Professional Documents
Culture Documents
Truong Lao Ni Ke
Truong Lao Ni Ke
MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................................1
Phẩm I......................................................................................................................................12
5 – 10. CHÚ GIẢI NHỮNG BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI TISSA KHÁC. v.v…..............22
16. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI SUMANA LÀ NGƯỜI XUẤT GIA VÀO
LÚC TUỔI GIÀ...................................................................................................................36
11. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ THUỘC NHÓM BA MƯƠI TRƯỞNG LÃO NI..................152
6.1. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA NĂM TRĂM TRƯỞNG LÃO NI LÀ CÁC BÀ MẸ.. 157
trưởng lão Ni kệ (Berkley, CA: Parallax press, 1991); S.Lienhard, “sur la structure
poétique des theratherigatha: thuyết nam nữ bình quyền, tính thẩm mỹ và tín nguỡng
trong tuyển tập kệ phật giáo nguyên thuỷ”, nghiên cứu lại Phật giáo XII (1995) 7-26,
135-55; Damayathi rawatti, bản dịch chọn lựa của trưởng lão ni kệ: Những bài kệ của
Nữ tu Phật giáo (colombo, Sri Lanka: Felix Printers, ca. 1983) Andew Schelling and
Anne Waldman, những bài kệ của tăng ni thời đức Phật (shambala, 1996); Kathryn R.
Blackstorn, người phụ nữ dưới những bước chân của đức Phật: Sự phấn đấu cho tự do
trong trưởng lão ni kệ (Richmond, Surrey: Curzon. 1998).
6
nhiều tham khảo để dễ dàng tra cứu tập Elders’Verses II. Những
lý do sử dụng một bản dịch khác bao gồm: theo sát cách giải thích
của ngài Dhammapala (ngay cả cho dù ngài có thể hiểu sai một
đoạn văn), cách giải thích khác nhau trong tập chú giải, và những
tham khảo cá nhân tôi về một số từ.
Tập chú giải này, thực tế chỉ là phần thứ hai của một bản văn lớn
hơn: dó là tập chú giải về Trưởng lão kệ và Trưởng lão Ni kệ.
Điều này có nghĩa là nhiều từ đã không được giải thích, do đã
được giải thích trong Trưởng lão kệ. Tôi cũng đưa ra tham khảo
về các đoạn văn này. Đối với cả hai tập chú giải Trưởng lão kệ và
Trưởng lão Ni kệ, và những đoạn trong Apadana có liên quan đến
các đoạn kệ này, cũng được bao gồm trong phần chú giải các
đoạn kệ này; một số đoạn kệ trong Apadana thấy xuất hiện trong
tập chú giải Trưởng lão Ni kệ, không thấy xuất hiện trong bộ sưu
tập có cùng tên đó, hay chỉ là một số nhỏ các đoạn kệ có cùng tên.
Chính vì tôi đang chuẩn bị ấn bản lần thứ nhì các bản văn Pali
trong lúc dịch thuật, thế nên tôi không cần ghi thêm các chú thích
có liên quan được ưa chuộng hơn; các tham khảo trong trang
được in đậm và trong ngoặc kép, được trích nguyên văn từ bản
gốc của Muller xuất bản năm 1883, chính vì đây là một ấn bản
được sử dụng trong văn chương cho đến giờ phút này.
Tôi giữ nguyên các từ, trích từ các đoạn kệ trong bản dịch mẫu tự
latin, để có thể làm rõ hơn trong khi ngài Dhammapala sử dụng
cùng các từ đó trong tập chú giải. Khi một từ khác được sử dụng,
hay khi một từ ghép được tách thành hai từ, tôi chỉ in nghiêng các
từ khác nhau mà thôi. Với cách tiếp cận này, không nhất thiết
phải thêm cách chú giải như “tận ngữ pháp khác”, trong bản dịch
tiếng Anh, tôi đã in nghiêng các từ trong chính các câu kệ khi
chúng được trích nguyên văn trong tập chú giải về các đoạn kệ.
Tôi luôn tri ơn sự trợ giúp của bạn bè và các học giả đã dành cho tôi
trong nhiều năm qua, và tôi cũng đặc biệt phải cám ơn Hội Thánh
Điển Pali đã cho phép tôi được hoàn tất tác phẩm này.
Tuy nhiên Bậc Chánh Đẳng Giác liên kết với tám
phẩm chất cần thiết để thành “Phật Toàn Giác” được khẳng
định là một “Con người hiện hữu” có giới tính [nam] cụ thể
…”
Giờ đây chúng ta có dịp tiếp cận bản chú giải các đoạn kệ liên
quan đến chư vị Trưởng lão Ni. Ở đây, đã một lần chúng tôi giải
7
thích đầy đủ ngay từ đầu, là một khi vị Tỳ khưu Ni đã xuất gia và
thọ cụ túc giới đầy đủ, điều đó cho thấy việc giải thích này đã rõ
ràng và hiển nhiên, trong khi có nhiều đoạn kệ xuất hiện trong
quá trình chú giải; chính vì thế phần thảo luận ngắn gọn này được
đưa ra, nhằm làm rõ nghĩa các đoạn kệ đó ngay từ đầu.
Tuy nhiên Bậc Chánh Đẳng Giác liên kết với tám phẩm chất cần
thiết để thành “Phật Toàn Giác” được khẳng định là một “Con
người hiện hữu” có giới tính [nam] cụ thể …”. Ngài đã phát đại
nguyện thành Phật Toàn Giác, và được Đức Phật tổ Dipakara thọ
ký là Ngài sẽ chứng đắc Phật Chánh Đẳng Giác, trong số hai mươi
tư vị Như Lai, sau khi Ngài thành tựu tam thập Ngài đã thành tựu
toàn hảo tới mức tột đỉnh phước lành cho họ hàng, cho cõi thế gian
và chư phật; rồi sau đó tái sanh nơi Cõi Trời Đâu Xuất [2] (Tusita).
Đến đúng thời gian qui định, chư thiên Thập Vạn Thế Giới đã thỉnh
Ngài tái sanh nơi cõi nhân loại làm người để trở thành Phật Toàn
Giác, nói rằng:
Hỡi vị Anh Hùng vĩ đại, thời giờ đã điểm, hãy đầu thai nơi
lòng mẹ. Hãy giúp cả chúng sanh cùng chư thiên vượt qua đại
dương sanh tử [vòng luân hồi]. Hãy giác ngộ [để chấm dứt] khổ
đau”*
Ngài đã tái sanh theo lời thỉnh của chư thiên[3] đó và thực hiện năm
pháp quán chiếu. Thế rồi thức tỉnh[4] và chánh niệm, Ngài đã thọ
thai trong lòng người mẹ sống trong hoàng cung. Đại vương
Suddhodana thuộc dòng họ Thích Ca; ngài lưu lại trong lòng mẹ
mười tháng, tỉnh giác và Ngài xuất khởi lòng mẹ, sinh ra trong
cánh rừng Lumbini. Biết bao nhiêu nữ tỳ đã chăm sóc Ngài thật
cẩn thận v.v…Ngài lớn lên trong vòng tay âu yếm của biết bao
2 ?
[ ] Cõi Trời Đâu Xuất là nơi các vị Bồ Tát được tái sanh trước lần tái sanh cuối cùng trên
cõi đời này (xin đọc Tăng Chi Bộ Kinh (A) II [GS II 134). Một kiếp sống nơi Cõi Trời Đâu
Xuất (Tusita) là bốn ngàn năm bằng với bốn trăm năm trên cõi con người (xin đọc Tăng
Chi Bộ Kinh (A) I 214 (GI I 193). Điều này được đưa ra trong Bản văn Phật tông Bv-a 54
(CSM 80) giống như sáu mươi ngàn năm và năm mươi bảy vạn triệu năm.
3 ?
[ ] Trong Ja I 48 (SGB 64) và Bv-a 273 (CSM 390) vin Như Lai không đưa ra bất kỳ lời
bảo đảm nào nhưng trước tiên ngài thực hiện trạch pháp, thế rồi đưa ra lời bảo đảm.
Thup cho rằng chư thiên ước mong được nhìn thấy nhiều người tái sanh nơi các cõi thiên
giới.
4 ?
[ ] Trung Bộ Kinh (M) III 119 (MLS III 165, MLDB 980). Xin đọc D II 12 (DB II 8. LDB
230). Trung Bộ Kinh (M) chỉ đề nói rằng ngài đã ý thức và thiền định khi vào lòng mẹ,
Bv I 69, Bv-a 55 (CSM 83); Bv chỉ đề cập đến việc tái sanh của ngài mà thôi. cũng xin
đọc TP 318: “một số người cho rằng hiểu rõ thông qua khởi đầu nền tảng khôn ngoan
của ngài.” đây là một trong số rất nhiều cách giải thích về điều tạo thành việc chu tất
được bốn nền tảng khôn ngoan, chân lý, an bình và diệt dục.
8
nhiêu người thân và người hầu hạ trong ba toà lâu đài[5] dành riêng
cho ngài, cùng với biết bao nhiêu dục lạc chư thiên. Một thay đổi
mạnh mẽ đã nổi lên khi ngài chứng kiến một người già, một người
bệnh và một người chết. Ngài nhận ra mối nguy hiểm nơi những
thú vui dục lạc trong cung và những lợi ích do việc xuất gia (từ bỏ
cuộc sống gia đình)[6] đem lại. Vào chính ngày hoàng tử Rahula,
con trai của ngài chào đời, ngài đã lên ngựa Kanthaka, chúa tể loài
ngựa; và đi theo ngài là người đầy tớ trung thành Sa Nặc
(Channa) Ngài đã lên đường vào đúng nửa đêm và thực hiện
chuyến Xuất Gia Vĩ Đại. Băng qua cổng thành có Chư Thiên [7] mở
cổng cho ngài. Thời gian còn lại trong đêm đó, ngài đã vuợt qua ba
vương quốc[8] và đến bờ sông Anoma. Rồi Ngài tiếp nhận y phục
giải thoát do vị đại phạm thiên Ghatikara dâng và ngài xuất gia [9].
Ngay lập tức ngài trở thành vị trưởng lão danh tiếng trong suốt sáu
mươi năm, được an trú thanh thản.
Ngài đã sống đời sống sa môn, ngài du hành tới thành Rajagaha,
và thọ dụng những vật thực do bá tánh dâng cúng ngay trên triền
dốc ngọn đồi có tên là Pannava. Đức vua xứ Magandha thỉnh ngài
cùng trị vì vương quốc, nhưng ngài đã từ chối. Thế rồi ngài du
hành tới khu rừng thuộc sở hữu của ngài Bhaggava rồi thấu triệt
giáo pháp[10]. Sau đó ngài cũng cầu pháp với Alara và Uddaka,
5
[?] Ja I 58 (SGB 77), Bv XXVI-14tt., Bv-a 278tt. (CSM 398-400). Tên các toà lâu đài đó
như sau: Ramma, Suramma, Subhaka (xin đọc CV, tr. 95 số 4 và Bv-a 278 (CSM 398)
để biết thêm những tên khác nữa.) Ja và Bv cho rằng có tới 40.000 vũ nữ. Bv XXI-17 chỉ
nói tới 40.000 phụ nữ.
[ ] Ja I 58tt (SGB 78tt) Bv-a 279tt. (CSM 400tt). tướng thứ tư được nhân cách hóa thành
6 ?
một ẩn sĩ trong những bài tường thuật này. Dhp-a I 84tt. (BL I 195) nói tới ba sứ giả và
“một vị xuất gia” (pabbajita), không nhất thiết là một con người được dịch trong BL. Xin
cũng đọc các sứ giả chư thiên trong Tăng Chi Bộ Kinh (A) I 138tt. (GS I 121tt), là ba điều
đầu tiên được nêu lên ở đây và Trung Bộ Kinh (M) III 178tt. (MLS III 223tt. MLDB 1029tt.)
trong đó lại đưa thêm hai tướng khác nữa; đó là một đứa bé (sanh) và các ác nghiệp bị
trừng phạt ở đây và lúc này (“còn gì xẩy ở đây sau đó?”) xin đọc D II 21tt. (DB II 18-22.
LDB 207-10) để biết thêm về vị Phật Vipassi trước đó.
[ ] Ja 63 (SGB 84) và Bv-a 9. 282 (CSM 9, 405) cho là các vị Chư Thiên đang cư trú
7 ?
Thích Ca, Koliyas và Mallas, Exp. I 43 (trích tác giả chú giải người Miến tên là
Ariyalatkara) lại đưa ra tên ba vương quốc đó là Kapilavatthu, Devadaha, Koliya.
9
[?] Ja I 65 (SGB 87), Sn-a II 382, Bv 284 (CSM 407). Cờ trướng Bậc A-la-hán chính là y cà sa.
Trong Bv-a ghi ở số ít trong đó y cà sa được đề cập đến rằng ngài được ban tặng tám đồ thiết yếu
của vị ẩn sĩ.
10
[?]
Vị Đạo sư này (tên có nghĩa là ‘người kệ gốm’) hình như không được nói tới ở nơi
nào khác. Năm vị đạo sư (hay nhóm các vị đạo sư), gồm cả một chư thiên, được nói tới
trong Mil 235tt (QKM 44-6, xin đọc tr. 45, số 4; MQ II 38tt.) quả thật, như Rhys Davids
cho biết, trong cuộc đời về Đức Phật Cồ Đàm đã không đề cập gì đến giọng nói của vị
Chư Thiên động viên ngài xuất gia.
9
nhưng vẫn chưa đủ để chứng giác ngộ, đến đúng thời gian qui
định ngài lên đường tới khu rừng Uruvela.
Tại đó ngài đã thực hành khổ hạnh trong vòng sáu năm rồi phát
hiện ra mình vẫn chưa am hiểu đầy đủ chân lý qua việc khổ luyện
đó, nghĩ rằng, “Đây vẫn chưa phải là chánh đạo dẫn đến giác
ngộ.” Ngài đã lấy lại sức mạnh sau một vài ngày dùng bữa bình
thường. Vào ngày rằm tháng ba/ tháng tư (Visakha), ngài đã dùng
vật thực tuyển chọn nhất do Sujata đem đến dâng ngài. Sau khi đã
bỏ bát khất thực bằng vàng [trôi ngược dòng sông] ngài kết luận,
“Hôm nay ta sẽ chứng Toàn Giác.” Vào buổi tối Long Vương tên
là Kata đã tán thán những phẩm chất ngài đã đạt được. Ngài
thượng Bồ Đề Đạo Tràng (“tòa Giác Ngộ”), và ngồi vào vị trí
không lay chuyển, là tòa bách chiến bách thắng, nhìn về hướng
Đông. Dựa trên tứ pháp chánh tinh tấn[11], ngài đã đánh cho đạo
quân Ma Vuơng tan tác khắp nơi ngay trước lúc hoàng hôn buông
xuống. Trong canh đêm đầu tiên ngài nhớ lại tiền kiếp của mình,
đến canh nửa đêm ngài thanh tịnh thiên nhãn và vào canh cuối
cùng ngài an trú tuệ giác kiến thức nhân quả. Ngài khiến tuệ giác
của mình ngày càng phát triển, chế ngự được duyên khởi tính qua
lại và đạt đến Giác Ngộ hoàn hảo bất khả chia sẻ với tha nhân, chỉ
vị Phật Như Lai mới chứng đắc mà thôi[12].
Ngài lưu lại nơi đó suốt một tuần trong tình trạng thọ thánh quả
triệt hạ. Ngài còn lưu lại thêm một tuần lễ nữa dưới cội Bồ Đề
trong tình trạng đó. Ngài đã dùng bữa được dọn cho ngài với
những viên mật ong ngay dưới gốc cây đa Rajayatana. Và rồi
ngồi thiền dưới gốc cây chuối Ajapala. Ngài duyệt xét lại toàn bộ
Giáo Pháp của mình.
Ngài tỏ ra miễn cưỡng thuyết giải chân đế đó. Thế rồi, do vị Đại
Phạm Thiên yêu cầu, với Phật nhãn Ngài đã ngắm nhìn cõi thế
gian, nhận ra chúng sanh được chia thành nhiều hạng với căn nhậy
[?] Tăng
11
Chi Bộ Kinh (A) I 50 (được trích trong Ja I 71 (SGB 94] và Ap-a 76) cho thấy
không hề lay chuyển cho dù da thịt, gân cốt và máu có khô hết. Mp III 94 gọi đây là
“được phú bẩm cho bốn loại quyết tâm chánh tinh tấn.” Xin đọc thêm. Sn 433ff. cũng
cho thấy cho dù máu mật đờm và thịt có khô tàn đi, “Bốn Chánh tinh Tấn” có thể liên
quan đến tứ chánh tinh tiến (samma-ppadhana): giúp tạo ra phát triển những hiện trạng
tâm thiện và ngăn ngừa những hiện trạng tâm bất thiện. (xin đọc thêm Trung Bộ Kinh
(M) II 11 (MLS II 211tt. MLDB 636tt.] điều này ta gọi là “năng lực kiềm chế”(viriya-
samvara) trong Thanh Tịnh Đạo 7 (tr. I. 18).
[ ] Phần tường trình về đêm ngài chứng đắc giác ngộ được mô tả chi tiết trong Th-a 9tt.
12 ?
những bản tường trình trong Kinh tạng thường có những chi tiết thay đổi. Những chi tiết
này không nhất thiết mâu thuẫn với nhau và những cách trình bầy hình như thay đổi tuỳ
thuộc vào bối cảnh và con người hay nhiều con người được trình bày.
10
bén và căn u tối. v.v…Ngài đã hứa với vị Đại Phạm Thiên sẽ
thuyết giảng Giáo Pháp. Thế rồi Ngài suy nghĩ rằng, “Ai sẽ là
người đầu tiên ta nghe giảng Giáo Pháp đây?” Biết rõ Atara và
Uddaka đã qua đời, ngài nghĩ rằng, “Chư vị Tỳ khưu thuộc nhóm
năm có thể giúp ta nhiều điều, giúp ta đủ thứ khi ta chú tâm tu
luyện chân đế. Điều gì sẽ xảy ra nếu trước tiên ta chọn diễn giải
Phật Pháp cho nhóm năm người này?”
Vào ngày rằm tháng sáu / tháng bảy (Asadhi) Ngài xuất khởi từ
gốc cây giác ngộ hướng về thành Baranasi trong chuyến du hành
mười tám do tuần, trên đường đi Ngài đã tranh luận giáo pháp với
ngài Ajivaka Upaka. Đến đúng thời gian qui định Ngài đã tới
Isipatana. Tại đó ngài đã diễn giải giáo Pháp cho nhóm năm
người với những bài kinh bắt đầu như sau, “Các vị xuất gia không
được tham gia vào hai thái cực”, và ngài khai tâm cho mười tám
kotis chư vị Phạm Thiên có Ađđasi-Kondađđa dẫn đầu được nếm
hương vị Giáo Pháp qua việc thuyết giảng bài khởi động Chuyển
Pháp Luân.
Ngày đầu tiên trong tuần trăng đó, ngài đã an trú Tỳ khưu
Bhaddiya nơi thánh quả Nhập Lưu; ngày thứ hai ngài an trú Tỳ
khưu Vappa; ngày thứ ba đến lượt Tỳ khưu Mahanama; và ngày
thứ tư là Tỳ khưu Assaji. Sau đó ngài đã khiến một số đông người
tham gia cuộc sống giới đức: gồm năm mươi lăm người, bắt đầu
với chàng trai Yasa; rồi đến ba mươi người Bhaddavaggians trong
khu rừng Kappasika; và rồi đến nhóm một ngàn vị ẩn sĩ búi tóc
trên đồi Gaya-sisa. Ngài cũng an trú mười một ngàn người bắt
đầu với nhà vua Bimbisara nơi thánh quả nhập lưu và một ngàn
người quy y Tam Bảo.
Ngài cũng tiếp nhận ngôi chùa Trúc Lâm (Veluvana) đang lúc lưu
lại đó, ngài cũng khai tâm cho Sariputta và Moggallana, là hai vị
đã trở thành các đồ đệ toàn hảo đệ nhất được coi như là các đồ đệ
thánh, sau khi chứng thánh quả A-la-hán. Trước đó họ đã chứng
thánh đạo đầu tiên [Nhập Lưu] nhờ Trưởng lão Assaji và sau khi
rời Trưởng lão Sađjaya, họ đã dẫn cả đoàn tùy tùng đông đảo đến
gặp Đức Phật.
Theo lời yêu cầu của Trưởng lão Kaludayi, ngài đã đến tới vùng
Kapilavatthu. Ngài đã cảm hoá những họ hàng thân thích ngạo
mạn và kiêu hãnh của mình phải khuất phục bằng Phép lạ song
thông. Ngài an trú cha ngài thánh quả Bất Lai cùng với Maha-
11
Pajapati thánh quả Nhập Lưu, ngài cũng tế độ cho chàng Nanda
và Rahula xuất gia và rồi Vị Đạo sư quay trở lại thành Rajagaha.
Vào một dịp khác, khi vị Đạo Sư còn lưu lại trong sảnh đường
Kutagara gần thành Vesali, Đại Vương Suddhodana đã chứng
thánh quả sau cùng. Sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán ngay
khi ngài còn đang trị vì vương quốc dưới chiếc lọng trắng. Thế
rồi khát vọng xuất gia lại nổi lên nơi lệnh bà Maha-Pajapati. Cùng
với khát vọng đó, có năm trăm người vợ của những chàng trai trẻ
được chồng cho phép, cũng đã từ bỏ cuộc sống đời thường và
xuất gia ngay sau bài kinh Kalahavivada của bậc Đạo Sư trên bờ
sông Rohini, họ đã đến gặp lệnh bà Maha-Pajapati. Tuy nhiên tất
cả họ đều muốn xuất gia trước sự chứng kiến của Đức Phật, và họ
đã thỉnh lệnh bà Maha-Pajapati làm lãnh đạo nói rằng, “Chúng ta
sẽ xuất gia trước sự chứng kiến của ngài Đạo Sư.”
Bấy giờ nhân một dịp trước đó chính Maha-Pajapati cũng đã một
lần khẩn cầu xin Đạo Sư cho phép bà xuất gia nhưng Ngài từ
chối. Sau đó, bà đã đến yêu cầu người thợ cạo xuống tóc, mặc áo
cà sa mầu vàng và dẫn theo toàn bộ những phụ nữ dòng họ Thích
Ca đi theo bà, đến thành phố Vesali. Bà lại yêu cầu Trưởng lão
Ananda xin phép đấng thập lực cho bà được phép xuất gia và thọ
cụ túc giới đồng thời chấp nhận bằng cách thọ Bát Kỉnh Pháp.
Tuy nhiên toàn bộ các vị khác chỉ được xuất gia một bên [nơi
Tăng đoàn Tỳ khưu mà thôi][13].
Đây chỉ là phần tóm lược, nhưng những chi tiết đầy đủ chuyện kể
này đã được truyền lại cho chúng ta qua nhiều nguồn khác nhau
trong Kinh Phật. Giờ đây, sau khi đã nhận cụ túc giới Maha-
Pajapati đến gặp Đạo Sư, sau khi đảnh lễ Ngài, bà đứng sang một
bên. Thế rồi Đức Phật đã diễn giải giáo Pháp của Ngài cho bà. Bà
[?] Vin II 256tt (BD V 356tt) Maha-Pajapati có hỏi Đức Phật về “những phụ nữ Thích Ca
13
này” và cho biết chư vị có thể xuất gia cho chư vị ni. Xin đọc Ja II 393 (JS II 267. Còn về
phần người vợ chính của ngài Cồ Đàm” giải thích “Maha-Pajapati Gotami”) Sau đó, khi
Tăng Đoàn chư vị ni được thành lập thì phụ nữ được cả hai tăng đoàn xuất gia cho. Điều
này làm nổi lên ba hạng đối với việc xuất gia cho phụ nữ: (1) Maha-Pajapati Gotami, cụ
túc giới của chư vị này bao gồm chấp nhận bát kỉnh pháp quan trọng nhất.;(2) các phụ
nữ Thích Ca chỉ được chư ni ban cụ túc giới mà thôi; (3) toàn bộ phụ nữ đã được cả hai
phía xuất gia tiếp theo sau đó là: Tăng Đoàn chư vị và tăng đoàn chư vị ni. Ngoài ra
“được một bên chấp nhận xuất gia” (ekato-upasampanna) (xin đọc từ mục này trong tự
điển CPD) có liên quan tới những phụ nữ trước đó đã được Tăng đoàn ni xuất gia như là
một phần chuẩn bị để nhận xuất gia do Tăng đoàn . Nhưng người này thể hiện hai nhóm
thuộc hai loại cụ túc giới vào cuối Thi-a (xin cũng đọc dưới đây. tr.378): (1) những vị
nào nhận cụ túc giới đầy đủ do chính Đức Phật hay do Tăng Đoàn. (2) những vị nào chỉ
nhận cụ túc giới một lần hay hai lần (Maha-Pajapani Gotami được miễn trừ.)
12
nhận điều đó làm đề mục thiền từ nơi Đức Phật và rồi chứng đắc
thánh quả A-la-hán. Và năm trăm chư vị Tỳ khưu Ni còn lại cũng
chứng thánh quả A-la-hán vào cuối bài kinh Nandakovada.[14]
Khi Tăng đoàn chư vị Tỳ khưu Ni được thành lập một cách vững
vàng theo cách này, Tăng Đoàn đã phát tán khắp các ngôi làng
trong vùng, nơi thị trấn buôn bán, các thành thị và ngay cả tại thủ
đô vương quốc nữa. Những phụ nữ thuộc các gia đình tốt, các
nàng dâu các gia đình tốt, và các thiếu nữ trẻ tuổi đều biết Đức
Phật chứng Toàn Giác Ngộ và giáo Pháp Ngài hoàn toàn phù hợp
với chánh pháp và an trú thích hợp trong Tăng Đoàn. Họ đặt niềm
tin nơi giáo pháp. Lại có giao động mạnh mẽ nổi lên nơi họ liên
quan đến kiếp hiện hữu. Thế rồi họ xin phép chồng, mẹ cha và họ
hàng được xuất gia và dành trọn tâm tín cho giáo Pháp họ đã xuất
gia. Sau khi xuất gia họ đã tu luyện phước hạnh. Họ nhận lời
giảng dạy trước sự hiện diện của Đức Phật và toàn bộ chư vị Tỳ
khưu khác. Thế nồi, sau khi bị thôi thúc và cố gắng như vậy họ đã
chứng thánh quả A-la-hán chỉ trong một thời gian ngắn.
Giờ đây đề cập đến thành tích của mình bằng lời công bố long
trọng v.v.. vào nhiều thời điểm khác nhau. Sau đó những người tổ
chức Đại Hội đã thu thập các đoạn kệ và lồng ghép vào Kinh
Tạng trong Chương Nhất Kệ, v.v…nói rằng, “Những đoạn kệ này
được đặt tên là “Tỳ khưu Ni Kệ.” Việc phân loại những đoạn kệ
này thành nhiều chương khác nhau v.v…cũng đã được đề cập tới.
Tại đó, các đoạn đó chính là Chương Nhất Kệ và cũng là chương
đầu tiên.
Phẩm I
TẬP MỘT KỆ
1.1. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRUỞNG LÃO NI VÔ DANH
Và đây là bài kệ đầu tiên:
1. Hỡi Therika “Tỳ khưu Ni bé nhỏ”, hãy nằm ngủ yên trong an
lạc hạnh phúc, hỡi nàng thân đẫy đà với xiêm y nàng tự may che
phủ toàn thân, lòng tham dục đã lắng dịu xuống, giống như ghè
khô đựng trong lò cháy đỏ rực!
14
[?]Trung Bộ Kinh (M) III 270-7 (MLS III 322-328. MLDB I 120-5). Trưởng lão Nandaka
đã thực hiện bài kinh này cho chư vị ni hai lần. Sau lần thuyết giảng thứ hai, Đức Phật cho
rằng toàn bộ họ đã chứng đắc ít nhất thánh quả Nhập lưu (xin đọc. Ps V 97) xin cũng đọc
Ja II 392 (JS II 267tt).
13
Bài kệ này xuất xứ như thế nào? Người ta kể lại rằng trong quá
khứ có một thiếu nữ sống trong một gia đình tốt, nàng đã đặt trọn
niềm tin nơi giáo Pháp dưới thời Đức Phật Konagamana. Nàng đã
mời vị Đạo Sư dùng bữa. Ngày hôm sau nàng đã cho dựng một
sảnh đường làm bằng nhánh cây, trải cát làm bằng mặt đường, và
giương chiếc lọng trên sảnh đường đó. Sau khi đã thực hiện cúng
dường bắt đầu bằng dâng hoa và hương nhang, nàng đã thông báo
cho Đức Phật biết thời gian dùng bữa đã đến. Đức Phật đã đến và
ngồi trên tọa sàng được sửa soạn đặc biệt dành cho Ngài. Nàng
tán dương Đức Phật và dâng cúng cho Ngài đủ loại đồ ăn thức
uống rất thịnh soạn. Khi dùng bữa xong, lấy nước rửa tay và bát
khất thực, nàng đã cúng dường Đức Thiện Thệ một bộ y phục
gồm Tam y. Đức Thiện Thệ rất thanh tịnh [nhận lấy vật thí của
nàng] và lên đường. Nàng đã thực hiện việc phước nghiệp trong
suốt thời gian còn sống, cho đến lúc thọ mạng diệt, nàng tái sanh
nơi cõi Chư Thiên.
Nàng đã chu du tái sanh khắp cõi thiên đàng trong một kỷ nguyên
giữa các vị chư thiên cho đến khi Đức Thiện Thệ Kassapa tái
sanh trong một gia đình chủ gia nhân. Khi đến tuổi khôn lớn, một
thôi thúc mạnh mẽ đã nổi lên tronglòng liên quan đến sự hiện hữu
tái tục; nàng được xuất gia trong thiền viện đó, sau khi đã thọ cụ
túc giới đầy đủ, nàng luôn chu tất việc tu luyện giới Tỳ khưu Ni
trong suốt hai mươi ngàn năm. Sau khi qua đời, nàng được tái
sanh nơi cõi thiên giới và hưởng thù thắng thiên giới trong suốt
một thời đức Phật giữa hai vị Như Lai.
Dưới thời kỳ đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong một gia đình
sát đế lỵ giàu có cư ngụ trong thành Vesali. Nàng có tên là
Therika, vì nàng có một thân hình vững chắc an tịnh (thira-santa-
sarirataya). Khi đến tuổi trưởng thành, cha mẹ nàng đã gả nàng
cho một thanh niên sát đế lỵ rất môn đăng hộ đối cả về giới đức
cũng như gia tộc chàng được sanh ra. v.v… Nàng sống trung
thành tuyệt đối với chồng. Khi vị Đạo Sư đến thành Vesali nàng
đặt trọn niềm tin nơi giáo pháp của Ngài và trở thành nữ đồ đệ
của Ngài. Sau khi lắng nghe giáo pháp của vị Đạo Sư, nàng đã
quyết định xuất gia trước sự chứng kiến của Tỳ khưu Ni Maha-
Pajapati Gotami.
Nàng thưa chuyện với chồng rằng, “Em định sẽ xuất gia.” Chồng
nàng không đồng ý, nhưng nàng vẫn tiếp tục làm tròn bổn phận
14
người vợ thảo hiền, suy tư đến những lời giáo pháp nàng đã lắng
nghe, hiểu rõ những hiện tượng sắc giới, vô sắc giới và chú tâm
thiền quán.
Thế rồi một ngày kia, có ngọn lửa nổi lên khi nàng đang nấu món
cà ri trong bếp. Ngọn lửa đó đã thiêu rụi toàn bộ món ăn với tiếng
xèo xèo. Nàng quan sát cảnh tượng đó, và lấy đó làm đề tài thiền
quán vô thường và vô ngã nơi sự vật, nàng tu tập thiền quán ngày
càng phát triển, tinh tấn tu tập và nàng đã chứng quả bất lai. Kể từ
đó nàng từ bỏ không đeo đồ trang sức hay trang điểm gì nữa. Người
chồng hỏi nàng “Em yêu, tại sao em không đeo đồ trang sức hay
trang điểm như em vẫn thường làm xưa nay?” Nàng thưa với
chồng, là cuộc sống gia đình không giúp gì cho nàng cả và muốn
xin được xuất gia. Giống như vị thiện nam Visakha sử sự với người
vợ Dhammadinna của mình, chàng đã dẫn vợ với một nghi lễ long
trọng đến gặp Trưởng lão Ni Maha Pajapati Gotami và nói, “Bạch
Trưởng lão Ni, xin bà chấp nhận người phụ nữ này được xuất gia.”
Thế rồi Maha pajapati Gotami đồng ý cho nàng xuất gia và ban cụ
túc giới đầy đủ, rồi dẫn nàng đến nơi cư trú của vị Đạo Sư và giới
thiệu nàng với Ngài theo thông lệ. Vị Đạo Sư giải thích đề tài thiền
quán cho nàng về những gì nàng đã quan sát thấy và thốt lên đoạn
kệ bắt đầu. “Hãy ngủ yên trong an lạc…”.
1. Ở đây, trong an lạc, là trạng từ đối cách. Hãy ngủ yên là mệnh
lệnh cách. Therika “Tỳ khưu Ni nhỏ bé” lại ở cách xưng hô.
