Professional Documents
Culture Documents
Luan 2 8293
Luan 2 8293
LÊ THỊ THU HÀ
Hà Nội - 2009
2
MỤC LỤC
Hình 1.1. Sơ đồ hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay …………...………... 11
Hình 1.2. Sơ đồ cơ cấu quản lý giáo dục Việt Nam…………...…………….. 12
Hình 1.3. Mô hình quản lý ngành của nhà trường…………...……………… 14
Hình 2.1. Mô hình thác nước …………………………………………………… 35
Hình 2.2. Dãy các sự kiện của khuôn cảnh làm bản mẫu…………………… 38
Hình 2.3. Cách tiếp cận thực tế nhất cho việc phát triển các hệ thống và 39
phần mềm có quy mô lớn ………………………………………………………..
Hình 2.4. Sơ đồ các chiều của không gian phát triển hệ thống………….…. 50
Hình 2.5. Các giai đoạn Phân tích-Thiết kế một HTTT……………………... 51
Hình 2.6. Quá trình phát triển một HTTT…………………………………….. 52
Hình 2.7. Quy trình phân tích và thiết kế HTTT hướng cấu trúc…………... 58
Hình 3.1. Sơ đồ ngữ cảnh của hệ thống…………...………………………..… 71
Hình 3.2. Sơ đồ phân rã chức năng…………...………………………………. 73
Hình 3.3. Sơ đồ luồng dữ liệu mức 0…………...…………………………….. 76
Hình 3.4. Sơ đồ luồng dữ liệu mức 1 của tiến trình Quản lý danh mục….. 77
Hình 3.5. Sơ đồ luồng dữ liệu mức 1 của tiến trình Quản lý Trường học.. 78
Hình 3.6. Mô hình quan hệ dữ liệu…………...………………………….......... 87
Hình 4.1. Mô hình thực thể…………...…………………………………........... 88
Hình 4.2. Sơ đồ tiến trình hệ thông của “1. Quản lý danh mục” …………. 101
Hình 4.3. Sơ đồ tiến trình hệ thông của “2. Quản lý trường tiểu học” …... 102
Hình 4.4. Mô hình kiến trúc hệ thống………………………………………….. 107
6
MỞ ĐẦU
Ngày nay tin học đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong mọi ngành
kinh tế trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Khoa học máy tính đang
phát triển với tốc độ ngày càng nhanh chóng và xâm nhập ngày càng sâu vào
mọi lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế, xã hội, quản lý nhà nước, quản lý
doanh nghiệp,...
Một trong những lĩnh vực đang được ứng dụng tin học hóa rất phổ biến ở
nước ta là lĩnh vực quản lý. Tin học hóa trong quản lý đã giúp cho các nhà quản
lý điều hành công việc một cách khoa học, chính xác, hiệu quả.
Quản lý hệ thống thông tin giáo dục bậc tiểu học tại Việt Nam là một
trong những công việc tương đối phức tạp, tốn nhiều thời gian và công sức, đòi
hỏi phải thường xuyên theo dõi chính xác một số lượng thông tin rất lớn, phục
vụ nhiều đối tượng khác nhau. Chính vì vậy, tin học hóa trong lĩnh vực quản lý
giáo dục là một yêu cầu tất yếu.
Xuất phát từ vấn đề nêu trên, tôi chọn đề tài “Hệ thống thông tin quản lý
giáo dục bậc tiểu học”, với mục đích nghiên cứu phương pháp luận và quy trình
phân tích thiết kế một Hệ thống thông tin (HTTT) quản lý thích hợp nhất cho
giáo dục bậc tiểu học. Trên cơ sở đó sẽ thử nghiệm phát triển một HTTT đáp
ứng các yêu cầu đổi mới, sau đó sẽ rút kinh nghiệm để hoàn thiện và mở rộng hệ
thống lớn hơn phát triển mới các hệ thống tương tự trong ngành.
Luận văn có bố cục như sau:
Mở đầu:
Chương 1: Xác định yêu cầu bài toán Hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc
tiểu học Việt Nam.
