Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 31

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG

BÀI TẬP LỚN


MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LỚP: L08
NHÓM: 13
HỌC KỲ 212, NĂM HỌC 2021-2022

ĐỀ TÀI: NHỮNG YẾU TỐ DẪN ĐẾN SỰ RA ĐỜI


CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

GVGD: ThS. Phan Thị Thanh Hương

SVTH: Cao Minh Thắng MSSV: 1915214

Trương Hiếu Tài MSSV: 1910508

Nguyễn Nhật Tấn Tài MSSV: 1911996

Nguyễn Thị Hồng Thắm MSSV: 1915212

Võ Nhật Tân MSSV: 1915080

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 1 NĂM 2022


MỤC LỤC

MỤC LỤC 2

MỞ ĐẦU 4

CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA


MÁC – LÊNIN VỀ VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN 6

1.1.Bối cảnh lịch sử 6

1.1.1. Tình hình thế giới 6

1.1.2. Tình hình Việt Nam và các phong tào yêu nước trước khi có Đảng 6

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về việc thành lập Đảng cộng sản 9

1.2.1. Khái quát về chủ nghĩa Mác –Lênin 9

1.2.2. Quan điểm của Lênin về các yếu tố thành lập Đảng Cộng sản 10

CHƯƠNG 2: NGUYỄN ÁI QUỐC VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA


MÁC LÊNIN TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 12

2.1. Tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam 12

2.1.1. Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản 12

2.1.2. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị 14

2.1.3. Sự chuẩn bị về tổ chức 14

2.2. Vai trò của giai cấp công nhân trong việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam 15

2.2.1. Khái quát về sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam 15

2.2.2. Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam 15

2.3. Phong trào yêu nước – sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 18

2.3.1. Khái quát về phong trào yêu nước Việt Nam 18

2.3.2. Sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam 18
2
CHƯƠNG 3. GIÁ TRỊ CỦA VIỆC KẾT HỢP BA YẾU TỐ TRONG VIỆC
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 21
3.1. Giá trị lý luận 21
3.1.1. Giá trị lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin 21

3.1.2. Giá trị lý luận việc bổ sung phong trào yêu nước của Nguyễn Ái Quốc 21

3.2. Giá trị thực tiễn 23


3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975) 23
3.2.2. Đối với sự phát triển của đất nước hiện nay (1975-nay) 24
KẾT LUẬN 27

TÀI LIỆU THAM KHẢO 29

3
MỞ ĐẦU

Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
giai đoạn độc quyền, nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, yêu cầu về thị trường tăng cao. Do
đó, các nước đế quốc đẩy mạnh quá trình xâm chiếm các nước nhỏ, chủ yếu ở châu Á, châu Phi
và khu vực Mỹ Latinh. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng
gay gắt. Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác tài nguyên,
bóc lột sức lao động. So với nhiều nước trên thế giới và khu vực, giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời chậm và nhỏ bé. Từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp liên tục diễn ra. Mục tiêu đấu tranh của phong trào công nhân là đánh đổ thực
dân Pháp, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Nguyễn Ái Quốc đã đi từ chủ nghĩa
yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin và từ đó Người đã dày công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam. Việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (1925) bao gồm những chiến sĩ
yêu nước để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước là hiện thân của sự kết hợp ba
yếu tố ngay từ những bước chuẩn bị ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam, định hướng cho chúng ta đấu tranh theo con đường
cách mạng vô sản, do giai cấp vô sản lãnh đạo để đem lại quyền lợi cho người dân. Chủ nghĩa
Mác – Lênin đồng thời chỉ ra rằng rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải lập ra Đảng Cộng sản. Đảng cộng sản
xuất hiện trên cơ sở phong trào công nhân. Đảng Cộng sản ra đời đó là sự kết hợp chủ nghĩa
Mác với phong trào công nhân. Giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được, nhờ có sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản được vũ trang bằng học thuyết mác-xít khoa học. Giai cấp công nhân
là cơ sở, là nền tảng, là toàn thể; Đảng Cộng sản là bộ phận tiên tiến nhất của giai cấp công
nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một yêu cầu khách quan cho cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân. Khi Chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, phong trào yêu nước và phong trào
công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Từ đó các tổ chức Cộng
sản ở Việt Nam đã ra đời và mở đường cho công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc.

Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời mở đầu với Cương lĩnh đầu tiên đã xác định được những
nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam. Là kết quả của quá trình vận động
4
hợp quy luật, của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân
với là sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Ái Quốc khi bổ sung thêm phong trào yêu nước Việt
Nam. Phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc
Việt Nam, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch
sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc. Đảng ra đời đã chấm dứt thời kì
khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành "đủ sức lãnh
đạo cách mạng”. Đó là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất phong trào cách mạng
trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết
nhất trí của những chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. 
Mục đích của nghiên cứu đề tài:
Làm rõ quan điểm của Lênin về các yếu tố thành lập Đảng.Ý nghĩa của việc Nguyễn Ái
Quốc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó, Người đã đưa ra 3 yếu tố thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự quan trọng và cấp thiết của việc thành lập Đảng. Vai trò của
Đảng trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, vận dụng phát triển, sáng tạo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Nhiệm vụ cần giải quyết:
Một là, làm rõ quan điểm của Lênin về các yếu tố thành lập Đảng.
Hai là, làm rõ được sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc khi đưa ra được 3 yếu tố thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba là, làm rõ ý nghĩa của 3 nhân tố dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

5
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN VỀ VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN

1.1.Bối cảnh lịch sử

1.1.1.Tình hình thế giới

Từ nửa sau thế kỷ XIX, các nước tư bản Âu – Mỹ đã có những chuyển biến mạnh mẽ trong
đời sống kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền (đế quốc chủ nghĩa), nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, yêu cầu
về nguyên liệu, thị trường tăng cao,chính vì vậy, các nước đế quốc đẩy mạnh quá trình xâm
chiếm các nước nhỏ, chủ yếu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh. Trước bối cảnh đó,
nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đế quốc,
tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là châu Á, tác động mạnh
mẽ đến phong trào yêu nước Việt Nam.

Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế
giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản ở các nước tư bản mà còn , mà còn tác động sâu sắc đến phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa Mác lê-nin từ lý luận trở thành hiện thực,
mở ra một thời đại mới – thời đại cách mạng chống đế quốc, giải phóng dân tộc. Sự ra đời của
Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 do V.I.Lênin đứng đầu trở thành bộ tham
mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới.Quốc tế Cộng sản
không những vạch đường hướng chiến lược cho cách mạng vô sản mà còn đề cập các vấn đề
dân tộc và thuộc địa, giúp đỡ, chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc, tiến hành hoạt động
truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh đi theo khuynh hướng
vô sản. Quốc tế Cộng sản ra đời đã trở thành ngọn đuốc lớn soi đường cho cách mạng Việt
Nam sau này.

