Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 4

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Quyết định tái thẩm


Số: 13 /2021/HNGĐ-TT
Ngày: 11/01/2021
“Ly hôn”

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ỦY BAN THẨM PHÁN


TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Thành phần Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa: Ông Bùi Đức Xuân.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Hữu Trí;
Ông Phan Thanh Tùng.
Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Trung - Thẩm tra viên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Bà Phạm Thị Út – Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa tái thẩm xét xử vụ án dân sự về “Ly hôn” giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Minh Q, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Số 1103/23/17 Nguyễn Duy Trinh, Tổ 8, khu phố X, phường Y, Quận
Z, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Linh Duy N, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Số 1103/23/17 Nguyễn Duy Trinh, Tổ 8, khu phố X, phường Y, Quận
Z, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Lê Minh Q trình bày:
Ông và bà N chung sống với nhau từ năm 1991, đến năm 2002 mới đăng ký
kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện N, tỉnh K. Vợ chồng chung sống hạnh
phúc đến tháng 6/2012 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc
sống, bà N ham mê cờ bạc không chăm lo đời sống gia đình, ông đã nhiều lần
khuyên bảo nhưng bà N không thay đổi. Ông xác định tình cảm vợ chồng không
còn, không thể tiếp tục cuộc sống chung và yêu cầu được ly hôn với bà N.
Về con chung: có 04 người con chung tên Lê Nguyễn Xuân Như X, sinh
ngày 29/8/1992, Lê Quang Nghĩa, sinh ngày 12/7/1995, Lê Quang C, sinh ngày
27/8/2008 và Lê Nguyễn Minh T, sinh ngày 02/4/2015. Hiện nay, Lê Quang C
đang sống cùng ông và Lê Nguyễn Minh T đang sống cùng bà N. Ông yêu cầu
được quyền trực tiếp nuôi dưỡng Lê Quang C, không yêu cầu bà N cấp dưỡng nuôi
con. Ông đồng ý để bà N nuôi Lê Nguyễn Minh T, ông không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Bị đơn bà Nguyễn Linh Duy N trong suốt quá trình Tòa án cấp sơ thẩm giải
quyết đều vắng mặt.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 246/2018/HNGĐ-ST ngày 30/3/2018, Tòa án
nhân dân Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định (tóm tắt):
Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
- Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Minh Q được ly hôn với bà Nguyễn Linh
Duy N.
- Về con chung: Giao cho ông Lê Minh Q trực tiếp nuôi dưỡng người con
tên Lê Quang C, sinh ngày 27/8/2008. Ghi nhận ông Lê Minh Q tự nguyện không
yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
Giao cho bà Nguyễn Linh Duy N trực tiếp nuôi dưỡng người con tên Lê
Nguyễn Minh T, sinh ngày 02/4/2015. Ông Q không phải cấp dưỡng nuôi con.
Đối với 02 người con chung tên Lê Nguyễn Xuân Như X, sinh ngày
29/8/1992. Lê Quang Nghĩa, sinh ngày 12/7/1995 đã trưởng thành nên không xét.
- Về tài sản chung: Các đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
- Nợ chung: Không có.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, giai đoạn thi hành án và quyền
kháng cáo của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.
Tại Quyết định kháng nghị tái thẩm số 08/2020/KNTT-HNGĐ ngày
03/8/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã
2
kháng nghị một phần Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 246/2018/HNGĐ-ST,
ngày 30/3/2018 của Tòa án nhân dân Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh với nội
dung:
Hủy một phần Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 246/2018/HNGĐ-ST,
ngày 30/3/2018 của Tòa án nhân dân Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh (phần về