Thanh thoát trong bộ xiêm y tự tay nàng may chỉ thị cho nàng
phải biết tiết kiệm. Vì ước muốn của nàng đã được kiềm chế là lời
khen ngợi chứng đắc của nàng. Giống như ghè khô đút trong lò
nóng rực là ám chỉ bản chất phù du nơi các lậu hoặc phải được
dẹp bỏ. Trong lò là việc ám chỉ rằng trạng thái làm cơ sở cho điều
vô thường, phù phiếm, v.v…Giờ đây từ an lạc là một từ đồng
nghĩa với điều nàng ao ước: có nghĩa là: sau khi đã được giải
thoát khỏi cảnh khổ cực nhờ hạnh phúc. Hãy ngủ yên là cách ám
chỉ tư thế nằm, nhưng điều này gồm cả bốn tư thế. Chính vì thế,
hãy tự cư xử nơi toàn bộ bốn tư thế một cách an lạc thoải mái; có
nghĩa là: hãy nằm nghỉ an lạc hạnh phúc. Therika, ngay cả nếu
như đây là việc khẳng định tên của nàng, hiểu theo nghĩa rộng,
theo từ nguyên thì ý nghĩa ở đây có thể hiểu là: “Ôi nàng, nàng đã
đạt đến hiện trạng giáo pháp bền vững.” “Ôi nàng đã có được
những trạng thái bền vững do phẩm hạnh công đức đem lại,
15
v.v…” Sung sướng che phủ thân mình với bộ xiêm y tự chính tay
nàng đã may có nghĩa là: sau khi đã may một chiếc áo cà sa từ
những miếng vải vụn bỏ đi lấy từ đống rác, sau khi đã che phủ
thân mình với bộ xiêm y mặc vào và che phủ thân mình với chiếc
áo cà sa đó. Vì ước muốn của nàng đã được an tịnh: từ do
(hi) đưa ra lý do. Vì ước muốn những khoái cảm dục lạc liên quan
đến tái sanh liên tục đã được an tịnh, bị thiêu rụi do ngọn lửa hiểu
biết chánh đạo tối thượng là chánh đạo quả A-la-hán đây là cách
ta nên hiểu từ hãy an nghỉ trong an lạc. Giống như ghè khô đựng
trong lò cháy đỏ rực: giống như một món rau trộn cà ri được nấu
trong chiếc bình đất đun cháy với ngọn lửa thật to, đã khô cạn đi
và trở nên yên tịnh, hay giống như món rau trộn cà ri được trộn
chung với nước rồi đút trong lò và được nấu lên phát ra tiếng xèo
xèo khi còn một chút nước trong đó và yên lặng khi nước đã cạn
hết. Cũng vậy, đam mê tình dục cũng như ước muốn tồn tại liên
tục nơi nàng được dẹp yên; sau khi đã dẹp yên được các ước
muốn khác, hãy nghỉ yên.
Do thực chất là năm căn giác quan của nàng đạt đến trưởng thành
và vẻ kiều diễm bài kinh của vị Đạo sư ở cuối đoạn kệ, Tỳ khưu Ni
đã chứng thánh quả A-la-hán cùng với từ vô ngại giải.
Có lời nói trong Thí dụ Kinh (Apadana) như sau:
1. Tôi sở hữu một sảnh đường để cúng dường cho Đức Phật
Kodagamana.Ta đã liên tục cúng dường một bộ xiêm y gồm ba
chiếc y cà sa cho Đức Phật, là người bà con với ta trên cõi đời
này.
2. Bất luận nơi nào ta tới, dù là thị trấn, khu phố, chợ búa hay
thủ đô hoàng gia. Bất kỳ nơi đâu ta cũng được kính trọng do kết
quả phước nghiệp này đem lại.
3. Ta đã thiêu rụi toàn bộ lậu hoặc, toàn bộ tái sanh tương lai
đã bị triệt phá hoàn toàn. Sau khi đã cắt đứt mọi ách phược của
ta, giống như một cỗ tượng, ta đã sống trong vô tỳ vết.
4. Ta luôn hân hoan đón chào vị Như Lai toàn hảo trước sự
hiện diện của ta. Ta đã chứng tam minh ta đã thực hiện lời Phật
dạy.
16
5. Tứ vô ngại giải cũng như bát giải thoát [16] ta đều chứng
[15]
đắc. Ta chứng lục trí cha [17] trực tiếp, ta đã thực hiện lời Phật
dạy.
Giờ đây sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán, Tỳ khưu Ni thốt
lên lời tuyên bố long trọng nói rằng, “Chính bài kệ này là do Đức
Phật công bố, vì bài kệ là do chính Tỳ khưu Ni thốt lên trong đó
toàn bộ ước muốn của nàng không bỏ qua bất kỳ điều gì, đã được
kiềm chế do giới đức an tịnh thông qua chánh đạo tuyệt hảo”. Đó
là ý nghĩa đoạn trên. Tuy nhiên ta nên hiểu rằng cùng với việc chế
ngự đam mê dục lạc, an tịnh toàn bộ lậu hoặc được nói tới ở đây.
Do kết quả thành tích triệt phá toàn bộ lậu hoặc, vì thực chất toàn
bộ các lậu hoặc đó có chung một tính chất mà thôi.
Vì thế có lời nói rằng:
Vọng tưởng chính là suy tưởng được khởi sanh cùng với giao
động và nghi ngờ cũng gây tác hại giống như đam mê dục vọng vì
chúng chỉ được loại bỏ qua cùng một hiện trạng mà thôi.
Và chính trong trường hợp đó, việc an tịnh toàn bộ các nhóm lậu
hoặc được nói tới theo cùng một cách thức đó, ta nên hiểu rằng
việc an tịnh được toàn bộ các lậu hoặc cũng đã được đề cập tới:
(1) trước đó qua chứng an tịnh bằng cách thay thế những điều
ngược lại, (2) vào lúc an tịnh diễn ra và tuệ quán xuất hiện thông
qua loại bỏ,
(3) vào thời điểm chứng thánh đạo bằng cách loại bỏ,
(4) vào giây phút chứng thánh quả thông qua an tịnh.
Chính vì thế ta nên hiểu chứng đắc bốn loại từ bỏ nêu trên liên
quan đến điều này, chính việc chứng đắc hiểu biết từ bỏ:
(1) Chứng đắc bằng cách hoàn tất phẩm hạnh thiện, chứng tỏ cho
thấy bằng cách thay thế những điều ngược lại,
(2) chứng đắc hoàn tất bằng nhập thiền quán chứng tỏ cho thấy
qua việc từ bỏ loại bỏ, và
15[?]
Vô ngại giải về (1) ý nghĩa (attha-), (2) pháp (dhamma-), (3) ngôn ngữ (nirutti-). và
(4) tuệ diễn giải (palibhana-palisambhida) xin đọc PC 377-82
16[?]
Giải thoát [nhờ pháp an chỉ định] (1) qua chứng kiến nội sắc, (2) qua chứng kiến
ngoại sắc, (3) qua tập trung quyết tâm nơi cái đẹp; giải thoát [nhờ những chứng đắc vô
sắc] thuộc (4) căn cứ không vô biên xứ, (5) căn cứ thức vô biên xứ, (6) căn cứ vô sở
hữu xứ, (7) căn cứ phi tưởng phi phi tưởng xứ ; và giải thoát (8) qua diệt cảm thọ và
tưởng. Xin đọc D II 70tt. (LDB 229), Trung Bộ Kinh (M) II 12tt. (MLDB 638tt) và phần
chú giải trong MLBD tr. 128tt. số 764.
17[?]
Trí trực tiếp về (1) sức mạnh siêu thế, (2) thiên nhãn, (3) tâm thấu triệt, (4) tưởng
niệm tiền kiếp. (5) trí đoạn diệt và khởi sanh nơi chúng sanh. (6) trí triệt phá lậu hoặc.
Xin đọc Trung Bộ Kinh (M) I 34tt (MLDB 116tt).
17
(3) chứng đắc hoàn tất bằng trí tuệ được chứng tỏ thông qua loại
bỏ vậy. Chính vì nàng đạt đến toàn hảo nơi hiểu biết và tu tập tâm
linh khi các lậu hoặc đã được triệt phá hoàn toàn, cũng vậy nàng
chứng hiểu biết an trú và chứng đắc hiểu biết toàn diện.
Ta nên hiểu vấn đề này như sau: như trong đoạn kệ vạch rõ ba
cách tu tập được hoàn tất nhờ chứng đắc tứ minh và thất tịnh
thông qua những tu luyện thiện bằng ba cách. Ý nghĩa ở đây
là: một Tỳ khưu Ni nào đó, nàng là Tỳ khưu vô danh (ađđatara
theri apađđata). Không được ai biết tới do dòng tộc…một Trưởng
lão Ni độc nhất, một Tỳ khưu Ni với phẩm chất thiện được nói tới
trong đoạn kệ này.
Đến đây kết thúc đoạn kệ của Trưởng lão Ni vô danh.
2. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI MUTTA
2. Hỡi Mutta, hãy tự giải thoát khỏi mọi trói buộc, như mặt trăng
thoát khỏi miệng Rahu[18]. Với tâm được giải thoát hoàn toàn,
thoát khỏi triền phược trói buộc, hãy thọ hưởng món ăn do khất
thực đem lại.
Đây chính là bài kệ của một học giới [19] tên là Mutta. Nàng cũng
đã thực hiện nhiều phước nghiệp dưới thời chư vị Như Lai tiền
kiếp và đã tích luỹ được nhiều hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống
trong suốt thời gian lưu lại trên cõi đời này. Nàng đã sanh ra trong
một gia đình tốt dưới thời Phật Vipassi. Một ngày kia, sau khi đã
đến tuổi trưởng thành, nàng nhìn thấy vị Đạo Sư đang du hành
trên đường, với tâm trí hoàn toàn thoải mái hướng về Ngài, nàng
đảnh lễ Ngài với ngũ thân đầu địa. Do niềm vui kính lễ, nàng đã
bái phục và xụp lạy dưới chân Ngài. Qua phước nghiệp đó, nàng
được tái sanh nơi cõi chư thiên. Nàng đã du hành, và sanh ra nơi
cõi hạnh phúc.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng được sanh ra trong thành
Savatthi trong một gia đình Bà la môn. Nàng có tên là Mutta. Vì
nàng có được điều kiện chín muồi để được giải thoát, nàng đã
xuất gia vào tuổi hai mươi cùng với Trưởng lão Ni Maha-Pajapati
Gotami. Một chủ đề thiền quán được giải thích cho nàng và nàng
18[?]
Tôi theo cách giải thích của ngài Dhammapala ở đây. xin đọc EV II: “như mặt trăng
được thoát khỏi hàm răng Rahu” bài kệ “ giống như mặt trăng, khi hàm răng Rahu đã
nuốt chửng”, cũng được thoát khỏi.”
19[?]
Sikkhamana, cũng được dịch là một “ người thực tập” (DB) hay là một người “nữ thiền
sinh” (BML) KRN dịch là “người đang theo đuổi tu tập” trong tập EV II vv. 99 104 (xin đọc
nhận xét của ngài về từ này. EV II. Tr. 52 v. 2).
18
đã dành trọn đời mình để chứng thiền quán khi nàng còn đang là
một học giới.
Một ngày kia sau khi kết thúc bữa ăn, nàng trở về thiền thất sau
cuộc hành khất. Với tâm thành tín với chư vị Trưởng lão Ni và chư
vị Tỳ khưu Ni, nàng đi thẳng vào thiền phòng của mình và ngồi
thiền một mình, bắt đầu với thiền quán. Vị Đạo Sư vẫn lưu lại
trong hương phòng, ngài liền tỏa sáng và xuất hiện trong tư thế
ngồi thiền trước mặt nàng. Ngài đã thốt lên bài kệ này bắt đầu với
câu: “Hỡi Mutta, hãy tự giải thoát khỏi mọi trói buộc.”
2. Ở đây, từ Mutta được dùng ở danh xưng cách. Hãy tự giải
thoát khỏi (muccassu) khỏi những ách phược (yogehi) có nghĩa
là: hãy giải thoát khỏi (mucca) khỏi bốn ách phược bắt đầu với
thú vui dục lạc[20] qua chứng đắc thánh đạo này đến thánh đạo
khác; giải thoát tâm khỏi những trói buộc này. Bằng cách
nào? Như mặt trăng thoát khỏi hàm răng Rahu (Rahu-ggaha) có
nghĩa là: giống như mặt trăng thoát khỏi chấp thủ (gahato) có tên
gọi là Rahu (Rahu-sankhatato), tự thoát khỏi toàn bộ những tạp
chất ô uế. Với tâm giải thoát (vippamuttena) có nghĩa là: tâm
thanh thản tự do (sutthu vimuttena), được giải thoát chính do việc
cắt khỏi (samuccheda-vimuttiya) những điều ô uế đó nhờ chánh
đạo. Và đây lại là công cụ cách hiểu theo nghĩa động từ tình
thái (modal). Không còn nợ nần (anala), thưởng thức (bhuđja) đồ
khất thực (pintaka) có nghĩa là: bạn nên thưởng thức đồ khất thực
(raltha-pintan) do vương quốc cung cấp sau khi bạn không còn
nợ nần gì và sau khi đã loại bỏ được phiền não lậu hoặc. Vì người
nào thưởng thức (sử dụng) những đồ thiết yếu được Đạo Sư cho
phép mà không loại bỏ được những lậu hoặc, thực chất kẻ đó sử
dụng những thứ đó như là một món nợ gông vào mình vậy. Như
trưởng lão Bakula nói rằng, “Quả thật hỡi bạn thân mến, ta đã
thưởng thức của bố thí do vương quốc này ban tặng trong suốt bảy
ngày liên tục giống [như một kẻ] mắc nợ vậy”. Chính vì thế, đối
với ai đã xuất gia theo giáo Pháp, việc sử dụng những gì được bố
thí cho mình với niềm tin là chỉ được sử dụng thứ đó sau khi đã
loại bỏ hết phiền não bằng cách loại bỏ những phiền não lậu hoặc
bắt đầu với ước ao dục lạc. Của bố thí chỉ là điều đầu tiên [trong
danh sách liệt kê] trong những lời dạy của Đức Phật, nhưng có
20[?]
Bốn điều trói buộc = bốn bộc lưu hay vết nhơ (dục lạc giác quan [kama-], ước muốn
được tái sanh (bhava-] tà kiến [dihi-] và vô minh [avijja-ogha hay asava].
19
nghĩa là bốn nhu thiết yếu. Liên tục được chỉ dạy có nghĩa là:
(Ngài) thường xuyên chỉ dạy cách thanh tịnh những thiếu sót đó
thông qua chứng đắc bát thánh đạo. Nàng đã thực hiện hỗ trợ do
cách chỉ dạy này đem lại và chứng đắc thánh quả A-la-hán.
Chính vì thế có lời kể lại trong Thí Dụ Kinh (Apadana[21]) như sau:
1. Giống như vị Thiện Thệ Vipassi, tối thượng nơi cõi thế gian
này, là vị Độc Nhất, thực hiện chuyến du hành trên đường, tạo
cho mọi chúng sanh vượt qua (đại đường sanh tử).
2. Ta rời khỏi nhà, lạy phủ phục dưới chân [Đức Thiện Thệ],
vị cứu tinh đầy đại bi thế gian bước đạp lên đầu ta.
3. Sau khi dẫm đạp lên đầu ta, vị lãnh đạo thế gian liền ra đi. Vì
Ngài tin nơi tâm trí ta, do vậy ta được tái sanh nơi cõi Trời Đâu
Xuất
4 - 6. Ta đã thiêu rụi mọi lậu hoặc của mình, [xin đọc tr. 10]… ta
đã thực hiện những lời Phật dạy.
Giờ đây sau khi đã chứng quả A-la-hán nàng đã thốt lên lời tuyên
bố long trọng là chính đoạn kệ đó [của Đức Phật]. Sau khi đã
hoàn tất công việc tu luyện, nàng được nhận cụ túc giới hoàn toàn
và sau đó, khi tới thời viên tịch nàng cũng nhắc lại chính bài kệ
này một lần nữa.
Đến đây phần chú giải bài kệ của Trưởng lão Ni Mutta là kết thúc.
3. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI PUNNA
Hỡi nàng Punna, hãy biến lòng mình tràn ngập chánh pháp là bài
kệ của học giới có tên là Punna. Nàng cũng đã thực hiện rất
nhiều phước nghiệp dưới thời chư vị Như Lai tiền kiếp và tích lũy
được nhiều hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống làm nhân cho nàng
trong suốt giai đoạn sinh tiền trần tục đó. Nàng được tái sanh,
trở thành một nữ chiên đà (kinnari) ngay trên bờ sông
Candabhaga trong khoảng thời gian trên cõi thế gian này không
xuất hiện [giáo pháp] của vị Như Lai nào. Một ngày kia, nàng
chứng kiến có vị Phật Độc Giác (Pacceka). Với tâm thành kính
hướng tới Ngài, nàng kính lễ Ngài với vòng hoa gồm toàn cây
sậy, giơ tay lên đầu tỏ lòng cung kính Ngài rồi đứng sang một
bên. Vì vậy, nhờ phước nghiệp này, nàng chỉ được chu du tái
sanh nơi cõi cực lạc mà thôi.
21[?]
Ap 514 số 4 (gán cho Sankamanatta) “nàng tựa như cây cầu” một tham khảo tới bước
chân của Đức Phật bước trên nàng; xin đọc chuyện kể về Bồ tát Sumedha tự biến mình
thành cây cầu để vượt qua vũng bùn CSM 128)
20
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong thành Savatthi
trong gia đình một thương gia kia. Người ta đặt tên cho nàng
là Punna, vì nàng đã có những điều kiện tiên quyết [để được giải
thoát] khi nàng hai mươi tuổi, và sau khi đã nghe giáo Pháp cùng
với Trưởng lão Ni Maha-Pajapati Gotami, nàng thành tựu niềm
tin và sau khi đã xuất gia, đang lúc vẫn còn là học giới, nàng bắt
đầu tu luyện thiền quán. Vị Đạo Sư, vẫn ngự tại hương phòng của
mình và phóng hào quang tới nàng rồi đọc lên bài kệ này:
3.Hỡi nàng Punna, hãy biến lòng mình tràn ngập chánh pháp,
tràn ngập nhiều như ánh trăng rằm. Hãy lấp đầy trí tụê phá tan
bóng tối [vô minh.]
3. Ở đây, từ Punna ở danh xưng cách. Hãy biến lòng mình tràn
ngập (purassu) chánh Pháp có nghĩa là: hãy làm đầy (paripunna
hohi) với tam thập thất trợ đạo pháp. Trong câu tràn đầy như mặt
trăng rằm (cando-pannaraso-r-iva ti), mẫu tự r biến thành cách
ghép cho êm tai hai từ. Ngày rằm (ngày mười lăm) có nghĩa là:
ngày rằm. Với tràn đầy trí tuệ (pariPunnaya) do tình trạng tràn
đầy (pariPunnaya) gồm mười sáu chức năng của trí tuệ thuộc
thánh đạo A-la-hán. Phá tan khối u ám [vô minh] (tamo-
khandha?) có nghĩa là: phá tan hoàn toàn, phá vỡ hoàn toàn khối
ảo tưởng, (moha-khandha): bằng cách xé tan khối ảo tưởng, và
toàn bộ các lậu hoặc cũng được dẹp tan cùng với ảo tưởng đó.
Sau khi đã nghe bài kệ đó và tuệ giác nàng tăng thêm đáng kể,
nàng đã chứng đắc thánh quả A-la-hán.
Như đã được nói đến trong Ví dụ Kinh như sau:
1. Vào thời điểm đó ta chỉ là một nữ kiền đà (kinnari) trên bờ
sông Candabhava, ta đã chứng kiến vị Như Lai vô tỳ vết, Đấng
Tự lập, vị vô song.
2. Ta đã kính lễ hai tay dâng cao, với tâm tịnh tín, hoan hỷ và
tràn ngập phấn khởi. Ta đã kính lễ đấng tự lập bằng vòng hoa
xậy.
3. Nhờ phước nghiệp đó và lòng quyết tâm và mục tiêu của ta.
Sau khi đã từ bỏ thân phận làm nữ kiền đà, ta đã tái sanh nơi cõi
Tam Thập Tam.
4. Ta cai trị với tư cách là chánh hậu Tam Thập Lục chư thiên
vương. Ta cai quản với tư cách là chánh hậu thập vuơng quốc
chuyển luân. Tâm hồn ta đã bị thôi thúc mạnh mẽ, ta đã quyết
xuất gia sống đời vô gia cư.
21
5. Mọi lậu hoặc trong ta đã hoàn toàn thiêu rụi. mọi tái sanh
tương lai đã bị dẹp bỏ. Mọi vết nhơ bẩn trong ta đã bị tiêu huỷ,
giờ đây ta chẳng phải nhắc lại cảnh sống đó nữa.
6. Chín mươi tư đại kiếp đã trôi qua sau khi ta dâng cúng hoa.
Ta không thể nhận ra đã sống trong cõi khổ, đây chính là kết quả
sau khi đã cúng dường hoa cho vị Như Lai.
7-9. Ta đã thiêu rụi mọi lậu hoặc của mình, [xin đọc tr. 10]… ta
đã thực hiện những lời Phật dạy.
Giờ đây sau khi đã chứng quả A-la-hán, nàng đã long trọng thốt
lên chính bài kệ của vị Như Lai. Từ đây trở đi, bài kệ này đã trở
thành lời công bố chính kiến thức toàn hảo của nàng.
Đến đây kết thúc phần chú giải bài kệ của Trưởng lão Ni Punna.
4. CHÚ GIẢI BÀI KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI TISSA
Hỡi Tissa, hãy tu tập nơi những học pháp là bài kệ của học giới
Tissa đã đọc lên. Nàng cũng đã thực hiện được nhiều phước
nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và cũng đã tích lũy được
nhiều hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống khác nhau làm cơ sở trong
suốt cuộc sống trên cõi đời này. Thông qua kho tàng tích lũy các
phẩm hạnh đó nàng được tái sanh nơi thời kỳ đức Phật hiện tại,
trong một gia đình dòng họ vương đế Thích Ca trong thành
Kapilavatthu. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng đã trở thành người
tình của vị bồ tát. Sau này nàng xuất gia cùng với Trưởng lão Ni
Maha-Pajapati Gotami. Sau khi đã xuất gia, nàng chú tâm tu tập
thiền quán. Vị Đạo Sư đã phóng hào quang tới nàng như đã mô tả
trong [bài kệ 2,3] và thốt lên bài kệ như sau:
4. Hỡi Tissa, hãy tu tập trong học pháp. Ước mong nhà ngươi
không bỏ lỡ những cơ hội thuận tiện. Hãy sống thoát khỏi mọi
ách phược vô tỳ vết nơi cõi đời này.
4. Ở đây, từ Tissa được sử dụng ở danh xưng cách. Hãy tu
tập (sikkhassu) nơi chính học pháp có nghĩa là: hãy tu học
(sikkha) nơi chính tam điều học pháp bắt đầu với tu tập giới đức
tột đỉnh[22]. Hãy chứng tam học đó kèm theo chánh đạo[23]. Đây
chính là ý nghĩa. Giờ đây lý do chứng đắc bát chánh đạo được
22[?]
Ba học giới (sikkha) gồm tu học giới đức cao hơn (adhisila-), tâm thức cao
hơn(adhicitta-) và tuệâ giác (khôn ngoan) (adhipanna-sikkha) Xin đọc D III 219 (DB III
213; LDB 486 tr. 47. Tăng Chi Bộ Kinh (A) I 234tt (GS I 214-16). Nett 126 (những tham
khảo được đưa ra EV II tr. 52. ad v. 2]
23[?]
Bát chánh đạo được chia thành ba nhóm: giới hạnh (sila) thiền định (samadhi) và trí
tuệ (panna). Xin đọc Trung Bộ Kinh (M) I 301 (MLS I 363, MLDB 398).
22
khẳng định: Chứ gì nàng đừng bỏ lỡ những cơ hội thuận tiện. Ý
muốn nói là: (1) hiện hữu nơi kiếp người, (2) các căn không
khiếm khuyết. (3) hiện hữu Đức Phật, (4) thành tựu tịnh tín.
[24]
Cầu xin cho những cơ hội (yoga) và những điều kiện thuận
tiện này, những thời gian thuận tiện khó lòng đạt được, ngươi
không bỏ lỡ. Hay, ý nghĩa những ách phược thuộc cảm khoái
tham dục (kama-yogadayo) cầu xin cho bốn ách phược
này (yoga)[25], nhà ngươi chưa thắng vượt được, Ước mong những
trở ngại này không khuất phục được nhà ngươi. Thoát khỏi mọi
ách phược trói buộc, thoát khỏi mọi ràng buộc (yogehi) bắt đầu
với những ách phược tham dục (kama-yogadihi), rồi đạt đến tình
trạng vô tỳ vết (anasava). Trong cuộc sống trên cõi đời này; cầu
xin nhà ngươi được sống hạnh phúc trên cõi đời này. Đây là ý
nghĩa “Nàng tu luyện thiền quán sau khi nghe đoạn kệ này và
chứng quả A-la-hán”. v.v…là điều ta nên hiểu như được khẳng
định ở trên[26].
Đến đây kết thúc phần chú giải bài kệ của Trưởng lão Ni Tissa.
5 – 10. CHÚ GIẢI NHỮNG BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI
TISSA KHÁC. v.v…
Hỡi Tissa, hãy cột tâm tập trung vào các pháp khác là bài kệ của
Trưởng lão Ni Tissa khác. Chuyện kể về nàng cũng giống như
chuyện kể của nàng Tissa học giới ở trên [ở trên v. 4]. Và nàng
Tissa này, sau khi đã trở thành một Tỳ khưu Ni, cũng chứng
thánh qủa A-la-hán. Và chính vị Tỳ khưu Ni này, các Tỳ khưu Ni
khác ở đây cũng như vậy: Dhira, Vira, Mitta Bhadra, Upasama,
chuyện kể về năm Tỳ khưu Ni này cũng đồng nhất với nhau. Cả
năm đều cư trú tại thành Kapilavatthu, cũng đều làm nàng hầu
cho vị Bồ Tát, đã xuất gia với Trưởng lão Ni Maha-Pajapati
Gotami. Và chứng đắc quả A-la-hán thông qua một bài kệ tỏa
sáng (obhasa-gathaya) chỉ riêng có vị thứ bảy [Vira]. Ngược lại
24[?]
Còn có nhiều bản liệt kê những cơ hội thuận tiện khác nữa (yoga ở đây, kha?a nơi khác.)
(hay những cơ hội khó đạt được (dullabha) như cơ hội chú giải trong đoạn v dưới đây, một
giây phút thuận lợi (eko khato) có bốn đại (Tăng Chi Bộ Kinh (A) IV 227 (GS IV 153), có
một danh sách gồm bốn niềm tin trong tập chú giải về Th 403 (Th-a II 172. một danh sách
năm niềm tin trong Spk I 244 và một danh sách gồm bốn nữa được thấy trong Spk III 304.
25[?]
Những ách phược (1) tham dục (kama-) (2) ước muốn tái sanh (bhava-) (3) tà
kiến (ditthi-) và (4) vô minh (avijja-yoga) (xin đọc Tăng Chi Bộ Kinh (A) II 10 (GS II
11). Những điều này lại đồng nhất với những vẩn đục lậu hoặc (avasa).
26[?]
Có nghĩa là sau khi đã chứng đắc A-la-hán , nàng nhắc lại bài kệ do chính Đức Phật
đã đọc và coi như là của chính mình.
23
nàng không có bài kệ tỏa sáng, nàng lệ thuộc hoàn toàn vào lời
giảng thuyết của vị Đạo sư. Nàng đã luyện thiền quán một cách
nhiệt tình, chứng đắc quả A-la-hán, và đọc lên bài kệ [bắt đầu
với] Tên nàng là Vira vì do nàng có tâm kiên định, như là lời kệ
được long trọng đọc lên. Và giống như chư vị Trưởng lão Ni khác
sau khi nàng đã chứng đắc quả A-la-hán, nàng đã thốt lên những
bài kệ sau đây:
5. Hỡi Tissa, hãy cột tâm tập trung vào các pháp thiện. Xin đừng
bỏ lỡ giây phút thuận tiện trôi qua. Vì những ai bỏ qua những cơ
hội thuận tiện đó sẽ phải sầu khổ, sẽ phải bị rơi vào hỏa ngục.
6. Hỡi Dhira, hãy chứng đắc tịch diệt, là những cảm chứng bất
thiện, tịnh chỉ các vọng tưởng là hạnh phúc an lạc, hãy thuận
hướng níp bàn là an nghỉ vô thường khỏi mọi cố gắng.
7. Tên gọi nàng là Vira, do chính nàng có tâm kiên cường.
Nàng còn là Tỳ khưu Ni có căn được tu luyện kỹ lưỡng. Hãy
mang tấm thân này, chính là thân cuối cùng, sau khi đã chiến
thắng cả đoàn ác quân Ma Vương.
8. Hỡi Mitta, sau khi đã xuất gia với tâm tịnh tín, hãy tu tập rèn
luyện hân hoan nơi bạn hiền, hãy tu tập rèn luyện cho được các
pháp thiện, cố gắng đạt đến an tịnh khỏi ách phược.
9. Hỡi Bhadra, sau khi đã xuất gia với tâm tịnh tín, hãy tu tập
rèn luyện sống hoan hỷ nơi pháp thiện, hãy tu tập rèn luyện tinh
tấn đạt cho được an tịnh khỏi ách phược.
10.Hỡi Upasama, hãy vượt dòng bộc lưu vô minh tử thần là điều
khó vượt qua. Hãy mang tấm thân này, chính là thân cuối cùng, sau
khi đã chiến thắng cả đoàn ác quân Ma Vương.
5. Trong đó, hãy cột tâm (yuđjassu) tập trung chú ý vào các pháp
thiện (dhamme-hi) có nghĩa là: hãy cột tâm [một dạng ngữ pháp
hoán chuyển] vào với các tâm chánh pháp an tịnh thiền quán và
[ba mươi bảy] pháp liên kết với giác chi. Hãy tập trung chú
ý (yoga? karohi) vào [các pháp đó]. Đừng để vuột mất (yoga-
bhavana) cơ hội (khana) thuận tiện có nghĩa là: bất kỳ ai không
cố gắng (yoga-bhavana), sau khi đã nhận được (1) cơ hội tái
sanh (uppatti-kkhata) trong một quốc gia thích hợp (có nghĩa là
gần kề Đức Phật), (2)cơ hội không khiếm khuyết lục căn, (3) cơ
hội tái sanh trong giai đoạn thời kỳ đức Phật, (4) cơ hội chứng
đức tin, tuy nhiên người đó đã bỏ lỡ toàn bộ những cơ hội thuận
tiện đó.Ngươi không nên bỏ lỡ những cơ hội đó (atikkami) Những
24
người nào đã để mất cơ hội may mắn đó (kharatita) có nghĩa là:
tuy nhiên bất kỳ cá nhân nào đã bỏ qua (atita) cơ hội may mắn đó
(kha?a) và những cơ hội thuận tiện đó đã vuột khỏi (atito) những
cá nhân đó. Sau khi đã bị tống vào hoả ngục. Họ phải sầu
khổ: sau khi đã tái sanh trong đó, họ phải chịu đau đớn rất nhiều.
Đây chính là ý nghĩa của đoạn kệ này.
6. Đạt đến (phusehi) tịch diệt có nghĩa là: đạt đến (phussa) nắm
được tịch diệt các lậu hoặc. Tịnh chỉ các vọng tưởng, hạnh phúc;
thuận tướng Níp Bàn có nghĩa là: nắm được tịch diệt, là hạnh
phúc tuyệt đối, bằng cách xác định an tịnh nơi các nhận thức bắt
đầu với tưởng dục lạc.
7. Tên gọi nàng là Vira, do chính nàng có tâm kiên cường có
nghĩa là: vì do cố gắng đầy kiên cường (viriya-padhanata), các
trạng thái chánh đạo chính là anh hùng (vira) và tỏa
sáng (teja); với các căn được tu luyện kỹ càng có nghĩa là: các
căn bắt đầu với đức tin trưởng thành.[27]Tỳ khưu Ni Vira mang
thân xác cuối cùng của nàng không còn phải tái sanh trong tương
lai nữa, sau khi đã chiến thắng đoàn quân Ma Vương tức là các
lậu hoặc[28] và đoàn quân của hắn qua việc chiến thắng các tham
dục của nàng. Nàng chỉ ra cho thấy chính nàng đã phải đương đầu
với một người khác.
8. Từ Mitta ở danh xưng cách. Hãy tu tập rèn luyện hoan hỷ với
bạn bè. (mitta-rata): có nghĩa là: hoàn toàn vui vẻ hân
hoan (abhirata) nơi bạn tốt (kalyata-mitta). Hãy trở nên người
luôn sống hoan hỷ vui vẻ bằng cách kính trọng và yêu mến. Tu
tập các pháp thiện có nghĩa là: tạo ra các pháp bát chánh đạo luôn
tiến triển. Cố gắng đạt đến an tịnh có nghĩa là: để đạt được điều
đó. Chứng quả A-la-hán và tịch diệt.
9. Từ Bhadra ở danh xưng cách. Hãy tu tập rèn luyện sống vui
hoan hỷ trong các pháp thiện (bhadra-rata): hãy trở thành người
luôn hoan hỷ (abhirata) và hân hoan nơi những pháp thiện tỏ ra
nơi phước nghiệp mình tu luyện được. v.v…cố gắng đạt được an
tịnh khỏi ách phược (yoga-kkhema-m-anuttaran) có nghĩa là, tịch
27[?]
Đức tin, tinh tấn, chánh niệm, thiền định, trí tuệ (Thanh Tịnh Đạo 129 [ PPf IV tr
45]).
28[?]
Phiền não Ma vương (Kilesa-mara). Đây là ma vương thứ hai trong số năm Ma vương
(Th-a III 49) bốn ma vương khác đó là ngũ uẩn ma (khandha), pháp hành ma
vuơng (abhisa?kharas), tư thần ma (maccu-) và chư thiên ma [có tên là] Ma
vương(devapputta-Mara). Để biết thêm chi tiết thảo luận, xin cũng đọc DPPN (sv.
Mara) và Th-a. 51 ad v. 177.
25
diệt toàn bộ, an tịnh hoàn toàn (khemar) thoát khỏi bốn ách
phược (catuhi yogehi). Hãy tu luyện [ba mươi bảy pháp thiện liên
kết với thất giác chi để có thể chứng đắc điều đó. Đây là ý nghĩa
muốn giải thích.
10. Từ Upasama ở danh xưng cách. Ngươi phải vượt qua bộc lưu
vô minh (ogha), vượt qua cõi chết (maccu-dheyya) là điều khó
lòng vượt qua nổi có ý nghĩa như sau: trong văn cảnh này cõi chết
có nghĩa là: tử thần (maccu) được chặn lại ngay tại đây; rất khó
lòng vượt qua (suduttaran) có nghĩa là: rất khó lòng vượt qua
nổi (sutthu-duttaran) nếu thiếu những điều thiết yếu trong việc
tích lũy những hành vi thiện. Ngươi phải vượt qua (tare) một đại
bộc lưu một cơn đại hồng thủy nơi vòng luân hồi (tareyyasi) bằng
chiếc thuyền chính là bát chánh đạo. Hãy mang thân cuối
cùng (dharehi antiman dehan) của bạn có nghĩa là: chính vì việc
vượt qua bộc lưu [có nghĩa là vòng tái sanh, vòng luân hồi] hãy
luôn mang theo thân cuối cùng của mình (antima-deha-
dhara). Đây chính là ý nghĩa muốn giải thích.