1.1.2.Tình hình Việt Nam và các phong tào yêu nước trước khi có Đảng

 Tình hình Việt Nam

Là quốc gia Đông Nam Á nằm ở vị trí chính trị quan trọng của châu Á, Việt Nam trở thành
đối tượng nằm trong mưu đồ xâm lược của thực dân Pháp. Đến ngày 1/9/1858, thực dân Pháp
nổ súng tấn công Đà Nẵng bởi đây là một vị trí thuận lợi, nằm trên trục giao thông Bắc – Nam,
cách Huế khoảng 100 km về phía Bắc, đồng thời Hải cảng Đà Nẵng sâu và rộng, dễ dàng để tàu
bè qua lại. Trước hành động xâm lược của Pháp, triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp,
lần lượt ký các hiệp ước đầu hàng như: Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) , hiệp ước Giáp Tuất
(1874) , hiệp ước Harmand (1883) và đến ngày 6/6/1884, với Hiệp ước Patơnốt, triều đình nhà
Nguyễn đã đầu hàng hoàn toàn thực dân pháp, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa

6
phong kiến của Pháp. Tuy triều đình nhà Nguyễn đầu hàng thực đân Pháp, nhưng nhân dân
Việt Nam không chịu khuất phục, phong trào đấu tranh nổ ra liên tục, khắp các địa phương.

Từ năm 1897, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa lớn: cuộc khai
thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 – 1914 ) và cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai ( 1919 –
1929). Mưu đồ của thực dân Pháp nhằm biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung
thành thị trường tiêu thụ hàng hóa, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động của
người bản xứ cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề.

Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.

Một là, về chính trị : thực dân Pháp thực hiện chính sách chia để trị, chia nước ta thành ba
miền: Bắc Kỳ ( đứng đầu là thống sứ) , Trung Kỳ ( đứng đầu là khâm sứ) và Nam Kỳ ( đứng
đầu là thống đốc) nhằm pha vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia, dân tộc. Thực dân Pháp thi
hành chính sách cai trị chuyên chế, thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn
bạo, chia rẽ dân tộc tôn giáo…làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ,
mọi phong trào đấu tranh của nhân dân đều bị đàn áp dã man.

Hai là, về văn hóa : thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân ” để dễ cai trị, lập nhà tù
nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hóa, tạo nên nhiều tệ nạn xã
hội, dung rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư
tưởng “khai hóa văn minh” của nước “Đại Pháp”.

Ba là, về kinh tế : thực dân Pháp khẳng định “Việt Nam là bông hoa đẹp nhất trong vườn
hoa Đông Dương” bởi đây là khu vực có vị trí chiến lược quan trọng, giàu tài nguyên khoáng
sản, lực lượng lao động đông,…Chính vì vậy, thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn nào để
bóc lột nhân dân ta, thẳng tay cướp đoạt và bần cùng hóa nông dân, chiếm đoạt tài nguyên
thiên nhiên, nắm các mạch máu kinh tế ở Việt Nam, kìm hãm công nghiệp nặng, hạn chế công
nghiệp nhẹ, độc chiếm thị trường Việt Nam, đồng thời cướp đoạt ruộng đất của nông dân để lập
ra các đồn điền cao su, cà phê,… và bắt dân ta lao động không công để phục vụ cho thực dân
Pháp. Nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm nặng nề, tiến triển chậm chạp, què quặt, phiến diện, lệ
thuộc vào Pháp. Mặc khác, về phương diện xã hội, dưới chế độ phong kiến

Bốn là, về xã hội: Dưới chế độ phong kiến, giai cấp địa chủ và nông dân là hai giai cấp cơ
bản trong xã hội, khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, giai cấp địa chủ bị phân hóa, một
bộ phận địa chủ cấu kết với Pháp và làm tay sai đắc lực cho Pháp trong việc ra sức đàn áp
phong trào yêu nước và bóc lột nông dân; một bộ phận khác nêu cao tinh thần dân tộc, khởi
xướng và lãnh đạo các phong trào chống Pháp. Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo
nhất, đồng thời là giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất. Do vậy , ngoài mâu thuẫn giai cấp vốn có
với địa chủ, nông dân còn có mâu thuẫn sâu sắc với thực dân xâm lược. Trải qua các cuộc khai
thác thuộc địa, giai cấp công nhân ra đời. Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm
riêng vì ra đời trong hoàn cảnh một nước thuộc địa nửa phong kiến, chủ yếu xuất thân từ nông
7
dân, cơ cấu chủ yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền, lực lượng còn nhỏ bé, nhưng sớm
vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, thể hiện giai cấp có năng lực lãnh đạo cách
mạng. Sau giai cấp công nhân, giai cấp tư sản Việt Nam cũng ra đời, một bộ phận gắn liền với
tư bản Pháp,một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc, có tinh thần yêu nước, chống thực dân.
Ngoài các tầng lớp chính thì xã hội Việt Nam còn có tầng lớp tiểu tư sản, các sĩ phu phong
kiến, họ có tinh thần dân tộc, yêu nước. Tuy nhiên ở tầng lớp tiểu tư sản, do địa vị kinh tế bấp
bênh, thiếu kiên định nên không thể lãnh đạo cách mạng.

Chính vì vậy, mà nhiệm vụ đặt ra hàng đầu đó là chống đế quốc, đánh đổ chủ nghĩa thực
dân, giành chính quyền. Đòi hỏi dân tộc Việt Nam phải có ý chí mạnh mẽ, tinh thần yêu nước
và đoàn kết chống giặc ngoại xâm, đồng thời phải thành lập ra một tổ chức để lãnh đạo, tổ chức
các tầng lớp nhân dân chiến đấu chống Pháp.

 Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng

Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, nhân dân ta đã sớm hình thành
truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dung kiên cường bất khuất. Ngay khi
thực dân Pháp xâm lược, các phong tào đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục,
rộng khắp, chia ra làm hai giai đoạn

Thứ nhất, phong trào cuối thế kỷ XIX, phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến

 Mặc dù triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng, nhưng một bộ phận phong kiến yêu
nước đã cùng với nhân dân tiếp tục đấu tranh vũ trang chốp Pháp, như phong trào Cần Vương
do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng (1885 – 1896 ). Hưởng ứng lời kêu gọi Cần
Vương cứu nước, các cuộc khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê
(Hà Tĩnh)… diễn ra sôi nổi, thể hiện tinh thần quật cường chống ngoại xâm của các tầng lớp
nhân dân nhưng bị thất bại. Một phong trào tiêu biểu khác trong giai đoạn này là phong trào
nông dân Yên Thế nổ ra dưới sự lãnh đạo của Hoàng Hoa Thám, tuy nhiên cuộc khởi nghĩa này
mang nặng “cốt cách phong kiến” , không có khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo
thành một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, do vậy cũng bị thực dân Pháp đàn áp.