Chương 2: Giới thiệu quy trình phân tích thiết kế HTTT hướng cấu trúc.
Chương 3: Phân tích các yêu cầu nghiệp vụ của Hệ thống thông tin quản lý giáo
dục bậc tiểu học
Chương 4: Thiết kế Hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học.
Chương 5: Phát triển (thử nghiệm) chương trình ứng dụng.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.
7
1
Thực chất, chương trình giáo dục phổ thông còn có lớp vỡ lòng, dạy học sinh tập đọc, tập viết trước khi vào lớp
1.
10
Thời kỳ từ 1975 đến 1986 - Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba
Trong khi thực hiện những nhiệm vụ khẩn cấp trước mắt đối với giáo dục
miền Nam và tiếp tục phát triển giáo dục ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ cũng
khẩn trương chuẩn bị cho một cuộc cải cách giáo dục nhằm tiến tới một nền giáo
dục quốc dân thống nhất phù hợp với chiến lược tái thiết và phát triển đất nước.
Ngày 11-1-1979, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành
Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục, [1] [2] theo đó, những định
hướng có tính nguyên tắc cho cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba này là:
Về mục tiêu giáo dục: Chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ từ tuổi ấu thơ cho
đến lúc trưởng thành nhằm tạo cơ sở ban đầu cho con người phát triển toàn diện;
thực hiện phổ cập giáo dục toàn dân nhằm tạo điều kiện thực hiện 3 cuộc cách
mạng (về quan hệ sản xuất, về khoa học - kỹ thuật và về văn hoá - tư tưởng);
đào tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ lao động phù hợp yêu
cầu phân công lao động xã hội [1] [2].
Về nội dung giáo dục: Hướng vào việc “Nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện (đức, trí, thể, mỹ), tạo ra những lớp người lao động mới làm chủ tập
thể, đủ sức gánh vác sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân…” [1]
[2]
Về nguyên lý giáo dục: Yêu cầu học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với
lao động, nhà trường gắn liền với xã hội [1] [2].
Về hệ thống giáo dục: Thay thế hệ thống phổ thông 12 năm ở miền Nam và
hệ thống 10 năm ở miền Bắc bằng một hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm mới,
trong đó, trường cấp I và trường cấp II được sáp nhập thành trường phổ thông cơ
sở (chín năm), đồng thời chuẩn bị phân ban ở trung học phổ thông.
2
Cấp trung học cơ sở
12
Theo Luật Tổ chức chính phủ, Luật Giáo dục và sự phân công của Chính
phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý nhà nước về giáo dục tiền học đường, giáo
dục phổ thông, giáo dục đại học và một phần giáo dục nghề nghiệp (trung cấp
chuyên nghiệp); Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý giáo dục nghề
nghiệp (trừ trung cấp chuyên nghiệp).
Theo Luật Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Luật Giáo dục và theo
sự phân cấp của chính phủ, ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước,
bảo đảm các điều kiện về đội ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học của các trường công lập thuộc phạm vi quản lý, đáp ứng yêu cầu nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục tại địa phương; đồng thời, kiểm soát các trường
ngoài công lập trong việc thực hiện các quy định của pháp luật. Phạm vi quản lý
trong lĩnh vực giáo dục của uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và uỷ ban nhân dân cấp
huyện được phân định như sau: cấp tỉnh quản lý các trường trung học phổ thông,
14
các trường trung cấp và trường dạy nghề, các trường cao đẳng của tỉnh, các
trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh...; cấp huyện quản lý các trường tiểu
học, trung học cơ sở, trung tâm kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp, trung tâm giáo
dục thường xuyên và trung tâm dạy nghề của huyện,... Cơ quan chuyên môn
giúp uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý về giáo dục là sở giáo dục và đào tạo; cơ
quan chuyên môn giúp uỷ ban nhân dân cấp huyện quản lý về giáo dục là phòng
giáo dục và đào tạo.
