là khởi
nguyên của thế giới, tức quy vật chất về những vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế
giới bên ngoài, chẳng hạn, nước, lửa, không khí…. Các nhà chủ nghĩa duy vật thời cận đại
đã chứng minh được sự tồn tại thực sự của nguyên tử làm cho quan niệm về vật chất được
củng cố thêm. Tuy nhiên, do chưa thoát khỏi phương pháp tư duy siêu hình nên họ thường
đồng nhất vật chất với khối lượng, coi những định luật cơ học như những chân lý không thể
thêm bớt và giải thích mọi hiện tượng của thế giới theo những chuẩn mực thuần túy cơ học;
xem vật chất, vận động, không gian, thời gian như những thực thể khác nhau, không có mối
liên hệ nội tại với nhau…. Các nhà triết học thời kỳ này vẫn không thể làm thay đổi căn bản
cái nhìn cơ học về thế giới, không đủ đưa đến một định nghĩa hoàn toàn mới về phạm trù vật
chất. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, không ít nhà khoa học và triết học đứng trên lập
trường duy vật tự phát, siêu hình đã hoang mang, dao động, hoài nghi tính đúng đắn của chủ
nghĩa duy vật; chủ nghĩa duy tâm trong một số khoa học đã tấn công và phủ nhận quan niệm
về vật chất của chủ nghĩa duy vật; một số nhà khoa học tự nhiên trượt từ chủ nghĩa duy vật
máy móc, siêu hình sang chủ nghĩa tương đối, rồi rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ nghĩa duy
vật siêu hình, máy móc, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những tư tưởng hết sức quan trọng
về vật chất. Theo Ph.Ăngghen, để có một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải có sự
phân biệt rõ ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù triết học, một sáng tạo, một

3
công trình trí óc của tư duy con người trong quá trình phản ánh hiện thực chứ không phải là
sản phẩm chủ quan của tư duy. Đồng thời, Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng, các sự vật, hiện
tượng của thế giới dù rất phong phú, muôn vẻ nhưng chúng vẫn có một đặc tính chung,
thống nhất, đó là tính vật chất – tính tồn tại, độc lập không lệ thuộc vào ý thức.
Kế thừa những tư tưởng thiên tài đó, V.I.Lênin đã tiến hành tổng kết toàn diện những
thành tựu mới nhất của khoa học, đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa hoài nghi,
duy tâm. Đồng thời, Lênin đã tìm kiếm phương pháp định nghĩa mới cho phạm trù vật chất
thông qua khái niệm đối lập với nó trên phương diện nhận thức luận cơ bản, nghĩa là phải
định nghĩa vật chất thông qua ý thức. Với phương pháp nêu trên, V.I.Lênin đã đưa ra định
nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy, định nghĩa vật chất
của V.I.Lênin bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
 Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan – cái tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không lệ thuộc vào ý thức.
 Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là tồn tại
khách quan.
 Thứ ba, vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián
tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất, vật chất là
cái quyết định ý thức.
Định nghĩa của Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật và nhận thức khoa học. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết một
cách đúng đắn và triệt để cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết học; triệt để khắc phục hạn chế
của chủ nghĩa duy vật cũ, bác bỏ chủ nghĩa duy tâm bất khả tri; khắc phục được khủng
hoảng, đem lại niềm tin trong khoa học tự nhiên; tạo tiền đề xây dựng quan điểm duy vật về
xã hội và lịch sử loài người. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là cơ sở để xây dựng nền
tảng vững chắc cho sự liên minh ngày càng chặt chẽ giữa triết học duy vật biện chứng với
khoa học.