Thứ hai, phong trào đầu thế kỷ XX, phong trào theo khuynh hướng tư sản, gồm các phong
trào tiêu biểu như sau

 Khuynh hướng bạo động do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo: chủ trương tập
hợp lực lượng với phương pháp bạo động chống Pháp, xây dựng chế độ chính trị như ở Nhật
Bản, tổ chức đưa thanh niên yêu nước Việt Nam sang Nhật Bản học tập. Đến 1908, chính phủ
Nhật Bản cấu kết với thực dân Pháp trục xuất lưu học sinh Việt Nam và những người đứng đầu
phong trào. Năm 1912, với sự ảnh hưởng của Cách mạng Tân Hợi (1911), Phan Bội Châu lập
tổ chức Việt Nam Quang phục Hội với tôn chỉ là vũ trang đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục

8
Việt Nam, thành lập nước cộng hòa dân quốc Việt Nam. Tuy nhiên lại thất bại do chưa nắm rõ
bản chất thực sự của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
 Khuynh hướng cải cách của Phan Châu Trinh: Phan Châu Trinh cho rằng “bất
bạo động, bạo động tắc tử”, phải “khai dân trí, chấn dân trí, hậu dân sinh” , phải bãi bỏ chế độ
quân chủ, thực hiện dân quyền, khai thông dân trí, mở mang thực nghiệp. Vì vậy mà Phan
Châu Trinh đã đề nghị nhà nước “bảo hộ” Pháp tiến hành cải cách. Tuy nhiên cũng bị thất bại
 Phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, mục đích là đánh đuổi thực
dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ cộng hòa tư sản, với phương pháp
đấu tranh vũ trang nhưng theo lối manh động, ám sát cá nhân, lực lượng chủ yếu là binh lính,
sinh viên,…tuy oanh liệt nhưng nhanh chóng thất bại do tính hấp tấp của tiểu tư sản, tính chất
hang hái nhất thời và biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu.

Nhìn chung, nguyên nhân thất bại của các phong trào đó là do thiếu đường lối chính trị
đúng đắn để giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội, chưa có một tổ
chức vững mạnh để tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo toàn dân tộc, chưa xác định phương pháp đấu
tranh thích hợp để đánh đổ kè thù. Tuy thất bại nhưng các phong trào yêu nước đã góp phần cổ
vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân, thúc đẩy các nhà yêu nước Việt Nam, nhất là lớp
thanh niên trí thức tiên tiến chọn lựa con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân
tộc.

1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về việc thành lập Đảng cộng sản

1.2.1. Khái quát về chủ nghĩa Mác –Lênin

 Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới thực
hiện sự nghiệp giải phóng con người; học thuyết này được sáng lập bởi C. Mác, Ph. Ăngghen
và được V.I. Lênin kế thừa và phát triển, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là thế giới quan,
phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.

Chủ nghĩa Mác – Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản

Thứ nhất, triết học Mác – Lênin, là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động,
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp
luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.

Thứ hai, kinh tế chính trị Mác – Lênin, nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc
biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất mới - phương thức sản xuất
cộng sản chủ nghĩa.

Thứ ba, chủ nghĩa xã hội khoa học, là kết quả của sự vận dụng thế giới quan, phương pháp
luận triết học và kinh tế chính trị Mác - Lênin vào việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy luật
9
khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa - bước chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.

Như vậy, chúng ta có thể thấy ở chủ nghĩa Mác – Lênin là sự thống nhất của ba thuộc tính:
tính khoa học, tính cách mạng và tính nhân văn cao cả. Tính khoa học thể hiện ở học thuyết là
sự kế thừa của các thành tựu khoa học; bản thân học thuyết cũng đã thể hiện đó là một hệ thống
lý luận mang tính logic,  khoa học và nội dung chứa đầy những dự báo khoa học về tương
lai. Tính cách mạng thể hiện trong việc học thuyết đã chỉ ra con đường đấu tranh, chống lại bảo
thủ lạc hậu, chống lại chế độ áp bức bóc lột để hướng đến một xã hội tốt đẹp hơn. Tính nhân
văn thể hiện ở trong quan điểm về con người, về cuộc sống con người và việc xây dựng một
chế độ mới trên cơ sở giải phóng con người khỏi khổ đau, áp bức.

1.2.2. Quan điểm của Lênin về các yếu tố thành lập Đảng Cộng sản

Do ảnh hưởng trực tiếp của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Năm 1918, đã xuất
hiện một loạt các đảng cộng sản như Đảng Cộng sản Áchentina, Phần Lan, Áo, Hungari, Ba
Lan, Đức. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đánh dấu sự chiến thắng của giai cấp công
nhân. Sự thành lập Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Nó góp phần đẩy nhanh sự hình thành các Đảng cộng sản ở nhiều
nước, Quốc tế III ra đời đánh dấu thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lê-nin đã viết: “Ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản, là ở chỗ
nó đã bắt đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác, khẩu hiệu tổng kết thực tiễn trong một
thế kỷ của CNXH và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện bằng khái niệm: chuyên
chính của giai cấp vô sản”11. Những giá trị chính trị, tư tưởng, lý luận và tổ chức mà Quốc tế
Cộng sản tạo nên đã tác động sâu sắc, ảnh hưởng to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Sự ảnh
hưởng đó không chỉ đối với quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và sự lựa
chọn con đường, mục tiêu của cách mạng; mà còn đối với cả quá trình xây dựng Đảng về chính
trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện và củng cố sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam. Lênin đã xây dựng lý luận cơ bản về sự ra đời của đảng cộng sản: đảng cộng sản là sản
phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân. Lý luận này dựa
trên hai căn cứ:

Thứ nhất, Đảng cộng sản xuất hiện trên cơ sở phong trào công nhân.

 Những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội đã tạo ra những nhân tố chủ
quan nhằm thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã hội mới cao hơn. Nhân tố chủ quan
trước hết là giai cấp công nhân có tinh thần giác ngộ và được tổ chức lại, đủ khả năng để lật đổ
chế độ tư bản và xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ
các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, số lượng ít, chủ yếu là công nhân khai thác mỏ,
đồn điền mà chưa phải là công nhân đại công nghiệp như ở phương Tây. Tuy vậy, giai cấp
1
V.I..Lê-nin - Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mát-cơ va, 1978, tr. 364.

10
công nhân Việt Nam cũng là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, có tinh thần
cách mạng triệt để nhất, có mối liên hệ mật thiết với nông dân, là lực lượng lãnh đạo cách
mạng. Giai cấp công nhân là cơ sở, là nền tảng, là toàn thể mà đảng cộng sản là bộ phận tiên
tiến nhất của toàn thể đó.

Thứ hai, Muốn cho đảng cộng sản có thể ra đời, cần phải có sự tồn tại của học thuyết Mác -
Lênin.