Quản lý nhà nước về giáo dục: Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống
giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu
chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử, hệ thống văn bằng, chứng chỉ; tập trung quản lý
chất lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng
cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục.
Vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục: Cán bộ quản lý giáo
dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động
giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng
cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và trách nhiệm
cá nhân.
Nhà nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục, bảo
đảm phát triển sự nghiệp giáo dục.
1.1.4. Mô hình HTTT quản lý giáo dục bậc tiểu học hiện tại ở Việt Nam
Những người làm về giáo dục phổ thông cũng giống như xây một ngôi
nhà, trong đó giáo dục tiểu học là nền móng. Mục tiêu giáo dục của cấp tiểu học
là giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh
tiếp tục học lên cấp trung học cơ sở. Nếu giáo dục phổ thông có chất lượng thấp,
học sinh “rỗng” kiến thức cơ bản một cách hệ thống thì không thể nói xây dựng
được nền giáo dục có chất lượng tiên tiến và hiện đại. Do vậy, những năm gần
đây Đảng và nhà nước ta rất quan tâm chú trọng đến giáo dục tiểu học.
Cấp tiểu học gồm 5 lớp, thu nhận trẻ em từ 6 tuổi, nếu trẻ không lưu ban,
bỏ học thì đến 11 tuổi sẽ tốt nghiệp tiểu học.
Hệ thống trường tiểu học: Như vậy, hệ thống giáo dục bậc tiểu học là hệ
thống con của HTTT quản lý giáo dục hiện tại ở Việt Nam.
Mô hình trường tiểu học được tổ chức theo các loại hình công lập (là
trường mà cơ sở vật chất, ngân sách do nhà nước bảo trợ), trường bán công (là
trường của chính phủ, nhưng nhà trường phải tự chủ về các khoản thu, chi),
trường trường dân lập, và tư thục (Do cá nhân hay một nhóm cá nhân xin phép
15
thành lập và tự đầu tư). Các cơ sở giáo dục dân lập, tư thục gọi chung là cơ sở
giáo dục ngoài công lập). Trường tiểu học bán công, dân lập, tư thục gọi chung
là trường tiểu học ngoài công lập. Như vậy, hệ thống trường tiểu học được chia
ra thành hai loại hình chính là loại hình trường công lập và loại hình ngoài công
lập.
Ngoài các trường tiểu học dành cho trẻ bình thường còn có các loại
trường tiểu học chuyên biệt như: Trường tiểu học dân tộc bán trú; Trường tiểu
học dân tộc nội trú; Trường tiểu học dành cho trẻ em bị thiệt thòi; Trường tiểu
học dành cho trẻ em tàn tật.
Cơ sở giáo dục tiểu học khác gồm: Lớp tiểu học gia đình do cha mẹ học
sinh có đủ năng lực và trình độ chuyên môn tự nguyện thành lập và trực tiếp
giảng dạy; Lớp tiểu học linh hoạt do các cá nhân, tổ chức nhà nước và tổ chức
xã hội tự nguyện thành lập cho những trẻ em không có điều kiện theo học ở các
trường, lớp chính quy; Lớp tiểu học dành cho trẻ em bị thiệt thòi, trẻ em tàn tật.
Về quản lí nhà nước: Hệ thống giáo dục phổ thông ở nước ta nói chung
và hệ thống giáo dục Tiểu học nói riêng, được quản lý phân cấp theo ngành dọc.
Mỗi cấp quản lý đều có nhu cầu thông tin quản lý cụ thể, Bộ là cơ quan quản lý
giáo dục cấp cao nhất, là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về giáo dục và đào tạo, đề ra những chủ trương, chính sách và kiểm
tra, thanh tra,…dưới Bộ là cấp địa phương như các Sở giáo dục, mỗi Sở giáo
dục lại quản lý các Phòng giáo dục trực thuộc sở và cấp thấp nhất là các trường.
Cấp địa phương có nghĩa vụ thực hiện và báo cáo tình hình thực hiện các chỉ đạo
của cấp trên.