Đến đây kết thúc phần chú giải đoạn kệ về một trưởng lão vô
danh, Trưởng lão Ni Tissa v.v…
Đến đây cũng kết thúc luôn phần chú giải Tập kệ đầu tiên.
11. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI MUTTA KHÁC
Bài kệ bắt đầu với ta được giải thoát thật tài tình, được giải thoát
thích hợp đó là của Trưởng lão Ni Mutta. Cả nàng nữa, sau khi đã
tích lũy được những thiện nghiệp cần thiết dưới thời chư vị Phật
tiền kiếp và sau khi đã tích lũy được những phước nghiệp trong
nhiều kiếp sống khác nhau, nàng được sanh ra dưới thời Đức Phật
hiện tại, trong thành Kosala là con gái của một vị Bà la môn
nghèo có tên là Oghataka. Khi đến tuổi trưởng thành, cha mẹ
nàng tính gả nàng cho một vị Bà la môn gù lưng. Không thể chấp
nhận cuộc sống gia đình với chàng, nàng đã được phép chàng cho
xuất gia và tinh tấn tu luyện thiền quán.
Tâm trí nàng đi trật đường do những đối tượng bên ngoài. Thế
nên nàng đã kiềm chế bằng cách thốt lên chính bài kệ này. Ta đã
được giải thoát thật tài tình, được giải thoát thật thích hợp. Nàng
nhiệt tâm tu luyện thiền quán và chứng quả A-la-hán cùng với
bốn vô ngại giải.
Như có lời trong Thí Dụ Kinh nói rằng:
26
1. Vị Như Lai chiến thắng tên là Padumuttara, nhậân rõ mọi sự
vật trên đời, sau khi tỏ lòng đại bi với muôn chúng sanh, đã đi
thẳng vào thành khất thực.
2. Khi Đạo Sư tiến đến gần thành, toàn bộ cư dân trong thành,
hoan hỷ và hài lòng, đã tụ tập lại và trải cát trên đường cho bằng
phẳng sửa soạn cho những lễ hội lớn.
3. Họ đã thu quét đường sạch sẽ và trương cờ cùng biểu ngữ và
trồng rất nhiều cây chuối dọc đường. Vị đạo sư được kính lễ với
hương khói nhang thơm phức, với bột thơm cùng hoa quả đủ loại.
4. Người ta dựng lên một sảnh đường, vị lãnh đạo được mời, và
một cuộc bố thí lớn được tổ chức nhằm đạt đến giác ngộ toàn
diện.
5. Vị đại anh hùng Padumuttara, người hỗ trợ chúng sanh, hân
hoan [nơi những phước nghiệp họ đã thực hiện]. [thế rồi] con
người toàn hảo nhất liền tiên đoán:
6. “Sau một trăm ngàn đại kiếp, sẽ xuất hiện một đại kiếp cực
thiện, mọi chúng sanh sẽ được hạnh phúc, nàng sẽ chứng quả
giác ngộ.
7. “Đối với những ai thực hiện công việc chân tay thay nàng, kể
cả đàn ông lẫn phụ nữ, họ sẽ được chứng kiến tận mắt với nàng
cuộc sống mai hậu.
8. “Do vậy, khi các ngươi được tái sanh nơi cõi chư thiên, họ sẽ
trở thành những người hầu cho nhà ngươi do kết quả phước
nghiệp này và do lòng quyết tâm và mục tiêu ngươi đặt ra.”
9. Được hưởng vô số hạnh phúc thiên giới và vô số thọ mệnh
chúng sanh trong một thời gian dài. Chúng ta đã du hành trong
rất nhiều kiếp khác nhau.
10. Vì trong một trăm ngàn vòng luân hồi thiên giới ta đã sống
giữa thế nhân và trong thành chư thiên, trẻ trung tươi mát do
phước nghiệp ta đã thực hiện vào thời đó.
11.Ta có vẻ kiều diễm, tài sản, tiếng thơm trưòng thọ và tiếng tăm
lừng lẫy; hạnh phúc và thú vui dục lạc liên tục nơi những thọ
mệnh đó, nhờ chứng đắc phước nghiệp đó.
12.Khi ta tiến tới sanh mệnh cuối cùng này, ta tái sanh trong một
gia đình Bà la môn. Với chân tay thật tinh tế, trong một gia đình
hạnh phúc tuyệt vời.
27
13. Trong suốt thời gian đó ta không chứng kiến cảnh đời không
được trang hoàng lộng lẫy. Ta chẳng bao giờ phải chứng kiến
bùn đất bụi bẩn.
14-16. Ta đã thiêu rụi mọi lậu hoặc của mình, [xin đọc tr. 10]
… ta đã thực hiện những lời Phật dạy.
Hơn thế nữa, sau khi chứng quả A-la-hán nàng đã long trọng đọc
lên và thốt lên đoạn kệ này:
11.Ta được khéo giải thoát, được thoát khỏi một cách thích hợp
bằng cách thoát khỏi ba điều quanh co đó là: cối xay gạo, chày giã
gạo, và người chồng còng lưng. Hỡi này giải thoát ni! Ta thoát
khỏi cảnh sống và cảnh chết. Những thứ gì dẫn đến cảnh tái sanh
tương lai đều đã được diệt đến tận gốc rễ.
11. Ở đây, được khéo giải thoát (sumutta): được giải thoát rất tài
tình. (sutthu mutta). Được giải thoát một cách thích hợp có nghĩa
là: “Ta đã được giải thoát một cách tài tình, thiếu đều rất ngoạn
mục”. Giờ đây tại sao nàng lại nói [nàng được] giải thoát rất khéo,
được giải thoát thật tài tình? Bằng cách giải thoát khỏi ba điều
quanh co uẩn khúc (khujjehi) có nghĩa là: “Do ta được giải thoát
hoàn hảo bằng cách thoát khỏi ba điều uẩn khúc (vatkakehi)”. Đây
chính là ý nghĩa. Giờ đây để chỉ rõ hình thức ba điều này nàng nói
đó là: cối xay gạo, chày giã gạo và người chồng còng lưng của
nàng. vì người ta nói rằng khi lúa được đổ vào cối xay, được trộn
lên, và được nghiền ra bằng chiếc chày thì chính lưng (pitthi) phải
còng xuống (onametabba). Vì đây là nguyên nhân khiến cho lưng
phải còng xuống (khujja-karata-hetutaya), cả hai vật đó [có nghĩa
là cả cối và chày] được coi như khiến người ta phải “còng lưng
xuống” (khujjan). Còn đối với chồng nàng, quả nhiên chàng đã phải
còng lưng (khujjo). Thế rồi nàng nói “….được giải thoát khỏi ba
điều uẩn khúc” để có thể cho thấy điều gì đã giải thoát? Để chỉ rõ
chính điều đó, nàng nói: Ta được giải thoát khỏi cảnh sống và cảnh
chết, nàng nói tới lý do dẫn đến cái sống và cái chết: là điều dẫn
đến hiện hữu mới đã được loại bỏ. Ý nghĩa điều này chính là:
không những ta được giải thoát khỏi ba điều uẩn khúc. Nhưng còn
được giải thoát khỏi toàn bộ sanh và tử nữa, thèm khát, chính là
lãnh chúa và người hướng dẫn tới mọi hiện hữu liên tục. Đã bị ta
triệt phá hoàn toàn thông qua chánh đạo tuyệt hảo.
Đến đây kết thúc chú giải bài kệ do Truởng lão Ni Mutta thốt lên.
28
12. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI DHAMMADINNA
Chúng ta phải nhiệt tình và quyết tâm chính là bài kệ của
Dhammadinna. Nàng có cuộc sống phụ thuộc vào gia đình giống
như biết bao nhiêu phụ nữ khác trong thành Hatsavita dưới thời
Đức Phật Padumuttara. Thoạt tiên nàng kính trọng và tôn kính
một người đồ đệ chính ( Sujata) khi ngài xuất khởi tình trạng diệt,
rồi dâng cúng cho ngài một vật thí. Và nàng được tái sanh nơi
cõi chư thiên. Sau khi chết tại đó nàng đã du hành khắp nơi cùng
với chúng sanh và chư thiên. Dưới thời Đức Phật Phussa nàng đã
thực hiện một phước nghiệp vĩ đại bằng của bố thí được thực
hiện khi nàng còn sống trong gia đình, người phụ tá cho người
anh rể đạo sư. Được chồng báo cho biết là phải thực hiện một bố
thí nàng đã thực hiện một lúc đến hai của thí.
Dưới thời Đức Phật Kassapa, nàng đã sanh trong một gia đình
người Kiki là vua cai trị thần dân Kasi tại thành Benares. Là một
trong số bảy người chị em. Nàng luôn chu tất việc tu luyện công
đức trong vòng hai mươi ngàn năm. Trong vòng một Thời đức
Phật giữa hai vị Phật, nàng đã chu du tái sanh khắp cõi chư thiên
và chúng sanh.
Trong Thời đức Phật hiện tại, nàng lại sanh ra trong nhà một gia
đình tốt trong thành Rajagaha. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng
được gả làm dâu trong gia đình một thương gia giàu có tên là
Visakha [làm vợ ông ta]. Thế rồi một ngày nọ, người thương gia
giàu có Visakha đến gặp vị Đạo Sư, và sau khi lắng nghe giáo
pháp của Ngài và chứng thánh quả bất lai, chàng quay trở về nhà
và leo lên mái nhà trong lúc Dhammadinna đang đứng trên đỉnh
cầu thang. Nhưng chàng đã không nắm lấy cánh tay nàng đang
giang ra. Hơn thế nữa, sau khi đã lên nóc nhà, đang lúc ăn cơm.
Chàng đã ăn trong yên lặng.
Nhìn thấy sự việc này, Dhammadinna nói với chàng, “Anh Yêu,
tại sao hôm nay chàng không tựa vào cánh tay của em? và ngay
cả lúc đang ăn chàng chẳng nói một lời nào thế, phải chăng là lỗi
ở em?”
Visakha đáp lại, “Chẳng phải lỗi ở nơi em đâu, hỡi
Dhammadinna. Nhưng bắt đầu từ ngày hôm nay, đụng tới một
người phụ nữ và thèm khát vật thực thì không xứng với ta. Đó
chính là giáo lý ta đã thực chứng được. Nhưng nếu nàng muốn
29
xin lưu lại trong nhà này, nếu như nàng không muốn như vậy, xin
cứ lấy bao nhiêu tài sản tùy ý nàng muốn, và trở về gia đình
nàng.”
“Anh yêu quí của em.” [nàng đáp lại] “Em sẽ chẳng nuốt những gì
anh đã nhổ ra đâu. Xin cho phép em cũng được xuất gia”.
Visakha nói, “tốt lắm, hỡi Dhammadinna”. Và rồi chàng đã gửi
nàng tới nơi cư trú của các Tỳ khưu Ni trên một chiếc kiệu bằng
vàng.
Nàng đã xuất gia và chọn đề mục thiền, sau khi đã sống tại đó
được ít ngày, lại muốn sống đời ẩn sĩ, cách ly [29]. Nàng đã chạy lại
gặp Trưởng lão và sư phụ của mình nói rằng: “Bạch Trưởng lão
Ni, con không hoan hỷ tại một nơi có nhiều người sống ồn ào,
con sẽ đến sống ở một nơi cư trú trong làng.”
Chư vị Tỳ khưu Ni dẫn nàng đến một nơi cư trú trong một ngôi
làng nọ. Trong lúc cư ngụ tại ngôi làng đó, do những thiện nghiệp
nàng đã thực hiện được trong quá khứ nàng chứng thánh quả A-la-
hán với tứ vô ngại giải chỉ sau một thời gian rất ngắn.
Như có lời nói trong thí dụ kinh mà rằng:
1. Padumuttara, là vị cứu tinh, người đã vượt tới bến bờ bên
kia, vị lãnh tụ đã tái sanh nơi thập vạn thế giới.
2. Vào thời đó, ta đang cư trú trong một gia đình tốt trong
thành Hansavati, ta đã là một đầy tớ nhiệt thành, kiềm chế để tích
lũy nhiều phước đức.
3. Sujata là đồ đệ chính của Đức Phật Padumuttara đã ra khỏi
nơi cư trú của mình trên đường đi khất thực.
4. Ta đã lấy một bình đựng nước và đi theo ngài, vào thời điểm
đó với tư cách là người lấy nước, ta đã nhìn thấy người và tự tay
ta đã cúng dường cho ngài một chiếc bánh, với tâm hoàn toàn
hướng về ngài.
5. Sau khi đã nhận của thí đó, ngài ngồi xuống ngay tại nơi đó,
và ăn chiếc bánh. Rồi ta đã thỉnh ngài về nhà mình và cúng
dường cho ngài thêm nhiều vật thực nữa.
29[?]
Xin đọc phiên bản trong Mp I 362 (bản dịch của Bode, WL 564): “bấy giờ sau khi nàng
đã gia nhập Tăng đoàn, nàng suy nghĩ trong lòng: “quả thật kho báu này, cho dù chàng
vẫn là một người trần tục đã đánh dấu chấm hết cho những rắc rối của chàng; nhưng nỗi
sầu khổ của ta vẫn tồn tại, vì ta đã gia nhập tăng đoàn. Ta phải thực hiện điều gì đó để
kết thúc điều sầu khổ đó.”
30
6. Sau đó, do hài lòng vì ta đã làm như vậy, ông chủ đã chọn ta
làm con dâu của ngài, ta cùng với người mẹ chồng ta đã lên
đường đến gặp Đấng Toàn Giác ngộ.
7. Thế rồi, hết lòng khen ngợi nàng, ngài đồng ý để ta là trở
thành một trong số những Trưởng lão Ni tuyệt hảo nhất, đã
thuyết giáo pháp của ngài, sau khi nghe điều đó ta hoàn toàn tràn
ngập sung sướng.
8. Ta đã mời vị tối thượng, vị lãnh đạo cõi thế gian này, cùng
với tăng đoàn và tổ chức một cuộc bố thí lớn. Ta đã thỉnh bậc
Đạo Sư tối thượng đến nơi đó].
9. Thế rồi Đức Thế Tôn cùng ta nói, tiếng của ngài phát ra dịu
dàng. “ôi nhà ngươi đã hoan hỷ bố thí cúng dường nhà ngươi trở
thành người phục dịch ta và cho cả Tăng Đoàn.
10. “Ngươi là kẻ chăm chú lắng nghe Pháp Chân Đế. Ôi ngươi
đã phát tâm truởng thành liên quan đến điều chính trực – hãy
cảm nhận lấy hỷ lạc. Ôi phụ nữ quí phái, nhà ngươi sẽ chứng quả
mình thường ấp ủ.
11. Trong cõi luân hồi suốt một trăm ngàn kiếp trở lại đây, có
một vị Đạo sư sẽ được tái sanh nơi cõi đời này và ngài được đặt
tên là Đức Phật thuộc dòng họ Cồ Đàm, là hậu duệ của bộ tộc
Okkaka.
12. Vào thời đó lại có vị đồ đệ của Đạo sư tên là Dhammadinna
chính là kẻ thừa kế giáo pháp, là hậu duệ hợp giáo pháp Ngài.”
13.Ngay sau khi nghe điều này, lòng ta tràn ngập hoan hỷ, và
suốt đời ta phục vụ vị Thống Lãnh, là vị Đại Trí, với những đồ
thiết yếu với tâm tràn ngập nhân ái kính thương.
14. Do kết quả nghiệp phước đó và với lòng quyết tâm cùng mục
tiêu sát đáng. Ta từ bỏ thân xác phàm tục này, ta tái sanh tại cõi
Trời Đâu Xuất.
15.Trong kỷ nguyên đầy thiện nghiệp này, người con Phạm Thiên
với danh tiếng lẫy lừng có tên là Kassapa, là người có tài biện sử
cao nhất đã tái sanh.
16. Vào thời đó người nô tỳ của vị đại trí lại chính là vị vua tên là
Kiki. Là vua trị vì thần dân họ Kasi trong một thành thị lớn tên là
Baranasi.
17.Ta là con gái thứ sáu của đức vua, tên là Sudhamma, danh
tiếng lẫy lừng một thời. Sau khi nghe giáo pháp của vị Chiến
Thắng lẫy lừng nhất. Ta có ý định mạnh mẽ thực hiện xuất gia.
31
18.–19. Vào thời đó ta không nhận được phép cha cho xuất gia.
Chính vì thế chúng ta gồm bảy cô con gái lớn lên trong nhung lụa
và trở thành công chúa. Và chúng ta theo đuổi cuộc sống giới đức
không mệt mỏi. Giống như trinh nữ trong vòng suốt hai mươi
ngàn năm dài tại gia. Hân hoan phục dịch Đức Phật trong lòng
đầy hoan hỉ.
20. Chúng ta có đủ bảy người Samani, Samanagutta. Bhikkhuni,
Bhikkhudayika. Dhamma. Sudhamma, và người thứ bảy tên là
Sanghadayika.
21.[Hiện nay chúng ta có tên là] Khema, Uppalavanna,
Patacara, Kattala, Gotami, ta là [dhammadinna] và người thứ
bảy là Visakha.
22.Do kết quả những nghiệp chướng đó và lòng quyết tâm và mục
tiêu sẵn có. Khi ta từ bỏ thân người phàm này, ta tái sanh tại cõi
Trời Đâu Xuất.
23. Giờ đây nơi cảnh cuối cùng, ta được tái sanh trong một thành
phố huy hoàng vĩ đại tên là Ghiribbaja (Rajagaha) trong một gia
đình vị thương gia giàu có. Đầy triển vọng vây quanh với biết bao
thú vui tham dục.
24.Thế rồi, được phú cho vẻ kiều diễm, được an trú nơi hương
giới tuổi xuân. Ta tới một gia đình khác làm con dâu, và ta đã
sống trong gia đình đó đầy hạnh phúc.
25. Đức lang quân của ta đi đến qui y Phật. Sau khi lắng nghe
bài kinh đầu tiên, chàng thấu hiểu toàn bộ bài kinh rồi chứng
thánh quả Bất Lai.
26. Thế rồi ta cũng được phép xuất gia tham gia đời sống ẩn dật.
Và chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Vào đúng thời gian qui
định, ta chứng thánh quả A-la-hán.
27.Thế rồi người đạo hữu thế tục đến gặp ta và đặt câu hỏi thâm
tình và dịu dàng hiếm có. Ta đã trả lời không thiếu một câu.
28.– 29. Vị Chiến Thắng rất hài lòng với phẩm chất đó và an trú ta
làm Tỳ khưu Ni tuyệt vời thực hiện kinh cho đời rất hoàn hảo. Ngài
nói rằng, “Chính vì thế ta tỏ rõ khôn ngoan. Ta không thấy bất kỳ
ai sánh kịp Dhammadinna nơi kiến thức tín lý; hãy nhớ kỹ điều này,
hỡi Tỳ khưu Ni, chính vì vậy ta được gọi là đại trí, được vị Đạo sư
yêu mến.
32
30. Ta đã phục dịch cẩn thận vị Đạo sư, ta đã thực hiện giáo lý vị
Như Lai. ta đã loại bỏ ách nặng nề. Tất cả những gì dẫn đến tái
sanh hiện hữu đã bị loại bỏ đến tận gốc.
31.Mục tiêu nhờ đó một người quyết xuất gia sống đời ẩn sĩ, ta đã
chứng mục tiêu này vậy- vậy toàn bộ ách phược ta đã triệt hạ
được hết.
32.Ta đã chế ngự sức mạnh siêu thế, bằng sử dụng thiên nhĩ lắng
nghe. Ta đọc được suy nghĩ của tha nhân ta luôn tuân theo lời
dạy của Đạo sư vậy.
33.Ta biết rõ tiền kiếp sống của ta, thiên nhãn ta được thanh tịnh
kỹ càng. Sau khi đã triệt phá hết mọi vết nhơ. Ta trở thành thanh
tịnh, hoàn toàn thoát mọi nhơ bẩn.
34 – 36. Ta đã thiêu rụi mọi lậu hoặc của mình, [xin đọc tr. 10]
… ta đã thực hiện những lời Phật dạy.
Sau khi đã chứng quả A-la-hán, nàng suy nghĩ, “Tâm trí ta đã
chứng đắc tột đỉnh. Giờ đây điều gì ta sẽ phải hoàn thành khi
sống tại đây? Ta sẽ đi đến Rajagaha để kính lễ vị Đạo sư và nhiều
người họ hàng của ta sẽ thực hiện nhiều phước nghiệp do sự hiện
diện của ta tại đó.” Thế rồi nàng trở lại Rajagaha kèm theo là số
đông chư vị Tỳ khưu Ni.
Visakha nghe biết nàng trở lại thành Rajagaha. Để tìm xem mức độ
chứng đắc[30] của nàng đến mức độ nào, chàng hỏi nàng một câu hỏi
liên quan đến ngũ uẩn v.v… Dhammadinna trả lời bất kỳ câu hỏi
nào chàng đưa ra như thể một người cắt thân cây sen với một con
dao thật bén[31]. Visakha đã thuật lại cho vị Đạo Sư toàn bộ những
30[?]
Xin đọc Mp I 362 (WL 564): Visakha, vừa nghe thấy nàng quay trở về liền suy nghĩ:
“Chẳng bao lâu sau nàng sẽ quay trở về! Liệu phải chăng nàng đã chán nản cuộc sống tu
trì chăng?” chính vì thế vào buổi chiều hôm đó. Chàng đến gặp nàng và xá phục trước
mặt nàng, ngồi sang một bên. Và nghĩ rằng: “Hình như đối với ta hỏi nàng điều này xem
ra không phải lẽ phải chăng nàng đã chán ngấy cuộc đời tu trì chăng” chàng bắt đầu
bằng cách hỏi nàng về một câu hỏi về ngũ uẩn hay các đại cấu thành sự vật” Bài tường
thuật trong Dhp-a cũng giống như ấn bản này.
31[?]
Mp (WL 565) “Và người đồ đệ nhận ra tuệ giác của Tỳ khưu ni Dhammadinna tuyệt
diệu biết nhường nào và khi chàng đặt câu hỏi với nàng, trong bất kỳ lãnh vực nào, về
ba chánh đạo, rồi tới chánh đạo chính chàng đã chứng đắc chàng hỏi nàng, ngay cả
giống như một người học thức uyên bác, về chánh đạo dẫn đến quả A-la-hán. Thế rồi
đến lượt Dhammadinna cũng nhận ra người đồ đệ cũng đã chứng quả đệ tam thánh đạo
và nghĩ rằng, “ Liệu giờ đây chàng có bước qua chính tình trạng của mình và tiến bước
xa hơn chăng, nàng giữ chàng lại nói rằng, “hỡi người anh em Visakha nhà ngươi sẽ
không hiểu được những câu hỏi vượt quá tầm hiểu biết của nhà ngươi – ngay cả vấn đề
như Níp bàn, hỡi người anh em Visakha. Những bổn phận trong cuộc đời tu trì, hạnh
phúc cuối cùng nơi Níp bàn, và những gì kết có hậu là níp bàn….” theo tập Trung Bộ Kinh
(M) I 304 (MLS I 367, MLDB 403) một câu hỏi đi quá xa đó là, điều gì tương đồng với
Níp bàn?”
33
câu hỏi và câu trả lời của nàng, và vị Đạo Sư hết lời khen ngợi
nàng, bắt đầu nói rằng, “Hỡi Visakha thân mến, quả thật
Dhammadinna là con người khôn ngoan tột đỉnh v.v..” sử dụng
chính kiến thức toàn tri của nàng, chàng đã hiểu ra toàn bộ những
câu trả lời đó, chàng đưa ra kinh Culavedalla và chàng đã xếp nàng
vào địa vị tột đỉnh trong số chư vị Tỳ khưu Ni thuyết giảng Giáo
pháp. Nhưng khi nàng còn đang lưu lại nơi cư trú trong ngôi làng
đó, sau khi đã chứng thánh đạo thấp nhất, nàng đã an trú thiền quán
để có thể chứng thánh đạo tột đỉnh. Vào thời điểm đó nàng thốt lên
bài kệ này:
12. Ai trong chúng ta cũng nên nhiệt tâm, quả quyết và có tâm
sanh khởi toả rộng, ai trong chúng ta không bị trói buộc bằng các
dục vọng chi phối được gọi là “kẻ chứng quả Nhập Lưu.”
12. Trong đó, nhiệt tâm, (chanda-jata) có nghĩa là đầy ước muốn
(jata-cchanda) chứng quả tột đỉnh [có nghĩa là quả A-la-hán ] kiên
quyết (avasayi) có nghĩa là được gọi là kẻ đã đi đến cùng đích
(avasayo), đến kết thúc đến đích (avasanan), là cùng đích sự việc
(nitthanan). Sự thể người nào được gọi là người không dính dấp
đến những dục vọng ác ý, và sự thể người nào được gọi là người
chứng quả Nhập Lưu tất cả mọi người chúng ta đều hiểu là họ đã
chứng cùng tận bổn phận của một vị ẩn sĩ. Chính vì thế cả hai
phần của câu này, ý nghĩa được nói ra ở đây cho là nàng chưa đạt
đến tâm toàn hảo và nàng vẫn còn tìm kiếm sự nghỉ ngơi vô song
nơi dục vọng. Và người nào vẫn còn phải có tâm sanh khỏi toả
rộng. (phuta với tâm có nghĩa là chúng ta nên có tâm toả
rộng(bhaveyya) giống như giọt mưa với suy tư về ba chánh đạo
bậc thấp về tịch tịnh. Người nào có tâm không dính dáng
đến (appatibaddha-citta) cảm khoái dục lạc có nghĩa là người nào
có tâm không dính dáng đến (na patibaddha-citta) cảm khoái dục
lạc qua việc chứng đắc thánh quả Bất Lai. Người nào chứng quả
Nhập Lưu (uddharsota) có nghĩa là: kẻ đó tham gia nhập lưu
thánh đạo (uddhat eva magga-soto) và ngược dòng hiện hữu nơi
vòng luân hồi liên tục (samsara-soto), quả thật nàng là kẻ đã
chứng quả nhập lưu. Vì giống như một vị Bất Lai chứng thánh
quả tột đỉnh và không còn gì khác nữa. Theo cùng cách như vậy,
người nào tái sanh nơi cõi Phạm Thiên Aviha, v.v… thì tái đầu
thai chỉ đơn giản là chứng qủa Akanittha [cõi phạm thiên] vậy.)
Đến đây kết thúc bài kệ Trưởng lão Ni Dhammadinna.
34
13. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI VISAKHA.
Hãy thực hiện đúng lời Đức Phật chính là bài kệ của Trưởng lão
Ni Visakha. Chuyện kể về nàng cũng tương tự như chuyện kể của
Trưởng lão Ni Dhira. Sau khi chứng quả A-la-hán nàng đã trải
qua thời gian trong hạnh phúc giải thoát và làm rõ kiến thức toàn
hảo của nàng với bài kệ sau:
13.Hãy thực thi lời Đức Phật dạy. Sau khi đã thực hiện lời ngài
chúng ta sẽ không phải hối tiếc.Hãy rửa chân nhanh lên và ngồi
sang một bên.
13. Ở đây. Hãy thực hiện lời Phật dạy có nghĩa là: hãy thực
hiện lời Phật dạy, cả lời khuyên và huấn dụ của ngài. Ý nghĩa ở
đây là hãy thâm nhập vào lời Phật dạy theo những gì ngài đã
dạy cho. Hãy thực hiện lời đó, thì chúng ta sẽ không phải hối
hận có nghĩa là: sau khi đã thực hiện lời huấn dụ chúng ta sẽ
không còn phải đau khổ do kết quả đã thực hiện điều đó. Người
nào thực hiện thành công lời Phật dạy thông qua ý định thích
hợp. Hãy mau rửa chân (padani) và ngồi sang một bên có nghĩa
là: ở đây vì chính nàng sau khi đã quay trở về từ cuộc khất thực,
sau khi đã dùng bữa. Sau khi đã tỏ lòng tri ân thích đáng với
Đạo sư của nàng và sư phụ, sau khi đã rửa chân, trong căn
phòng ban ngày, nàng ngồi sang một bên và biến đề mục riêng
của nàng đến tột đỉnh. Chính vì thế nàng nói. Thúc đẩy người
khác nữa.
Phần chú giải bài kệ của Trưởng lão Ni Visakha kết thúc tại
đây.
14. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI SUMANA
Sau khi chiêm ngưỡng tứ đại với tầm nhìn đau khổ là bài kệ do
Sumana thốt lên. Chuyện kể của nàng cũng giống như câu chuyện
của Trưởng lão Ni Tissa. Đối với nàng Đức Phật đã phóng hào
quang và hiện ra với nàng như thể Ngài ngồi trước mặt nàng và
đoạn kệ này được thốt lên như sau:
14.Sau khi thấy tứ đại dưới cái nhìn đau khổ. Xin đừng đi trở lại con
đường tái sanh. Hãy từ bỏ xả ly con đường hữu sanh, sống cuộc
sống hành trì, nhà ngươi sẽ được mát lạnh và an tịnh
Vào cuối bài kệ nàng chứng thánh quả A-la-hán.
35
15. Giờ đây, Sau khi thấy các đại dưới cái nhìn đau khổ có
nghĩa là: nhìn với con mắt hiểu biết các đại như con mắt v.v…
(cakkhaddhatuyo) đã tạo thành chính dòng hữu phần của chúng
ta, và các đại khác nữa như đau khổ vì do áp lực sanh diệt nổi lên
v.v…xin đừng trở lại con đường tái sanh nữa,
16. Có nghĩa là: xin đừng sanh trở lại, đừng quay trở lại hiện
hữu trong tương lai. Hãy từ bỏ xả ly ước muốn hiện hữu có nghĩa
là: từ bỏ nhờ vào chánh đạo được gọi là thiếu vắng đam mê dục
vọng. Ước muốn và dục vọng rồi tham lam thèm khát (tanha-
chandar) trước mọi hiện hữu bắt đầu với hiện hữu bị dục lạc
khống chế thì ngươi sẽ được mát lạnh và an tịnh trong lòng, có
nghĩa là ngươi sẽ sống, tịch diệt được thông qua tịch diệt tận gốc
mọi lậu hoặc.
Và ở đây, sau khi đã ngắm nhìn các giới (đại) như là đau khổ có
nghĩa là: tuệ giác chỉ rõ bằng tri thức về đau khổ này. Hãy từ bỏ
xả ly có nghĩa là: các đại đã bị triệt tiêu với kết quả trong quá khứ
dính bén vẫn còn tồn tại. Xin đừng quay trở lại với sanh nữa có
nghĩa là: đại tịch diệt mà không đem lại kết quả của các dính bén
quá khứ vẫn còn được thấy. Đây là cách ta nên hiểu ở đây.
Đến đây kết thúc phần chú giải bài kệ của Sumana.
15. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI UTTARA
Ta đã kiềm chế thân là bài kệ của ngài Trưởng lão Ni Uttara.
Chuyện kể về nàng cũng giống như câu chuyện về Tissa [kệ 4].
Vì chính nàng cũng là một thành viên trong dòng họ Thích Ca và
là tình nhân trong hậu cung của vị Bồ Tát. Sau khi đã xuất gia
cùng với Maha-Pajapati Gotami, sau khi đã chứng quả A-la-hán
qua đoạn kệ phát quang, nàng đã đọc lên bài kệ này như là lời
nguyện long trọng của nàng:
17.Ta đã chế ngự thân, khẩu và ý. Ta đã nhổ tận gốc tham dục và
toàn bộ những gì khác khiến ta sống mát lạnh và an tịnh.
15. Ở đây, ta đã chế ngự thân có nghĩa là: ta đã thực hiện chế
ngự qua việc kiềm chế liên quan đến thân, lời nói hay miệng có
nghĩa là: ta đã kiềm chế được những gì có liên quan đến lời nói.
Bằng cách liên kết hai từ này lại với nhau [có nghĩa là thân và
miệng] nàng nói rằng có kiềm chế thông qua phước
hạnh. Và (uda) có nghĩa là: và (atha). Tâm trí có nghĩa là: nàng
bảo rằng [nàng kiềm chế] bằng cách tu luyện thiền quán thông
36
qua nhập thiền. Ta đã nhổ bỏ tận gốc rễ tham dục và toàn bộ
nhưng có nghĩa là: sau khi đã nhổ sạch những khuynh hướng tiềm
ẩn cùng với tham dục hay vô minh, vì tham dục nổi lên dưới ba
dạng hiện hữu những nguy hiểm của nó được che đậy dưới vỏ vô
minh. Một ý nghĩa khác của kiềm chế thân đó là: “Ta kiềm chế
thân qua kiềm chế bằng chánh đạo, qua từ bỏ hạnh bất thiện cùng
với hạnh thiện” miệng có nghĩa là: “ta sẽ kiềm chế miệng tức là
lời nói bằng cách thu thúc chánh đạo. Thông qua từ bỏ vọng ngôn
cùng với cách tu luyện chánh ngôn”. Đây chính là ý nghĩa muốn
nói tới ở đây. Tâm trí có nghĩa là: [kiềm chế] thông qua nhập
thiền vì ở đây hành thiền được cho là dưới phạm trù tâm trí. Ý
nghĩa này được gom lại với chánh định đó chính là đặc điểm của
bát chánh đạo. Các thành tố chánh đạo như chánh kiến, v.v…lại
là đặc tính của cá nhân [về chánh đạo] cũng được gộp lại ở đây.
Điều này được chứng tỏ là từ bỏ hoàn toàn kiềm chế và thèm khát
v.v… thông qua kiềm chế chánh đạo. Chính vì thế nàng nói rằng.
“Ta đã tịch diệt tận gốc thèm khát và toàn bộ những gì khác.
[ta] đã trở nên mát lạnh (sitibhutamhi), tịch diệt có nghĩa là: “ta
đã đoạn tuyệt được hoàn toàn do thiếu vắng sân do các lậu hoặc
đem lại. Sau khi đã chứng mát lạnh (siti-ppatta) nơi đại được tịch
diệt không còn điều gì dính dáng đến lậu hoặc nữa.
Đến đây kết thúc phần chú giải về bài kệ của Trưởng lão Ni
Uttara.
16. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI SUMANA LÀ
NGƯỜI XUẤT GIA VÀO LÚC TUỔI GIÀ
Hỡi này trưởng lão ni kia hãy nằm nghỉ trong an lạc là bài kệ của
Trưởng lão Ni Sumana, là người đã xuất gia khi tuổi đã cao. Bà
cũng vậy, sau khi đã tích lũy được những phẩm hạnh giới đức cần
thiết dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và sau khi đã tích lũy được
những phước nghiệp trong nhiều kiếp trước, nàng được sanh
trong Thời đức Phật hiện tại,trong thành Savatthi làm chị của nhà
vua Mahakosala (Là cha của Vua Pasenadi).
Sau khi đã nghe vị Đạo Sư thuyết bài pháp về học giới bắt đầu
với “Có bốn chúng sanh trẻ tuổi, ôi nhà vua, không nên coi
thường, v.v…” đối với nhà vua Pasenadi Kosala, nàng chứng đắc
niềm tin và thọ Tam Quy và ngũ giới. Nhưng cho dù nàng có
muốn xuất gia, nàng phải đợi một thời gian rất lâu, nói rằng, “Ta
37
còn phải chăm sóc bà nội già cả.” Sau đó, bà nội của nàng qua
đời. Cùng với nhà vua, nàng đã tới một thiền viện dành cho các
Tỳ khưu Ni và có được một tấm thảm rất quí mang theo với nhiều
quần áo quí. Họ ra lệnh cho bà phải trao lại cho Tăng đoàn. Nàng
lắng nghe tín lý trước sự hiện diện của vị Đạo sư, và được an tịnh
nơi Thánh quả bất lai, và xin được xuất gia, vị Đạo sư, nhìn thấy
kiến thức của bà đã trưởng thành, nói đoạn kệ như sau:
18.Hỡi trưởng lão ni kia, hãy an lạc nằm nghỉ. Che phủ mình trong
tấm y quí giá. Do chính mình may lấy. Lòng tham ngươi đã an
tịnh. Nhà nguơi đã mát lạnh tịch tịnh.
Khi kết thúc bài kệ nàng chứng quả A-la-hán cùng với bốn thấu
triệt và như lời tuyên bố long trọng của nàng, nàng đã nói lên bài
kệ này. Đây chính là lời tuyên bố chánh trí của nàng, nàng đã
xuất gia ngay sau đó.
16. Bấy giờ trong bài kệ này, lão ni kia (vutthike) có nghĩa là: một
bà già (vutthe), cao tuổi (vayo-vutthe). Nhưng cũng kỳ cựu về
phẩm chất thiện nơi phẩm hạnh thiện, v.v… trong câu thứ tư của
bài kệ do Trưởng lão Ni nói, ý nghĩa như là nhà ngươi đã trở
thành mát lạnh. Triệt hạ được (siti-bhutasi nibbhuta ti) [xin đọc
phần chú giải bài kệ v. 15 để biết thêm siti-bhutamhi nibbuta ti] ý
nghĩa những gì còn lại đã được giải thích
Đến đây kết thúc bài kệ của Trưởng lão Ni Sumana, người xuất
gia trong lúc tuổi đã cao.
17. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI DHAMMA
Sau khi du hành khất thực xong là bài kệ của Dhamma. Cả nàng
cũng vậy đã thực hiện được biết bao nhiêu phước nghiệp dưới
thời Đức Phật hiện tại; trước đó nàng đã tích lũy được nhiều hạnh
thiện trong nhiều kiếp khác nhau làm căn để chứng giải thoát.
Nhờ tích lũy cả một kho tàng công đức to lớn, nàng được sanh ra
dưới Thời đức Phật hiện tại trong một gia đình tốt lành trong
thành Savatthi. Khi đến tuổi trưởng thành nàng được gả làm vợ
cho một người chồng xứng đôi vừa lứa. Nàng hết lòng đặt niềm
tin nơi giáo lý của Đức Phật và ước ao xuất gia. Chồng nàng
không đồng ý cho nàng thực hiện ý định đó. Sau đó chồng nàng
đã qua đời, và nàng đã xuất gia. Nàng chú tâm thiền quán. Một
ngày kia, sau khi thực hiện chuyến du hành khất thực trên đường
về nơi trú xứ của mình, nàng đã mất thăng bằng trên đường đi và
38
bị té, nàng đã lấy sự kiện đó làm đề mục thiền cho chính mình,
càng ngày nàng càng tiến sâu trong hành thiền quán và chứng
thánh quả A-la-hán cùng với tứ biện minh. Nàng đã đọc lên bài kệ
này như là một lời tuyên bố long trọng như sau:
19. Sau chuyến du hành khất thực, sức yếu tựa thân mình trên chiếc
gậy, Chân tay run rẩy, ta té sóng soài ngay trên chính điểm đó.
Nhận ra những yếu ớt nơi thân xác, thế rồi tâm trí ta được giải
thoát hoàn toàn.
17. Ở đây, ta đã du hành khất thực, cả thân mình tựa trên chiếc
gậy, yếu sức có nghĩa là: với chiếc gậy trong tay nàng rảo bước
khất thực khắp nơi trong thành. té sóng soài trên mặt đất (chama)
có nghĩa là té xuống đất (chamayan); trên mặt đất; ý nghĩa ở đây
là: “ta té xuống đất vì không thể kiểm soát được đôi chân của
mình nữa.” Nhận ra mối nguy hiểm nơi thể xác có nghĩa là: với
con mắt tuệ giác sau khi đã nhận ra những thiếu xót nơi thể xác
do nhiều hình dạng khác nhau, bắt đầu với tính chất xấu xí, vô
thường, đau khổ và vô ngã. Thế rồi tâm trí ta hoàn toàn được giải
thoát, được tự do, được hoàn toàn giải thoát khỏi những lậu hoặc
bằng cách nhận ra mối nguy hiểm và quán chiếu tỉnh giác…và
qua triệt phá. và lại nữa thông qua thánh đạo và thánh quả, điều
này nối tiếp điều kia, thông qua cắt bỏ toàn bộ và an tịnh. Giờ đây
chẳng còn điều gì cần phải được loại bỏ nữa và đây chính là lời
tuyên bố kiến thức toàn hảo của nàng.
Đến đây kết thúc phần chú giải về bài kệ của Trưởng lão Ni
Dhamma.
18. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI SANGHA
Từ bỏ gia đình, ta xuất gia là bài kệ của Trưởng lão Ni Sangha.
Chuyện kể về nàng giống như chuyện kể về Trưởng lão Ni Dhira
[bài kệ 7]. Nhưng đây chính là bài kệ nàng đã thốt lên:
20.Từ bỏ gia đình, ta đã xuất gia, từ bỏ con trai, tài vật và bất luận
điều gì quí giá, ta từ bỏ cả ước muốn và sân hận, tịch diệt và vô
minh, ta sống hạnh viễn ly sau khi đã kiềm chế tận gốc rễ thói
tham lam ta được sống mát lạnh và tịch tịnh.
18. Ở đây, từ bỏ có nghĩa là: sau khi đã loại bỏ. Nhà cửa (ghare)
có nghĩa là: công việc gia đình (gehar). Đối với từ căn nhà, cho dù
là một từ số ít, đôi khi được dùng ở số nhiều trong cách sử dụng
phổ biến, giống như từ “hạt giống”. Từ bỏ con cái (puttan), đoàn
39
vật và bất kỳ điều gì ta hằng yêu mến có nghĩa là: qua từ bỏ ý định
ước muốn và tham dục liên quan đến những thứ này, nàng từ bỏ
tất cả những gì nàng thường yêu mến. Mấy cậu con trai của nàng
(putte) và đoàn vật, trâu và bò, v.v…từ bỏ cả những ước muốn và
sân hận có nghĩa là: qua thánh đạo nàng từ bỏ cả ước muốn, mang
tính chất say đắm. Qua chính đạo nàng từ bỏ được sân hận, là điều
mang bản chất bất thiện. Và loại bỏ được cả vô minh, có nghĩa là
sau khi đã trở nên bình thản, thản nhiên, qua thánh đạo nàng từ bỏ
sân si, được coi như là người tiên phong cho mọi điều bất thiện. Ta
cũng nên hiểu như vậy. Ý nghĩa điều còn lại đã được giải thích rõ.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Sangha.
Đến đây cũng kết thúc phần chú giải về Tập Nhất Kệ
2.1. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI ABHIRUPA
NANDA
Trong tập hai kệ bắt đầu với [Hỡi Nanda, hãy nhìn lại thân
xác] bệnh hoạn, bất tịnh, và đầy thối nát hôi hám, là bài kệ của học
giới Abhirupa Nanda. Người ta nói rằng nàng là con gái của một
gia đình giàu có trong thành Bandhumati dưới thời Đức Phật
Vipassi. Nàng đã nghe giáo pháp từ phía Đạo Sư và luôn vững
vàng nơi phẩm hạnh công đức, Quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới.
Sau khi vị Đạo Sư Vô Dư Níp Bàn, nàng đã cúng dường một chiếc
dù làm bằng vàng có trang điểm ngọc quí đặt trong điện kệ [lưu giữ
xá lợi của ngài. Khi nàng qua đời, nàng được tái sanh nơi Cõi Trời
và du hành đến nhiều hiện hữu hạnh phúc.
Trong Thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ra nơi cung lòng chánh
hậu Khemaka thuộc dòng họ Thích Ca trong thành Kapilavatthu.
Nàng được đặt tên là Nanda. Nàng được mọi người biết tới với
tên gọi là Abhirupa-Nanda [“Nanda kiều diễm”] là do nàng có
thân hình cực kỳ xinh đẹp, rất kiều diễm và tuyệt vời, với tính
chất hấp dẫn dễ thương. Bấy giờ vào chính ngày lễ thành hôn,
người chồng của nàng là chàng trai Thích Ca Varabhuta đột ngột
qua đời. Thế rồi cha mẹ nàng đã thúc ép nàng xuất gia.
Nhưng dù nàng đã xuất gia, nàng vẫn kiêu hãnh với sắc đẹp của
mình nói rằng, “Vị Đạo Sư vẫn coi thường và bắt lỗi những người
có sắc đẹp. Trong nhiều trường hợp ngài thường cho thấy mối
nguy hiểm nơi hình dáng xinh đẹp.” Và nàng đã lẩn tránh không
40
đến hầu Đức Phật. Đức Thế Tôn biết rõ ý nghĩ của nàng đã
trưởng thành, chính vì thế Ngài nói với Maha Pajapati rằng, “Tất
cả các Tỳ khưu Ni đến phiên mình đều phải đến gặp Đức Phật để
nhận thọ giáo.” Khi đến lượt chính mình [Abhirupa-Nanda] đã cử
một người khác đến gặp Đức Phật. Đức Thế Tôn nói: “Khi đến
lượt ai, chính người đó phải tới gặp ta; không được sai người
khác thay thế.” Nàng không thể phớt lờ lệnh của vị Đạo Sư được
nữa, chính vì thế nàng đã đến hầu Đức Phật cùng với chư vị Tỳ
khưu Ni khác. Với thần lực siêu thế Đức Phật cho xuất hiện một
người phụ nữ rất đẹp, thế rồi lại chỉ cho nàng thấy thân xác đó đã
phai tàn theo ngày tháng, tạo cho nàng giao động to lớn trong
lòng. Và ngài nói lên hai bài kệ như sau:
19. Hỡi Nanda, hãy nhìn ngắm thân xác bệnh hoạn, bất tịnh, đầy
hôi hám thối rữa. Hãy tu luyệân tâm quán bất tịnh để đạt được
nhất tâm thiền định về những điều bất tịnh.
20. Và hãy tu luyện vô tướng, hãy bỏ tánh kiêu mạn tùy miên. Do
hiểu rõ kiêu mạn nàng sẽ được sống an tịnh.
Ý nghĩa của các đoạn kệ này đã được giải thích trước đó. Vào
cuối các đoạn kệ, Abhirupa-Nanda đã chứng quả A-la-hán. Như
có lời trong Apadana (Thí dụ Kinh) nói rằng:
1. Trong thành Bandhumati, có vị Sát đế lỵ tên là Bandhuma
[đang làm vua]; ta là hoàng hậu của vị vua đó và đang chung
sống với ngài.
2. Một ngày kia ta đang ngồi một mình, “Tuy nhiên ta chẳng
thực hiện bất kỳ thiện hạnh nào để đem lại cuộc sống hạnh phúc
mai hậu.
3. Giờ đây ta sẽ phải đầy xuống hoả ngục là nơi nóng nẩy và
khủng khiếp vô cùng, với diện mạo khủng khiếp, vô cùng nhẫn
tâm tàn bạo. Đó là điều chẳng còn nghi ngờ gì nữa.
4. Chính vì thế ta suy nghĩ, và cảm thấy tâm triù giao động dữ
dội. Ta chạy lại Đức vua và tâu trình với những lời lẽ.
5. “Ta là một phụ nữ lúc nào cũng có các nô tỳ vây quanh hầu
hạ. Ôi đại vương, xin ban tặng cho thần một vị ẩn sĩ, tâu vị Sát đế
lỵ, và ta sẽ nuôi nấng người cẩn thận.”
6. Vị đại vương đã chọn cho ta một vị ẩn sĩ với các căn tu luỵên
cẩn thận, ta đã lấy bát khất thực của ngài và đổ đầy đủ thứ vật
thực tuyển chọn.
41
7. Sau khi đã đổ đầy bát của ngài với những vật thực tuỵêt hảo
nhất, ta đã phủ trên đó với một cặp xiêm y trị giá tới một ngàn
đồng vàng. Ta đã dâng cúng tất cả cho ngài và lòng ta tràn ngập
hoan hỷ.
8. Kết quả phước nghiệp đó cùng lòng quyết tâm, cộng với mục
đích rõ ràng; khi ta rời bỏ thân xác phàm tục này, ta đã tái sanh
tại cõi Trời Đâu Xuất.
9. Ta cai trị tại đó như là hoàng hậu nhiếp chính có cả ngàn vị
vua chư thiên và làm chánh hậu cả ngàn chuyển luân vương
quốc.
10.Thế rồi [ta làm hoàng hậu] trị vì khắp một vùng vương quốc
rộng lớn, không thể đo lường được và nhiều công đức do quả
nghiệp đó đem lại, cũng do chính phước nghiệp cao cả đó.
11.Do bẩm sanh, ta là người phụ nữ phát sáng với tứ chi hoàn
hảo tuyệt vời, đáng yêu duyên dáng với diện mạo tựa đóa sen nở
rộ.
12. Trong hiện hữu cuối cùng trên cõi đời này, ta sanh ra trong
một gia đình thuộc dòng họ Thích Ca, ta là một phụ nữ tuyệt hảo
trong cả ngàn phụ nữ do người con đại vương Suddhadana sanh
ra.
13.Ta chán ngấy cảnh sống gia đình, chính vì thế ta đã xuất gia
sống đời vô gia cư. Vào đêm thứ bảy ta chứng quán tri tứ diệu đế.
14. Vật dụng thiết yếu ta có nhiều vô số kể – nào áo khoác ngoài,
nào vật thực, chỗ ngồi, chỗ nằêm nghỉ – ta đã nhận được. Đó chính
là kết quả do cúng dường bố thí ta đã thực hiện.
15. Hạnh thiện ta đã thực hiện trước đó, ôi vị đại trí, là chính vì
ngài, ta đã hầu hạ ngài thật toàn hảo, ôi vị đại anh hùng.
16. Trong suốt ba mươi mốt đại kiếp kể từ ngày cúng dường vật
thí đó, ta chẳng phải nếm mùi tái sanh nơi cõi sầu khổ bao giờ.
Đó chính là kết quả do cúng dường ta đã thực hiện.
17.Ta hoàn toàn nhận rõ cả hai cõi – được làm chư thiên lẫn thần
dân cõi nhân loại, ta chẳng biết tới bất kỳ cõi nào khác. Đó chính
là kết quả do cúng dường bố thí ta đã thực hiện.
18.Ta đã sanh ra nơi rất nhiều gia đình quí phái – có ba gia đình
đầy phồn vinh và tài sản dồi dào. Ta chẳng biết đến bất kỳ gia
đình nào khác. Đó chính là kết quả do cúng dường bố thí ta đã
thực hiện.
42
19. Ta đã du hành qua nhiều kiếp sống, bị giao động do chính
hạnh thiện đó đem lại. Ta chẳng còn chứng kiến bất kỳ điều thô bỉ
nào. Đó chính là thánh quả do hành vi khả ái đó đem lại.
20. Và ta cũng chế ngự được thần lực siêu thế. Chính nhờ yếu tố
thiên nhĩ ta còn thấu hiểu được cả lòng người, ôi vị đại trí vô
song.
21. Ta biết rõ tiền kiếp của mình. Thiên nhãn ta được thanh tịnh
kỹ càng. Toàn bộ vết nhơ trong ta được xoá sạch. Giờ đây ta
chẳng còn phải tái sanh bao giờ nữa.
22.Và quả thật, ôi vị anh hùng vĩ đại thay, trước mặt ngài kiến
thức giúp ta hiểu rõ ý nghĩa, pháp và ngôn ngữ [32] đã hiện lên rõ
ràng.
23-25. Mọi hành vi đồi bại của ta đã bị thiêu rụi hết… [xin đọc tr
10] ta đã thực hiện lời Phật dạy.
Thế rồi sau khi đã chứng quả A-la-hán, chính nàng cũng thốt lên
những đoạn kệ này như là lời nguyện long trọng của nàng. Và ở
đây, cũng chính là lời tuyên bố về hiểu biết uyên bác của nàng
vậy.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Abhirupa-Nanda.
2. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI JENTA
Các đoạn kệ này [bắt đầu] như sau: [Ta đã tu luyện toàn bộ Thất
Giác Chi này] là của Trưởng lão Ni Jenta. Chuyện kể về kiếp
sống quá khứ cũng như hiện tại của nàng cũng tương tự như
chuyện kể về Trưởng lão Ni Abhirupa Nanda. Nhưng nàng được
sanh ra trong hoàng cung của nhà vua trị vì dân Licchavis trong
thành Vesali. Có chi tiết khác nhau này được thêm vào; nàng đã
lắng nghe giáo pháp do vị Đạo Sư diễn giải, và vào cuối bài kinh
nàng chứng quả A-la-hán. Nhìn ngắm vô ngại giải chính thành
tích nàng đã đạt được, nàng đã đọc lên những đoạn kệ sau đây:
21. Ta đã tu tập toàn bộ thất giác chi này, đó là những phương
cách dẫn đến vô dư níp bàn, như lời Đức Phật đã dạy.
22. Quả thật ta đã chứng kiến Đức Thế Tôn đó. Đây quả là thân
xác cuối cùng đang theo ta du hành hết vòng luân hồi tái sanh
32[?]
Đây là việc liệt kê Tứ vô ngại giải (patísambhida): (1) ý nghĩa (attha), (2) pháp
(dhamma), (3) ngôn ngữ (nirutti) và (4) hiểu rõ được (patibhana) ba điều trên.
43
này đến tái sanh khác đã bị tịch diệt hoàn toàn. Giờ đây ta chẳng
còn phải tái sanh trở lại nữa.
21. Ở đây, Thất Giác Chi này (ye ime) được đặt tên như sau (1)
thiền định, (2) trạch pháp, (3) tinh tấn, (4) hỷ, (5) khinh an, (6)
chánh niệm, (7) hành xả.(bodiya), như đã được nói tới. Hay vì
đây là những thành tố của người sở hữu những thành tố đó – để
trở thành người chứng giác ngộ (bodhissa). Là vị chứng giác
ngộ (bujjhanakassa) – bảy pháp này được gọi là “Thất Giác
Chi”. Những phương cách dẫn đến vô dư níp bàn có nghĩa là:
những phương pháp chứng đắc Níp Bàn. Ta tu luyện tất cả…như
lời Phật dạy có nghĩa là: toàn bộ ba mươi bảy điều cần thiết để
chứng giác ngộ như lời Phật dạy cho ta. Chính ta đã thực thi và tu
luyện những gì Ngài đã dạy. Đây chính là bộ sưu tập các pháp
giác chi
22. Trong câu quả thật ta đã được chứng kiến Đức Thế Tôn,
từ quả thật (hi) lại mang ý nghĩa nguyên nhân. Vì Đức Thiện Thệ,
là vị toàn giác hoàn hảo nhất, [nguời là hiện thân] của Phật Pháp
ta nhận ra thông qua hiểu biết chánh pháp và chính mỗi người
chúng ta đã chứng đắc, theo nàng đây quả là thân xác cuối
cùng, đây lại là liên kết giữa hai đoạn văn đó.Tuy nhiên, chính
thông qua việc nhận ra chánh pháp ta cũng nhận ra được Đức
Phật và các vị Thiện Thệ nữa, chớ không phải chỉ chứng kiến
thân xác của các vị đó mà thôi. Như lời Ngài dạy, “Hỡi Vakkali,
quả thật người nào nhận ra chánh pháp cũng chính là nhìn thấy ta
vậy.” “và quả thật, hỡi chư vị Tỳ khưu, người nào có học thức
thông thái, lại là đồ đệ của vị Thiện Thệ, thì người đó cũng nhìn
thấy chư vị Thiện Thệ đó. Ý nghĩa những gì còn lại cũng đã được
giải thích rõ ràng.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Jenta.
3. CHÚ GIẢI BÀI KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI
SUMANGALAMATA
Bài kệ bắt đầu bằng câu [Ta đã được] giải thoát toàn hảo là
củaTrưởng lão Ni Sumangalamata. Cả nàng nữa, sau khi đã góp
nhặt được những phẩm chất giới đức cần thiết và tích lũy được
những hạnh thiện khi còn sống nơi nhiều kiếp người, cũng được
44
sanh ra dưới Thời đức Phật này trong một gia đình nghèo trong
thành Savatthi.
Khi đến tuổi trưởng thành, nàng được gả cho một anh chàng làm
nghề đan giỏ cói nọ. Trong lần sanh đầu tiên nàng đã sanh hạ một
con trai là người đã chứng tái sanh sau cùng và người ta đặt tên
cho trẻ là Sumangala. Nàng được biết đến với tên gọi là
Sumangalamata (có nghĩa là mẹ của Sumangala). Nhưng nàng
không được nổi tiếng do dòng tộc của nàng; chính vì thế trong
Kinh Phật nàng chỉ được đề cập đến như là “một Tỳ khưu Ni vô
danh” và người con trai của bà đã xuất gia khi chàng đến tuổi
trưởng thành và chứng quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải.
Chàng rất nổi tiếng với tên là Trưởng lão Sumanga.
Mẹ chàng cũng xuất gia cùng với chư vị Tỳ khưu Ni trong ni viện
và trọn đời tu luyện thiền quán. Một ngày kia, nàng đã nhập thiền
về những đau khổ nàng đã trải qua trong thời gian nàng còn sống
tại gia đình và một giao động to lớn nổi lên trong lòng nàng.
Nàng đã gia tăng thiền quán và chứng quả A-la-hán cùng với Tứ
vô ngại giải. Thốt lên lời nguyện long trọng, nàng đã đọc hai đoạn
kệ sau đây:
23. Ta đã được giải thoát trọn vẹn, toàn hảo và thích hợp khỏi
chiếc chầy giã gạo. Người chồng vô liêm sỉ của ta, ngay cả chỉ
làm bóng mát che cho ta v.v…[ta cũng đã chán ngấy]. Chiếc nồi
của ta toát ra mùi rắn nước hôi thối.
24. Ta triệt hạ ước muốn và sân hận với âm thanh xèo xèo toát
ra. Ta đi đến ngay dưới gốc cây ngồi thiền và suy nghĩ rằng, “Ôi
hạnh phúc tuyệt vời của ta,” hãy nhập thiền về điều đem lại hạnh
phúc.
23. Ở đây, được giải thoát trọn vẹn (sumuttika) có nghĩa là được
giải thoát hoàn toàn. (sumutta). Vần ka chỉ lấp đầy đoạn kệ mà
thôi. Quả thật, “ta được giải thoát hoàn toàn (sutthu mutta)”. Đây
là ý nghĩa. Nhìn lại thành tích chính nàng đã đạt được nhờ tin nơi
giáo pháp, hay là cách tự khen mình, ta nói rằng, được giải thoát
trọn vẹn, được giải thoát hoàn toàn. Hơn thế nữa, bất kỳ điều gì
nàng cảm thấy chán ngấy, đặc biệt vào thời điểm nàng thực hiện
công việc nội trợ bếp núc, đều cho thấy nàng thoát khỏi điều đó,
nàng cho biết, ta…được giải thoát một cách thích hợp, v.v…
đây, ta…được giải thoát một cách thích hợp (sadhu muttikamhi)
có nghĩa là: “Quả thật ta được (amhi) giải thoát (mutta) một cách
45
thích hợp (samma-d-eva).” Khỏi chiếc chầy giã gạo (musalassa)
có nghĩa là: giải thoát khỏi chiếc chầy giã gạo (musalato) Người
chồng vô liêm sĩ của ta (samiko) - chàng không làm ta hài lòng
[đây là những] từ còn lại cần phải được tham khảo. Vì tâm nàng
tự bản chất đã được tách khỏi những dục lạc, nàng nói, ta chán
ngấy những phẩm hạnh của những ai hướng chiều về tham
dục. Ngay cả là bóng mát che chở cho nàng v.v…có nghĩa là: điều
đó không làm cho nàng hài lòng cho dù chàng đã trở thành bóng
mát che chở cho ta trong cuộc sống… đây là ý nghĩa muốn nói
tới. Từ v.v…(va) có nghĩa là thêm vào những điều không được
nói tới; do đó nàng gồm cả những rổ rá, thúng mủng, hộp đựng đồ
v.v… nàng nói tới tình trạng chán ngấy cuộc sống quá đau khổ
dựa trên việc làm bóng mát v.v…với những bó tre, v.v…hết ngày
này qua ngày khác. Một số người lại đưa ra [cách giải thích là]:
“Một luồng gió độc hại (ahitako) thoảng qua với tôi,” đây là ý
nghĩa: “Một luồng gió độc hại mang tuổi già thổi trên thân xác ta
vào lúc ta còn là người nội trợ.” Nhưng một số người khác lại cho
ý nghĩa ở đây là: một luồng gió thổi trên thân xác ta chính là
luồng gió độc (abhitako) và ngay cả còn tỏa ra mùi khó chịu cho
người khác nữa. Chiếc nồi của ta (ukkhalika me) toả mùi
(vati) rắn nước (detthubha?) có nghĩa là: của ta (me=mama) chiếc
bình nấu đồ ăn (bhatta-paccana-bhajanan) tỏa mùi (vayati) giống
như mùi rắn nước (udaka-sappa-gandham) vì chiếc nồi nấu ăn
không được sạch sẽ do đã lâu ngày không được sử dụng. Ta đã
được giải thoát một cách thích hợp khỏi những thứ đó. Đây là
điều liên kết [giữa hai đoạn văn này.]. Lúc đó chính nàng làm
công việc sử dụng chiếc chày khi còn là một người nội trợ do
nàng quá nghèo; chính vì thế, nàng nói như vậy.
24. Ta đã triệt phá (vihanami) ước muốn và sân hận với tiếng kêu
xèo xèo có nghĩa là, ta đã loại bỏ được. Ta từ bỏ được những lậu
hoặc to lớn. Ước muốn và sân hận vớitiếng xèo xèo này. Đây là ý
nghĩa. Quả thật, nàng đã chán ngấy chính người chồng của nàng
vì nàng cảm thấy khó chịu với tiếng động xì xèo của những bó
tre. v.v… chàng đang chẻ ra hết ngày nọ sang ngày kia, và nàng
nói loại bỏ được điều đó cũng đồng nghĩa với loại bỏ được ước
muốn và sân hận. Ta (sa) đã chạy lại (upagamma) gốc một cây cổ
thụ có nghĩa là: ta (sa aham) người mẹ của Sumangala sau khi
tiến đến (upasankamitva) gốc cây cổ thụ tách biệt [ta] nhập thiền
46
về điều đó như là mối hạnh phục (sukhato) có nghĩa là: ta nhập
định, nghĩ rằng, “Hạnh phúc (sukham).” Và thỉnh thoảng cũng
chứng đắc điều đó. Ta nhập thiền với tâm an chỉ định, nhận ra
hạnh phúc dẫn tới Níp Bàn và hạnh phúc chứng thánh quả. Đây là
ý nghĩa. [và suy nghĩ rằng] “Ôi hạnh phúc biết bao”: ở đây, nàng
nói tới điều này là vì tình trạng tập trung chú ý liên tục của nàng
sau khi chứng an chỉ định đó và cũng liên kiết với những liên
tưởng trước đó.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Sumangalamata.
4. CHÚ GIẢI BÀI KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI ADDHAKASI.
Các bài kệ này bắt đầu với [tiền công kỹ nữ của ta cũng bằng
với [tiền thu thuế] trong vương quốc Kasi là của Trưởng lão Ni
Addhakasi. Bấy giờ Trưởng lão Ni này được sanh ra trong một gia
đình tốt dưới thời Đức Phật Kassapa Thập Lực. Khi nàng đến tuổi
trưởng thành, nàng đã xin gia nhập một ni viện và lắng nghe Phật
Pháp tại đó. Nàng chứng niềm tin. Xuất gia và cương ngạnh trong
hạnh nghiệp công đức của một Tỳ khưu Ni. Nàng đã lăng nhục
một [Tỳ khưu Ni] khác, Tỳ khưu Ni này đã triệt hạ được lậu hoặc
và chứng Tứ vô ngại giải, lại gọi nàng là một kỹ nữ và khi nàng
qua đời nàng đã phải thiêu đốt trong hoả ngục.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng được sanh ra trong một gia
đình thương nhân giàu có trong vương quốc Kasi. Khi lớn lên đến
tuổi trưởng thành, do kết quả ác ngôn nàng đã làm trong quá khứ,
nàng đã phải rời bỏ gia đình và trở thành một kỹ nữ tên là
Addhakasi. Việc xuất gia và phong cụ túc giới của nàng thông
qua một sứ giả đã đuợc truyền lại cho chúng ta trong quyển
Khandhika [luật tạng]. Vì có lời nói rằng:
Bấy giờ vào thời điểm đó có một kỹ nữ tên là Addhakasi đã xuất
gia trong số chư vị Tỳ khưu Ni, và nàng cũng muốn đi tới thành
Savatthi, nghĩ rằng “Ta muốn nhận cụ túc giới trước sự chứng
kiến của Đức Thế Tôn.” những tên bất lương nghe được chuyện
đó liền nói rằng kỹ nữ Addhakasi và họ mai phục chờ trên đường
đi. Nhưng khi kỹ nữ Addhakasi nghe biết có những tên bất lương
mai phục chờ đợi nàng trên đường đi và rồi nàng gửi tới Đức
Phật một xứ giả nói rằng, “Cả con nữa cũng muốn được xuất gia
làm sao con có thể thực hiện điều đó được?” Thế rồi vào thời đó
47
Đức Thế Tôn đã diễn giải giáo pháp và nói với chư vị Tỳ khưu mà
rằng, “Hỡi chư vị Tỳ khưu, ta cho phép các ngươi được nhận cụ
túc giới ngay cả chỉ thông qua một sứ giả.”
Và sau khi đã nhận cụ túc giới như vậy, nàng đã hiến cả đời mình
tu tập thiền quán và chỉ sau một thời gian ngắn nàng đã chứng
quả A-la-hán gồm cả Tứ vô ngại giải. Như được kể lại trong
Apadana như sau:
1. Trong đại kiếp đầy hứa hẹn này, có một người họ hàng Phạm
Thiên danh tiếng lẫy lừng được sanh ra, tên là Phật Kassapa, là
người có tài biện khẩu tuyệt vời.
2. Vào thời đó, ta xuất gia theo đuổi giáo pháp của Đức Phật và
ngũ căn của ta đã được kiềm chế tốt đúng theo giới luật Bản.
3-4. Và ta đã luyện điều độ và chú tâm cảnh giác liên quan đến
vật thực, hành thiền. Thế rồi ta có ác ý và mắng nhiếc một Tỳ
khưu Ni là người đã triệt phá hết các lậu hoặc. Ta đã nói thẳng
vào mặt nàng: “Đồ gái kỹ nữ!” Chính vì ác ngôn đó ta đã bị
thiêu đốt trong hỏa ngục.
5-6. Do đó, thông qua hậu quả còn sót lại nơi ác nghiệp đó, ta
đã phải liên tục tái sanh nơi một gia đình làm kỹ nữ, sống nhờ
vào người khác, và tới kỳ tái sanh cuối cùng, do kết quả dẫn đến
cuộc sống phạm hạnh ta được sanh ra trong một gia đình thương
nhân giàu có là cư dân Kasi ta là cô gái kiều diễm giống một nô
tỳ thiên giới giữa chư thiên.
7. Cư dân sống trong thành Giribbaja nhìn thấy ta, rất dễ mến,
đã làm cho ta thành kỹ nữ; đó là kết quả hành vi lăng nhục Tỳ
khưu Ni đem lại.
8. Ta đã lắng nghe giáo pháp do Đức Phật tuyệt hảo trong số chư
vị Như lai diễn giải, do những ấn tượng còn lưu lại nơi các chi
của ta trong quá khứ, ta đã xuất gia sống đời vô gia cư.
9. Rồi ta đến trước sự hiện diện của vị Chiến Thắng nhằm mục
đích nhận cụ túc giới cao hơn. Sau khi nghe được điều đó những
tên bất lương đã mai phục chờ trên đường đi. Ta thọ cụ túc giới
đầy đủ chỉ do xứ giả đem lại.
10. Toàn bộ hành động của ta đã bị triệt phá, kể cả thiện nghiệp
lẫn ác hạnh. ta đã vượt qua bao cuộc du hành nơi kiếp luân hồi,
ta đã từ bỏ được kiếp kỹ nữ.
11. Và với thần lực siêu thế ta đã chế ngự, do thiên nhĩ thông ta đã
chứng kiến thức thấu tỏ lòng người. Ôi vị Đại Trí.
48
12. Ta biết rõ tiền kiếp của ta, thiên nhãn ta đã được thanh tịnh.
Toàn bộ vết nhơ ta đã triệt phá tận gốc. Giờ đây ta chẳng còn trải
qua kiếp đọa đày nào nữa.
13. Và Quả thật, ôi vị Anh Hùng vĩ đại. Trước mặt ngài kiến thức
đã nổi lên trong ta tỏ rõ nơi hiểu biết ý nghĩa, pháp và ngôn ngữ.