4
1.2. Các hình thức tồn tại của vật chất
 Vận động
Ph.Ăngghen viết: “Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy”.
Vận động là một phương thức tồn tại của vật chất. Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng
cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của nó với các hình dạng
phong phú muôn vẻ, vô tận. Do đó, con người chỉ nhận thức được sâu sắc sự vật hiện tượng
bằng cách xem xét chúng trong quá trình vận động.
Vận động là một thuộc tính cố hữu và là phương thức tồn tại của vật chất; do đó, nó
tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt. Quan niệm về tính không thể tạo ra
và không bị tiêu diệt của vận động đã được các nhà khoa học tự nhiên chứng minh bằng quy
luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Một hình thức vận động cụ thể thì có thể mất đi để
chuyển hóa thành hình thứ vận động khác, còn vận động nói chung thì tồn tại vĩnh viễn gắn
liền với bản thân vật chất.
 Những hình thức vận động cơ bản của vật chất
Dựa vào những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã chia vận động
của vật chất thành năm hình thức cơ bản: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội. Cơ sở
của sự phân chia đó dựa trên các nguyên tắc: các hình thức vận động phải tương ứng với
trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các hình thức vận động có mối liên hệ phát sinh,
nghĩa là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở của những hình thức vận động thấp và
bao hàm hình thức vận động thấp; hình thức vận động cao khác về chất so với hình thức vận
động thấp và không thể quy về hình thức vận động thấp. Các hình thức vận động này tuy
khác nhau về chất nhưng chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trong sự tồn tại của mình, mỗi một sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác
nhau; tuy nhiên, bản thân sự tồn tại của sự vật bao giờ cũng đặc trưng bởi hình thức vận
động cao nhất.

5
 Vận động và đứng im
Sự vận động không ngừng của vật chất không những không loại trừ mà trái lại còn
bao hàm trong đó sự đứng im tương đối. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
đứng im là trạng thái ổn định về chất của sự vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và
điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự của các sự vật, hiện tượng và là
điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất. Vận động và đứng im tạo nên sự thống
nhất biện chứng của các mặt đối lập trong sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mọi sự vật,
hiện tượng, nhưng vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối bởi: vật chất chỉ đứng im
trong một quan hệ nhất định, một hệ quy chiếu nhất định; đứng im chỉ xảy ra trong một hình
thức vận động và chỉ xảy ra trong một khoảng thời gian xác định, ngay trong thời gian đó
cũng nảy sinh những nhân tố dẫn đến phá vỡ sự đứng im đó.
 Không gian và thời gian
Dựa trên những thành tựu của khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
khẳng định tính khách quan của không gian và thời gian, xem không gian và thời gian là
hình thức tồn tại của vật chất vận động. Trong đó, không gian là hình thức tồn tại của vật
chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời
gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các
quá trình. Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật
chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Không có sự vật, hiện tượng nào tồn tại
trong không gian mà lại không có một quá trình diễn biến của nó. Không gian và thời gian
về thực chất là một thể thống nhất không – thời gian. Vật chất có ba chiều không gian và
một chiều thời gian.
1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Căn cứ vào đời sống thực tiễn và sự phát triển lâu dài của triết học và khoa học, chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở
tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:

6
- Chỉ một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất
tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người, được ý thức con người phản
ánh.
- Mọi bộ phận của thế giới có mối quan hệ vật chất thống nhất với nhau, biểu hiện
ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là sản phẩm của vật chất, cùng chịu sự
chi phối của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
- Thế giới vật chất không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi, nó tồn tại vĩnh
viễn, vô hạn và vô tận.
2. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức
 Quan điểm của các nhà khoa học
Khi lý giải nguồn gốc ra đời của ý thức, các nhà triết học duy tâm cho rằng, ý thức là
nguyên thể đầu tiên, tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh thành, chi phối sự tồn tại, biến
đổi của toàn bộ thế giới vật chất.
Đối lập với các quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, các nhà duy vật siêu hình phủ nhận
tính chất siêu tự nhiên của ý thức, tinh thần. Họ cho rằng: ý thức xuất phát từ thế giới hiện
thực để lí giải nguồn gốc của ý thức; coi ý thức cũng chỉ là một dạng vật chất đặc biệt, do vật
chất sản sinh ra.
Trong khi đó, các nhà chủ nghĩa duy vật biện chứng lại cho rằng: ý thức xuất hiện là
kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết
quả trực tiếp của giới tự nhiên, của lịch sử trái đất, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực
tiễn xã hội – lịch sử con người.
 Nguồn gốc của ý thức
 Nguồn gốc tự nhiên: bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan
hệ giữa con người với thế giới khách quan. Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ
chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của
bộ óc. Ý thức không thể tách rời khỏi hoạt động của bộ óc. Để bộ óc con người sản sinh ra
được ý thức cần phải có sự tác động của thế giới khách quan. Thế giới khách quan được