 Học thuyết Mác là sản phẩm của những điều kiện phát triển nhất định của chủ
nghĩa tư bản và của phong trào công nhân. Theo Lênin, phong trào công nhân không thể thắng
lợi nếu như không có lý luận cách mạng khoa học, đó là chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa xã hội
khoa học chỉ có thể trở nên sức mạnh, khi nó trở thành mục tiêu của cuộc đấu tranh chính trị
của giai cấp công nhân. Chỉ trong điều kiện này, lý luận cách mạng mới trở thành sức mạnh cải
tạo, mới được quán triệt vào đời sống, mới được phát triển sáng tạo và phong phú, trên cơ sở
kinh nghiệm đấu tranh mới của giai cấp công nhân và chính đảng. Đảng cộng sản, bộ phận tiên
phong của giai cấp, nhờ được vũ trang bởi học thuyết mác-xít mới có thể đem ý thức giác ngộ
xã hội chủ nghĩa đến cho phong trào công nhân, mới là tổ chức đại diện cho những quyền lợi
cơ bản của giai cấp công nhân.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trước sự xâm lược cùng với những chính sách cai trị, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp,
bằng tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước và khát khao độc lập dân tộc, nhân dân ta đã từng bước
đứng lên đánh đổ chủ nghĩa thực dân, giành chính quyền. Tuy nhiên, do chưa có tổ chức tập
hợp, lãnh đạo toàn dân tộc nên các cuộc đấu tranh đều bị thất bại. Vì vậy, cần phải có một tổ
chức cách mạng tiên phong và có đường lối đúng đắn để giải phóng dân tộc. Bằng sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân, Đảng Cộng sản ra đời, đã soi sáng cho
công cuộc giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân.

11
CHƯƠNG 2: NGUYỄN ÁI QUỐC VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC LÊNIN
TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

2.1. Tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam

2.1.1. Quá trình lựa chọn con đường cách mạng vô sản

Nhân dịp này, Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Danh Tiên, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng có
bài viết với chủ đề: “Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và giá trị đối với tiến trình
cách mạng Việt Nam”. Trân trọng giới thiệu bài viết trên:

Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành từ cảng Nhà Rồng, thành
phố Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước. Hành trang mà Người
mang theo là lòng yêu nước nhiệt thành và quyết tâm “làm bất cứ việc gì để sống và để đi”
nhằm thực hiện hoài bão tìm ra con đường cứu nước, cứu dân. Song đi đâu và đến nước nào,
bản thân Nguyễn Tất Thành cũng không biết trước. Điều này thể hiện rõ khi Người trả lời nhà
văn Mỹ, Anxa Lu-y Xtơrông: “Nhân dân Việt Nam trong đó có cụ thân sinh ra tôi, lúc này
thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này thì
nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem
xét họ làm ăn ra sao tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”. Từ câu trả lời của bác cho chúng ta thấy
con đường cứu nước thoát khỏi ách thống của thực dân Pháp vẫn lun nung nấu qua từng ngày
từng giờ trong con tim Người. Người sống hết mình với nhân dân với đất nước với tổ quốc. Ý
chí quyết tâm đưa nhân dân tổ quốc thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp

12
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, tháng 12-1920. Ảnh tư liệu/TTXVN.

Thứ nhất, Mang trong mình khát vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nước
ngoài, Nguyễn Ái Quốc đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng
đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng
dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Nguyễn Ái Quốc lựa
chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga
(1917), bởi theo Người: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”. Việc
lựa chọn con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, thể hiện tầm
nhìn chiến lược và phù hợp với xu thế thời đại, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân lao động. Đến thời điểm này, cách mạng vô sản là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc
và triệt để nhất. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà gắn liền với nó là giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Chỉ có cách mạng vô sản mới là con đường duy nhất giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trước cảnh lầm than của quốc gia dân tộc, các phong trào
cứu nước theo các lập trường phong kiến, dân chủ tư sản, đã diễn ra quyết liệt nhưng đều
không thành công. Việt Nam lâm vào tình cảnh khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước: mất phương hướng trong hiện tại và mờ mịt ở tương lai. Bởi, hệ tư tưởng phong kiến và
hệ tư tưởng tư sản không phải là con đường phù hợp cho cách mạng nước ta. Năm 1911,

13
Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết chí ra đi tìm đường cứu nước với mục tiêu: “Cái
mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Bằng chính
quá trình thâm nhập thực tiễn: lao động kiếm sống và hoạt động cách mạng, bằng chính quá
trình tự vô sản hóa chính mình đã giúp Người hiểu rõ hơn về bản chất kẻ thù (khác với tiền
bối). Người có nhận thức so với các vĩ nhân thời phong kiến muốn độc lập tự do phải nhờ vào
chính dân tộc mình không phụ thuộc hay giúp đỡ từ ngoại ban.

Tìm hiểu về CMTS Anh, CMTS Pháp, CMTS Mỹ… Người thấy rằng các cuộc cách mạng
ấy đều “không đến nơi”, “không triệt để” bởi các cuộc cách mạng ấy không đáp ứng được nhu
cầu giải phóng các tầng lớp nhân dân lao động mà chỉ đem lại quyền lợi cho giai cấp tư sản. 

Thứ hai, trên con đường tìm tòi đó, Nguyễn Ái Quốc tiếp cận ánh sáng cách mạng từ
trong bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo (Pháp), Nguyễn Ái Quốc lập tức bị cuốn hút vì tính chất
cách mạng triệt để của nó. Người đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường theo Cách
mạng Tháng Mười Nga - con đẻ của tư tưởng Lênin - sự vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ
nghĩa Mác vào nước Nga, mở ra hướng đi đúng đắn không chỉ cho nước Nga mà còn cho tất cả
các dân tộc bị áp bức trên thế giới, trong đó có Việt Nam – một dân tộc cũng đang chịu cảnh nô
dịch lầm than. Người xác định con đường cách mạng vô sản là tính tất yếu để cứu nước và giải
phóng dân tộc. Chỉ có con đường cách mạng vô sản mới cho người dân được cuộc sống ấm no
độc lập, bình đẳng, bác ái.

2.1.2. Chuẩn bị về tư tưởng, chính trị

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát
triển mạnh mẽ. Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất đề cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin và đã đi đến một sự lựa chọn dứt khoát con đường
giải phóng dân tộc do Lênin vạch ra.

Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã tán
thành việc gia nhập Quốc tế thứ III và biểu quyết sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái
Quốc trở thành chiến sĩ cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc tích cực xúc tiến việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã viết bài đăng các báo: “Người cùng khổ” do
Người sáng lập, báo “Nhân đạo” – cơ quan Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp, báo “Đời
sống công nhân” – tiếng nói của giai cấp công nhân, báo Sự thật (Liên Xô), Tạp chí thư tín
Quốc tê quốc tế cộng sản), báo Thanh niên (Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội)…
và các tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Đường cách mệnh” mang tên Người. Qua
nội dung các bài báo và các tác phẩm đó, Người tập trung lên án chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân nói chung và chủ nghĩa thực dân Pháp. Người vạch trần bản chất xâm lược, phản
14
động, bóc lột, đàn áp tàn bạo của chủ nghĩa thực dân. Bằng những dẫn chứng cụ thể, sinh động,
Người đã tố cáo trước dư luận Pháp và thế giới tội ác tày trời của thực dân Pháp đối với nhân
dân các nước thuộc địa. Đặc biệt, Người đã trình bày các quan điểm lý luận về cách mạng
thuộc địa một cách đúng đắn, sáng tạo và khá hoàn chỉnh. Các bài báo trên như là các bản án
đanh thép vạch trần chủ nghĩa thực dân. Nêu ra những luận điểm không thể chối từ về tội ác
của chủ nghĩa thực dân.