1.1.5. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn và khả năng đáp ứng yêu cầu
quản lý của hệ thống giáo dục bậc tiểu học Việt nam hiện nay
Trong nhiều năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chăm lo tới sự
nghiệp phát triển Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT). Giáo dục và đào tạo được coi
là sự nghiệp của toàn Đảng, của nhà nước và của toàn dân. Cùng với Khoa học
và Công nghệ, GD&ĐT là nhân tố quyết định việc tăng trưởng kinh tế và phát
triển xã hội.
Ngoài việc huy động sự đóng góp của nhân dân, chủ yếu là đối với các gia
đình có điều kiện và ở các khu vực thuận lợi, trong những năm đổi mới vừa qua,
Chính phủ không ngừng tăng ngân sách giáo dục. So với các ngành khác, giáo
dục đã được ưu tiên. Cùng với việc ngân sách giáo dục không ngừng tăng lên,
cơ cấu chi tiêu công cho các cấp học và trình độ đào tạo cũng đã thay đổi theo
hướng tăng phần trăm chi cho giáo dục phổ thông, giáo dục tiền học đường (gọi
chung là khối giáo dục) và giảm phần trăm chi cho giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục đại học (gọi chung là khối đào tạo) thể hiện quan điểm của chính phủ, ưu
tiên cho giáo dục cơ sở và giáo dục ở địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, vùng cư
trú của các dân tộc thiểu số.
Quán triệt quan điểm GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, để tạo sự chuyển
biến cơ bản, toàn diện trong phát triển sự nghiệp giáo dục, trước hết cần phải đổi
mới cơ bản công tác quản lý giáo dục. Để quản lý tốt các hoạt động xã hội cần
phải có công cụ và phương tiện, mà một trong số các công cụ hữu hiệu đó là hệ
thống thông tin quản lý.
Ngày nay, không ai dám phủ nhận vai trò của Công nghệ thông tin
(CNTT). Công nghệ thông tin đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ
phát triển cao và được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực. Và ứng dụng của
nó trong quản lý giáo dục từ lâu đã không còn là công việc mới mẻ, nó là công
cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới
quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống giáo dục tiểu học có qui mô lớn,
được phân bố rộng khắp trên mọi miền của đất nước. Nhưng ở bậc học này, do
đặc thù mục tiêu và quản lý giáo dục, công việc này dường như đang đi những
bước khởi đầu.
Từ thực tiễn ở các địa phương (các tỉnh) cho thấy, mặc dù còn có nhiều
khó khăn (như cơ sở vật chất nghèo nàn, giáo viên tin học nói riêng, và giáo viên
tiểu học có hiểu biết về CNTT để ứng dụng được trong giảng dạy và quản lý vẫn
17
còn hạn chế,…), nhưng việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào quản lý
giáo dục ở bậc tiểu học đã được một số địa phương mạnh dạn triển khai, nhưng
cũng chỉ tập trung ở một số hoạt động: soạn thảo văn bản, báo cáo, quản lý
điểm, quản lý học sinh, thiết kế giáo án điện tử... mà chưa được tổ chức một
cách có hệ thống. Số trường tiểu học sử dụng CNTT để quản lý hồ sơ, thời khóa
biểu, điểm kiểm tra của giáo viên và học sinh... cũng mới chỉ tập trung ở các
thành phố lớn: Hà Nội 270/273 trường, TP Hồ Chí Minh hơn 300 trường/439
trường, Quảng Ninh 102/157 trường, hoặc ở các trường đóng tại thị trấn, trung
tâm huyện.
Việc áp dụng những thành tựu của CNTT vào quản lý không chỉ hạn chế
ở các cấp địa phương, mà ngay tại Bộ giáo dục và Đào tạo cũng vẫn chưa có
một hệ thống thông tin vận hành, và thu thập dữ liệu về giáo dục tiểu học một
cách chi tiết và chính thức từ các Phòng giáo dục và Sở giáo dục, cũng như các
phân tích dữ liệu chi tiết ở cấp trung ương. Nhiều thông tin quản lý về giáo dục
bậc tiểu học hiện được lưu trữ trên khắp Việt Nam. Thông tin này về hàng chục
triệu học sinh, hàng triệu giáo viên và cán bộ và hàng vạn trường học và các cơ
sở giáo dục khác.