14-16. Mọi hành vi đồi bại của ta đã bị thiêu rụi…[xin đọc tr.
10] ta đã thực hiện lời Phật dạy.
Thế rồi nàng chứng thánh quả A-la-hán và thốt lên những đoạn kệ
này như là lời nguyện long trọng.
25. Tiền chi trả [công kỹ nữ] cũng ngang bằng với [tiền thuế] trong
vương quốc Kasi. Thần dân trong thành lại ấn định chỉ bằng một
nửa và khiến ta chỉ đáng nhận nửa giá mà thôi.
26. Thế rồi ta chán ngấy với sắc đẹp kiều diễm của mình và do
chán ngấy như vậy, ta không còn quan tâm tới sắc đẹp nữa. Cầu
xin cho ta không còn phải du hành nơi vòng luân hồi hết cõi tái
sanh này đến cõi tái sanh khác. Ta đã thể hiện nơi mình ba chánh
kiến ta đã thực hiện y lời Phật dạy.
25. Ở đây, tiền lương (sutko) làm kỹ nữ đem lại còn lớn hơn cả
tiền thuế thu trong vương quốc Kasi (kasi-janapado) có nghĩa là:
nguồn gốc tiền thuế nơi cư dân Kasi (Kasisu janapadesu), là tiền
thuế (sutko) thu trong vương quốc Kasi. Tuy nhiên số tiền thuế
này càng cao thì số tiền công càng cao. Coi như là (ahu) có nghĩa
là: là (ahosi). Nhưng cao là bao nhiêu? Tới cả ngàn đồng tiền
vàng ở thời điểm đó trong vương quốc Kasi, thu nhập có được
như là nguồn thu thuế (sutka) cho nhà vua trong một ngày có khi
lên tới cả ngàn đồng và tiền công nàng nhận được trong vòng một
ngày từ tay những người đàn ông cũng nhiều cỡ đó. Chính vì thế
có lời nói rằng: tiền lương của ta [theo nghề kỹ nữ] cũng ngang
với tiền thuế trong vương quốc Kasi. Nàng nhận được tên là Kasi
vì tiền lương của nàng được so sánh bằng tiền thuế trong vương
quốc Kasi. Tại nơi đó, hầu hết người đàn ông không thể trả một
ngàn đồng như vậy trả một nửa (upannha) số tiền đó họ chỉ có thể
hưởng lạc với nhau trong nửa ngày mà thôi, rồi họ rút lui. Chính
vì thế nàng có tên là Addhakasi [“một nửa Kasi”]. Chính vì thế có
lời nói rằng: cư dân trong thành phố đã ấn định giá và khiến tôi
chỉ đáng nửa giá mà thôi. Giá đó có nghĩa là: ấn định giá trị đồng
tiền lương là năm trăm đồng. Cư dân trong thành có nghĩa là cư
dân sống trong thành đó. Cho dù ta là vô giá tuy nhiên là châu
49
báu nơi các phụ nữ, họ chỉ khiến cho ta đáng giá có một nửa
(annha) số lượng giá tiền. Và chính vì thế họ đặt tên cho ta
là Addhakasi. Ý nghĩa ở đây là: họ gọi ta với tên như vậy.
26. Thế rồi ta trở nên chán ngấy với sắc đẹp của mình (nibbind’
ahan rupe) có nghĩa là: Như vậy [ta] được an trú người sống nhờ
vào sắc đẹp; thế rồi sau đó. Thuộc vào giáo lý, ta trở nên chán
ngấy với sắc đẹp của ta. (rupe aham nibbindam). Nhận ra sắc đẹp
đó quả thật là điều vô thường. Đó là sắc đẹp này đem lại đau khổ
và phiền toái. Ta trở nên quá mệt mỏi với điều đó. Và chán ngấy
(nibbinda ca) ta không quan tâm tới sắc đẹp nữa (virajj’ahan) có
nghĩa là: và ta (cahan), do chán ngấy (nibbindanti), chứng đắc
thanh thản sau đó. Và ở đây, bằng cách gộp thêm “chán ngấy với”
(nibbinda-ggahatena) nàng cho thấy nàng đang có thiền quán nẩy
nở phát triển. Bằng cách ghi thêm “thanh thản” (viraga-
ggahatena) nàng cho thấy một thiền quán mạnh mẽ. Vì có lời nói
rằng, “Khi đã chán ngấy con người ta trở nên không quan tâm; trở
nên thanh thản, con người ta được giải thoát”. Cầu xin ta không
phải chạy theo cuộc du hành từ tái sanh này sang tái sanh khác
nữa có nghĩa là: nàng chỉ ra cho thấy qua điều đó xuất hiện trạng
thái dửng dưng và chán ngấy. Tam minh (tisso vijja) v.v… có
nghiã là: chứng đắc tột đỉnh ba nhận thức đúng này. Điều đó đã
được giải thích
Đến đây kết thúc phần chú giải những đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Addhakasi.
5. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ TRƯỞNG LÃO NI CITTA
Những đoạn kệ bắt đầu với Cho dù ta ốm yếu là của Trưởng lão
Ni Citta. Nàng cũng đã thực hiện phước nghiệp dưới thời chư vị
Phật tiền kiếp và cũng đã tích lũy được nhiều hạnh thiện trong
cuộc sống tiền kiếp làm cơ sở để được giải thoát. Chín mươi tư
đại kiếp qua nàng đầu thai trong cung lòng một kiên đà ngay trên
bờ sông Candabhaga. Một ngày kia nàng gặp Đức Phật Độc giác
(Pacceka) đang ngồi thiền dưới một gốc cây. Với tâm hoàn toàn
tự nguyện phục dịch ngài rất thoải mái, nàng đã cúng dường hoa
và cây sậy, đảnh lễ ngài và tỏ lòng tôn kính hai tay chụm lại với
nhau trên đầu rồi ra đi, luôn giữ phía bên phải.
Thế rồi nàng chu du tái sanh khắp vòng luân hồi gồm có chư
thiên và nhân loại là kết quả do phước nghiệp đó mang lại. Dưới
50
thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong một gia đình giàu có
danh vọng trong thành Rajagaha. Khi đến tuổi khôn lớn, nàng đến
nghe Đạo Sư kinh ngay tại cổng thành Rajagaha. Sau đó nàng đã
xuất gia với Trưởng lão Ni Mahàpajàpati Gotami. Khi trở về già,
nàng đã lên núi Linh Thứu và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ một ẩn
sĩ trên đó. Với thiền quán được tu tập phát triển nàng đã chứng
thánh quả
A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải.
Chuyện kể đã được thuật lại trong Thí dụ Kinh như sau:
1. Vào thời điểm đó ta là một kiên đà ngay trên bờ sông
Candabhaga. Ta đã gặp Đức Phật vô tỳ vết, đấng tự Khởi Sanh
và Vô Thắng.
7- 9. Mọi lậu hoặc của ta đã bị thiêu rụi hết, [xin đọc tr 10]… ta
đã thực hiện y lời Phật dạy.
Và sau khi chứng Thánh quả A-la-hán và nhìn lại thành tích mình
đã đạt được, nàng thốt lên hai đoạn kệ này:
27. Cho dù ta gầy gò, bệnh hoạn và vô cùng ốm yếu, phải chống
gậy, ta đã lên đường leo lên đỉnh núi Linh Thứu.
28. Ta đã vắt áo khoác ngang vai, lật úp bát khất thực. Ta tựa
lưng vào tảng đá to, phá tan màn u tối vô minh bao trùm.
27. Ở đây, Cho dù ta gầy gò (kisika) có nghĩa là: ngay cả ta yếu
đuối do tuổi già với tấm thân mảnh mai (kisa-sarira) do điều kiện
ta chẳng còn da thịt bụ bẫm như xưa. Bệnh hoạn (gilana) và ốm
yếu vô cùng (badha-dubbala) có nghĩa là: ta bị đau yếu bệnh hoạn
do các đại đã biến đổi, v.v…Do vậy, ta trở nên vô cùng yếu
đuối (ativiya dubbala) do bệnh hoạn đem lại (gelađđena). Ta phải
chống gậy (olubbha) đi lại đây đó (daddat) có nghĩa là: đi bất kỳ
nơi đâu ta đều phải chống gậy (alambitva kattarayatthim) Sau khi
đã leo lên đỉnh núi có nghĩa là: ta vẫn muốn sống cuộc đời ẩn sĩ
cho dù ta yếu đuối đến như vậy, ta đã leo lên đỉnh núi Linh
Thứu..
28. Ta đã vứt áo choàng sang một bên có nghĩa là: chỉ mặc có áo
lót và quần lót. Ta đã vứt xa khỏi tầm tay chiếc áo khoác ngoài
mà theo thông lệ ta thường vắt lên vai. Ta lật úp chiếc bát khất
thực có nghĩa là: ta úp chiếc bát khất thực làm bằng gốm xuống
đất, dẹp sang một bên. Ta tựa lưng (khambhesit attanat)vào một
tảng đá to, rồi phá tan (padaliya) màn u tối vô minh có nghĩa là:
ngồi trên đỉnh núi, ta xé tan (padaletva) bóng tối sân si vô minh
51
mà trước đó ta đã phá tan trong suốt cuộc hành trình này và chính
nhờ làm như vậy mà bóng đêm vô minhsân si đó đã bị loại bỏ. Ta
tựa lưng, tựa thân mình (atta-bhava). Ta loại
bỏ (vikkhambhesin) việc tiếp tục tồn tại tương lai của ta. Bằng
cách tạo ra trạng thái không phụ thuộc vào bất kỳ điều gì để tồn
tại nữa. Đây là ý nghĩa đoạn kệ trên.
Đến đây kết thúc phần chú giải những đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Citta.
6. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI METTIKA
Những đoạn kệ bắt đầu với Cho dù ta đã đau đớn, v.v…là của
Trưởng lão Ni Mettika. Nàng cũng đã thực hiện được những phước
nghiệp dưới thời những Đức Phật tiền kiếp và đã tích lũy công đức
nơi nhiều kiếp khác nhau làm nhân để được giải thoát. Vào thời
Đức Thế Tôn Siddhattha. Nàng sanh ra trong một gia đình chủ hộ
kia, và khi đến tuổi trưởng thành, nàng đã thực hiện cúng dường
một dãi vải làm chiếc cạp thắt lưng được trang điểm với châu báu
và đặt trong điện kệ dâng cúng Đạo Sư. Qua phước nghiệp đó nàng
được chu du tái sanh khắp nơi cùng với chư thiên lẫn chúng sanh,
và dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong một gia đình Bà
la môn giàu có. Phần chuyện kể còn lại cũng tương tự như câu
chuyện vừa kể ở trên. Nhưng Trưởng lão Ni này lại đã thực hiện
bổn phận ẩn sĩ của mình sau khi trèo lên đỉnh ngọn núi cao. Nàng
tích cực tu luyện thiền quán và chứng thánh quả A-la-hán kèm với
Tứ vô ngại giải.
Như người ta kể lại trong Apadana như sau:
1. Ta đã truyền xây một điện kệ dâng cúng Đức Thế Tôn
Siddhattha, và ta đã cúng một dãi băng cạp thắt lưng cho ngôi
nhà mới xây dâng cho Đạo Sư.
2. Khi hoàn tất xây dựng tòa nhà đó, với tâm hoàn toàn tự
nguyện phục dịch vị Hiền Triết, vị bảo vệ cõi thế gian, còn nữa
chính tay ta đã dâng cúng ngài một dãi băng cạp.
3. Trong chín mươi tư đại kiếp kể từ ngày dâng cúng vật đó, ta
chẳng phải tái sanh nơi cõi đau khổ nào. Đây là kết quả do việc
xây cất lâu đài đó đem lại.
4–6. Mọi lậu hoặc của ta đã bị thiêu rụi hết, [xin đọc. Tr 10]… ta
đã thực hiện lời Phật dạy.
52
Sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán và nhìn lại thành quả của
mình, nàng đã thốt lên hai đoạn kệ coi như là lời tuyên bố long
trọng:
29.Cho dù ta phải đau đớn, yếu đuối, do tuổi trẻ đã qua đi, ta vẫn
chống gậy và leo lên đỉnh ngọn núi
30. Ta đã vứt bỏ chiếc áo khoác ngoài hay vắt ngang vai và lật úp
bát khất thực xuống đất. Ta ngồi thiền trên tảng đá to.Thế rồi tâm
ta được hoàn toàn giải thoát, ta chứng đắc Tam minh.. Ta đã thực
hiện lời Phật dạy.
29. Ở đây, đau đớn (dukkhita) có nghĩa là: phải đau đớn do bệnh
tật khống chế, đau đớn đã nổi lên trong ta (sađgata-dukkha). Ta
đã phải đau đớn khổ sở (dukkha-ppatta). Yếu đuối (dubbala) có
nghĩa là: ta chẳng còn chút sức lực nào nữa (bala-virahita) do
chính việc ta phải chịu đau khổ và yếu đuối do tuổi già đem lại.
Chính vì thế nàng nói rằng, với tuổi trẻ đã qua đi, có nghĩa là: sau
khi đã trải qua cuộc chu du tái sanh trong vòng luân hồi trong
cuộc sống.
30. Thế rồi tâm trí ta hoàn toàn được giải thoát có nghĩa là: và ta
đang ngồi thiền trên một tảng đá to. Thế rồi ngay sau đó, sử dụng
sức lực cân bằng, tâm trí ta được hoàn toàn giải thoát khỏi mọi
vết nhơ nhờ thực hiện bát chánh đạo. Yù nghĩa những phần còn
lại cũng đã được giải thích.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Mettika.
7. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ TRƯỞNG LÃO NI MITTA
Các đoạn kệ bắt đầu với Ngày mười bốn và ngày rằm trong
tháng là của Trưởng lão Ni Mitta. Nàng cũng đã thực hiện những
phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và đã tích lũy được
những hạnh thiện nơi nhiều kiếp khác nhau làm nền tảng cho
nàng được giải thoát. Nàng sanh ra trong gia đình sát đế lỵ vào
thời Đức Phật Vipassi. Khi đã đến tuổi trưởng thành, nàng đã trở
thành thành viên trong hậu cung của vị vua Bandhuma. Nàng đã
nhìn thấy một vị Trưởng lão Ni kia là người đã triệt phá hết mọi
vết nhơ lậu hoặc trong lòng và cũng là nữ đồ đệ của Đức Thế Tôn
Vipassi. Với tâm luôn sẵn sàng phục dịch ngài, nàng lấy bát khất
thực khỏi tay vị Trưởng lão Ni, đổ đầy đủ loại vật thực thịnh
soạn, và dâng lên ngài cùng với cặp áo cà sa rất giá trị.
53
Qua phước nghiệp đó nàng được chu du tái sanh khắp nơi cùng
với cả chư thiên lẫn con người, và dưới thời Đức Phật hiện tại,
nàng sanh ra trong một gia đình thuộc dòng họ hoàng gia Thích
Ca trong thành Kapilavatthu. Khi đạt đến tuổi trưởng thành, nàng
lắng nghe giáo pháp trước sự hiện diện của Đức Phật và trở thành
đồ đệ thiện nhân của ngài rồi chứng thánh quả niềm tin. Sau đó
nàng xuất gia trước sự hiện diện củaTrưởng lão Ni Maha-Pajapati
Gotami. Nàng hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ ban đầu. Tự
nguyện tu tập thiền quán và nàng đã chứng thánh quả A-la-hán
cùng với Tứ vô ngại giải chỉ sau một thời gian rất ngắn.
Như đã kể lại trong Thí Dụ Kinh (Apadana) như sau:
1. Trong thành Bandhumati có một sát đế lỵ tên là
Bandhuma [cũng là đại vương];làm chánh hậu nhà vua đó và
được sống chung với ngài.
2. [Một ngày kia, khi còn ngồi một mình, ta tự nhủ như
sau: “Quả thật, ta chưa thực hiện bất kỳ hạnh thiện nào để mang
theo tới [cuộc sống mai hậu].
3. “Giờ đây ta phải vào hỏa ngục là nơi vô cùng nóng nẩy, khủng
khiếp, chỉ gồm toàn những gương mặt đáng sợ, hoàn toàn tuyệt
vọng. Ta chẳng nghi ngờ chút nào cả.”
4. Ta đã chạy tới nhà vua và tâu lên ngài những lời lẽ sau đây:
“Xin bệ hạ ban cho thần một vị ẩn sĩ, một vị Sát đế lỵ và thần sẽ
nuôi nấng ngài rất cẩn thận.”
5. Vị Đại Vương đã ban cho ta một vị ẩn sĩ khổ hạnh với căn
được tu tập kỹ càng. Ta đỡ lấy bát khất thực của ngài và đổ đầy
với vật thực tuyệt hảo.
6. Sau khi đã đổ đầy bát khất thực với vật thực tuyệt hảo ta đã
xức dầu thơm bát đó, lại che trên chiếc bát đó với mạng lưới và
để lên trên bát một cặp áo cà sa rất có giá trị.
7. Trong suốt cuộc đời, ta luôn ghi nhớ đó chính là nguồn hỗ trợ
cho việc nhập định của ta. Tâm ta tràn đầy hoan hỷ và ta đã chu
du tái sanh đến cõi Trời Đâu Xuất.
8. Với tư cách chánh hậu ta đã cai quản ba mươi cõi chư thiên.
Bất kỳ thứ gì ta mong muốn đều được đáp ứng vì xuất hiện nơi
tâm ta chính những điều đó.
9. Là chánh hậu ta cai quản cả hai mươi chuyển luân vương. Tâm
ta được tăng thêm sức lực và ta chu du tái sanh qua rất nhiều
kiếp dương gian.
54
10. Ta thoát khỏi mọi ách phược. Mọi dính bén đều tan biến như
mây khói. Mọi vết nhơ đã bị tiêu diệt. Ta chẳng còn phải đầu thai
thành kiếp người.
11. Chín mươi mốt đại kiếp kể từ ngày cúng dường, ta không phải
còn sống cõi khổ đau. Đó chính là phước quả của thí đó đem lại.
12-14. Mọi lậu hoặc của ta đã bị thiêu rụi hết, [xin đọc. Tr 10]…
ta đã thực hiện y lời Phật dạy.
Thế rồi sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán và nhìn lại những
thành tích của mình, tâm nàng nổi lên niềm hoan hỷ hạnh phúc,
nàng thốt lên hai đoạn kệ sau đây như lời tuyên bố long trọng như
sau:
31.Vào ngày mười bốn và ngày rằm trong tháng, rồi ngày tám
trong tuần không trăng và những ngày đặc biệt trong tuần đó, ta
luôn thọ trì bát giới nghiêm trang.
32. Ta gìn giữ trai giới hôm nay, mỗi ngày ăn một bữa. Với đầu
cạo trọc đắp đại y ta đâu muốn thiên giới chư thiên mà chỉ muốn
tâm khỏi mọi lo sợ hãi.
31. Ở đây, ngày mười bốn (catuddasi), ngày rằm (pađcadasi) có
nghĩa là: số thứ tự cho mười bốn (catuddasi) chính là “thứ mười
bốn” (caddasanna?): đó là ngày mười bốn và mười lăm trong
tháng. Có sự liên lạc những ngày này trong hai tuần trăng.Đây là
đối cách một khoảng thời gian. Còn với ngày thứ tám tuần không
trăng, “cũng vào những ngày đó” là cách ta nên hiểu. Và những
ngày đặc biệt trong hai tuần đó. (patihariya-pakkhađ ca) có nghĩa
là: và những ngày khác trong hai tuần cũng phải nắm
giữ (patitharataka-pakkhađ ca) – ngày mười bốn, ngày rằm, và
ngày tám – theo đúng thứ tự, trước sau, vì theo đúng cách ra vào,
và giữ những phẩm hạnh thiện trong Bát quan trai giới. [những
ngày thêm vào] trong hai tuần đó (uposatha-silassa partharitabba-
pakkađ ca): ngày mười ba, ngày đầu tháng, ngày thứ bảy, hay
ngày thứ chín trong hai tuần[33]. Đây là ý nghĩa[34]. Liên kết tốt với
33[?]
Năm Phật giáo được chia ra thành ba mùa (mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa. Mỗi
mùa lại có bốn tháng, mỗi tháng lại chia thành hai tuần, theo lịch Miến điện, tháng bắt
đầu vào ngày sau ngày có trăng mới và tiếp tục suốt con trăng đó. Ngày trăng tròn rơi
vào ngày mười lăm thuộc hai tuần đầu tiên, và ngày trăng mới thường rơi vào ngày mười
bốn hay ngày mười lăm của hai tuần thứ hai. Trong số tám hai tuần trong mỗi mùa, thì
ngày trăng mới của hai tuần thứ ba và hai tuần thứ bảy rơi vào hoặc là ngày mười bốn.
Tuy nhiên một chú thích trong PPf Tỳ khưu Đanamoli cho rằng “ngày trăng tròn lại rơi …
vào ngày cuối cùng của tháng ta. xin đọc MLDB tr 117 số 59.
34[?]
Nói cách khác, ta có thể thêm vào một ngày trước và một ngày sau ngày bát quan
trai giới. Như ngày thứ bảy, thứ tám và thứ chín; ngày mười ba, ngày mười bốn và ngày
55
bát giới (atthanga-susamagatan) có nghĩa là: được ban cho (sutthu
sammanagatan) bát chi (addhahi adhehi) bắt đầu với không sát
sanh, ta tuân thủ ngày giữ giới (uposathan upagacchit) có nghĩa là:
ta giữ giới (upavasan upagamin), ta nắm giữ ngày đó (upavasin)
như đã được nói tới liên quan đến ngày giữ giới đó.]
(1). Người chủ gia đình không được sát sanh, và (2) không
được lấy của gì không được ban tặng cho mình. (3) ngươi không
được nói vọng ngôn, và (4) ngươi không được dùng thức uống
gây nghiện. (5) ngươi phải kiêng cữ không sống phóng dật, không
giao cấu khác phái. (6) ngươi không được dùng bữa vào những
giờ không đúng qui định, vào ban đêm (7) ngươi không được đeo
vòng hoa và không được dùng nước hoa. (8) Ngươi không được
ngủ trên toạ sàng hay trên sàn nhà trên chiếc nệm …Đối với điều
này họ nói, đây là ngày Bát quan trai giới chính Đức Phật đã
công bố, Ngài là người đã kết thúc đau khổ.
Chờ đợi tái sanh nơi nhóm chư thiên có nghĩa là: Ước muốn gia
nhập vào nhóm chư thiên, như nhóm Tứ Đại vương, v.v… ta nắm
ngày giữ giới vì ta muốn tái sanh trong ngày đó. Đó chính là mối
tương quan.
32. Trong câu ngày hôm nay chỉ với một bữa ăn duy nhất [mỗi
ngày]…ta… (sajja [= sa+ajja] ekena bhattena. Ta (sa) có nghĩa
là: Ta (aha?). Hôm nay (ajja) có nghĩa là: vào chính ngày này với
chỉ có một cơ hội dùng một bữa duy nhất (bhatta-bhojana-
kkhatena). Với đầu cạo trọc (mutta), che phủ (đắp) chiếc đại y
tăng già lê (sangha-ti-paruta) có nghĩa là: với tóc trên đầu cạo
trọc (muttita-kesa) và phủ kín toàn thân với chiếc y tăng già lê
(sanghati-paruta-sarira), ta xuất gia. Đó là ý nghĩa. Ta không ước
ao (na patthe ’han) tái sanh nơi nhóm chư thiên (deva-kayan) có
nghĩa là: sau khi đã chứng thánh đạo tột đỉnh, ta không ước
ao (ahad na patthaye) [tái sanh nơi] bất kỳ nhóm người
nào (kiđcid eva nikaya). Chính vì thế nàng cho rằng: Ta đã loại
bỏ hết (vineyya) sợ hãi (daram) trong lòng. (hadhaye). Đây có
nghĩa là: sau khi đã loại bỏ (vinetva) những xao xuyến tưởng
tượng ra (citta-gata?) về các lậu hoặc (kilesa-daratha?) bằng
cách cắt bỏ chúng. Và điều này trở thành lời tuyên bố tri thức
toàn hảo của nàng.
đầu tháng; và ngày thứ mười bốn, ngày thứ mười lăm và ngày đầu tiên.
56
Đến đây kết thúc phần chú giải về các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Mitta.
8. CHÚ GIẢI BÀI KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI
ABHAYAMATA
Bài kệ bắt đầu với [Thưa mẹ,] từ gót chân trở lên là của Trưởng
lão Ni Abhayamata. Nàng cũng đã thực hiện phước nghiệp dưới
thời chư vị Phật tiền kiếp và cũng đã tích lũy được nhiều hạnh
thiện nơi nhiều kiếp sống làm căn cho sự giải thoát. Vào thời Đức
Thế Tôn Tissa, nàng sanh ra trong một gia đình tốt và khi đến
tuổi trưởng thành, một ngày kia nàng đã nhìn thấy vị Đạo Sư du
hành khất thực. Với tâm luôn sẵn sàng phục vụ ngài, nàng đã
nhận bát khất thực từ tay Trưởng lão Ni và bố thí cho ngài chỉ
một muỗng đầy vật thực.
Nhờ phước nghiệp đó nàng đã chu du tái sanh khắp nơi giữa chư
thiên và chúng sanh, và dưới thời Đức Phật hiện tại, do kết quả
hạnh thiện đó đem lại, nàng đã trở thành kỹ nữ trong thành
Ujjeni, và nàng có tên là Padumavati.
Nhà vua Bimbisara nghe biết những hạnh thiện của nàng bắt đầu
với sắc đẹp mê hồn và truyền cho vị tể tướng bảo rằng, “Tin đồn
có một kỹ nữ tên là Padumavati trong thành Ujjeni, trẫm muốn
nàng đến trình diện trẫm.”
“Tâu bệ hạ, thần xin tuân chỉ.” Quan tể tướng trình bẩm, rồi nhờ
sức quyến rũ, vị quan đó đã đem tới dạ xoa Kumbhira. Nhờ ma
thuật, vị tể tướng đã đưa nhà vua đến thành Ujjeni ngay lập tức.
Nhà vua đã ngủ với nàng một đêm.
Nàng mang thai là do kết quả hành vi của nhà vua trong đêm đó,
và rồi nàng tâu với vua rằng, “Một bào thai đã xuất hiện trong
lòng hạ thần.” Sau khi nghe vậy, nhà vua nói với nàng, “Nếu là
con trai xin hãy nuôi dạy nó lớn lên rồi đem trình lên cho ta.” Nhà
vua ban cho nàng một chiếc nhẫn có khắc tên nhà vua trên đó và
rồi ngài hồi cung. Nàng sanh hạ một con trai sau mười tháng
mang thai và vào ngày lễ đặt tên, nàng bảo đặt cho con trẻ tên là
Abhaya. Và khi đứa con trai của nàng lên bảy tuổi, nàng nói với
con rằng, “cha con chính là vua Bimbisara.” Thế rồi nàng gửi cậu
đến gặp nhà vua. Khi nhà vua nhìn thấy con trai của mình, tình
phụ tử trào dâng và nhà vua đã nuôi nấng cậu rất cẩn thận xứng
57
với một vị hoàng tử. Việc chàng chứng đắc đức tin, xuất gia và
những thành tích đặc biệt của chàng đã được giải thích ở trên.
Sau đó mẹ hoàng tử cũng đã đến nghe giáo pháp nơi chàng hoàng
tử Abhaya, chứng đắc niềm tin và cũng xuất gia cùng với chư vị
Tỳ khưu Ni. Nàng nỗ lực tu tập phát triển thiền quán, không bao
lâu sau cũng được chứng đạo quả A-la-hán cùng với tứ tuệ phân
tích. Như được kể lại trong Apadana như sau:
1. Sau khi đã cúng dường một vá đầy vật thực cho vị Trưởng
lão tên là Tissa khi ngài du hành khất thực.Ta đã cúng dường cho
chư vị Phật tuyệt hảo.
2. Sau khi nhận vật thực đó, vị Toàn Giác Tissa, lãnh tụ tối cao
thế gian, Vị đạo sư, đang đứng trên đường phố, đã vui mừng với
nghiệp thiện ta đã thực hiện
3. “Chỉ bố thí có một muỗng vật thực, nhà ngươi sẽ được tái
sanh nơi cõi Trời Đâu Xuất, nhà ngươi sẽ được làm chánh hậu
cõi tam thập Lục Chư Thiên vương.
4. “Nhà ngươi sẽ trở thành chánh hậu cai trị năm mươi chuyển
luân vương. Nhà ngươi sẽ được thỏa lòng mong ước bất kỳ điều
gì nhà ngươi mong muốn.
5. “Sau khi được hưởng thành quả như vậy, nhà ngươi sẽ xuất
gia, chẳng sở hữu thứ gì đáng giá và thông qua hiểu biết toàn tri,
mọi vết nhơ lậu hoặc nhà ngươi sẽ chứng níp bàn vô tỳ vết.
6. Sau khi đã phán những lời đó, Đấng toàn giác Tissa, lãnh tụ
cõi trần tối cao, vị đại trí, đã bay lên trời giống như Thiên Nga
vương bay trên không trung vậy.
7. Bố thí cẩn thận chính là thắng thí, ta đã thực hiện; hy lễ toàn
hảo chính là chứng đắc bố thí. Sau khi bố thí chỉ một muỗng đầy vật
thực ta đã đến được một nơi không hề lay chuyển.
8. Trong chín mươi hai đại kiếp kể từ ngày ta cúng dường của
thí đó ta chẳng bao giờ phải sanh ra nơi cõi khổ đau cả. Đây
chính là thành quả do bố thí vật thực đó đem lại.
9 – 11. Mọi lậu hoặc của ta đã bị thiêu rụi hết, [xin đọc. Tr 10]…
ta đã thực hiện y lời Phật dạy.
Thế rồi sau khi nàng chứng thánh quả A-la-hán, con trai của
nàng, là Trưởng lão Abhaya đã đọc lên đoạn kệ sau đây cho nàng
nghe bằng những lời huấn dụ bằng một bài thuyết giáo pháp và
chính nàng cũng đã nhắc lại như lời công bố long trọng mà rằng”.
58
33. Thưa mẹ kính yêu, từ gót chân trở lên, từ đầu tóc trở xuống, hãy
quan sát toàn thân bất tịnh, hôi hám thối rữa này.
34. Chỉ cần ta an trú như vậy, mọi ước muốn sẽ bị nhổ đến tận
gốc rễ. Mọi nhiệt não bị đoạn trừ ta sẽ được mát lạnh và an tịnh
Níp Bàn.
33. Ở đây, ý nghĩa ngắn gọn liên quan đến đoạn kệ thứ nhất như
sau: Thưa mẹ yêu (amma), là Padumavati, từ gót chân trở lên, từ
đầu tóc trở xuống. Hãy sử dụng nhãn kiến thức mà chiêm ngưỡng
thân xác này (sarira), đó là thân xác (kaya) vì những vật đáng
chán ghét (kucchitana) ngay tại trú xứ này (ayatana) vì chúng
xông ra mùi hôi thối (putigandhika) vì mùi hôi thối luôn toát ra
[từ đó] (putigandha-vayanato) và điều ô uế (asucit) vì những bộ
phận đó tràn ngập đủ thứ ô uế (nana-ppakara-asuci-
puritaya). Con trai Trưởng lão Ni đã đọc lên đoạn kệ này dưới
hình thức một lời huấn giáo cho mẹ mình.
34. Sau khi nghe đoạn kệ, nàng đã chứng thánh quả A-la-hán và
thốt lên lời tuyên bố long trọng, nói rằng chính bài kệ đầu tiên để
kính trọng Đạo Sư của nàng. Thế rồi nói về thành tích của nàng,
nàng đọc lên đoạn kệ thứ hai [bắt đầu] Khi ta an trú như vậy. Ở
đây, khi ta an trú như vậy có nghĩa là: sau khi đã an trú với lời
huấn thị do con trai ta là trưởng lão Abhaya thốt lên, Từ gót chân
trở lên, v.v… Ta coi toàn bộ thân xác như là điều khó ưa, là nơi
tập trung thiền định. Về vấn đề này, nàng hiểu những pháp vô sắc
giới liên quan đến những phần cơ thể đó thuộc hai phạm trù đó là
những thành tố chủ yếu và những thành tố sở tại sắc. Và nàng an
trú tại đó, sau khi đã thiết lập được ba tướng (Vô
thường (anicca) đau khổ (dukkha), vô ngã (anatta)) thông qua niệm vô
thường, v.v…và nàng cho biết, mọi ước muốn của ta đã được
triệt hạ đến tận gốc có nghĩa là: mọi ước muốn của ta đã bị loại
trừ hết, bị phá huỷ hoàn toàn nhờ chánh đạo tối thượng thuộc tứ
chánh đạo, tiếp theo nhau có liên quan đến thiền quán dẫn đến
xuất khởi. Nhiệt não (paritaho) bị đoạn trừ (samucchinno) có
nghĩa là: chính vì thế toàn bộ nhiệt não lậu hoặc (kilesa-
paritato) đã bị nhổ bật gốc rễ hoàn toàn (samma-d-eva
ucchimo) chính vì chúng đã bị đoạn triệt (samucchannatta). Ta đã
trở nên mát lạnh, và hướng tới Níp Bàn thông qua đại bị triệt tiêu
do kết quả những dính bén trong quá khứ còn sót lại.
59
Đến đây kết thúc chú giải đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Abhayamata.
9. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI ABHAYA
Đoạn kệ bắt đầu bằng Hỡi Trưởng lão Ni Abhaya, thân xác này
thật mỏng manh của Abhaya. Nàng cũng đã thực hiện được
những phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và tích lũy
được hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống tiền kiếp làm cơ sở để được
giải thoát. Dưới thời Đức Thế Tôn Sikhi hiện tại, nàng sanh ra
trong một gia đình sát đế lỵ giàu có. Khi đến tuổi khôn lớn, nàng
được lập chánh hậu trong hoàng cung nhà vua Arula. Một ngày
kia, nhà vua ban tặng cho nàng bảy bông sen thơm phức. Nàng
nhận lấy hoa và suy nghĩ trong lòng, “Tại sao ta lại trang điểm
với những bông hoa này? Nào ta hãy dùng để tôn kính Đức Thế
Tôn thì hơn” và nàng ngồi xuống, khi Đức Thế Tôn vào cung nhà
vua khi ngài du hành khất thực. Khi nàng nhìn thấy Đức Thế Tôn,
với tâm luôn sẵn sàng phục vụ Ngài, nàng đến gặp Ngài, tỏ lòng
tôn kính với những bông sen đó và nàng đã kính lễ với ngũ thân
đầu địa trước mặt Ngài.