2.1.3. Sự chuẩn bị về tổ chức

Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc), Người tham gia sáng lập
Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á – Đông để thống nhất hành động chống chủ nghĩa thực
dân.

Tháng 6-1925, Người thành lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”, tổ chức
trung kiên là “Cộng sản đoàn” làm nòng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào
Việt Nam; mở nhiều lớp huấn luyện đào tạo một số thanh niên yêu nước Việt Nam thành
những cán bộ cách mạng, trong đó, một số được chọn đi học ở Trường đại học Phương Đông
(Liên Xô); một số được cử đi học quân sự, phần lớn sau này được đưa về nước hoạt động.

Hệ thống quan điểm, lý luận về con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc trở thành tư
tưởng cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam:

Đông Dương cộng sản đảng (6-1929), An Nam cộng sản đảng (7-1929) và Đông Dương
cộng sản liên đoàn (9-1929).

Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Hội nghị thống nhất Đảng đã họp tại Cửu Long
Hương Cảng), dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản
thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của các hội
quần chúng; thông qua lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc thảo.
Các văn kiện quan trọng của Đảng được Hội nghị thông qua là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự chuẩn bị mang tính quyết định của cuộc kháng chiến góp
phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.

2.2. Vai trò của giai cấp công nhân trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

2.2.1. Khái quát về sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam

Giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ra đời trong quá trình khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp. Sau khi cuộc xâm lăng và bình định đã cơ bản hoàn thành, thực dân Pháp liền bắt
tay tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ nhất với quy mô mở rộng ra cả nước. Các nhà máy
rượu bia, vải sợi, điện nước, ngành đường sắt, hầm mỏ, đồn điền cao su, cà phê...lần lượt ra
đời và cùng với đó đội ngũ những người công nhân Việt Nam đầu tiên được hình thành. Họ là

15
những người nông dân bị tước đoạt hết ruộng đất, những người thợ thủ công bị phá sản buộc
phải vào làm việc trong các doanh nghiệp tư bản Pháp.tính đến năm 1929, tổng số công nhân
làm việc trong các doanh nghiệp tư bản Pháp là hơn 22 vạn người, trong đó 5,3 vạn thợ mỏ; 8,6
vạn công nhân các ngành công, thương nghiệp; 8,1 vạn công nhân các đồn điền. Giai cấp công
nhân phải chịu nhiều khổ đau trước giới cầm quyền thực dân, họ lun sẵn sàn đứng dậy đấu
tranh cho bản thân.

Dưới sự áp bức bóc lột hà khắc của thực dân, phong kiến, giai cấp công nhân Việt Nam đã
đoàn kết, tổ chức tập hợp nhau lại đấu tranh đòi quyền lợi, dẫn đến hình thành các Hội Ái hữu,
Hội Tương tế trong các nhà máy, xí nghiệp. Cuối năm 1920, người công nhân yêu nước Tôn
Đức Thắng đã vận động thành lập Công hội Ba Son ở Sài Gòn, mở đầu cho phong trào đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Đây là những tiền đề cơ bản cho công cuộc cách
mạng về sau, góp phần quan trọng cho công cuộc giải phóng dân tộc, xã hội.

2.2.2. Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam

Tháng 2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ngay trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng xác
định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng,
nòng cốt trong khối liên minh công - nông. Lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng
dẫn, vận động của Công hội đỏ, công nhân cùng nông dân mít tinh, biểu tình kỷ niệm Ngày
Quốc tế Lao động 1/5, đấu tranh đòi quyền lợi, bày tỏ tình đoàn kết với công nhân lao động thế
giới. Ngày 18/2/1946, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 22c quy định ngày 1/5 là một trong những
ngày lễ chính thức của nước ta. Ngày 29/4/1946, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 56 quy định công
nhân được hưởng lương ngày nghỉ lễ Quốc tế Lao động 1/5. Ngày 1/5/1946, lần đầu tiên trong
lịch sử nước ta, Ngày Quốc tế Lao động 1/5 được tổ chức kỷ niệm trọng thể tại Hà Nội, với sự
tham dự của 20 vạn nhân dân lao động. Từ đó, Ngày Quốc tế Lao động (1/5) hằng năm là một
trong những ngày lễ lớn của đất nước, ngày hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Việt Nam. Qua đó nhấn mạnh vai trò của công nhân trong công cuộc giải phóng dân tộc, đất
nước, là lực lượng tiên quyết dẫn đến thắng lợi của công cuộc kháng chiến sau này.

Thứ nhất, quan niệm về giai cấp công nhân và đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam.
Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả những
người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là công nhân. Bất kỳ họ lao
động trong công nghệ hay là trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai
cấp công nhân”. Tuy nhiên, để Người cũng giải thích, trong số đó, không phải tất cả họ đều là
giai cấp công nhân và chỉ ra tiêu chí căn bản để xác định đó là giai cấp công nhân đúng nghĩa
mang đầy đủ “đặc tính” của giai cấp công nhân quốc tế theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, Người viết: “Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà
máy, hầm mỏ, xe lửa, vân vân... Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các
cửa hàng, những cố nông, vân vân..., cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân
công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân”.

16
Về đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân Việt
Nam mang đầy đủ đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, đó là: “Đặc tính cách mạng của
giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên
tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng
một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp
khác”. Giai cấp công nhân có đặc điểm phù hợp với hoàn cảnh, tinh thần của họ có sức ảnh
hưởng vô cùng lớn lên các giai cấp khác tạo nên một lực lượng đông đảo hợp sức phá tan siềng
xích áp bức.

Thứ hai, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, theo Người, giai cấp công
nhân Việt Nam là một bộ phận hữu cơ của giai cấp công nhân thế giới, cũng có vai trò sứ mệnh
lịch sử, trước hết đối với dân tộc của mình: “Chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo thì kháng
chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”. Vai trò đó được thể hiện ở đường lối chiến
lược của Đảng Cộng sản, Đảng lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam từng bước thực hiện thắng lợi
đường lối chiến lược, sách lược đó. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam được thể
hiện ngay từ Luận cương Chính trị của Đảng năm 1930: Giai cấp công nhân Việt Nam thông
qua Đảng của mình lãnh đạo toàn dân làm cuộc cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị
của xã hội cách mạng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, phát triển tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội. Người chỉ rõ: “Giai cấp công nhân Việt Nam đã đem ánh sáng Cách mạng Tháng Mười soi
tỏ cho con đường cách mạng Việt Nam. Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương, chính đảng
của giai cấp công nhân thành lập, đã vạch rõ cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: cách
mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có
một Cương lĩnh chính trị toàn diện do Đảng của giai cấp công nhân đề ra. Cách mạng Việt
Nam từ đó được giai cấp công nhân và chính đảng của nó thống nhất lãnh đạo, đã phát triển
nhanh chóng và vững chắc”. Người khẳng định: “… phải kinh qua giai cấp công nhân tổ chức,
đấu tranh cách mạng. Kinh qua trường kỳ xây dựng, để thực hiện chế độ cộng sản”. Chỉ ra rõ
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam cũng như của thế giới. Là giai cấp chỉ có
lãnh đạo kháng chiến thì ắc mới thắng lợi. Tầm quan trọng của giai cấp được trình bày ngay từ
Luận cương Chính trị của Đảng năm 1930.