Bộ cũng chưa sử dụng hệ thống kho dữ liệu và đang tổng hợp thông tin và
dữ liệu một cách thủ công. Công cụ thu thập chủ yếu là các phiếu điều tra, được
nhập bằng tay, chưa được vi tính hóa và gửi qua đường công văn. Phần lớn dữ
liệu được thu thập và lưu trữ bằng hệ thống văn bản giấy tờ. Các công cụ CNTT
đơn giản như bảng tính (excell) cũng được sử dụng rộng rãi nhằm lưu trữ thông
tin quản lý quan trọng. Các nhà quản lý các cấp cho biết, các hệ thống hiện nay
không lưu trữ được tất cả các thông tin cần thiết để hỗ trợ công tác quản lý.
Khi cần số liệu để phục vụ nhu cầu quản lý, phân bổ nguồn lực và lập
chính sách, ví dụ như lập kế hoạch và dự thảo ngân sách, nghiên cứu và phân
tích chính sách, giám sát và đánh giá, phân bổ tài chính cho các trường,… mà số
liệu này không có sẵn. Bộ giáo dục phải gửi các phiếu điều tra về Sở giáo dục,
Sở lại gửi về Phòng giáo dục, cán bộ phòng lấy thông tin từ Hiệu trưởng các
trường Tiểu học (Trong đó có rất nhiều điểm trường ở miền núi như tỉnh Hà
Giang, Cao Bằng, Sơn La,… hiệu trưởng từ điểm trường chính đến điểm trường
lẻ phải đi cả ngày mới tới, và phải đi bộ) rồi gửi lên Sở qua đường công văn
hoặc qua thư điện tử. Cuối cùng, Chuyên viên của Bộ phải tổng hợp số liệu của
các Sở, công việc này cũng lại phải nhập bằng tay. Công đoạn này rất tốn kém
thời gian, chi phí và công sức, không những thế đôi khi số liệu cũng chưa chính
xác và đầy đủ. Nhiều khi, số liệu chuyển lên đến Bộ thì đã muộn so với dự kiến.
18
Thu thập dữ liệu ở Bộ được tiến hành rời rạc. Các đợt thu thập dữ liệu
thường xuyên và thu thập dữ liệu khi có nhu cầu nảy sinh, rồi các đơn vị khác
nhau trực thuộc Bộ cũng thường xuyên thu thập dữ liệu phục vụ cho mục đích
riêng của mình. Đôi khi, hoạt động thu thập này chồng chéo với các hoạt động
khác. Nhiều hoạt động thu thập dữ liệu khác nhau như vậy dẫn tới khối lượng
công việc rất lớn, đặc biệt là đối với cán bộ quản lý các trường, phòng giáo dục.
Các yêu cầu về dữ liệu và định nghĩa về dữ liệu thường hơi khác nhau nên gây
rất nhiều khó khăn cho các trường. Nó dẫn tới sự không thống nhất trong các
báo cáo vì các dữ liệu được thu thập không tương thích với nhau.
Từ năm 2002 đến 2004, dự án Hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo (SMoET)
đã được thực hiện thông qua nguồn tài trợ của Ủy ban châu Âu (EC). SMoET đã
xây dựng được một hệ thống thu thập các thông tin cơ bản về nhà trường, gọi là
EMIS (Education Management Information System), tạo ra các báo cáo tổng
hợp thống kê và các chỉ số giáo dục để giúp lãnh đạo Bộ trong việc đưa ra các
quyết định chiến lược về kế hoạch phát triển giáo dục.