7
phản ánh thông qua hoạt động giác quan đã tác động đến bộ óc của con người, hình thành
nên ý thức.
 Nguồn gốc xã hội: Lao động và ngôn ngữ là hai nhân tố cơ bản của nguồn
gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức.
 Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào các
đối tượng của thế giới tự nhiên nhằm thay đổi chúng cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của
con người. Lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình. Theo
Ph.Ăngghen thì “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và
như thế đến một mức đọ và trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo
ra bản thân con người”.
 Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội
dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và phát triển. Nhờ có ngôn ngữ
mà con người khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư
tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ph.Ăngghen đã nói: “Sau lao động và đồng thời với
lao động là ngôn ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu cải biên bộ óc của vượn thành bộ óc
của con người, cải biến tâm lý động vật thành ý thức.
Như vậy, điều kiện cần để có ý thức là nguồn gốc tự nhiên và điều kiện đủ là nguồn
gốc xã hội.
2.2. Bản chất của ý thức
 Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức là hình ảnh về
thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội dung, cả về hình
thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã cải biến
thông qua lăng kính chủ quan của con người.
 Ý thức là sự phản ánh tích cực, sáng tạo, gắn với thực tiễn xã hội: Tính chất
năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng hoạt động tâm – sinh
lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông
tin, lưu giữ thông tin và trên cở sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin
mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự

8
phản ánh ý thức còn được thể hiện ở quá tình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết,
huyền thoại,… trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách
quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
 Ý thức mang bản chất lịch sử - xã hội: Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền
với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là
của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của
xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực
tiễn xã hội.
2.3. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau;
tỏng đó cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí. Trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất,
là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố quyết định hướng đối với sự phát
triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất
là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức.
- Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì
con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế
giới vật chất.
- Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc
người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động,
ngôn ngữ), hoặc chính là bản thân thế giới vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ánh, lao
động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức.
- Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất
nên vật chất quyết định nội dung của ý thức. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức
biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi

9
trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ
quyết định nội dung mà còn quyết định cả sự vận động và phát triển của ý thức.
3.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
vật chất.
- Thứ nhất, ý thức tác động trở lại thế giới vật chất thường thay đổi chậm so với sự
biến đổi của thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.
- Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người.
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong
thời đại ngày nay.
Ý thứ có tính năng động, sáng tạo nên thông qua hoạt động thức tiễn của con người
có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nhất định những điều kiện vật chất, góp phần
cải biến thế giới khách quan. Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan thì có tác dụng
thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong cải tạo thế giới. Ngược lại, ý thức sẽ kìm
hãm hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người nếu không phản ánh đúng thế giới
khách quan.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất, thông qua hoạt động thực tiễn của
ncon người dù đến mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật
chất và các điều kiện vật chất liên quan.
3.3. Ý nghĩa của phương pháp luận
Vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải đảm bảo tính
khách quan khi xem xét sự vật hiện tượng: phải xem xét sự vật hiện tượng như chính nó
đang tồn tại bên trong thực tế; trong hoạt động thực tiễn phải lấy nhân tố vật chất làm cơ sở;
phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.

10
Ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động, tính cức, sáng tạo
của ý thức: phải nâng cao tri thức; phải bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và ý chí; đồng thời phải
tạo môi trường xã hội thuận lợi để con người phát huy tối đa năng lực của bản thân; phải giải
quyết đúng đắn các vấn đề lợi ích.
PHẦN II: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
Vật chất và ý thức là hai phạm trù cơ bản có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vật
chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại vật chất. Trong nhiều trường hợp, ý thức lý
luận lại quyết định sự thành bại của con người. Điều đó được thể hiện rõ trong đường lối chủ
trương đổi mới, phát triển đất nước đặc biệt là kinh tế của Đảng ta trong mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị. Nếu đường lối chính sách của Đảng phù hợp với quy luật phát triển thì
sẽ làm cho đất nước phát triển, ngược lại nếu đường lối chính sách của Đảng phù hợp với
quy luật phát triển thì sẽ làm cho đất nước phát triển, ngược lại nếu đường lối chính sách của
Đảng đi ngược lại với quy luật phát triển thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Như vậy,
kinh tế - vật chất là tính thứ nhất, chính trị - ý thức là tính thứ hai. Mối quan hệ giữa kinh tế
và chính trị càng được thể hiện rõ trong quá trình xây dựng, đổi mới đất nước.
1. Thực trạng nước ta trước giai đoạn đổi mới
Những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, sau khi giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, nước ta đứng trước nhiều khó khăn và thử thách mới. Nền kinh tế miền
Bắc lúc này còn nhiều nhược điểm: cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất
cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất nông
nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu công nghiệp cho hàng hóa
xuất khẩu. Mặt khác, nền kinh tế miền Bắc còn bị chiến tranh phá hoại bằng không quân của
đế quốc Mỹ tàn phá nặng nề. Ở miền Nam, sau 20 năm chiến tranh, nền kinh tế bị đảo lộn và
suy sụp, nông nghiệp nhiều vùng hoang hóa, lạm phát trầm trọng. Ngoài ra, về mặt chính trị,
chúng ta chưa tìm được đầy đủ những nguyên nhân đích thực của sự trì trệ trong nền kinh tế
của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách toàn diện về đổi mới. Nhất là về
kinh tế, chúng ta chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải

11
tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế và những sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu
thông.
2. Công cuộc đổi mới đất nước
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu tư tưởng triết học Mác –
Lênin, đề ra những mục tiêu và phương hướng chỉ đạo đúng đắn để xây dựng và phát triển
xã hội. Nhờ vào nhận thức thực tiễn, Đảng và Nhà nước đã quyết định loại bỏ nền kinh tế
bao cấp và cho phép Đất nước phát triển theo nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, Đảng còn đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản
chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất
giữa chúng.
Trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý
chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định phương hướng về xây dựng cơ sở vật
chất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lí kinh tế. Biểu hiện của nó là ta đã quá chủ quan trong
việc đánh giá sai lệch về tốc độ cải thiện kinh tế mà hệ quả của nó là việc đề ra những chỉ
tiêu quá cao so với khả năng thực tại. Như vậy Đảng ta đã vi phạm nguyên tắc khách quan
của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Trước sự suy sụp của nền kinh tế, Đại hội lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu cho kế
hoạch 5 năm 1976 - 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng như: năm 2975, phấn
đấu đạt 21 triệu tần lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu héc ta khai hoang, 1 triệu 200 héc
ta rừng mới trồng…, 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng… Đặc biệt là đã đề ra việc
xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí và đặt nhiệm vụ
hoàn thành về cơ bản vải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, Những chủ trương sai lầm do
cùng với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã tác động xấu đến kinh tế, ảnh hưởng
không tốt tới đời sống của nhân dân… Đến năm 2980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng
50-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng bình
quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6% nông nghiệp giảm 0,15%.
Đại hội Đảng lần thứ V cũng chỉ tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực sự trì
trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chỉ ra các chủ trương chính sách và toàn diện về

12
đổi mới, nhất là về kinh tế. Trong 5 năm 1981 – 1985, chúng ta chỉ kiên quyết khắc phục
chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại
phạm sai lầm mới nghiêm trọng trong lĩnh vực phối lưu thông, Nhìn chung, chúng ta chỉ
thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình
kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nhận
định: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi,
xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng
Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: Nóng vội trong cải
tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần: thúc đẩy mạnh quá mức quá
trình xây dựng công việc nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liên, bao cấp,
có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương”. Đại hội Đảng lần thứ
VI đã xác định xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không
thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại
hội xác định: “Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những
hình thức và bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”.
2.1. Đổi mới kinh tế
Trong cơ cấu sản xuất và đầu tư, Đảng và Nhà nước đã điều chình lại theo hướng “không
bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế”, tập trung sức
người sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực – thực
phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chính sách vừa đáp
ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ, vừa là điều kiện thúc đẩy sản xuất lưu thông
hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa. Bên cạnh đó, Đảng thi hành chính sách một
giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp
kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hoạch toán kinh tế,
Đảng đã đề ra mục tiêu đổi mới kinh tế, đó là:

13
- Xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
- Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hoạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới về nội dung, cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương kinh tế:
 Sản xuất lương thực, thực phẩm.
 Sản xuất hàng tiêu dùng.
 Sản xuất hàng xuất khẩu.
Qua quá trình đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rõ rệt:
- Một là, tạo lập được sự ổn định kinh tế vĩ mô.
- Hai là, cơ cấu kinh tế đã dịch chuyển theo hướng tích cực, phát huy tiềm năng của từng
ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế.
- Ba là, kinh tế đối ngoại phát triển khá, vị thế nước ta trên trường quốc tế đã được nâng
cao.
2.2. Đổi mới chính trị
Sự đổi mới và phát triển kinh tế phải gắn liền với sự đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
Thực tiễn đổi mới kinh tế đang đòi hỏi đổi mới chính trị phải nới lỏng hơn nữa, phải tháo gỡ
những trói buộc của các quan điểm chính trị, các chính sách, thiết chế, cơ chế hoạt động, tổ
chức bộ máy,… Nhu cầu đổi mới hệ thống chính trị để mở đường cho kinh tế và xã hội phát
triển bền vững là một nhu cầu khách quan xuất phát từ sự phát triển xã hội. Vấn đề cấp thiết
nhất trong đổi mới chính trị là sự đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và những đặc điểm
của thời đại ngày nay.
Tại Đại hội XIII, Đảng đã coi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một
trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
khẳng định tiếp tục thực hiện “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then
chốt”; đề ra nhiệm vụ “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của
Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà
nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Đồng thời “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,

14
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”.
Quan điểm này tiếp tục chỉ đạo, siu sáng việc đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời
gian tới của Đảng.
Có thể thấy, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị trong suốt quá trình đổi mới đất nước, đặc biệt là vấn đề đổi mới chính trị. Điều này
là hoàn toàn đúng đắn, bởi kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực quan trọng bậc nhất trong mọi
xã hội, có tác động to lớn đến các lĩnh vực khác. Hơn nữa, giữa kinh tế và chính trị có mối
quan hệ biện chứng, mật thiết, không tách rời nhau. Để xử lý tốt mối quan hệ này, trong đó
có vấn đề đổi mới chính trị đồng bộ, phù hợp với đổi mới kinh tế, trước hết cần dựa trên cơ
sở lý luận khoa học đúng đắn. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị là một trong những lý luận quan trọng để thực hiện nhiệm vụ nói trên.

15
KẾT LUẬN
Có thể nói, vật chất đóng một vai trò vô cùng lớn và quyết định đối với ý thức,
nó là cái có trước ý thức, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết
định nội dung của ý thức; nhưng ý thức lại là sự phản ánh hiện thực khách quan của
thế giới vật chất. Mối quan hệ biện chứng này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nâng cao vai trò của ý thức đối với vật chất chính là nâng
cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan
trong hoạt động thực tiễn của con người.
Công cuộc đổi mới là một sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, nó như cuộc kháng
chiến trường kì của Đảng và nhà nước. Với những biến động trước tình hình kinh tế
của nhiều nước trên thế giới đòi hỏi Đảng và nhà nước phải kiên trì, giữ vững lòng
tin, quyết tâm khắc phục khó khăn, đồng thời phải tỉnh táo, nhạy bén thích ứng kịp
thời với thực tế biến đổi từng ngày từng giờ. Chúng ta đã thành công khi chuyển từ
nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn luôn xác định phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Thực tế đã chứng minh việc vận dụng
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới của đất nước là vô cùng
đúng đắn và cần thiết. Ngày hôm nay, sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước đã có những
chuyển mình tích cực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn không ít những sai
sót, khuyết điểm. Vì vậy, để thực sự đưa cuộc đổi mới đi đến thành công cần sự đoàn
kết, nỗ lực hết mình của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

16
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính trị
quốc gia-Sự thật, Hà Nội - 2017
2. Giáo trình Triết học Mác-Lênin (tập I - Chủ nghĩa duy vật biện chứng), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2007
3. Đảng cộng sản Việt Nam văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà
xuất bản sự thật, Hà nội
4. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006

5. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
6. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội đồng Trung ương
chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lê nin, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm
2005

7. Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (tái bản có sửa đổi, bổ sung), Hội
đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học
Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, năm 2003
8. https://tcnn.vn/news/detail/44249/Doi-moi-chinh-tri-o-Viet-Nam-hien-nay---tiep-can-
tu-moi-quan-he-giua-kinh-te-va-chinh-tri.html
9. https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/nhan-thuc-va-giai-
quyet-dung-dan-moi-quan-he-giua-doi-moi-kinh-te-va-doi-moi-chinh-tri-135330

17

You might also like