17
Sắc lệnh số 22c NV/CC ngày 18/2/1946 quy định ngày 1/5 là một trong những ngày Lễ chính thức của nước ta

18
2.3. Phong trào yêu nước – sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam

2.3.1. Khái quát về phong trào yêu nước Việt Nam

Tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống đấu tranh bất khuất trong lịch sử dân tộc, có
vai trò hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, trong các phong trào cách
mạng Việt Nam. Từ thuở ban sơ, có thể thấy, các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Bà Triệu,
Lý Bí,… trải dài cho đến các phong trào đấu tranh trước năm 1930 như là khởi nghĩa Trương
Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực,... Đúng vậy, “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.
Các phong trào yêu nước đã được hình thành từ rất lâu và phát triển giúp dân tộc Việt Nam
chiến thắng một ngàn năm Bắc thuộc. Không những thế, khi xã tắc, nhân dân lại một lần nữa
rơi vào tay của giặt Tây, các phong trào yêu nước vẫn diễn ra với một mục tiêu duy nhất là
giành lại độc lập.

Dĩ nhiên, khi chưa thể tiếp cận với nguồn tri thức của chủ nghĩa Mác-Lênin, phong trào yêu
nước của nhân dân ta vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX còn mang khuynh hướng phong kiến
và tư sản.

Đối với khuynh hướng phong kiến, có thể kể đến phong trào Cần Vương (1885-1896) của
vua Hàm Nghi, khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913) của Hoàng Hoa Thám. Giai đoạn chiến tranh
thế giới thứ I (1914-1919), các cuộc khởi nghĩa võ trang chống Pháp của Việt Nam vẫn tiếp tục
được diễn ra nhưng đều thất bại. Sự không thành công của phong trào đã chứng tỏ giai cấp
phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải
quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.

Đối với khuynh hướng dân chủ tư sản, có thể kể đến phong trào Đông Du (1906-1908) của
Phan Bội Châu, sự cải cách tư tưởng của Phan Chu Trinh, phong trào Đông kinh nghĩa thục
(1907) của Lương Văn Can. Những đối tượng tham gia lãnh đạo trên là tầng lớp sĩ phu tiến bộ
chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo
phong trào chia ra làm hai xu hướng. Một bộ phận chủ trượng đánh đuổi thực dân Pháp giành
lại độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động. Một bộ phận khác
lại cải cách và cho rằng đây là giải pháp tiến tới khôi phục độc lập.

2.3.2. Sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Những cuộc đấu tranh vô cùng oanh liệt đó của Nhân dân ta chống thực dân Pháp đều bị
đàn áp tàn bạo và thất bại. Mặc dù bị đàn áp dã man nhưng các phong trào yêu nước vẫn tiếp
tục phát triển mạnh. Nguyên nhân cơ bản là do các phong trào không tìm được đường lối cứu
nước, giải phóng dân tộc và con đường phát triển đúng đắn, chưa phản ánh đúng nhu cầu phát
triển của xã hội Việt Nam. Mà điều cốt lõi nhất là các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX chưa
tìm được và chưa có khả năng tập hợp lực lượng đủ sức đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.

19
Phong trào nông dân không giải quyết được mâu thuẫn giữa địa chủ, phong kiến và nông dân,
nhân dân lao động nói chung. Phong trào yêu nước muốn phát triển đất nước theo chiều hướng
tư sản và tiểu tư sản không giải quyết được mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân đang phát triển
ngày càng mạnh với giai cấp tư sản mà chủ yếu là tư sản Pháp; do đó, cũng không giải quyết
được triệt để mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, không tranh thủ được sức
mạnh của phong trào cách mạng thế giới đang dâng lên mạnh mẽ... Phong trào yêu nước như
không có đường ra.

Trong đêm trường tăm tối đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng là kết
quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam. Như vậy, khi đề cập đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai
yếu tố là chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh còn kể đến yếu tố thứ
ba, đó là phong trào yêu nước. Đây là một quan điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình
thành Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh thấy rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin
đối với quá trình hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời Người cũng đánh giá rất
cao vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam. Nhưng Người bổ sung yếu tố phong trào yêu
nước, coi nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam
là vì:

Thứ nhất, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của
dân tộc Việt Nam. Là giá trị văn hoá trường tồn trong văn hoá Việt Nam.

Thứ hai, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào
đó đều có mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây
dựng đất nước hùng cường. Hơn nữa, phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân,
phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó nó lại là phong trào yêu nước.

Thứ ba, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu
nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân. Do đó, giữa phong trào công nhân và phong
trào yêu nước có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Thứ tư, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết
hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho
thấy sự tài tình, sự thích ứng linh hoạt của người theo tình thế chứ không hề rập khuôn. Theo
học thuyết Mác - Lênin, một Đảng Cộng sản ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học và
phong trào công nhân. Luận điểm này đúng, nhưng chỉ đúng với các nước phương Tây, khi giai
cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách một lực lượng cách mạng độc lập, được
lý luận khoa học của Mác dẫn đường. Sự ra đời và phát triển của một loạt Đảng của giai cấp vô

20
sản ở các nước Tây Âu cũng như ở Nga hồi cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã chứng minh tính
đúng đắn của luận điểm nêu trên.

Còn ở các nước phương Đông, đặc biệt là các nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt
Nam thì luận điểm đó cần được bổ sung, phát triển cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Những
nước này bị chủ nghĩa thực dân thống trị, nền kinh tế hết sức lạc hậu. Công nghiệp gần như
chưa phát triển, giai cấp công nhân tuy đã ra đời và sống khá tập trung, song còn nhỏ bé. Vì
vậy, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chưa đại diện được cho toàn bộ phong trào
dân tộc. Hơn nữa, vấn đề dân tộc cần phải giải quyết trở nên hết sức bức xúc, cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân phải hoà chung với phong trào yêu nước của các tầng lớp, giai cấp khác
trong xã hội, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc để lãnh đạo những cuộc đấu
tranh này.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Cách đây tròn 90 năm, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị
thành lập Đảng dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930). Từ đây, cách
mạng Việt Nam có một đảng cách mạng chân chính dẫn đường cho toàn dân đứng lên đánh đổ
ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến đem lại độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân. Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên những chiến công oanh liệt của thế kỷ
XX. Một là, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác
- Lênin và chỉ ra quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hai là, Hồ Chí Minh
xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Ba là, sáng tạo
của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách mạng.