Tuy nhiên, phần mềm này đã bộc lộ một số hạn chế, đáng chú ý nhất là:
(i) cấu trúc dữ liệu chưa được tối ưu; (ii) phần mềm cơ sở dữ liệu sử dụng ở cấp
tỉnh phức tạp và khó để có thể duy trì và sử dụng3, hiện chỉ có một số tỉnh sử
dụng; (iii) phần mềm cơ sở dữ liệu cấp trung ương chưa từng được sử dụng bởi
Bộ GD&ĐT và kết quả là không có cơ sở dữ liệu về EMIS cấp quốc gia tồn tại.
Dự án giáo dục Tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (PEDC), với
kinh phí của Ngân hàng thế giới, được triển khai từ giữa năm 2003 đến nay, đã
phát triển một hệ thống thông tin dựa trên hệ thống thông tin EMIS của SMoET,
với mục đích tương tự mục đích của phần mềm EMIS, hệ thống thông tin của
PEDC chỉ dành riêng cho tiểu học, và đã được triển khai trên 62 tỉnh thành của
toàn quốc.
Bảng hỏi của phần mềm EMIS của dự án PEDC được xây dựng với sự
phối hợp chặt chẽ từ các cán bộ của Vụ Kế hoạch-Tài chính và Vụ Giáo dục
Tiểu học Bộ GD&ĐT. Dữ liệu trong phần mềm này bao gồm các thông tin có
trong "hồ sơ trường". Hồ sơ trường là một tập hợp dữ liệu ở dạng tổng hợp, gồm
các thông tin chung về học sinh tiểu học theo 3 thời kỳ (đầu, giữa và cuối năm
học theo giới tính, dân tộc và độ tuổi); Các thông tin về điểm trường, Cơ sở vật
chất (CSVC), trang thiết bị, tài liệu giảng dạy, và cán bộ giáo viên. Các thông tin
này được thu thập mỗi năm một lần. Điểm mạnh của hệ thống này là các chỉ số
về mức chất lượng tối thiểu, các chỉ số về trường học hiện đã được chấp nhận
3
Báo cáo ‘Chương trình xây dựng năng lực thống kê giáo dục’: do các chuyên gia thuộc Viện
Thống Kê của UNESCO do EC tài trợ xây dựng, báo cáo dự thảo tháng 5 năm 2005.
19
như các chuẩn cho Vụ Kế hoạch –Tài chính đánh giá mức chất lượng trường
học, và nó còn được dùng để cung cấp các thông tin cho nhiều đơn vị quản lý có
liên quan như Vụ tiểu học, Ngân hàng thế giới,…
Phần mềm EMIS của dự án SMoET và dự án PEDC, mặc dù được mang
tên là Hệ thống thông tin quản lý giáo dục nhưng chưa được thiết kế như một
công cụ quản lý đầy đủ tất cả các hoạt động của trường học, mà chỉ đơn giản là
một công cụ thu thập định kỳ các báo cáo thống kê và các chỉ số giáo dục. Điểm
yếu hệ thống này là xây dựng phần mềm trên cơ sở dữ liệu Access, với giao diện
Visual Basic, thiết kế cơ sở dữ liệu chỉ lưu giữ được dữ liệu của từng năm học
một, và được cài đặt trên từng máy tính riêng lẻ.
Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có
nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và thể chất
của trẻ em, nhằm hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện nhân cách
con người Việt Nam.
Vấn đề trăn trở không dễ khắc phục trong nay mai của giáo dục tiểu học,
là vẫn còn tồn tại quá nhiều điểm trường lẻ, theo điều tra của Dự án Giáo dục
Tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (PEDC) năm học 2007 - 2008, thì
nước ta có 38.834 điểm trường (trong đó có 15.602 điểm trường chính và 23.241
điểm trường lẻ); năm học 2008 – 2009 có 37.796 điểm trường( trong đó điểm
chính là 15.747, điểm trường lẻ là 22.049). Thực tế, những yếu kém của bậc học
này tập trung ở các điểm lẻ. Lý do bởi nhiều gia đình không đủ điều kiện cho
con em đi học, dân cư ở nhiều vùng, miền có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, địa hình phức tạp, sống thưa thớt, việc đi lại của học sinh rất khó khăn; cơ
sở vật chất phục vụ dạy học thiếu thốn, giáo viên thiếu, lại ít có điều kiện giao
lưu trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và tiếp xúc với các ứng
dụng công nghệ,…
1.1.6. Yêu cầu của hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học Việt Nam
trong hiện tại và tương lai
Tiểu học là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục phổ thông. Quan tâm
chăm lo, tạo điều kiện toàn diện cho bậc học này sẽ tạo nền móng vững chắc lâu
dài cho cả hệ thống giáo dục nói chung.