Thông qua phước nghiệp đó nàng đã chu du tái sanh tái sanh
okhắp nơi cùng với chư thiên và cả chúng sanh. Vào thời đức
Phật hiện tại, nàng được sanh ra trong một gia đình tốt trong
thành Ujjeni. Khi đạt đến tuổi khôn lớn, nàng đã kết bạn thân với
Abhayamata, và khi nàng Abhayamata chọn con đường xuất gia,
thì chính nàng cũng xuất gia do tình yêu mến nàng đã dành cho
Abhayamata vậy, và cả hai cư trú chung với nhau trong thành
Rajagaha. Một ngày kia, nàng đi đến thành Sitavana để nhập
thiền quán đề mục bất tịnh[35]. Vị Đạo Sư đang ngự tại hương
phòng, đã hiện thân trước mặt nàng, điều nàng đã cảm nghiệm
được trước đó làm hỗ trợ cho thiền định của nàng và giải thích
cho nàng pháp thiền, nàng đã chứng đắc thông qua đề mục niệm
về xác chết,v.v… Sau khi nhìn thấy cảnh tượng đó nàng đứng đó
toàn tâm giao động dữ dội. Thế rồi vị Đạo Sư toả sáng và xuất
hiện như thể Ngài đang ngồi trước mặt nàng và Ngài đã nói lên
bài kệ này:
35[?]
Cánh rừng Sita rất gần thành Rajagaha và ở đó có một bãi tha ma được biết đến là
nơi khủng khiếp.
60
35. Này hỡi Abhaya, thân xác này ôi mỏng dòn như người phàm
tục thường hay bám víu lấy. Hãy tỉnh giác và nhập chánh niệm.
Ta sẽ loại bỏ thân xác này.
36. Hãy chú tâm không phóng dật với biết bao điều đau khổ đó.
Ta cố gắng thoát khỏi pháp ái dục, ta đã chứng đạt. Ta đã thực
thi lời Phật dạy.
Và khi kết thúc đoạn kệ, nàng chứng quả A-la-hán. Như đã thấy
đề cập đến trong Thí Dụ Kinh (Apadana) như sau:
1. Có một Sát đế lỵ tên là Arula sống trong thành Arunavati. Ta
là chánh hậu nhà vua đó và ta luôn thực thi kiềm chế tối đa.
2. Ta lấy một vòng hoa gồm bảy bông sen toả hương thiên giới
và đến ngồi trong hoàng cung tuyệt hảo. Và suy nghĩ thẳng vào
vấn đề:
3. Tại sao không đội vòng hoa lên đầu? Đó là điều tốt nhất để
gợi cho họ nhận biết sự vi diệu của chư Phật.”
4. Ta ngồi gần ngay cửa ra vào hoàng cung, đợi cho vị Toàn
Giác xuất hiện và nghĩ rằng, “Khi vị Toàn Giác đi ngang qua đây
ta sẽ kính lễ vị Đại hiền trí vòng hoa này.
5. Vị Chiến Thắng lẫy lừng sẽ vòng qua đường phố đi kèm theo
là Tăng Đoàn chư Tỳ khưu, giống như cây kakudha tung tăng đùa
giỡn trước gió hay chú sư tử có lông bờm dài.
6. Nhìn thấy Đức Phật phát sáng, ta sung sướng và toàn tâm
giao động liên hồi. Ta mở cửa đón chào chư vị Phật.
7. Bảy bông sen tỏa ra trên không trung tạo thành một tràng
hoa bao bọc tứ bề, rồi dừng yên trên đầu vị Phật tổ.
8. Rồi giơ cao tay chụm lại trên đầu ta kính lễ. Với tâm hoan hỷ
hạnh phúc và tràn đầy phấn khởi. Tâm ta phấn chấn từ lúc nào
không hay và Trời Đâu Xuất là cõi ta lui tới.
9. Ta đeo trên đầu một vòng phủ đầy đá sa-phia và ta phát tán
hương thơm thiên giới. Đây chính là kết quả do cúng dường bảy
bông sen mà ra.
10. Có đôi khi, lúc ta dẫn một đoàn họ hàng thân thích, những
phiến đá sa-phia ta mang theo cùng tăng chúng.
11.Ta chính là chánh hậu thất thập vua chư thiên, và bất kỳ đâu
ta lui tới nơi nhiều cõi khác nhau ta chỉ là chánh hậu vị vua cai
trị khắp. Ta cũng là chánh hậu sáu mươi ba chuyển luân vương
khắp chốn.
61
12. Toàn bộ tăng chúng ai cũng cung phụng ta đủ thứ và điều gì
ta nói ra đều cân nặng trọng lượng.
13. Diện mạo ta xinh tựa bông sen và toả hương thơm ngào ngạt
khắp chốn. Ta chẳng bao giờ tỏ ra bộ mặt bí xị. Đây chính là kết
quả cung kính Đức Phật đem lại.
14. Ta thông thạo những căn đối với thần lực siêu thế. Ta hoan hỷ tu
tập những thành tố giác ngộ ta chứng toàn hảo tri thức trực tiếp.
Đây chính là kết quả cung kính Đức Phật đem lại.
15.Ta thông thạo Niệm Xứ. Ta tu tập thiền định và pháp an chỉ
định. Ta tịnh tín chánh tinh tấn luôn. Đây chính là kết quả cung
kính Đức Phật đem lại.
16. Tinh tấn chính là vật chuyên chở cho ta đến an tịnh khỏi ráng
sức nỗ lực. Toàn bộ vết nhơ ta đã cạn kiệt hết. Giờ đây ta chẳng
còn phải tái sanh trở lại.
17.Trong suốt ba mốt đại kiếp kể từ khi ta tôn kính Đức Phật Tổ
với hoa đó, ta chẳng còn phải tái sanh nơi cõi đau khổ bao giờ
nữa. Đây chính là kết quả cung kính Đức Phật đem lại.
18 – 20. Mọi lậu hoặc của ta đã bị thiêu rụi hết, [xin đọc. Tr 10]
…ta đã thực hiện y lời Phật dạy.
Khi nàng chứng thánh quả A-la-hán, thực hiện một lời tuyên bố
long trọng. Nàng thốt lên những đoạn kệ nhắc lại như trên.
35. Ở đây, Abhaya có nghĩa là: người tự nói về mình. Mỏng
manh (bhiduro) có nghĩa là: tự bản chất (bhijjana-sabbhavo) phải
đổ vỡ tan tành. Ý nghĩa ở đây là: vô thường. mà (yattha) thường
dân (puthujjana) thường hay bám víu (satta) vào có nghĩa là:
những người bình thường mù quáng (andha-puthujjana), chấp
thủ (logga) thân xác này, gắn bó với thân xác này tự bản chất đã
rất ô uế, tỏa mùi hôi thối, chán ngấy và đáng ghê tởm thân xác
này lại có đặc tính là hay bị tan rữa đổ bể (bhijjana-sile) chỉ trong
giây lát. Ta sẽ loại bỏ (nikkhipissam) cái thân xác này có nghĩa
là: Giờ đây ta sẽ loại bỏ nó, vứt chúng sanh một bên với vẻ dửng
dưng bất cần(nirapekkha khipissami), không cố nắm lấy cái thân
xác này nữa, thân xác hay thối rữa này. Liên quan đến điều đó,
nàng giải thích nguyên nhân: hãy chú ý và nhập thiền định.
36. Rất nhiều (bahuhi) điều đau đớn có nghĩa là: bị nhiều điều
gây đau khổ ảnh hưởng đến như sanh, lão…đó là ý nghĩa ta nên
hiểu ở đây. Hãy chú tâm tỉnh giác (appamada-rataya). Ta thường
gọi là thiếu khả năng thiền định, trạng thái bị giao động rất nhiều
62
vì người đó đã thấm mùi đau khổ. Ý nghĩa những gì còn lại đã
được giải thích ở trên.
Và ở đây, do những gì Đức Phật đã dạy. Có cách giải thích như
sau:
Hãy từ bỏ thân xác này, hỡi nhà ngươi hãy kiên tâm cảnh
giác, hãy đoạn diệt tham dục, hãy thực thi lời Phật dạy.
Những đoạn kệ này được gộp vào trong tập kết tập kinh tạng như
là chính Trưởng lão Ni đã đọc “Hỡi nhà ngươi, hãy chú tâm tỉnh
giác (appamada-rataya te)” có nghĩa là: nhà ngươi đã hoan hỷ
luôn tỉnh giác (appamada-rataya taya bhavittabban)” đó chính là
ý nghĩa cần được hiểu
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Abhaya.
10. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI SAMA.
Các bài kệ bắt đầu với Bốn lần và năm lần là của Trưởng lão Ni
Sama. Nàng cũng đã thực hiện nhiều phước nghiệp dưới thời chư
vị Phật tiền kiếp và tích lũy được nhiều hạnh thiện làm căn giải
thoát. Nàng chỉ du hành nơi nhiều cảnh hạnh phúc mà thôi.
Dưới thời đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong một gia đình giàu
có trong thành Kosambi, và tên nàng là Sama. Khi nàng đến tuổi
khôn lớn nàng trở thành người bạn thân với một tín nữ tên là
Samavati. Khi nàng Samavati qua đời, một giao động sâu rộng
nổi lên nơi Sama và nàng đã xuất gia. Sau khi xuất gia, nàng vẫn
không thể xua tan nỗi buồn khổ nổi lên trong nàng liên quan đến
người bạn thân Samavati. Và nàng không thể theo đuổi chánh
đạo. Sau đó, nàng đến lắng nghe lời dạy bảo của Trưởng lão
Ananda khi ngài đang ngồi trong hội trường. Nàng an trú thiền
quán. Thế rồi, đến ngày thứ bảy nàng chứng thánh quả A-la-hán
cùng với Tứ vô ngại giải, thế rồi sau khi chứng quả A-la-hán và
nhìn lại thành tích mình đã đạt được, nàng đã tỏ lộ ra cho mọi
người biết và đọc lên hai đoạn kệ như là lời công bố long trọng:
37. Đã bốn năm lần ta rời khỏi tịnh xá. Không đạt được an tịnh
tâm hồn. Cũng không thể chế ngự nổi tâm. Đây là ngày thứ tám
tuần trăng, vào đêm tối ta đã nhổ sạch được tham dục hoàn toàn.
38. Hoan hỷ trong cảnh tỉnh vì rất nhiều điều đau khổ đã diễn ra.
Ta chứng đoạn diệt mọi tham dục. Ta đã thực hiện y lời Phật dạy.
63
37. Ở đây, đã bốn năm lần ta rời khỏi (upanikkami) thiền viện
(vihara) có nghĩa là: nàng suy nghĩ trong lòng. “Ngồi yên trong
căn phòng nhỏ (vasavanka-vihara) chỉ tập trung chú ý hành thiền
quán. Ta không thể đạt đến tột đỉnh cuộc sống ẩn sĩ khổ hạnh do
thiếu sức khoẻ. Thiền quán của ta không ăn nhịp với chánh đạo”
bốn và năm có nghĩa là: chín lần tôi đã rời khỏi thiền viện (bahi
nikkami) căn phòng của mình nơi ta cư trú (upassayato). Chính
vì thế nàng nói rằng, không tìm được an tịnh tâm hồn không chế
ngự được tâm linh. Ở đây nàng nói an bình tâm hồn liên quan đến
nhập định chánh đạo. Không thể kiềm chế được tâm linh có nghĩa
là: do thiếu tinh tấn quân bình, ta không thể chế ngự được phát
triển tâm linh. Người ta nói rằng nàng đã cố gắng tối đa. Đây là
đêm thứ tám trong tuần không trăng có nghĩa là: kể từ hôm nhận
lời chỉ dạy của Trưởng lão Ananda, từ đó trở đi, ta không còn dễ
duôi. Ta tinh tấn ngày đêm để chứng thiền quán. Ta đã ra khỏi
phòng bốn năm lần vào ban đêm ta dã an trú tập trung chú ý hết
sức. Nhưng ta vẫn không phân biệt được rõ ràng. Sau khi đã đạt
được tinh tấn cân bằng. Vào đêm thứ tám. Ta đã triệt phá hết các
lậu hoặc thông qua chánh đạo từng loại một. Đây chính là ý nghĩa
ta nên hiểu. Chính vì thế có lời nói rằng: đây là đêm thứ tám kể từ
khi ta triệt phá hết các lậu hoặc. Ý nghĩa điều còn lại đã được
giải thích ở trên.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Sama.
Đến đây cũng kết thúc phần chú giải về Tập Hai Kệ.
3.1. CHÚ GIẢI CÁC BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI SAMA
KHÁC
Trong Tập Ba Kệ bắt đầu với Sau hai mươi lăm năm là của một
Trưởng lão Ni Sama khác. Nàng cũng đã thực hiện được những
phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và cũng đã tích lũy
được những hạnh thiện làm căn giải thoát cho nàng. Vào thời Đức
Phật Vipassi hiện tại, nàng tái sanh thành kiên đà ngay trên bờ
sông Candhabhaga và nàng đã cư ngụ tại đó với ý định tiêu khiển
với các Kiên đà khác. Một ngày kia, vị Đạo Sư cũng tới đó để
gieo hạt giống phước nghiệp trong lòng nàng. Khi nhìn thấy Đức
Thế Tôn đến từ xa xa, nàng rất sung sướng và vô cùng hoan hỷ.
Nàng đã kiếm được rất nhiều hoa salada và chạy lại gặp vị Đạo
64
Sư, nàng kính lễ ngài và thành kính Đức Thế Tôn cùng với những
bó hoa đó.
Thế rồi nàng chu du tái sanh khắp nơi giữa chư thiên nơi thiên
giới và giữa chúng sanh trên cõi đời này do kết quả phước nghiệp
đó đem lại. Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng được sanh ra trong
một gia đình tốt trong thành Kosambi. Khi đến tuổi trưởng thành,
nàng đã kết bạn thân với Samavati. Vào thời điểm người bạn này
qua đời, một giao động rất mạnh nổi lên trong lòng nàng, và nàng
đã xuất gia. Trong suốt hai mươi lăm năm tu tập, nàng vẫn không
thể chứng thiền định. Khi đã trở về già, nàng đã nhận huấn giáo
nơi vị Thiện Thệ tối thượng khiến thiền quán nàng phát triển và
nàng chứng thánh quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải.
Như được kể lại trong Thí Dụ Kinh (Apadana) như sau:
1. Vào thời đó ta đã trở thành một Kiên Đà sống trên bờ sông
Candabhaga, và ta đã tận mắt chứng kiến vị chư thiên các chư
thiên, người lãnh chúa muôn dân đang du hành lên xuống bên bờ
sông.
2. Ta đã hái hoa Salala và dâng lên Đức Phật Tuyệt Hảo. Vị
Anh Hùng vĩ đại thưởng thức hương thơm hoa Salala đang tỏa
hương thơm thiên giới.
3. Vị Giác Giả Vipassi, lãnh đạo nhân gian, đã nhận những đóa
hoa đó. Thế rồi vị Đại Anh Hùng thưởng thức hương thơm đang
lúc ta nhìn ngài không chớp mắt.
4. Ta tỏ lòng tôn kính, hai tay giơ lên đầu rồi chắp lại, ta kính
lễ ngài Thiện Thệ giữa loài lưỡng chi. tâm trí ta hoan hỷ rồi ta
leo lên đỉnh núi cao.
5. Suốt ba mươi mốt đại kiếp kể từ khi ta cúng dường đóa hoa
đó ta không phải tái sanh nơi cõi khổ bao giờ. Đây chính là thánh
quả do kính lễ Đức Phật đem lại.
6– 8. Mọi lậu hoặc của ta đã bị thiêu rụi hết … [xin đọc tr. 10] ta
đã thực hiện y lời Phật dạy.
Sau khi chứng thánh quả A-la-hán và chiêm ngưỡng những thành
tích mình đã đạt được, nàng đã thốt lên những đoạn kệ này như là
một lời nguyện ước long trọng.
39. Hai mươi lăm năm đã trôi qua kể từ khi ta xuất gia đi tu.
Ta không biết mình thọ tâm an bình bao giờ.
40. Không có tâm cân bằng thanh thản, không tự kiềm chế nổi
tâm linh. Buộc ta rơi vào hiện trạng xao xuyến tâm can, không tài
65
nào khống chế nổi chính tâm mình, ta nhớ lại lời dạy của vị
Chiến Thắng.
41. Ta chú tâm cảnh giới trước muôn vàn điều đau khổ. Ta đã
tịch diệt tham dục ràng buộc. Cứ y lời Phật dạy ta làm theo. Hôm
nay đã là ngày thứ bảy kể từ khi tham dục đã khô cạn.
39. Ở đây, an bình tâm hồn có nghĩa là: được tâm an tịnh, và tâm
thanh thản do con đường thiền định và thánh quả đem lại đó là ý
nghĩa[36] muốn đề cập đến ở đây.
40. Thế rồi (tato) có nghĩa là: sau thời gian đó (tasma), do thực
chất ta không thể tập trung chú ý thiền định. Ta phải trải qua tình
trạng giao động tâm linh sâu đậm có nghĩa là: nếu ta không thể
tập trung cao độ vào những bổn phận của kẻ đã xuất gia trong lúc
vị Đạo Sư vẫn còn hiện hữu, thì lúc nào ta sẽ thọ sau đó? Phải
giao động sâu đậm [có nghĩa là] trở nên xao xuyến lo toan do
không hiểu biết. Nhớ lại (saritva) lời dạy của vị Chiến Thắng có
nghĩa là: sau khi nhớ lại (anussaritva) lời dạy bảo của vị Đạo Sư
như ẩn dụ con rùa mù. v.v… Ý nghĩa phần còn lại đã được giải
thích[37] làm rõ.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Sama khác.
2. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI UTTAMA
Những đoạn kệ bắt đầu với Đã bốn, năm lần … là của Trưởng lão
Ni Uttama. Nàng cũng đã thực hiện được nhiều phước nghiệp
dưới thời Đức Phật tiền kiếp, và cũng đã tích lũy được những
hạnh thiện nơi rất nhiều kiếp sống khác nhau trên dương gian này
dùng làm căn giải thoát. Dưới thời Đức Thiện Thệ Vipassi, nàng
sanh ra trong thành Bandhumati và trở thành nô tỳ phục dịch
trong một gia đình rất giàu có. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng đã
kiếm sống bằng cách làm việc cho ông bà chủ của nàng.
Và vào thời đó, nhà vua Bandhuma luôn giữ ngày Bát quan trai
giới vào những ngày rằm. Nhà vua thực hiện bố thí vào buổi sáng
và sau khi dùng bữa nhà vua đến thiền viện để lắng nghe giáo
pháp. Thế rồi Tăng chúng cũng tham gia thực hiện những gì nhà
36[?]
Vì “hai mươi lăm năm đã trôi qua kể từ ngày ta xuất gia.” xin đọc Th-a II 173 adv.
405.
37[?]
Đối với câu “không có tâm an tịnh. Thiếu kiềm chế tâm linh: xin đọc chú giải v. 37 ở
trên (tr. 62) Thi 36. còn câu “ tham dục của ta đã cạn kiệt.” xin đọc Th-a II 216 ad v.
517.
66
vua đã nêu gương. Tham gia vào những công việc chủ yếu tạo
nên “Ngày giữ giới[38]” vào ngày rằm đó. Thế rồi nữ nô tỳ đó suy
nghĩ trong lòng “Quả thật, vị đại vương và dân chúng thực hiện
những điều thiết yếu tạo thành ngày Bát quan trai giới. Ước mong
ta cũng thực hiện hạnh thiện trong ngày giữ giới đó”. Và nàng
cũng thực hiện như vậy và nắm giữ thực hiện những hạnh thiện
đó rất thanh tịnh.
Nàng được tái sanh nơi cõi Trời Đâu Xuất và chỉ chu du tái sanh
nơi những cõi hạnh phúc. Vào thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh
ra trong gia đình một thương gia giàu có trong thành Savatthi.
Khi đến tuổi trưởng thành, nàng đã đến lắng nghe giáo pháp nơi
Trưởng lão Ni Patacara và rồi xuất gia. Nàng an trú nơi thiền
quán nhưng không thể thọ thiền định tột đỉnh. Trưởng lão Ni
Patacara nhận ra ngay điều gì đang diễn ra nơi tâm của nàng và
chỉ dạy cho nàng đủ điều. Nàng an trú những lời chỉ dạy đó và rồi
chứng thánh pháp A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải.
Như trong Thí Dụ Kinh (Apadana) kể lại như sau:
1. Trong thành Bandhumati, có vị sát đế lỵ tên là
Bandhuma [làm vua]; ngài đã giữ Bát quan trai giới vào những
này rằm trong năm.
2. Vào thời đó ta chỉ là một người kín nước. Sau khi nhìn thấy
quân lính đông đảo đi cùng với nhà vua, ta thầm nhủ trong lòng
như sau:
3. Ngay cả nhà vua còn rời bỏ vương quốc của mình và nắm giữ
ngày Bát quan trai giới. Chắc hẳn hành vi này phải đem lại thánh
quả to lớn. Thần dân thì vui mừng sung sướng.
4. Ta cẩn thận suy xét đến hoàn cảnh nghèo hèn của mình và
khả năng dẫn đến tái sanh khốn khổ trong tương lai. Thế rồi ta
khiến tâm hoan hỷ và cũng thực hiện giữ ngày Bát quan trai giới.
5. Ta nắm giữ ngày giữ giới theo đúng lời dạy của Vị Toàn
Giác ngộ. Thế rồi thông qua nghiệp lành đó ta được tái sanh nơi
cõi Trời Đâu Xuất.
6. Nhờ nghiệp thiện ta đã làm được, đã khởi sanh tại đó cho ta
một Thiên Cung cao một do tuần và được trang bị với nhiều nhà
mái cong tuỵêt vời và còn dọn sẵn một tọa sàng rộng rãi được
trang điểm lộng lẫy vô song.
38[?]
Giới luật thứ tám hay thứ mười.
67
7. Có cả ngàn tiên nữ thiên giới lúc nào cũng hầu hạ ta. Ta
luôn tỏa sáng hơn hẳn mọi chư thiên khác, không ai vượt nổi
được.
8. Với tư cách chánh hậu trong cung ta cai quản sáu mươi tư
chư thiên vương và cũng là chánh hậu ta còn cai quản sáu mươi
ba chuyển luân vương nữa.
9. Ta chu du tái sanh qua nhiều kiếp sống với làn da toả sáng
như vàng ròng. Khắp mọi nơi ta đều chói sáng huy hoàng nhất.
Đây chính là thành quả do giữ ngày Bát quan trai giới đem lại.
10. Một chú tượng được dùng làm phương tiện chuyên chở (cỗ
xe). Một con ngựa được dùng làm phương tiện chuyên chở (cỗ
xe). Một chiếc xe được dùng làm phương tiện chuyên chở, và còn
có cả chiếc lọng – ta chứng đắc toàn bộ những thứ đó. Đây chính
là thành quả do giữ ngày Bát quan trai giới đem lại.
11.Ta sở hữu đủ mọi thứ làm bằng vàng ròng, làm bằng bạc sáng
chói, bằng đá pha lê và bằng ngọc ru-by đỏ hồng.
12. Rồi xiêm y có giá trị rất lớn – nào tơ lụa và quần áo may
bằng len, rồi vải lanh và vải bông sợi đủ loại – ta sở hữu toàn bộ
những thứ đó.
13. Vật thực và đồ uống đủ loại có thể ăn uống được, quần áo,
nhà cửa - ta sở hữu toàn bộ những thứ đó. Đây chính là thành
quả do giữ ngày Bát quan trai giới đem lại.
14. Hương thơm tuyệt hảo, những vòng hoa đắt giá, nào bột xức và
dầu thơm đủ loại - ta sở hữu toàn bộ những thứ đó. Đây chính là
thành quả do giữ ngày Bát quan trai giới đem lại.
15. Những toà nhà mái cong tuyệt mỹ, những toà nhà diễm lệ, rồi
sảnh đường và nhà riêng cùng hang động - ta sở hữu toàn bộ
những thứ đó. Đây chính là thành quả do giữ ngày Bát quan trai
giới đem lại.
16. Ta đã xuất gia vào tuổi lên bảy sống cuộc đời vô gia cư kể từ
đó. Chưa đầy nửa tháng trôi qua ta đã chứng thánh quả A-la-
hán.
17.Mọi lậu hoặc ta có đều đã bị thiêu rụi sạch. Mọi tái sanh trong
tương lai cũng hoàn toàn bị triệt phá. Toàn bộ vết nhơ ô uế đều
cạn kiệt. Giờ đây ta chẳng còn tái sanh nơi kiếp mới bao giờ.
18. Trong suốt chín mươi mốt đại kiếp trở lại đây kể từ khi ta
thực hiện phước nghiệp đó ta chưa bao giờ phải chứng kiến tái
68
sanh nơi cảnh khổ. Đây chính là thành quả do giữ ngày Bát quan
trai giới đem lại.
19 – 21.Mọi lậu hoặc của ta đã bị tiêu rụi hết … [xin đọc tr.
10] ta đã thực hiện lời Phật dạy.
Sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán và nhìn lại những thành quả
đã đạt được, nàng thốt lên những đoạn kệ này như là lời tuyên bố
long trọng:
42. Bốn năm lần ta đã rời khỏi căn phòng của mình, không
thể nào chứng đắc an tịnh trong tâm. Vì không thể kiềm chế tâm
linh.
43. Ta đã chạy lại vị Tỳ khưu Ni người ta cảm thấy thích hợp để
ta tin cậy. Nàng đã dạy ta nhiều giáo pháp, ngũ uẩn, căn giác
quan, và các đại cấu thành.
44. Ta lắng nghe nàng giảng giải rất chăm chú. Trong suốt bảy
ngày liên tục không ngớt, ta đã ngồi thiền với tư thế kiết già,, ta
thọ hưởng hỷ và hạnh phúc. Vào ngày thứ tám ta đã duỗi thẳng
chân ra, sau khi đã xé tan đám mây u ám vô minh.
43. Ở đây, ta (sa) chạy lại với (upagacchim) Tỳ khưu Ni một
người thật xứng cho ta (maya) tin cậy (saddhayika) có nghĩa là:
nàng là người có thể tin tưởng được (saddhatabba), lời nói của
nàng ta có thể tin tưởng được (saddheyyavacana), ta đã đến
với (upagacchi) Tỳ khưu Ni đó. Nàng nói vậy có ý ám chỉ đến
Trưởng lão Ni Patacara, cũng còn có cách giải thích rằng: “Tỳ
khưu Ni đó xuất hiện và đã làm sáng tỏ mọi sự cho ta” Tỳ khưu
Ni Patacara đến với ta xuất phát từ lòng đại bi. Nàng là người làm
hoàn thiện ước muốn đích thực của ta. Đó là ý nghĩa đoạn
trên. Nàng diễn giải Giáo Pháp cho ta (Me dhammar adesesi),
ngũ uẩn, ngũ căn giác quan và các đại cấu thành
(khandhayatana-dhatuyo) có nghĩa là: Trưởng lão Ni Patacara đã
phân tích các đại tái sanh v.v…cụ thể là, ngũ uẩn (pađca-
khandha). Mười hai căn giác quan này (dvadasayatanani) và
mười tám đại (attharasa dhatuyo). Nàng đã diễn giảng cho ta
Giáo Pháp của Đức Phật (mayha dhamma desesi)
44. Ta lắng nghe Giáo Pháp nàng diễn giải có nghĩa là: Ta nghe
nàng giảng giải giáo pháp thiền quán thật tinh tế và tế nhị từ lời
nói Trưởng lão Ni, người đã chứng Tứ vô ngại giải, và đã chứng
pháp chánh đạo, đã được trình bày trước đó. Bằng cách phân loại
thành các uẩn v.v…Khi nàng giảng dạy (anusasi) cho ta có nghĩa
69
là: khi vị Trưởng lão Ni đó giảng giải cho ta; nàng giảng giải cho
ta; nàng diễn giải cho ta (ovadi), như thế đem ra thực hành, ta
chứng đắc đỉnh cao, và ta ngồi trong một tư thế kiết già. Bằng
cách nào vậy? Ta thọ hưởng hoan lạc và hạnh phúc, có nghĩa là,
hoàn toàn đạt được hoan hỷ và hạnh phúc trong hiện trạng an chỉ
định. Vào ngày thứ tám (atthamiya) ta duỗi thẳng chân ra, sau khi
đã xua tan (padaliya) đám mây mù u ám [vô minh] có nghĩa là: sau
khi đã xé tan (padaletva) không bỏ qua bất kỳ đám mây mù u ám
sân si nào, thông qua con đường cao thuợng vào ngày thứ
tám (atthame divase) ta đã phá bỏ tư thế xếp bằng và duỗi thẳng
chân ra, và quả nhiên, đó chính là lời công bố kiến thức toàn hảo.
Đến đây kết thúc chú giải về những bài kệ của Trưởng lão Ni
Uttama.
3. CHÚ GIẢI BÀI KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI UTTAMA
KHÁC
Các đoạn kệ bắt đầu với [Ta đã tu tập] toàn bộ thất giác chi này là
của Trưởng lão Ni Uttama khác. Cả nàng nữa cũng đã thực hiện
những phước nghiệp dưới thời các Đức Phật tiền kiếp và đã tích
lũy những hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống trước làm căn giải thoát.
Dưới thời Đức Thế Tôn Vipassi hiện tại, nàng sanh ra trong thành
Bandhumati và trở thành một nô tỳ trong gia đình kia. Một ngày
kia nàng gặp một đồ đệ của vị Đạo Sư, là trưởng lão đã triệt phá
hết mọi tỳ vết trong lòng, đang chu du tái sanh khất thực khắp nơi.
Với tâm hoàn toàn hoan hỷ phục vụ ngài, nàng cúng dường Ngài
ba chiếc bánh nhỏ.
Qua hạnh thiện đó nàng đã chu du tái sanh khắp các cõi chư thiên
và nơi thế gian chúng sanh, và vào thời Đức Phật hiện tại, nàng
sanh ra trong gia đình Bà la môn giàu có nọ trong thành Kosala.
Khi đến tuổi trưởng thành, nàng lắng nghe giáo pháp do chính
Đức Phật diễn giải khi ngài thực hiện chuyến du hành trong thành
đó. Nàng chứng niềm tin, xuất gia và chỉ sau một thời gian ngắn
nàng chứng thánh quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải.
Như được kể lại trong Thí dụ Kinh (Apadana) như sau:
1. Ta là một cô gánh nước trong thành Bandhumati. Ta thực hiện
công việc và được trả công như là một kẻ gánh nước thuê.
70
2. Ta đã gặp được vị ẩn sĩ trên đường đi, tâm ngài an tịnh và
điềm tĩnh. Với tâm hoàn toàn thoải mái phục vụ ngài, ta đã cúng
dường ngài ba chiếc bánh nhỏ.
3. Kết quả do phước nghiệp đó đem lại và do quyết tâm cùng
với mục tiêu ta nhắm tới, ta đã không phải du hành đến bất kỳ cõi
nào trong suốt một thời gian chín mươi mốt đại kiếp.
4. Ta được hưởng tất cả những gì do hiện trạng thành tích đó
tạo ra. Ta đã bố thí ba chiếc bánh nhỏ và đã tới được nơi không
hề lay chuyển.
5-7. Mọi lậu hoặc của ta đã bị tiêu rụi hết … [xin đọc tr. 10] ta đã
thực hiện lời Phật dạy.
Sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán và nhìn lại thành tích của
mình, nàng đã thốt lên những bài kệ như là lời công bố long trọng
như sau:
45. Ta đã tu tập toàn bộ thất giác chi đó là phương cách dẫn
đến Vô Dư Níp Bàn, theo như lời Đức Phật dạy.
46. Ta chứng đắc hư không và vô tướng [những khía cạnh
dẫn đến níp bàn], bất kỳ điều gì ta mong muốn, ta trở thành đồ đệ
Đức Phật đích thực, luôn luôn hoan hỷ hướng tới níp bàn.
47. Toàn bộ thú vui dục lạc những thứ là thiên giới và thuộc
cõi con người, ta đã triệt phá hết, đoạn diệt cả tình trạng chu du
tái sanh từ tái sanh này sang tái sanh khác. Giờ ta chẳng phải tái
sanh trở lại.
46. Ở đây, ta đạt đến hư không và vô tướng [những nhân tố dẫn
đến níp bàn] (suđđatassanimitassa), bất kỳ điều gì ta mong muốn
có nghĩa là: ta đã chứng bất kỳ điều gì mình muốn chứng đắc hư
không (suđđata-samapattiya) và chứng đắc vô tướng (animitta-
samapattiya). Liên quan đến điều đó, bất kỳ điều gì ta muốn
được, bất kỳ nơi đâu, bất kỳ khi nào, ta muốn đều xuất hiện ngay
tại đó sau khi có được từng điều một tại nhiều nơi bất kỳ lúc nào.
Đó là ý nghĩa. Ngay cả những gì ta gọi là hư vô, ta không ước ao
có được, v.v…(suđđatappanihitadi- namakassa) lại là chánh đạo
của ai đó, là hiện trạng kết quả tạo ra gồm ba hiện trạng hư vô,
v.v… Giờ đây Trưởng lão Ni đó đã thọ chứng đắc hư vô. Như
vậy nàng nói. Ta đã đạt đến hư vô và vô tướng [là nhân tố dẫn
đến níp bàn] bất kỳ điều gì ta muốn. Hay nói cách khác, nàng nói
điều này như là một qui luật chung, một số người khác cho rằng
đây là điều cần cứu xét như là một dấu chỉ.
71
47. Những người nào thuộc thiên giới và những kẻ thuộc cõi đời
này có nghĩa là: ước muốn, có tài sản, những kẻ đó, thuộc về cõi
chư thiên, và những kẻ thuộc cõi con người, toàn bộ những ước
muốn đó đã bị triệt hạ đến tận gốc rễ. Thông qua từ bỏ những ước
muốn, những dục vọng liên quan đến chúng. Vì có lời nói rằng:
‘Hỡi chư huynh, một Tỳ khưu đã diệt hết các vết tích ô uế thì
không thể hưởng những tham dục giác quan nữa như ngài đã làm
khi còn là một chủ gia.” Ý nghĩa những điều còn lại đã được giải
thích ở trên.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của trưởng lão Uttama
khác.