21
CHƯƠNG 3. GIÁ TRỊ CỦA VIỆC KẾT HỢP BA YẾU TỐ TRONG VIỆC THÀNH LẬP
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
3.1. Giá trị lý luận
3.1.1. Giá trị lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là vũ hí lý luận sắc bén của
giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp mình, qua đó giải phóng xã hội và
giải phóng con người. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu; xây dựng xã hội mới thực sự
tốt đẹp chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen,
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai bước. Bước thứ
nhất: giai cấp công nhân biến thành giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền nhà nước vào
tay giai cấp mình. Bước thứ hai: giai cấp công nhân dùng sự thống trị của mình để từng bước
đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào
trong tay nhà nước từ đó tiến hành tổ chức xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Hai bước
này quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân không thực hiện được bước thứ nhất thì
cũng không thực hiện được bước thứ hai nhưng bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp
công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
3.1.2. Giá trị lý luận việc bổ sung phong trào yêu nước của Nguyễn Ái Quốc
Mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trong hành trình chín mươi năm qua đều bắt nguồn từ
việc Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định và vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng và khoa
học - chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng nước mình. Sự kiên định và sáng tạo đó
trên cơ sở tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn, tính phù hợp với điều kiện Việt Nam
và thời đại, mà mục tiêu không đổi là phấn đấu cho độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của
nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức một cách biện chứng rằng, kiên định và sáng tạo khi
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là hai mặt thống nhất trong một vấn đề; kiên định không có
nghĩa là rập khuôn, máy móc mà phải trên cơ sở không ngừng sáng tạo phù hợp với không
gian, thời gian. Và, sáng tạo phải trên cơ sở kiên định những nguyên tắc căn bản thuộc về nó,
nếu không sẽ sa vào sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, máy móc hoặc chủ nghĩa cơ hội, xét lại.

22
Kiên định và sáng tạo khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là quan hệ biện chứng trong việc
vận dụng những quy luật phổ quát vào điều kiện cụ thể và đặc thù. Kiên định những nguyên lý
đúng đắn không có nghĩa là giáo điều, máy móc, siêu hình; sáng tạo nhưng phải bảo đảm
những nguyên tắc căn bản của nó là giữ vững bản chất cách mạng, tính khoa học, tính phù hợp,
tính thực tiễn, là sáng tạo biện chứng để cách mạng thành công, tuyệt nhiên không phải là xét
lại hay chệch hướng, “đổi màu”. Nguyễn Ái Quốc không rập khuôn, máy móc, giáo điều vào
chủ nghĩa Mác - Lênin, Người muốn bổ sung thêm lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin bằng dân tộc
học phương Đông, bằng điều kiện lịch sử phương Đông; không có lý thuyết, học thuyết nào
hoàn hảo cả, không có cái gì là tuyệt đối nên phải sáng tạo, phải bổ sung thêm. Cụ thể, trong
việc thành lập Đảng, Người bổ sung phong trào yêu nước.
Sức mạnh to lớn của phong trào yêu nước Việt Nam tiếp tục được khẳng định đến hiện nay.
Yêu nước được hiểu là tình cảm thiêng liêng gắn liền với ý thức về đất nước, tổ quốc, niềm tự
hào dân tộc. Yêu nước là thước đo phẩm hạnh của mỗi cá nhân, cũng như mỗi giai tầng trong
xã hội. Điểm xuất phát, cái nôi, cội nguồn của lòng yêu nước chính là tình yêu quê hương,
mảnh đất chôn rau cắt rốn của mỗi con người, không gian sinh tồn của mỗi gia đình, cộng
đồng, quốc gia dân tộc. Kế thừa truyền thống của dân tộc, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin,
Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt
cho việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách nhằm khơi dậy, phát huy tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc nhưng ở từng giai đoạn, từng hoàn
cảnh có cách thể hiện, mức độ khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại càng sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước”. Tại Đại hội III, trong bối cảnh cách mạng Việt Nam thực hiện hai nhiệm vụ: xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đánh đuổi đế quốc Mỹ và tay sai ở Miền Nam, Đảng xác định
đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là “phát huy tinh thần
yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta”; ở
miền Nam là “phát huy đến cao độ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân; không ngừng
vạch trần những âm mưu và hành động gian ác của đế quốc Mỹ và bọn tay sai”. Đại hội VI –
Đại hội của đổi mới, Đảng xác định bồi dưỡng tinh thần yêu nước là nội dung quan trọng, là

23
động lực trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước tiến lên. Đặc biệt là Hội nghị lần thứ 9, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI), ban hành Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, trong đó, xác định
yêu nước, xây dựng lòng yêu nước là giá trị hàng đầu của con người Việt Nam nhằm xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân-thiện-mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.
3.2. Giá trị thực tiễn
3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975)
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ
trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập
Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự
phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
nhóm cộng sản Đông Dương". Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập
một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến
công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân
dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng
phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp
nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm
ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho
cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường
cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ
tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân
tộc. Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch
sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về

24
đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả
của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị
công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ
tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam;
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng, làm cho
cách mạng Việt Nam thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, là sự
chuẩn bị cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam về sau. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; khích lệ tinh thần sáng tạo trong
đấu tranh giải phóng dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng
hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên
những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.2
3.2.2. Đối với sự phát triển của đất nước hiện nay (1975-nay)
Ngày nay, những thành tựu to lớn qua hơn 32 năm đổi mới đã làm cho thế và lực của nước
ta được nâng cao trên trường quốc tế, như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã
khẳng định: Chưa bao giờ chúng ta có được cơ đồ như ngày hôm nay. Kỷ niệm 92 năm ngày
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2022), chúng ta cùng nhìn lại những
đóng góp, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một là, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quy luật ra đời Đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác -
Lênin và chỉ ra quy luật ra đời đặc thù của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, Hồ Chí Minh xác định: giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt Nam.
Ba là, sáng tạo của Hồ Chí Minh về việc xác định lực lượng tiến hành cách mạng.
Bốn là, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đặt tên Đảng và chủ trương giải quyết vấn đề
dân tộc trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương.
Những sáng tạo của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ở một nước
thuộc địa đã được thực tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ XX kiểm
2
Truy cập từ https://hanam.gov.vn/Pages/dang-cong-san-viet-nam-ra-doi-la-buoc-ngoat-to-lon-trong-lich-su-cach-mang-
viet-nam.aspx
25
chứng là đúng đắn và khoa học. Đây là sự cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng
lý luận Mác - Lênin. Trải qua hơn 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, vượt qua muôn
vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, luôn gắn bó mật
thiết với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam với sự sáng lập và rèn luyện của Hồ Chí Minh đã
lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi vẻ vang, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Ngày
nay, những tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị, soi sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hiện nay trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam rất cần có sự sáng tạo. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Đảng ta luôn nhất quán xác định khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
động lực quan trọng thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đại hội XIII của Đảng
tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đó là một
trong những đột phá chiến lược của đất nước trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Tóm lại, thực tiễn quá trình vận động của phong trào cách mạng Việt Nam để đưa đến sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như thực tiễn 89 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đã cho thấy, ngay từ khi mới vừa ra đời, cho đến xuyên suốt trong quá trình xây dựng và
phát triển của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Đảng thật sự là người lãnh đạo của cả giai cấp, cả dân
tộc. Chính điều này đã tạo nên sức mạnh để Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua khó
khăn, giành được những thắng lợi to lớn kể cả trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng như
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh tình hình hiện nay trước những khó khăn,
thách thức đang đặt ra khi Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới càng đòi hỏi Đảng phải tiếp tục
đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, tuyên truyền và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể hiện nay; chú trọng phát triển giai cấp
công nhân, nhưng đồng thời cũng phải hết sức coi trọng việc khơi dậy và phát huy được các
phong trào yêu nước, sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh. 3
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