xác định cháu Lê Nguyễn Minh T là con chung của ông Lê Minh Q và bà Nguyễn
Linh Duy N); giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận Z, Thành phố Hồ Chí
Minh giải quyết lại phần bản án bị hủy theo đúng quy định pháp luật.
Tại phiên tòa tái thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Cháu Lê Nguyễn Minh T được bà Nguyễn Linh Duy N sinh ra trong thời
kỳ hôn nhân giữa bà N và ông Lê Minh Q đang tồn tại. Do đó, theo quy định tại
khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 thì cháu T là con chung của bà
N và ông Q. Khi ông Q, bà N ly hôn, theo Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số
246/2018/HNGĐ-ST ngày 30/3/2018 của Tòa án nhân dân Quận Z (có hiệu lực
pháp luật) thì bà N là người trực tiếp, nuôi dưỡng cháu T.
[2] Ngày 20/1/2019, ông Trần Văn Ngọc L (sinh năm 1979; trú tại địa chỉ:
Số 27/6 đường Tân Hòa, xã Đông Hòa, thị xã Dĩ An, tỉnh K) có đơn đề nghị xem
xét theo thủ tục tái thẩm đối với bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm nêu trên, với
lý do ông L và bà N quen biết và nảy sinh tình cảm vào năm 2014, khi đó bà N cho
rằng bà đã có chồng và đã ly hôn. Giữa hai người có quan hệ như vợ chồng, sau đó
ông L phát hiện bà N mới lý thân ông Q chứ chưa ly hôn nên ông chấm dứt quan
hệ với bà N. Sau khi bà N có quyết định ly hôn của Tòa án, có liên lạc với ông và
ông thấy cháu Lê Nguyễn Minh T sinh ngày 02/4/2015 có nét giống ông nên ông
đã đưa cháu T đi xét nghiệm ADN, theo kết quả giám định ADN của cơ quan có
thẩm quyền thì cháu Lê Nguyễn Minh T là con đẻ của ông.
[3] Tại khoản 1 Điều 89 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Người không
được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là
con mình”. Nay, ông Trần Văn Ngọc L cung cấp Phiếu kết quả phân tích ADN do
Hội đồng khoa học Công ty TNHH một thành viên Thương mại và Dịch vụ DNA
TESTINGS (là pháp nhân được thành lập và hoạt động trong lĩnh vực giám định
AND), kết luận ông Trần Văn Ngọc L và cháu Lê Nguyễn Minh T có cùng huyết
thống Cha – Con. Đây là tình tiết mới mà khi giải quyết vụ án ly hôn giữa ông Lê
3
Minh Q với bà Nguyễn Linh Duy N thì Tòa án nhân dân Quận Z, cũng như ông Q
và bà N đều không biết, nên đã xác định cháu T là con chung của ông Q và bà N.
[4] Do đó, để đảm bảo việc giải quyết vụ án phù hợp với sự thật khách quan,
đúng quy định pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự,
quyền trẻ em thì cần phải hủy một phần bản án sơ thẩm (phần về xác định cháu T
là con chung của ông Q, bà N). Đồng thời, đưa ông Trần Văn Ngọc L vào tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập để
giải quyết yêu cầu của ông L cùng trong vụ án này.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 352 và Điều 354 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Chấp nhận Kháng nghị tái thẩm số 08/2020/KNTT-HNGĐ ngày 03/8/2020
của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Hủy một phần Bản án hôn nhân gia đình phúc thẩm 246/2018/HNGĐ-ST,
ngày 30/3/2018 của Tòa án nhân dân Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh (phần về
xác định cháu Lê Nguyễn Minh T là con chung của ông Lê Minh Q và bà Nguyễn
Linh Duy N); giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận Z, Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử lại phần bản án bị hủy theo đúng quy định pháp luật.
Quyết định tái thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.

ỦY BAN THẨM PHÁN

Nơi nhận: TM. ỦY BAN THẨM PHÁN


- Chánh án TANDCC tại TP HCM (để báo cáo);
- Vụ pháp chế và quản lý khoa học TANDTC;
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSNDCC tại TP HCM (để biết);
- TAND Quận Z, TpHCM;
- Chi cục THADS Quận Z, TpHCM;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu Phòng HCTP-VP, Phòng GĐKT III,
HS.(NTT)
Bùi Đức Xuân

You might also like