Phân tích về mô hình quản lý giáo dục hiện nay, hầu hết các nhà nghiên
cứu giáo dục tại Viện Nghiên cứu Phát triển giáo dục (Bộ GD-ĐT) đều có chung
một nhận định: Bước vào thế kỷ 21, toàn cầu hóa đã thúc đẩy giáo dục Việt Nam
phát triển theo định hướng hội nhập và cạnh tranh với nhiều loại hình đào tạo
ngoài công lập, trong khi đó phương thức quản lý giáo dục vẫn mang tính hành
20
chính bao cấp. Việc ứng dụng của khoa học và công nghệ vào quản lý vẫn chưa
được áp dụng rộng rãi, còn bộc lộ nhiều yếu kém và hạn chế.
Chúng ta đã cố gắng đổi mới, nhưng kết quả chưa được như mong đợi.
Theo tôi, một trong những nguyên nhân là chúng ta chưa tìm ra mô hình quản lý
phù hợp.
Hệ thống thông tin quản lý giáo dục bậc tiểu học ở Việt Nam theo tình
hình chung đó đã và đang chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới và chưa đủ năng
lực hỗ trợ việc ra quyết định cho lãnh đạo ngành giáo dục một cách thật hiệu
quả. Vì vậy, việc xây dựng một chuẩn chung, xác định các yêu cầu tối thiểu về
dữ liệu cho công tác quản lý và lập kế hoạch, hợp thức hóa các hoạt động thu
thập dữ liệu, bớt đi các hệ thống đang vận hành song trùng, nâng cao độ tin cậy
của dữ liệu là cần thiết.
Giải pháp cho các vấn đề trên là phải xây dựng hệ thống thông tin liên cấp
được bắt nguồn từ cấp thấp nhất là trường học và liên thông lên các cơ quan
quản lý giáo dục cấp trên: Phòng - Sở - Bộ, phục vụ cho việc quản lý giáo dục
bậc tiểu học tại Việt Nam đang trở thành một đòi hỏi cấp bách.
Hệ thống này có chức năng thống kê như thu thập, lưu trữ, tổng hợp, cung
cấp các số liệu giáo dục kịp thời và tin cậy. Nó sẽ quản lý toàn bộ các thông tin
chung về trường học như:
Con người (giáo viên, học sinh).
Thông tin về khối lớp và lớp học.
Trang thiết bị, cơ sở vật chất.
Mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng.
Tài liệu giảng dạy.
Đồng thời, hệ thống này còn tích hợp các phân hệ quản lý giáo dục chi tiết
đến từng lĩnh vực như:
1. Quản lý tài chính của nhà trường: Quản lý các khoản thu, chi, ngân sách
nhà nước,… tài sản cố định của nhà trường.
2. Quản lý Học sinh: Quản lý các thông tin đến từng hồ sơ học sinh như sơ
yếu lý lịch, tình trạng sức khỏe; Quản lý điểm, môn học, chất lượng, hạnh kiểm,
danh hiệu, kết quả kiểm tra và thi của từng học kỳ, hay thi học sinh giỏi các
cấp,…; Quá trình học tập của học sinh trong suốt bậc học tiểu học: nghỉ học, học
sinh chuyển đi, chuyển đến, lên lớp, lưu ban, bỏ học, khen thưởng, kỷ luật,…
3. Quản lý nhân sự nhà trường: Quản lý các thông tin chi tiết đến từng hồ
sơ cán bộ, giáo viên,…; Quản lý việc thuyên chuyển cán bộ; Quản lý lương; Quá
trình đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật,…