3
Truy cập từ http://truongchinhtrithanhhoa.gov.vn/web/trang-chu/khoa-hoc-thong-tin-tu-lieu/bai-viet-chuyen-de/cac-yeu-
to-dua-toi-su-ra-doi-cua-dang-cong-san-viet-nam-va-su-van-dung-vao-cong-tac-xay-dung-dang-hien-nay.html
26
Những sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng cộng
sản ở một nước thuộc địa đã được thực tế cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế
kỷ XX kiểm chứng là đúng đắn và khoa học. Sự sáng tạo này của Chủ tịch Hồ Chí Minh không
chỉ có giá trị đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt Nam mà còn là sự
cống hiến quan trọng của Người vào kho tàng lý luận Mác-Lênin. Thực tiễn hơn 92 năm qua
cũng đã cho thấy sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam. Với những
thành tựu mà cách mạng Việt Nam đã đạt được, với truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc,
với sức mạnh nội lực của đất nước hơn 96 triệu dân, với những kinh nghiệm quý báu đã tích
lũy được chúng ta có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, thời gian tới đất nước ta tiếp tục phát triển
nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

27
KẾT LUẬN

Học thuyết Mác - Lênin đã khẳng định rằng, Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Đảng Cộng sản ra đời đã soi sáng cho công cuộc
giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Quy
luật chung này được lãnh tụ Nguyễn ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai
cấp công nhân còn ít về số lượng, nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đông. Nguyễn Ái
Quốc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đưa ra 3 yếu tố thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam đó là chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
Việt Nam. Muốn xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải coi trọng đầy
đủ cả ba yếu tố trên.  Bên cạnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền
cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng ta là con đẻ của
phong trào cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động và trưởng thành thông
qua đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả
thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước và phong trào yêu nước. Là sự đồng tâm
nhất trí của những chiến sĩ tiên phong.

Ngoài ra những đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và toàn dân, đã
trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết các lực lượng và lãnh đạo phong trào cách mạng từ khi
Đảng được thành lập. Phong trào có sự tham gia của nhiều giai tầng trong xã hội, tập hợp
những người yêu nước đứng lên đấu tranh; sự lớn mạnh của phong trào yêu nước. Phong trào
yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Phong
trào yêu nước phát triển liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của những tư
tưởng chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Đại hội đại biểu toàn
quốc lân thứ VII của Đảng đã khẳng định: "lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động" của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta trong giai đoạn hiện nay. Với những thành tựu mà cách mạng Việt Nam đã đạt được, với
truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc, với sức mạnh nội lực của đất nước hơn 96 triệu dân,
với những kinh nghiệm quý báu đã tích lũy được chúng ta có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, thời

28
gian tới đất nước ta tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ những nghiên cứu trên bài luận đã làm rõ quan điểm của Lênin về các yếu tố thành lập
Đảng, làm rõ được sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc khi đưa ra được 3 yếu tố thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Cũng như ý nghĩa của 3 nhân tố dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Từ đó hoàn thành nhiệm vụ đặt ra của đề bài.

29
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Áo kiểu đẹp, Quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Nguyễn Ái Quốc
cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam?, https://aokieudep.com/doc/qua-trinh-chuan-bi-
ve-chinh-tri-tu-tuong-va-chuc-cua-nguyen-ai-quoc-cho-viec-thanh-lap-dang-cong-san-viet-
nam/, ngày truy cập 15/02/2022.

2. Công đoàn xây dựng Việt Nam (2019), Sự ra đời của của giai cấp công nhân Việt Nam,
http://congdoanxaydungvn.org.vn/tin-tuc/t9286/su-ra-doi-cua-cua-giai-cap-cong-nhan-viet-
nam.html, ngày truy cập 15/02/2022.

3. Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Nam (2020), Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là bước
ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam, https://hanam.gov.vn/Pages/dang-cong-san-
viet-nam-ra-doi-la-buoc-ngoat-to-lon-trong-lich-su-cach-mang-viet-nam.aspx, ngày truy cập
16/02/2022.

4. Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình (2019), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công
nhân Việt Nam, https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-giai-cap-cong-
nhan-viet-nam.htm, ngày truy cập 15/02/2022.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam những trang sử vẻ vang, 1930 – 2002 (2003), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia.

6. Nguyễn Thị Thanh Huyền và Hoàng Trung Thành (2021), Sự lựa chọn con đường cách
mạng vô sản của dân tộc là sự đúng đắn, https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/su-lua-chon-
con-duong-cach-mang-vo-san-cua-dan-toc-la-su-dung-dan-p24478.html, ngày truy cập
15/02/2022.

7. Lê Thị Huyền (2021), Sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kết hợp yếu tố dân
tộc và giai cấp trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
https://baothanhhoa.vn/xay-dung-dang/su-sang-tao-cua-chu-tich-ho-chi-minh-trong-ket-hop-
yeu-to-dan-toc-va-giai-cap-trong-qua-trinh-chuan-bi-thanh-lap-dang-cong-san-viet-nam/
131126.htm, ngày truy cập 16/02/2022.

30
8. Đỗ Hồng Lâm (2021), Giai cấp công nhân Việt Nam trong tiến trình cách mạng của dân
tộc, http://m.tapchiqptd.vn/vi/nhung-ngay-ky-niem-lon/giai-cap-cong-nhan-viet-nam-trong-
tien-trinh-cach-mang-cua-dan-toc-17029.html, ngày truy cập 15/02/2022.

9. Lê-nin – Toàn tập (1978) , Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mát-cơ va.

10. Quân đội nhân dân (2022), Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và giá trị đối với
tiến trình cách mạng Việt Nam, https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-
duong-cuu-nuoc/hanh-trinh-lich-su/con-duong-cuu-nuoc-cua-nguyen-ai-quoc-va-gia-tri-doi-
voi-tien-trinh-cach-mang-viet-nam-661660, ngày truy cập 15/02/2022.

11. Văn Tạo (2000), Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, một sự kiện quan trọng hàng đầu
trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XX, tạp chí Lịch sử Đảng, số 3.

12. Vũ Thọ, Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và
phong trào công nhân, http://www.xaydungdang.org.vn/Uploads/Data/1966/1/10.pdf, ngày
truy cập 16/02/2022.

13. Lê Hải Yến (2019), Các yếu tố đưa tới sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam và sự
vận dụng vào công tác xây dựng Đảng hiện nay,
http://truongchinhtrithanhhoa.gov.vn/web/trang-chu/khoa-hoc-thong-tin-tu-lieu/bai-viet-
chuyen-de/cac-yeu-to-dua-toi-su-ra-doi-cua-dang-cong-san-viet-nam-va-su-van-dung-vao-
cong-tac-xay-dung-dang-hien-nay.html, ngày truy cập 16/02/2022.

31

You might also like