4. CHÚ GIẢI CÁC BÀI KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI
DANTIKA
Các đoạn kệ bắt đầu với Ta rời khỏi ngôi tịnh xá là nơi nghỉ
trưa của Trưởng lão Ni Dantika. Trưởng lão cũng đã thực hiện
những phước nghiệp dưới thời các Đức Phật tiền kiếp và cũng
tích lũy được những hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống khác nhau
làm cơ sở để được giải thoát. Vào thời điểm không có giáo pháp
của Đức Phật hiện tại, nàng đầu thai trong cung lòng một kiên đà
ngay trên bờ sông Candabhaga. Một ngày nọ, đang lúc tiêu khiển
và đi ngao du với các kiên đà, nàng nhìn thấy Đức Phật Độc Giác
(Pacceka) đang ngồi thiền dưới gốc cây cổ thụ kia, là nơi ngài lấy
đó làm chỗ nghỉ trưa. Nhìn thấy ngài, với tâm hoàn toàn thoải mái
phục vụ Ngài, nàng tiến đến gặp Ngài và dâng lên Ngài bó hoa
Sala. Do vậy thông qua phước nghiệp đó, nàng được chu du tái
sanh cùng với chư thiên nơi thiên giới cũng như nơi cõi con
người.
Vào thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong gia đình một vị
Bà-la-môn cũng là vị quan tể tướng của nhà vua Kosala trong
thành Savatthi. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng trở thành một tín
nữ, chứng đắc niềm tin khi thiền viện trong khu rừng Kỳ Viên
được dâng cúng cho Đức Phật. Sau đó, nàng đã xuất gia trước sự
chứng kiến của Maha-Pajapati Gotami. Một ngày nọ, trong khi an
trú trong thành Rajagaha, sau khi dùng bữa, nàng đã leo lên đỉnh
núi Linh Thứu. Nàng ngồi thiền tại đó với vị trí được coi như là
nơi nghỉ trưa cho nàng. Thế rồi nàng nhìn thấy một con voi đang
giang rộng chân ra để cho người cưỡi voi leo lên lưng. Lấy điều
72
đó làm chủ đề thiền, nàng tinh tấn trong tu luyện thiền quán và
chứng thánh quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải.
Như được thuật lại trong Thí Dụ Kinh (Apadana) như sau:
1. Vào thời đó ta còn là một kiên đà trên bờ sông Candabhaga.
Ta đã gặp Phật Độc Giác (Pacceka) vô tỳ vết, là Đấng Tự khởi
sanh, và vô song.
2. Với tâm hoàn toàn thoải mái phục vụ Ngài, hoan hỷ và tràn
đầy phấn khởi. Ta lấy một vòng hoa Sala và kính lễ Ngài là Đấng
Tự Khởi Sanh.
3. Do kết quả phước nghiệp đó và do lòng quyết tâm và với mục
tiêu rõ ràng khi ta từ bỏ thân xác kiên đà. Ta đã tái sanh tại cõi
Trời đâu xuất.
4. Là Chánh hậu của ba mươi sáu vua chư thiên ta đã cai quản
mọi việc. Bất kỳ điều gì ta mong muốn trong lòng ta đều được
toại nguyện cả.
5. Là Chánh hậu mười cõi chuyển luân ta cai quản mọi việc tốt
đẹp. Tâm ta được tăng cường mạnh mẽ. Ta chu du tái sanh trong
nhiều kiếp sống con người.
6. Ta đã thực hiện hạnh thiện. Ta đã xuất gia sống cuộc đời vô
gia cư. Ngày hôm nay ta xứng nhận vinh dự nơi giáo pháp của
thiên tử Phật Thích Ca.
7. Hôm nay tâm ta được thanh tịnh, tâm ta được thoát khỏi điều
bất thiện toàn bộ vết được tiêu diệt. Giờ đây ta chẳng còn phải
trải qua tái sanh bao giờ nữa.
8. Trong suốt chín mươi mốt đại kiếp kể từ ngày ta cúng dường
của thí đó. Ta chẳng phải trải qua bất kỳ cõi khổ nào. Đây chính
là thành quả do cúng dường vòng hoa sala đem lại.
9 – 10. Mọi lậu hoặc của ta đã bị tiêu rụi hết … [xin đọc tr. 10] ta
đã thực hiện như lời Phật dạy.
Sau khi chứng thánh quả A-la-hán và nhìn lại thành tích nàng đã
đạt được, niềm vui và hạnh phúc đã trào dâng nơi tâm hồn nàng,
nàng thốt lên những đoạn kệ này như là lời tuyên bố long trọng
đó.
48. Ra khỏi ngôi tịnh xá để nghỉ trưa trên đỉnh núi
Gijjhakura. Ta đã nhìn thấy con voi trên bờ sông. Sau khi nhào
tới và leo lên lưng voi.
73
49. Một người cầm chiếc móc, yêu cầu con voi, “Hãy đưa
chân lên cao.” Con voi đã dang chân ra; người đó leo lên đỉnh
lưng voi.
50. Nhìn thấy con vật bất kham được thuần hóa. Được con
người khống chế dễ dàng, thế rồi tâm ta tập trung chú ý, đi vào
rừng nhằm đạt mục tiêu tu luyện.
48. Ở đây, một con voi … khi đã tiến lên sau khi nhào vào có
nghĩa là: một con voi sau khi đã nhào xuống sông , sau khi đã
nhào xuống (ogayha) rồi lại ngoi lên. Hay nói cách khác, có một
cách giải thích “đã trồi lên sau khi đã chìm xuống (nước) nguyên
âm m trong đã biến thành một từ êm tai trong từ ghép hai từ
này. Ta đã nhìn thấy …trên bờ sông (naditirahmi) có nghĩa là: ta
đã nhìn thấy con vật trên bờ sông (nadiya tire) Candabhaga.
49. Đang làm gì thế? Người ta nói rằng để chỉ rõ các từ bắt đầu
với “một người”. Ở đó, [ngài] yêu cầu [con voi]. “Hãy chìa chân
ra cho ta” có nghĩa là: ngài ra hiệu có nghĩa là: ngài ra lệnh cho
con voi “Hãy giơ chân ra” hay giang chân ra cho người đó leo lên
lưng. Ý nghĩa ở đây là, Ngài yêu cầu trong trường hợp này bằng
cách ra hiệu một cách thích hợp.
50. Nhìn thấy con vật hoang dã được thuần hoá có nghĩa là: con
vật tự bản chất chưa được thuần hoá trước đó, giờ đây đã
được thuần thục với kỷ luật thuần hóa của người huấn luyện voi,
đã khống chế được. Thuần hoá bằng cách nào? Được con người
kiềm chế : bất kỳ điều gì người huấn luyện voi sử dụng, người đó
thấy như vậy; đây là điều ta cần hiểu. Chính vì thế [nàng nói
rằng] thế rồi với tâm tập trung chú ý, đi vào rừng nhằm mục đích
đó. Quả thật (khalu) là một tiểu từ dùng để nhấn mạnh. Thế
rồi (tato) [có nghĩa là]: sau khi nhìn thấy con voi. Nhằm mục đích
đó (taya) [có nghĩa là]: vì hành động của con voi là nguyên nhân,
đi vào rừng (vana?= arađđa?), chính vì thế ta đã tập trung tư
tưởng. Bằng cách nào? Quả thật, ngay con vật là con voi đã được
kiềm chế qua sức mạnh của người huấn luyện voi, nghĩ rằng, “Tại
sao tâm của người nào đó đã trở thành người tốt lại không kiềm
chế qua sức mạnh của Đạo Sư được, là người chuyên thuần hoá
con người?” Một mối giao động mạnh mẽ nổi lên trong tâm nàng
và nàng gia tăng nhập thiền quán. Ta đã tập trung chú ý trong
lòng thông qua thiền định thánh đạo tuyệt hảo. Ý nghĩa ở đây là:
ta đã triệt phá hết mọi lậu hoặc bằng tập trung tinh tấn.
74
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ trưởng lão ni Dantika khác.
5. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI UBBIRI
Những đoạn kệ bắt đầu với Mẹ hỡi, [mẹ khóc] “ôi Jiva” là của
Trưởng lão Ni Ubbiri. Nàng cũng thực hiện những phước nghiệp
dưới thời các vị Phật tiền kiếp, và đã tích lũy được nhiều hạnh
thiện ở nhiều tiền kiếp làm căn giải thoát. Vào thời Đức Thế Tôn
Padumuttara, nàng được sanh ra trong một gia đình tốt trong
thành Hatsavati. Một ngày kia khi đã đến tuổi trưởng thành, mẹ
và cha nàng đến nhà một người kia tham dự lễ hội. Nàng phải bỏ
lại nhà một mình.
Khi đến bữa ăn trưa, nàng nhìn thấy một đồ đệ của Đức Thế Tôn,
là Trưởng lão đã triệt phá hết các lậu hoặc, đang đi đến gần cửa
nhà. Vì muốn bố thí cho Ngài, nàng nói, “Bạch Trưởng lão kính
mến, xin hãy bước vào trong nhà.” Vị Trưởng lão bước vào nhà,
và nàng kính lễ Ngài bằng cử điệu ngũ thân đầu địa và chỉ cho
ngài chỗ ngồi đã dọn sẵn được phủ một lớp len,v.v… vị Trưởng
lão liền ngồi trên chỗ dành riêng cho ngài. Nàng lấy bát khất thực,
đổ đầy của bố thí và đặt vào tay Ngài. Vị Trưởng lão thọ lãnh vì
hạnh nghiệp của nàng, Ngài dùng bữa rồi ra đi.
Do vậy qua phước nghiệp đó, nàng được tái sanh nơi cõi Trời
Đâu Xuất. Tại đó, nàng sống cho đến mãn nghiệp, nàng thưởng
thức biết bao nhiêu điều phồn vinh chư thiên. Thế rồi nàng qua
đời và chỉ chu du tái sanh nơi cảnh hạnh phúc mà thôi. Dưới thời
Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong gia đình một gia chủ rất
giàu có trong thành Savatthi. Nàng được đặt tên là Ubbiri và nàng
rất xinh đẹp, trông rất dễ thương với sắc đẹp vô cùng quyến rũ.
Khi đến tuổi trưởng thành, nhà vua Kosala đã chọn nàng về chính
hoàng cung của mình.
Ít năm sau đó nàng hạ sanh được người con gái, và họ đặt tên cho
công nương là Jivanti. Nhà vua ngắm nhìn con gái của mình và tỏ
vẻ hài lòng, cho xức dầu tấn phong Ubburi làm hoàng hậu.
Nhưng con gái của bà chạy nhảy khắp nơi, chạy khắp tứ phương
liên tục không ngừng và đã qua đời. Người mẹ than khóc con gái
mỗi ngày, chạy tới bãi tha ma là nơi xác nàng được an táng. Một
ngày kia, nàng chạy lại gặp vị Đạo Sư, nàng kính lễ Ngài và ngồi
xuống trong giây lát. Thế rồi nàng đi ra bờ sông Aviravati tiếp tục
than khóc cái chết của con gái mình.
75
Nhìn thấy nàng đang khi ngồi thiền trong hương phòng, Đức Phật
hiện rõ trước mặt nàng và hỏi, “Tại sao nhà ngươi lại nói lảm
nhảm như vậy?” “Bạch Đức Thế Tôn” nàng nói: “con đang than
khóc con gái của con đã qua đời.” Có tới Tám mươi tư ngàn con
gái của nhà người đã được hỏa táng trong nghĩa trang này, nhà
ngươi than khóc đứa con gái nào trong số đó nhỉ?” [Đức Phật hỏi
nàng] và sau khi chỉ cho nàng thấy toàn bộ những phong cảnh hỏa
táng bọn con gái đó. Ngài thốt lên một đoạn kệ và một nửa như
sau:
51. Hỡi bà mẹ, ngươi la to “Ôi Jiva” trong cánh rừng. Hãy tự
hiểu mình đi, ôi Ubbiri. Tám mươi tư ngàn đứa con gái, toàn bộ
đều mang tên Ubbiri đã được thiêu trên ngọn lửa hoả táng kia.
Nàng than khóc Jiva nào vậy?
51. Ở đây, hỡi bà mẹ… “Ôi hỡi Jiva” có nghĩa là: nàng đang nói
với con gái của mình với tên dành cho một người mẹ. Và điều
này chỉ ra cho thấy nàng đang than khóc con gái của mình. Nàng
than khóc (kandasi)…trong cánh rừng (vanamhi) có nghĩa là:
nàng đang than khóc (paridevai) giữa cánh rừng rậm rạp (vana-
majjhe). Hãy hiểu rõ mình đi (attana? adhigaccha). Ubbiri có
nghĩa là: Hỡi Ubbiri, hãy tỉnh lại đi (tava bujjhassu) chính vì
ngươi (tava attana) chính là nhà ngươi đang lảm nhảm rồi. Tám
mươi tư ngàn (cullasiti-sahassani) có nghĩa là: tám mươi tư ngàn
(người con gái) (caturasiti-sahassani). Tất cả đều có tên là
Jiva (Jiva-sanamika) có nghĩa là: tất cả những (đứa con gái đó)
đều có cùng một tên gọi (samana-namika) là Jivanti. Đã được
hoả thiêu (da??ha) trong giàn lửa hoả táng này (etamh’ a?ahane)
có nghĩa là: đã được hoả táng (jhapita) tại nghĩa trang
này (etamhi susane). Như vậy giáo pháp vị Đạo Sư diễn giải đã
dùng để tu luyện kiến thức cho nàng như là kết quả bài kinh này.
Nàng bắt đầu tu luyện thiền quán. Do điều tuyệt vời nơi bài kinh
của vị Đạo Sư và nàng chứng đắc những điều kiện tiên quyết, như
đang đứng đó, nàng đang tu luyện thiền quán hết sức nhiệt tình và
nhờ chánh đạo từng thứ một được an trú nơi thánh quả A-la-hán
tột đỉnh.
Như đã nói trong thí dụ kinh (Apadana) như sau:
1. Ta là một thiếu nữ trẻ tuổi sống trong thành Hatsavati. Vì mẹ
và cha ta đi làm việc xa.
76
2. Ta nhìn thấy một vị ẩn sĩ đang du hành trên đường phố dưới
ánh nắng trưa gay gắt. Ta đã dâng lên ngài một chiếc ghế.
3. Sau khi đã đưa ra chiếc ghế bọc len, v.v…Với tâm hoàn toàn
thoải mái phục vụ ngài, hoan hỷ ngài thốt lên những lời này:
4. “Mặt đất nóng như thiêu đốt dưới ánh mặt trời trưa hè và gió
máy yên lặng như tờ. Quả Thật cơ hội đã đến với ta đây rồi.
5. “Bạch Ngài Đại Trí, chiếc ghế này đã được sửa soạn dành
riêng cho ngài, hãy ngồi xuống chiếc ghế con dâng để tỏ lòng đại
bi [với con].
6. Ngài ẩn sĩ tính tình thuần thục với tâm thanh tịnh đã ngồi
trên đó. Ta đã nhận bát khất thực của ngài và dâng lên ngài bữa
ăn đã được nấu sẵn.
7. Do kết quả hạnh nghiệp đó và của lòng quyết tâm và mục
tiêu của con, khi con từ bỏ cái thân phàm tục này, con đi tới cõi
Trời Đâu Xuất.
8. Tại đó, đã có những toà nhà được sửa soạn kỹ lưỡng làm nơi
cư trú cho con được trang bị với một ghế ngồi dài sáu mươi dậm
cao và rộng đến ba mươi dậm.
9. Và còn có đủ thứ tọa sàng dành cho con được làm bằng
vàng, châu báu, pha lê và hồng ngọc Ru-bi.
10.Toạ sàng của con được trang bị với đệm mút bọc len, tơ lụa
phủ trên đủ thứ màu, và còn có lớp phủ bằng da nữa.
11.Khi ta muốn thực hiện một chuyến du hành, ta đã chu du tái
sanh theo ý muốn trên một tọa sàng tuyệt vời nhất, được trang bị
cho con tiêu khiển và thưởng ngoạn.
12.Với tư cách chánh hậu ta đã cai quản cung điện tám mươi vị vua
chư thiên và bảy mươi vương quốc chuyển luân vương.
13. Khi ta du hành nơi nhiều kiếp sống khác nhau. Ta có được tài
sản to lớn. Không thiếu thốn bất kỳ thứ tiêu khiển nào dành cho
ta. Đây chính là thành quả do cúng dường chiếc ghế đó đem lại.
14.Ta đã vân du tái sanh vào hai kiếp sống Thiên nhân, không
biết bất cứ kiếp sống cõi nào khác nữa. Đây chính là thành quả
do cúng dường chiếc ghế đó đem lại.
15. Ta đã biết rõ hai loại thân tộc: Sát đế lỵ và Bà la môn [bất kỳ
nơi đâu ta đều thuộc loại thân tộc thượng lưu. Đây chính là thành
quả do cúng dường chiếc ghế đó đem lại.
77
16. Ta chẳng phải trải qua sầu khổ hay than vãn tâm can. Ta
chẳng phải trải qua cuộc sống của kẻ bị khai trừ. Đây chính là
thành quả do cúng dường chiếc ghế đó đem lại.
17. Có rất nhiều kẻ hầu hạ, người đỡ lưng sửa áo, và nhiều kẻ
hầu nữ chăm sóc cho ta. Ta được truyền từ lòng người này sang
lòng người kia. Đây chính là thành quả do cúng dường chiếc ghế
đó đem lại.
18. Một số lại phụ tắm cho ta. Người khác cho ta ăn cơm. Họ luôn
giúp ta tiêu khiển. Có kẻ lại xức dầu thơm cho ta. Đây chính là
thành quả do cúng dường chiếc ghế đó đem lại.
19. Hay sống trong cô độc trong một sảnh đường trên đỉnh ngọn
cây, khi một toạ sàng biết ý con, liền xuất hiện trước con.
20. Đây chính là kiếp sống cuối cùng, kiếp sống chung cuộc.
Chính ngày ta rời khỏi vương quốc và xuất gia đi theo cuộc sống
vô gia cư.
21. Trong một trăm ngàn đại kiếp kể từ ngày ta cúng dường của thí
đó. Ta chẳng phải rơi vào cảnh khổ bao giờ. Đây chính là thành
quả do cúng dường chiếc ghế đó đem lại.
22-24.. Mọi lậu hoặc của ta đã bị tiêu rụi hết … [xin đọc tr.
10] ta đã thực hiện lời Phật dạy.
Và được trụ lại vững chắc nơi thánh quả A-la-hán, làm rõ mọi sự
khác biệt cho chúng sanh, nàng đã đạt đến được, nàng thốt lên hai
đoạn kệ này.
52. Quả thật ngài đã rút mũi tên thật khó kiếm thấy, đâm dính
trong tim ta, ngài chắc chắn cũng đã nhổ khỏi cõi lòng ta nỗi sầu
khổ đứa con gái cưng của ta đã chết. Mọi sầu khổ đã chấm dứt
hẳn.
53. Hôm nay mũi tên đó đã được rút ra khỏi tim ta. Ta chẳng
còn đói khát. Mọi ham muốn đều lắng dịu, ta chạy lại quy y vị đại
trí mâu ni; chạy lại với pháp bảo rồi Tăng đoàn qui y.
52. Ở đây, Quả thật (vata) ngài đã rút mũi tên thật khó thấy đâm
thấu trái tim ta có nghĩa là: quả thật (yathavato) vì ta không có
những điều thiết yếu được tích lũy do hạnh thiện đem lại, thật khó
lòng nhìn thấy, đang tạo ra nỗi khổ trong tâm ta. Đau khổ đó có
tên là mũi tên vì nó thấu qua bên trong và thật khó loại bỏ được.
Chính là sầu khổ và dục lạc. Quả thật Ngài đã rút ra (abbahi
vata) [có nghĩa là] : quả thật ngài đã rút mũi tên ra (nihari vata).
Nỗi sầu khổ (soka paretaya)… đối với tôi (me) có nghĩa là: chính
78
vì ngài đã rút ra khỏi (byapanudi) nỗi sầu khổ đối với con gái
ta đã tràn ngập (sokenaabhibhutaya) tâm ta, [vì] ngài đã loại
bỏ (nihari) không bỏ qua bất kỳ điều gì; chính vì thế, “quả thật
ngài đã rút mũi tên cho ta” đó là điều liên quan trong hai dòng
chữ trên.
53. Hôm nay ta đã rút mũi tên của ta ra có nghĩa là: ngày hôm nay
ta có mũi tên tham dục được rút ra khỏi, và sau đó ta chẳng còn đói
khát, tận diệt. Vị đại trí có nghĩa là: Đức Phật toàn tri, và
chín loại giáo lý siêu thế đã được gộp lại trong tứ chánh đạo, tứ
chánh quả và việc dẫn đến Níp Bàn do ngài kinh, và Tăng
Đoàn những kẻ được gọi là nhóm tám người phạm hạnh được an
trú trong giáo pháp vì sự liên hệ với chánh pháp này và do việc triệt
phá toàn bộ sầu khổ trong đó. [Đây chính là những nơi quy y, sự
bảo vệ nơi cư trú chốn hỗ trợ. Ta chạy tới những nơi đó (upemi), ta
ra đi (upagacchami), ta tỉnh giấc (bujjhami), và ta chạy
lại (sevami) [với chúng]. Đây chính là ý nghĩa.
Đến đây kết thúc phần chú giải các bài kệ của Trưởng lão Ni
Ubbiri.
6. CHÚ GIẢI CÁC BÀI KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI SUKKA
Những đoạn kệ bắt đầu với Điều gì đã xẩy ra cho chúng sanh cư
ngụ trong thành Rajagaha là của Trưởng lão Ni Sukkha. Nàng đã
thực hiện những phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và
tích lũy được nhiều hạnh thiện làm căn giải thoát. Dưới thời Đức
Phật Vipassi hiện tại, nàng đã vào thiền viện với các đồ đệ nữ và
lắng nghe giáo pháp trước sự hiện diện của Đức Phật. Nàng phát
tâm tin Phật, xuất gia và trở thành một trong số những phụ nữ
kinh rất giỏi, tinh thông Phật Pháp và rất thông minh.
Tương tự như vậy, dưới thời Đức Phật Sikhi và Vessabhu hiện
tại, có nghĩa là dưới thời ba vị Toàn giác này, nàng đã nắm giữ
nhiều giới luật, hiểu biết và thông thạo tín lý. Cũng tương tự như
vậy nàng xuất gia thọ giới các vị Kakusandha, Konagamana và
Kassapa và nàng là một trong số những người có phẩm hạnh
thiện, một đại trí và là người kinh rất giỏi như vậy nàng đã tích
lũy được công đức to lớn đó, và chỉ chu du tái sanh nơi những
kiếp hạnh phúc mà thôi.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong một gia đình giàu
có trong thành Rajagaha. Nàng được đặt tên là Sukka. Khi đến
79
tuổi trưởng thành nàng chứng đắc tín thọ khi vị Đạo sư vào thành
Rajagaha và trở thành tín nữ. Sau đó nàng được nghe Trưởng lão
Dhammadina kinh và quá cảm xúc với bài kinh đó nàng đã xuất
gia với Dhammadinna, miệt mài tu tập thiền quán và chỉ sau một
thời gian ngắn nàng chứng quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại
giải.
Như đã được thuật lại trong Thí dụ Kinh (Apadana) như sau:
1. Chín mươi mốt đại kiếp qua, có một vị lãnh tụ tên là Vipassi
sanh ra, là người rất dễ coi, và thông thạo hết mọi pháp.
2. Vào thời bấy giờ, ta được sanh ra trong một gia đình nọ
trong thành Bandhumati. Ta đã lắng nghe Phật Pháp từ phía vị
Đại Tri và xuất gia sống đời vô gia cư.
3. Ta đã trở thành một trong số những người có học thức uyên
thâm, am hiểu giáo pháp và được phú cho tính thông minh tuyệt
hảo. Như vậy ta trở nên vị đại kinh và thọ giới đức hoàn thiện
giáo pháp của vị Chiến Thắng.
4. Thế rồi một ngày kia ta thực hiện bài kinh hầu đem lợi lạc
cho chúng sanh. Thế rồi ta trở nên rất nổi tiếng khắp vùng rồi sau
đó ta đã qua đời và được tái sanh nơi cõi trời Đâu Xuất (Tusita)
5. Ba mươi mốt đại kiếp qua, giống như ngọn lửa bừng lên, vị
Chiến Thắng Sikhi, là vị lợi khẩu vĩ đại đã giáng trần.
6. Đoạn ta xuất gia được coi như tinh thông giáo pháp của Đức
Phật khiến cho lời giảng dạy của vị Chiến Thắng tỏa sáng khắp
nơi. Rồi sau đó ta nhập cõi Tidiva.
7. Ba mươi mốt đại kiếp qua, vị lãnh tụ Vessabhu vĩ đại tài trí
đã đản sanh. Và cũng như vậy, ta đã đầu thai vào thời điểm đó.
8. Ta đã xuất gia và học thông thạo Giáo Pháp đồng thời làm
rõ giáo pháp của vị Chiến Thắng. Ta sống tại thành phố
Maru sung sướng và được hưởng hạnh phúc tại đó.
9. Trong kiếp thịnh vượng này, vị chiến thắng đã sanh ra, phúc
lợi và an toàn cho con người. Tương tự, ta cũng được sanh ra vào
thời gian đó.
10. Ta đã xuất gia và làm rõ giáo pháp của vị Đại trí suốt cuộc
đời của ta. Sau đó ta qua đời và tái sanh nơi cõi Tidiva như thể
đó chính là nhà mình.
11.Trong ngay đại kiếp này, vị lãnh tụ Kotaganama được sanh
ra. Ngài là Bậc đáng quy ngưỡng của thế gian,để thoát khỏi
phiền muộn và chứng đạt bất tử.
80
12.Đoạn cũng như vậy, ta lại xuất gia theo giáo pháp của vị đại
kiệt xuất đó. [Và ta lại trở thành một trong số những người đại
tài. Tinh thông giáo pháp đồng thời làm rõ giáo lý của vị Chiến
Thắng.
13. Và trong đại kiếp hiện tại, Đức Phật kassapa cũng giáng
trần, ngài là bậc đáng cho chúng sanh quy ngưỡng,, thoát khỏi
phiền muộn, sau khi đã chiến thắng tử thần.
14. Ta cũng đã xuất gia theo giáo pháp của vị Anh Hùng giải
thoát chúng sanh đó và đã chu tất Chánh Pháp rồi tinh thông cả
cách đặt vấn đề.
15. Người ta cũng coi ta là người giới đức và khiêm tốn, ta thông
thạo tam học giới, ta cống hiến nhiều cho việc kinh trong suốt
cuộc sống của mình, ôi vị Đại Trí hỡi.
16. Nhờ kết quả những hạnh thiện đó và với quyết tâm và mục
tiêu rõ ràng. Khi thọ mệnh diệt ta nhập cõi Trời Đâu Xuất ngay
tức khắc.
17.Và giờ đây, trong cuộc sống sau cùng này, ta được sanh ra
trong một thành phố tuỵêt mỹ Giribbaja [có nghĩa là
Rajagaha] trong gia đình một thương gia giàu có đầy triển vọng
sở hữu nhiều của cải châu báu.
18.Vào lúc Bậc Toàn Gíác tới thành Rajagaha, vây quanh là
hàng ngàn Tỳ khưu theo hầu, ngài được dạ xoa nghìn mắt hết lời
chúc tụng.
19.Con người thuần thục với thuần thục, con người hoàn toàn
giải thoát cùng đoàn người được giải thoát, vị thiện thệ vào thành
Rajagaha với các vị ẩn sĩ khổ tu tiền kiếp làm thành một đoàn
người đông đảo tựa xâu chuỗi vàng ròng vây quanh ngài.”
20. Sau khi chứng kiến sức mạnh của Đức Phật, sau khi lắng
nghe Ngài, Đấng có rất nhiều hạnh thiện. Ta thọ niềm tin nơi
Đức Phật, và tôn kính Ngài theo khả năng của mình.
21. Rồi một khoảng thời gian sau đó, ta rời bỏ gia đình và xuất
gia sống đời vô gia cư cùng với Trưởng lão Ni Dhammadinna.
22.Khi ta xuống tóc, ta triệt phá hết mọi lậu hoặc. Ta thọ lãnh toàn
bộ giáo pháp, và ta đã xuất gia chẳng bao lâu sau đó.
23-24. Khi ta diễn giải giáo pháp cho tăng chúng đông đảo. Một
khi giáo lý được diễn giải như vậy nhiều ngàn người đã am hiểu
giáo lý đó, nhận ra rằng dạ xoa đầy kinh ngạc. Và đặt hết niềm
tin nơi ta, thế rồi ngài dạo quanh thành Giribbaja nói rằng:
81
25. Điều gì đã xẩy ra với cư dân thành Rajagaha vậy? Họ trông
giống như kẻ đã đầy rượu vậy. Họ chẳng chăm sóc cho Sukka khi
nàng chú giải pháp bất tử.
26. Nhưng kẻ khôn ngoan thọ giáo pháp, ta nghĩ rằng thứ không
được đẩy lùi, chẳng bao giờ tạo ra chán ngấy, với hương ngọt, như
kẻ du hành được nếm mùi đám mây dông.”
27. Và ta đã tinh thông được sức mạnh siêu thế bằng thiên nhĩ
thông, ta đã tinh thông được hiểu biết ý nghĩ, ôi vị đại trí vĩ đại
thay.
28. Ta biết rõ tiền kiếp, thiên nhãn ta được thanh tịnh kỹ càng,
toàn bộ vết nhơ ô uế bị triệt phá, giờ đây ta chẳng còn phải đầu
thai bao giờ nữa.
29. Và quả thật, ôi vị đại anh hùng, cùng với ngài, là kiến thức nổi
lên trong ta, ta hiểu được ý nghĩa, pháp và ngôn từ.
30-32. Mọi lậu hoặc đã bị thiêu huỷ hết…(xin đọc tr. 10) ta đã
thực thi lời Phật dạy.
Giờ đây sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán. Vây quanh ngài là
năm trăm Tỳ khưu và một vị đại sư diễn giải Giáo Pháp. Một
ngày kia khi nàng du hành khất thực trong thành Rajagaha và
dùng bữa trưa, thế rồi đến thiền viện ni. Ngồi thiền cùng với một
tăng chúng đông đảo, nàng diễn giải giáo pháp như rẩy lên họ
một thứ nước bất tử. Và tăng chúng đó lắng nghe rất chăm chú
bài kinh của nàng với tai chăm chú cao độ. Với tâm không chút
phóng dật.
Vào lúc đó, đang lúc Trưởng lão Ni diễn giải giáo pháp đó, có
một chư thiên đang cư trú trong một cây ở vào cuối quãng đường
lại trở nên sẵn sàng phục dịch ngài rất cẩn thận và nhập thành
Rajagaha và rảo khắp phố phường trong thành, từ ngã tư này sang
ngã tư khác, hết lời ca ngợi công đức của Trưởng lão Ni bằng hai
đoạn kệ sau:
54. Điều gì đang diễn ra cho cư dân sống trong thành Rajagaha?
Xem ra họ ngây ngất như những người đã đầy rượu. Họ lại chẳng
hầu hạ Sukkha khi nàng diễn giải Giáo Pháp của Đức Phật.
55. Nhưng kẻ khôn ngoan uống từng gụm giáo pháp đó. Ta nghĩ
kỹ, điều không được đẩy lùi, sẽ chẳng bao giờ tạo ra thừa mứa.
Với hương thơm ngọt ngào khiến cho khách du hành như nhận
được đám mưa dông.
82
54. Ở đây, điều gì đã diễn ra cho cư dân sống trong thành
Rajagaha? (kim’me kata Rajagahe manussa) có nghĩa là: người ta
đã thực hiện gì cho cư dân sống trong thành Rajagaha này (ime
Rajagale manussa kim kata)? Quả thật họ đang tham gia công
việc gì vậy? Họ coi như kẻ đầy (pita) rượu (madhu) có nghĩa là:
giống như sử dụng một tảng ong, uống rượu mật ong (madhu) và
như thể mất trí, không thể ngóc đầu lên được, như vậy họ chẳng
còn cảm giác gì trước ý thức giáo pháp nữa và không thể ngóc
đầu lên được, ta nghĩ thế họ chỉ yên lặng đứng đó. Đây là ý
nghĩa. Họ đã không hầu hạ Sukka (na upasanti) khi nàng đang
diễn giải (desentim) giáo lý của Đức Phật (Buddha-sasanam) có
nghĩa là: người nào không hầu hạ, thì không ngồi cạnh (na
payirupasanti) Trưởng lão Ni Sukka, người đang kinh, giải
thích (pakasenti?) giáo pháp của Đức Thế Tôn, là Đức
Phật (Buddassa Bhagavato sasana?). Đây chính là điều có liên
quan đến điều gì đã xẩy đến với những cư dân sống trong thành
Rajagaha sao?
55. Nhưng (ca)…[giáo lý] đó (tan)… không bị đẩy lùi, không bị
cự tuyệt (appativaniyam) có nghĩa là: nhưng giáo pháp đó, ngược
lại (pana), là giáo lý tạo ra hiện trạng không thể quay trở lại hiện
hữu tái sanh (anivattaniya-bhavvaha?), [và tạo ra] chuyển động
loại bỏ được tái sanh mới.] (niyanika? abhinikkantataya). Hay nói
cách khác ta không bỏ qua điều này (anapaniyam) vì chính bản
chất giáo lý này làm dịu cho người nào lắng nghe. Chẳng bao giờ
tạo ra tình trạng thừa thãi. [có nghĩa là] tự bản chất giáo lý đó
chẳng cần phải thêm bớt điều gì nữa, giống như những hương vị
tuyệt vời và kết quả đem lại là hạng hương thơm ngọt ngào. Còn
có một cách giải thích theo Kinh Tạng cho rằng: là một loại dược
thảo có tính chất chữa bệnh làm thuốc (osadhabhuta) qua ước
muốn chữa lành bệnh và đau khổ do phải tiếp tục tồn tại. Nhưng
kẻ đại trí (sappađđa) lại thưởng thức thứ rượu đó. Ta nghĩ thế,
giống như những kẻ lữ hành (addhagu) được hưởng trận mưa
dông (valahakam) có nghĩa là: kẻ khôn, người khôn lại thưởng
thức thứ giáo pháp đó, tôi nghĩ thế, giống như khách lữ hành
trong sa mạc khô cằn [được uống] thứ nước mưa đến từ cơn mưa
dông đó (valahak’-antarato). Họ lắng nghe thứ giáo lý đó như thể
họ được uống từng gụm (pivanta) nước do cơn dông mưa xuống.
Họ lắng nghe giáo lý đó như thể đang uống (pivanta). Những con
83
người đó lắng nghe giáo lý đó. Họ lắng nghe cẩn
thận (sakkaccar)thứ giáo lý đó sau khi đã đến gặp Trưởng lão Ni
với tâm luôn sẵn sàng phục dịch ngài.
Sau này vào cuối đời Trưởng lão Ni, vào thời điểm ngài nhập vô
dư níp bàn, ngài đã giải thích kiến thức toàn hảo của mình để làm
rõ cách thoát ra khỏi tái sanh liên tục nhờ những lời diễn giải của
ngài như sau:
56.Nàng chính là Sukka bởi vì nàng là con của ánh sáng tâm linh,
loại bỏ hết mọi ước muốn, luyện thiền định kiên cường. Hãy
mang thân cuối cùng của mình, sau khi đã chiến thắng Ma Vương
và đoàn quân hung dữ.
56. Ở đây, Sukka có nghĩa là: Trưởng lão Ni Sukka ám chỉ chính
mình là một người nào đó. Có hiện trạng (dhammehi) tâm linh
tươi sáng (sukkehi) có nghĩa là: rất thanh
tịnh (suparisuddhehi) các tình trạng tâm linh siêu thế (lokuttara-
dhammehi). Loại bỏ được ước muốn, nhập định pháp
(samahita) có nghĩa là: loại bỏ hết toàn bộ ước muốn thông qua
chánh đạo. Nhập định thông qua thiền định thánh quả A-la-hán. Ý
nghĩa những gì còn lại đã được giải thích rõ ràng.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni Sukka.
7. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI SELA
Các đoạn kệ bắt đầu với câu Chẳng có cách nào thoát khỏi cảnh
thế gian này là của Trưởng lão Ni Sela. Nàng cũng đã thực hiện
nhiều phước nghiệp dưới thời Đức Phật tiền kiếp và đã tích lũy
được nhiều hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống khác nhau để được
giải thoát. Nàng sanh ra trong một gia đình tốt trong thành
Hatsavati. Khi đến tuổi trưởng thành cha mẹ nàng đã gả nàng cho
một chàng trai một gia đình tốt rất môn đăng hộ đối. Nàng sống
vô cùng hạnh phúc với chàng trong nhiều trăm năm trên cõi đời
này.
Khi chàng qua đời, chính nàng đã vượt qua sanh mệnh của mình
đạt đến tuổi già, và một nỗi giao động mãnh liệt đã nổi lên trong
tâm nàng, để tìm kiếm điều tốt lành nàng phải chu du tái sanh đôi
lúc từ công viên này đến công viên khác, từ thiền viện này đến
thiền viện khác nghĩ rằng, “Ta sẽ lắng nghe giáo lý của Đức Phật
cùng với chư vị ẩn sĩ và Bà la môn.
84
Một ngày kia, sau khi đã dừng lại ngay dưới gốc cây giác ngộ của
vị Đạo Sư và ngồi thiền tại đó, nàng suy nghĩ, “Nếu Đức Phật, vị
Thiện Thệ không gì sánh bằng, Đấng vô song, không gì địch nổi.
Thế thì cầu mong cây giác ngộ này tỏ ra cho con một điều lạ.”
Đoạn ngay tức khắc, khi ý tưởng đó vừa thoáng hiện ra trong đầu,
cây giác ngộ liền toả sáng chói chang, cành cây hình như được
làm bằng vàng ròng, chiếu sáng chói chang ra mười phương. Khi
nàng chứng kiến phép lạ đó, với tâm sẵn sàng phục dịch, nàng tỏ
ra vô cùng kính trọng với đôi tay giơ cao trên đầu và nàng ngồi
xuống ngay chính vị trí đó suốt bảy ngày bảy đêm. Đến ngày thứ
bảy nàng đã thực hiện kính lễ vô cùng long trọng cho Đức Phật.
Nhờ phước nghiệp đó, nàng đã chu du tái sanh khắp thiên giới
chư thiên và cõi chúng sanh, và dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng
sanh ra trong vương quốc Alavi làm công chúa nhà vua Alavika.
Người ta đặt tên nàng là Sela. Nhưng nghĩ rằng, “nàng là con gái
nhà vua A?avika.” Họ cũng lấy tên Alavika mà đặt cho nàng. Khi
đến tuổi trưởng thành, vị Đạo Sư đã khuất phục được [dạ xoa]
Alavika và đặt y cà sa và bát khất thực vào tay dạ xoa đó rồi cùng
với hắn đi vào thành Alavi.
Khi nàng còn là một thiếu nữ trẻ, nàng đã đi theo vị Đạo sư cùng
với nhà vua. Nàng lắng nghe giáo lý, thọ niềm tin và trở thành tín
nữ. Sau đó, một giao động dữ dội nổi lên trong nàng và nàng đã
xuất gia cùng với chư vị Tỳ khưu Ni. Nàng đã chu toàn xuất sắc
các nhiệm vụ đầu tiên, an trú thiền quán và thu thúc các hành, thọ
đắc những điều kiện tiên quyết và có kiến thức trưởng thành chỉ
trong một thời gian ngắn nàng chứng thánh quả A-la-hán.
Như được kể lại trong Thí dụ Kinh (Apanada) như sau:
1. Ta là kẻ chu du tái sanh vào thời đó trong thành Hatsavati.
Ta đã đi hết công viên này sang vườn thượng uyển khác để tìm
kiếm vật thực.
2. Một ngày nọ, trong tuần không trăng, ta đã chứng kiến cây
giác ngộ tuỵêt vời. Tâm ta trở nên hoan hỷ và ta đã ngồi thiền
dưới gốc cây giác ngộ đó.
3. Ta đã sắp xếp tâm nhiệt tình và kính lễ hai tay giơ cao khỏi
đầu. Cảm nhận hạnh phúc tột đỉnh những ý nghĩ tuôn trào trong
tâm ta như sau:
85
4. “Nếu Đức Phật công đức vô biên, không ai sánh kịp. Ước
mong ngài chỉ cho ta một điềm lạ. Cầu xin cây giác ngộ này toả
sáng chói chang.”
5. Ngay lập tức, khi ta vừa suy nghĩ như vậy, cây giác giác ngộ
toả sáng ánh hào quang chói chang, tỏa ra mười phương ánh
sáng vàng óng chói chang.
6. Ta ngồi thiền ngay dưới gốc cây giác ngộ đó trong suốt bảy
ngày bảy đêm liên tục. Vừa đến ngày thứ bảy ta dâng cúng dường
đèn dầu thắp sáng.
7. Ta xếp chung quanh chỗ ngồi đó năm chiếc đèn cháy sáng
lung linh và đèn của ta sáng mãi cho tới lúc mặt trời mọc.
8. Do kết quả phước nghiệp đó mang lại và lòng quyết tâm
côïng với mục tiêu sáng tỏ. Khi ta từ bỏ thân hèn ma dại này ta
được tái sanh nơi cõi Trời Đâu Xuất.
9. Tại đó do hạnh thiện ta đã thực hiện, đã xuất hiện cho ta một
thiên cung được gọi là Thiên cung [“năm cây đèn”] dài sáu mươi
dặm rộng ba mươi dặm.
10. Vô số kể đèn dầu vây quanh thiên cung toả sáng, trong lúc đó
chốn thiên cung chư thiên sáng toả rực rỡ với ánh sáng những
ngọn đèn đó.
11.Khi ta ngồi thiền quay mặt đi. Nếu ta muốn nhìn phía bên trên,
bên dưới và chung quanh chính mắt ta nhìn thấy hết mọi sự đó.
12.Theo ý ta muốn những kẻ hạnh phúc hay bất hạnh cứ hiện ra
trước mắt ta. Chẳng có cây cối hay núi đồi nào che khuất.
13. Với tư cách là chánh hậu ta cai trị tám mươi chư thiên vuơng và
cũng như thế ta lại cai quản một trăm chuyển luân vương.
14.Bất kỳ người nào sanh ra cho dù là chư thiên hay phàm nhân,
hàng ngàn ngọn đèn đều chiếu sáng xung quanh.
15. Khi ta xuất khởi cõi chư thiên rồi tái sanh nơi cung lòng
phàm nhân, sau khi đã tái đầu thai trong đó mắt ta vẫn chưa một
lần nhắm lại.
16. Có cả ngàn ngọn đèn chiếu sáng căn phòng ta sanh ra do
phước nghiệp ta đã thực hiện trước đó. Đây chính do kết quả
phước nghiệp cúng dường năm ngọn đèn ta đã làm trước đó.
17.Khi thọ mệnh cuối cùng ta đã mãn. Tâm trí ta lìa khỏi những điều
trần tục. Ta trở nên mát lạnh, chứng vô dư níp bàn hạnh phúc, là nơi
chẳng còn tuổi già lẫn chết chóc bao giờ.
86
18.Ở tuổi lên bảy ta đã chứng thánh quả A-la-hán và Đức Phật
Cồ Đàm đã ban cụ túc giới cho ta, do phước đức ta đã làm được.
19.Khi ta còn trú ngụ tại sảnh đường sang trọng hay tại nơi ẩn
dật dưới gốc cây kia. Một chiếc đèn luôn toả sáng. Đây chính do
kết quả phước nghiệp cúng dường năm ngọn đèn ta đã làm trước
đó.
20. Ta đã thanh tịnh thiên nhãn rất cẩn thận. Ta thành thạo nhập
thiền định và chứng tri kiến tuyệt hảo.Đây chính do kết quả phước
nghiệp cúng dường năm ngọn đèn ta đã làm trước đó.
21.Nhờ bố thí năm chiếc đèn chiếu sáng. Ta đã hoàn tất được toàn
bộ các thành tích đó. Ta đã thực hiện những gì cần phải làm. Ta đã
trở thành vô tỳ vết. Ta xụp lạy dưới chân Ngài mà kính lễ. Ôi vị Anh
Hùng vĩ đại, ôi vị đại nhân trí.
22.Trong suốt một trăm ngàn đại kiếp đã qua kể từ khi ta cúng
dường ngọn đèn. Ta chẳng phải trải qua tái sanh nơi cảnh khổ.
Đây chính do kết quả phước nghiệp cúng dường năm ngọn đèn ta
đã làm trước đó.
23 – 25. Mọi lậu hoặc đã bị thiêu huỷ hết…(xin đọc tr. 10) ta đã
thực thi lời Phật dạy.
Thế rồi sau khi chứng thánh quả A-la-hán, Trưởng lão Ni sống tại
thành Savatthi. Một ngày kia, sau bữa ăn trưa, ngài ra khỏi thành
Savatthi, đi vào khu rừng Andha để nghỉ trưa, và ngồi thiền dưới
gốc bóng cây nọ. Thế rồi, Ma Vương đã xuất hiện dưới dạng một
người không quen biết, đến gặp Trưởng lão và thốt lên đoạn kệ này
cố phá hủy ước muốn nhập tịch tịnh của ngài.
57.Chẳng có cách thoát ly thế tục này. Tịch tịnh sẽ giúp ngài
được những chi? Hãy thọ hưởng dục lạc cảm giác kẻo phải hối
tiếc về sau này.
Ý nghĩa đoạn kệ này như sau: trên thế gian này, ngay cả khi ta đã
xem xét toàn bộ mọi giáo pháp, cũng chẳng có cách nào giúp
thoát khỏi cõi trần này, và dẫn đến níp bàn (nibbana) cả. Nhiều vị
ẩn sĩ và các vị Bà la môn đã yêu sách đó chỉ là biểu tượng mà
thôi; chính vì thế, nhà ngươi sẽ làm gì với các ẩn sĩ? Nhà ngươi
đã an trú khi còn trẻ với sắc đẹp như thế, ngươi sẽ hành động gì
với ẩn tịch thể chất đây? Thế nên giờ đây, hãy tận hưởng thú dục
lạc giác quan đi (bhuđjahi kama-ratiyo). Hãy thọ hưởng thú vui
dục lạc (khiddaratiyo paccanubhohi) liên quan đến sắc dục và vô
sắc. Chính vì thế để sau này không phải hối tiếc [nghĩ
87
rằng] “Mục tiêu để ta sống cuộc đời phạm hạnh, chính điều dẫn
đến níp bàn lại không tồn tại. Chính vì thế, ta cũng chẳng chứng
điều đó bao giờ lại mất không được hưởng thú vui dục lạc. Quả
nhiên, điều đó chẳng đem lợi gì cho ta cả”. Xin đừng có hối hận
nuối tiếc sau này. Đây chính là ý nghĩa của đoạn kệ trên.
Sau khi nghe điều này, vị Trưởng lão Ni suy nghĩ, “Quả thật, Ma
Vương chỉ là đồ điên loạn, tên này đã chối bỏ điều dẫn đến níp
bàn, những gì ta tận mắt chứng kiến được. Và nó lại dâng lên ta
những thú vui dục lạc. Nhà ngươi chẳng hiểu biết gì về hiện trạng
những ai vô tỳ vết (đã triệt phá hết lậu hoặc). Nào ! Ta sẽ khiến
cho hắn hiểu rõ, ta sẽ khiến cho hắn sợ hãi.” Và rồi Trưởng lão Ni
đã thốt lên hai đoạn kệ sau đây:
58. Dục lạc giống những cây gươm giáo. Chúng chém nát ngũ
uẩn của ta, cái ngươi gọi là “hưởng khoái lạc cuộc đời” Cũng
chỉ là “vô cảm khoái” với ta mà thôi.
59.Ở bất kỳ nơi đâu “hưởng khoái lạc cuộc đời” đều đã bị đánh
bại. Khối u ám vô minh ta đã xé nát tan tành. Chính vì vậy này
hỡi kẻ ác ma hãy biết rõ nhà ngươi đã bị đánh bại tơi bời, hỡi quỉ
thần sự chết.
58. Ở đây, cảm khoái dục lạc giống như cây gươm gậy gộc (satti-
sulupama) có nghĩa là: quả thật dục lạc giác quan, bất kỳ người
nào gắn kết với chúng, được coi giống như lưỡi gươm sắc (nisita-
satti viya) hay là chiếc cọc đâm thủng mọi người. Các uẩn
(khandha) có nghĩa là: thủ uẩn (upadana-khandha). Đối với họ
(asan) có nghĩa là: với họ. Một cái chặt có nghĩa là: đồ đỡ để
chặt, để cắt, là chỗ đặt đồ lên trên đây là ý nghĩa. Vì sau khi đã
đặt toàn bộ các uẩn [lên chặt], chúng sanh phải chịu tra tấn và
hình phạt do sắc dục đem lại. Cái ta gọi là (brusi) “tận hưởng sắc
dục” đối với ta giờ đây “không là sắc dục” có nghĩa là: Ôi đồ
xấu xa ác độc. Ma ác, ngươi nói gì thế (vadasi) sắc dục là điều
cần phải được hưởng và ôm ấp. Giờ đâyta chẳng cần đến thứ đó
vì tự bản chất đó là chấp thủ và vì thứ đó giống như đồ phẩn vậy.
Đó là ý nghĩa.
59. Đến đây, nàng đưa ra lý do với từ bắt đầu: Ở bất kỳ nơi đâu,
hưởng sắc dục đều đem lại thất bại cả. Ở đây, bằng cách này, hãy
biết cho có nghĩa là: hãy hiểu rõ ta với suy nghĩ đó là, “toàn bộ dục
vọng và vô minh đều đã bị loại bỏ.” Hơn thế nữa, nhà ngươi đã bị ta
làm cho tan tác (badhito) đánh bại (nihato). Hỡi ác ma, đồ ác
88
hạnh, Ôi chết chóc (antaka), bằng cách thắng vượt sắc dục là những
gì đã huỷ hoại sức mạnh của ta. Mặt khác, nhà ngươi chẳng đánh tan
ta được. Đó là ý nghĩa.
Khi bị Trưởng lão dọa cho sợ hãi đến như vậy, Ma Vương biến
khỏi nơi đó và Trưởng lão còn lưu lại cánh rừng Andha trong suốt
cả ngày trong niềm hạnh phúc chứng thánh quả, và vào buổi tối
ngài về lại thiền viện.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni Sela.
8. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI SOMA
Các bài kệ bắt đầu với [Những chốn đó]…...chỉ các bậc đại trí
mới đạt đến là của Trưởng lão Ni Soma. Nàng cũng đã thực hiện
được nhiều phước nghiệp dưới thời Đức Phật tiền kiếp và tích lũy
được hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống khác nhau làm căn giải
thoát. Nàng sanh ra dưới thời Đức Thiện Thệ Sikhi trong một gia
đình Sát đế lỵ giàu có. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng trở thành
chánh hậu nhà vua Arula.
Toàn bộ chuyện kể tiền kiếp của nàng cũng giống như của
Trưởng lão Ni Abhaya. Nhưng chuyện kể về hiện tại của Trưởng
lão Ni này là: Nàng chu du tái sanh nơi nhiều kiếp sống giữa thiên
giới chư thiên và cõi chúng sanh. Dưới thời Đức Phật hiện tại,
nàng sanh ra làm con gái một quan tể tướng của nhà vua
Bimbisara, và tên nàng là Soma. Khi đạt đến tuổi khôn lớn, nàng
chứng đức tin khi vị Đạo Sư đi ngang qua thành Rajagaha và trở
thành một tín nữ. Sau đó có một giao động dữ dội diễn ra trong
tâm nàng và nàng đã xuất gia với chư vị Tỳ khưu Ni khác. Nàng
đã chu toàn các nhiệm vụ khởi đầu công việc tu hành và dốc toàn
tâm chứng thiền quán. Và chỉ trong một thời gian ngắn nàng đã
chứng thánh quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải.
Như người ta kể lại trong thí dụ Kinh như sau:
Có một sát đế lỵ tên là Arula trong thành Arulavati. Ta đã trở
thành chánh hậu của nhà vua đó và đã thực hiện kiềm chế…
v.v…xuống cho tới: ta đã thực hiện lời Phật dạy” toàn bộ đều
giống như những đoạn kệ trong Apadana về Trưởng lão Ni
Abhaya. Thế rồi, sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán nàng đã
đến cư trú trong thành Savatthi trong niềm hạnh phúc giải thoát.
Một ngày kia, sau bữa ăn trưa, nàng vào khu rừng Andha để nghỉ
trưa và ngồi thiền ngay dưới gốc một cây cổ thụ nọ. Và Ma
89
vương vô hình đã xuất hiện với nàng [cố gắng] để tàn phá ước
muốn sống ẩn sĩ của nàng. Đứng trên không trung, Ma Vương đã
thốt lên đoạn kệ sau đây:
60. Vị trí đó thật khó tới được, chỉ là nơi các bậc đại trí lai vãng
đến mà thôi. Phụ nữ không thể lai vãng tới chỉ với chút ít thông
minh [có nghĩa là với rất ít thông minh]
60. Ý nghĩa đoạn kệ này như sau: chỉ có các Bậc đại trí, Như Lai
v.v… mới lai vãng tới được, chỉ những người nào đã nhận được
danh hiệu “đại trí” hiểu theo nghĩa đi tìm kiếm những phước hạnh
khác nhau, v.v… Nhưng rất khó có thể đạt đến được. Những
người khác khó lòng có thể hoàn tất được. Vị trí đó được gọi là
thánh quả A-la-hán , là trạng thái tin tưởng tột đỉnh, một người
phụ nữ với chút ít thông minh không thể đạt tới được, trí thông
minh thứ cấp (nihinapađđaya). Quả thật, khởi đầu từ bảy tám
tuổi,người phụ nữ chỉ có làm một công việc là nấu cơm, họ chỉ
biết bỏ gạo vào nồi nước nóng đang sôi. Nhưng khi nồi nước
đang sôi, họ không biết được liệu cơm đã chín chưa họ dùng thìa
lấy ra một chút, nghiền nát với hai ngón tay, và rồi họ biết là cơm
đã chín. Chính vì thế ta gọi họ là trí thông minh bằng hai ngón
tay.
Sau khi nghe điều này, Trưởng lão Ni bác bỏ luận điệu của Ma
Vương, đọc lên hai đoạn kệ như sau:
61.Nữ tánh gây hại gì cho ta khi tâm họ nhập định được. Khi trí
thông minh họ chứng đắc thánh quả pháp vi diệu?
62. Ở tất cả mọi nơi dục hỷ lạc tận diệt. Khối tăm tối vô minh đã
tan nát tơi bời. Này hỡi Ác Ma ngươi hãy biết rõ như vậy. Chính
ngươi ác ma, nhà ngươi đã bại trận.
61. Ở đây, Nữ tánh (kayira) gây hại gì (itthi-bhavo) cho ta (no) có
nghĩa là: điều hại gì tánh nữ (matugama-bhavo) có thể
gây (kareyya) cho ta. Trở ngại nào có thể nổi dậy liên quan đến
chứng thánh quả A-la-hán ? Khi Tâm (cittamhi) được luyện nhập
định tốt (susamahite) có nghĩa là: khi tâm (citte) được tu luyện
nhập định cẩn thận thông qua chánh đạo tột đỉnh (agga-magga-
samadhina): khi kiến thức tồn tại (vattamananahmi) có nghĩa là:
do kết quả vẫn tiếp tục tồn tại (pavattamane) thông qua hiểu biết
thánh đạo A-la-hán (arahatta-magga-đane). Đối với người nào
khéo (samma) nhập thiền định (vipassato) vào thánh quả pháp vi
diệu (dhammar) có nghĩa là: đối với người nào nhìn ra
90
(passato) thích hợp (samma-d-eva) nhờ vị thế hiểu biết toàn bộ,
v.v…(pariđđadi –vidhina) về giáo pháp liên quan đến tứ chánh
đế. Đây chính là ý nghĩa ngắn gọn: Hỡi đồ ác ma, cho dù đây chỉ
là phụ nữ hay nam giới, khi họ đã đạt đến thánh đạo tột đỉnh, quả
thật người đó sẽ chứng thánh quả A-la-hán.”
62. Và giờ đây, để cho thấy rõ ràng chính hiện trạng chứng đắc
của mình, nàng thốt lên đoạn kệ bắt đầu như sau: Bất kỳ nơi đâu
hưởng thụ dục lạc cũng chỉ chuốc lấy thất bại. Ý nghĩa đã được
khẳng định ở trên.
Đến đây kết thúc chú giải những đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Soma.
Đến đây cũng kết thúc tập ba kệ.
4.1. CHÚ GIẢI BÀI KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI BHADDA
KAPILANI
Trong tập bốn kệ, những đoạn kệ bắt đầu với [Kassapa], là
trưởng nam và thừa tự của Đức Phật, là của Trưởng lão Ni
Bhadda Kapilani. Người ta kể lại rằng dưới thời Đức Phật
Padumuttara nàng sanh ra trong một gia đình tốt trong thành
Hatsavati. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng đã đến thọ giáo với
vị Đạo Sư. Và nàng đã nhận ra Đạo Sư đã đưa một Tỳ khưu Ni
vào địa vị cao nhất trong số những vị đã nhớ lại tiền kiếp của
mình. Nàng đã thực hiện một phước nghiệp và mong muốn
chính mình cũng được xếp vào vị trí đó. Xuyên suốt cuộc đời
của mình, nàng đã thực hiện rất nhiều phước nghiệp.
Đoạn sau khi qua đời, nàng đã chu du tái sanh đến khắp các cõi
thiên giới và cõi chúng sanh. Rồi nàng sanh ra trong một gia đình
tốt trong thành Baranasi trong khi chẳng có Đức Phật nào khởi
sanh cả. Nàng làm dâu trong gia đình nhà chồng. Vào một ngày
nọ, nàng đã cãi nhau với cô em chồng vì cô ta đã bố thí vật thực
cho Đức Phật độc giác (Pacceka). Nghĩ rằng, “Người này, [cô em
dâu tôi] khi bố thí vật thí này cho ngài, nàng sẽ được thành tựu
lớn,” nàng liền giật lấy bát khất thực từ tay Đức Phật Độc Giác
(Pacceka), vứt bỏ những vật thực trong đó, đổ đầy đất bùn rồi đưa
cho ngài.
Một số đông người đã nguyền rủa nàng, nói rằng, “Đồ con gái
ngu xuẩn. Phật độc giác (Pacceka) đã xúc phạm gì đến nhà ngươi
đâu?” Nàng thật xấu hổ vì những gì dân chúng đã nói và lấy bát
91
khất thực lại từ tay Đức Phật, đổ hết đất bùn đi, rửa sạch sẽ lau
chùi với bột thơm ngọt ngào và đổ đầy đủ bốn thứ đồ ăn vào.
Nàng còn đổ bơ toả sáng với màu đài sen trên đó và đặt vào tay
Đức Phật Độc Giác (Pacceka). Đoạn nàng còn thực hiện một lời
ước như sau: “Chính vì bố thí vật thực này toả sáng, cầu xin cho
thân xác con cũng toả sáng như thế.”[3]
Nàng đã qua đời tại đó và đã chu du tái sanh đến nhiều cảnh hạnh
phúc. Dưới thời Đức Phật Kassapa hiện tại, nàng sanh ra làm con
gái của một thương gia giàu có trong thành Baranasi. Do kết quả
những nghiệp bất thiện nàng đã làm, thân xác nàng toát ra một
mùi hôi thối và mọi người đều xa lánh nàng. Một giao động mạnh
mẽ khởi sanh trong tâm nàng và rồi nàng làm một chiếc mũ chóp
cao bằng vàng từ chính những đồ trang sức của mình, rồi đặt
trong đoạn kệ Đức Phật và thực hiện cúng dường chỉ một nhúm
hoa sen nhỏ. Đoạn thân xác nàng toả mùi thơm ngọt ngào thật dễ
chịu ngay cùng cõi đó. Nàng trở nên hấp dẫn và đáng yêu trước
mặt chồng mình, thế rồi nàng thực hiện hạnh thiện trong suốt
khoảng đời còn lại.
Nàng qua đời trong khoảng thời gian đó, được tái sanh nơi thiên
giới. Tại đó nàng được hưởng hạnh phúc thiên giới trong suốt
kiếp sống đó. Rồi xuất khởi khỏi đó, nàng trở thành con gái của
vua thành Baranasi. Tại vương cung vua cha, nàng được hưởng
hạnh phúc giống như hạnh phúc chư thiên vậy. Sau một thời gian
dài, Đức Phật Độc Giác (Pacceka) xuất hiện. Sau khi họ đạt vô dư
níp bàn, lại có một giao động mạnh mẽ nổi lên trong nàng và
nàng đã xuất gia sống cuộc đời vô gia cư khổ hạnh. Nàng sống
trong khu vườn thượng uyển hoàng gia, tu tập thiền quán, an chỉ
định và nàng được tái sanh nơi cõi Phạm Thiên.
Xuất khởi cõi đó, nàng sanh ra trong một gia đình Kosiyagotta
thuộc dòng tộc Bà la môn trong thành Sagala. Nàng lớn lên nhận
được rất nhiều ưu ái của mọi người. Khi đến tuổi trưởng thành,
nàng được gả cho một gia đình Pipphali-Kumara trong làng
Mahatittha. Cả hai người đã rời bỏ ngôi làng đó và xuất gia để lại
một số tài sản rất lớn và một nhóm họ hàng thân thuộc rất đông.
Sau khi đã xuất gia thực hiện cuộc sống khổ hạnh, nàng đến thành
Titthiya-rama [rồi lưu lại đó] trong vòng năm năm. Sau đó nàng
lại xuất gia cùng với nhóm những đồ đệ của Trưởng lão Ni Maha-
Pajapati Gotami. Sau khi nhận đại thọ giới, nàng an trú thiền
92
quán và chỉ sau một thời gian rất ngắn nàng chứng thánh quả A-
la-hán.
Như người ta kể lại trong Thí Dụ Kinh như sau:
1. Một trăm ngàn đại kiếp trước, vị Chiến Thắng và Lãnh Tụ
tên là Padumuttara, là người đã vượt tới bến bờ toàn bộ các pháp
bên kia đã xuất hiện.
2. Vào thời đó có một thương gia giàu có tên là Videha là
người có nhiều châu báu kim cương cư trú trong thành Hatsavati.
Ta đã là vợ của chàng.
3. Một ngày kia, ngài đi tới Mặt Trời nơi chúng sanh cùng với
đoàn tuỳ tùng đông đảo để lắng nghe Giáo Pháp của Đức Phật là
người đã loại bỏ hết mọi sầu khổ.
4. Vị Đại trí tán thán người đồ đệ tuyệt hảo trong số những kẻ
kinh cuộc sống ẩn sĩ khổ hạnh. Sau khi nghe điều này, chồng ta tổ
chức một cuộc bố thí kéo dài trong bảy ngày liên tiếp cho Đức
Phật độc nhất vô nhị này.
5. Chồng ta đã sụp lạy dưới chân ngài (vị Như Lai) và ước mong
được loại bỏ mọi sầu khổ đó, ngài thủ lãnh chúng sanh, làm cho tâm
tăng chúng qui tụ tại đó trở nên hoan hỉ sung sướng.
6. Do lòng đại bi với người thương gia. [Đức Phật] thốt lên
những đoạn kệ sau đây: “Ngươi sẽ chiếm được điều nhà ngươi
hàng ước ao đó, hãy trở thành người sẵn sàng nhập níp bàn, hỡi
con thân yêu của ta ơi.
7. “Một trăm ngàn kiếp luân hồi cho tới lúc này, sẽ sanh ra một
vị Đạo sư được đặt tên là Cồ Đàm thuộc dòng họ của Ngài, là
hậu duệ bộ tộc Okkaka.
8. “Vào thời điểm đó sẽ nổi lên một đồ đệ của vị Đạo Sư tên là
Kassapa là người thừa kế Giáo Pháp của ngài, hậu dụê truyền
thừa Giáo pháp đó.”
9. Ngay sau khi nghe điều này, chồng ta tràn ngập trong tâm
niềm hoan hỷ cảm kích. Và thế là trong suốt kiếp sống trên cõi
đời này, chồng ta đã phục dịch vị thống lãnh chiến thắng đó với
đủ thứ đồ nhu cầu thiết yếu, với tâm tràn ngập tình thương mến
thương.
10.Vị đó [Đức Phật] đã khiến cho giáo pháp của ngài tỏa sáng
khắp, xua tan thành phần tà kiến, và huấn dụ cho những người
nào còn có khả năng tiếp nhận lời huấn giáo của ngài cùng với
đoàn tuỳ tùng của mình, Ngài đã nhập níp bàn.
93
11.Sau khi vị thống lãnh cõi thế gian vô dư níp bàn, người chồng
của ta đã qui tụ toàn thể bạn bè và những người họ hàng thân
thuộc lại để kính lễ vị Đạo Sư.
12. Chồng ta đã xây một toà nhà cao bảy do tuần, làm bằng đá
quí châu báu, tỏa sáng tựa mặt trời hay giống như cây Sala trổ
đọt xum xuê.
13.Chàng đã cho làm bảy trăm ngàn chiếc bát khất thực đặt tại
đó phát sáng với bảy châu báu giống như ngọn lửa bãi sậy đang
cháy.
14.Chàng đổ đầy những chiếc đèn với dầu thơm chiếu sáng rực
rỡ tại đó để tỏ lòng kính trọng vị Đại Trí, là người đã tỏ lòng đại
bi với muôn chúng sanh.
15. Chàng còn thực hiện bảy trăm ngàn chiếc bình đầy châu báu
để kính lễ ngài Hiềân triết Đại Trí.
16. Chàng cho dựng thêm những bậc thềm toàn hoa bằng vàng ở
giữa nối từng nhóm tám chiếc bình một. Và chiếu toả ánh sáng
mặt trời thu rực rỡ.
17.Những cánh cửa có bốn chiếc cổng cũng toả sáng, làm bằng
châu báu, những phiến đá rất hấp dẫn cũng được dựng tại đó tỏa
sáng chói chang cũng làm toàn bằng châu báu.
18. Những đồ trang trí được làm rất tinh xảo chung quanh đó tất
cả đều phát sáng, những cờ xí biểu ngữ dựng lên trên cao cũng
bằng châu báu thi nhau toả sáng như vậy.
19. Điện thờø muôn màu muôn vẻ, làm bằng châu báu, qua vẻ
huy hoàng tráng lệ đó đã phát sáng át hẳn mọi thứ giống như mặt
trời át ánh trăng vậy.
20.Toà lâu đài gồm có ba gờ tường, chàng làm đầy mỗi gờ với
thư hoàng. Một gờ khác với thạch tín, còn gờ thứ ba với collyria.
21.Sau khi đã thực hiện một cuộc cúng dường hấp dẫn như vậy cho
vị Đại hùng biện, chàng còn bố thí cho Tăng Đoàn càng nhiều càng
tốt kéo dài trong suốt cuộc đời còn lại của chàng.
22. Giờ đây sau khi đã thực hiện toàn bộ những phước nghiệp đó
cùng với thương nhân đó trong lúc còn chung sống với chàng. Ta
đã cùng chàng tái sanh nơi cõi hạnh phúc.
23. Chúng ta được hưởng cả thiên phước lẫn hạnh phúc trần tục.
Ta đã chu du tái sanh khắp nơi với chàng giống như hình với
bóng.
94
24.Chín mươi mốt đại kiếp đã qua, vị lãnh tụ Vipassi được sanh ra,
với diện mạo rất thanh tịnh, ngài nhìn tỏ hết các pháp.
25.Vào thời điểm đó, chàng [người chồng tiền kiếp của ta] đã trở
thành một vị Bà la môn rất được trọng vọng trong thành
Bandhumati. Rất dồi dào những phẩm chất an tịnh nhưng lại có
sức khỏe rất mong manh.
26. Và vào thời điểm đó ta lại là phu nhân của vị Bà la môn đó.
Ta vẫn nhớ rất rõ một ngày kia vị Bà la môn thù thắng đó, gặp vị
hiền triết Đại Trí.
27.[Vị hiền triết Đại Trí] đang ngồi giữa một nhóm người, diễn
giải điều bất tử cho họ. Khi nghe giáo pháp của Ngài, [người Bà
la môn] với tâm đầy hoan hỷ và đã bố thí chiếc áo choàng duy
nhất đang mặc trên mình cho ngài.
28. Chàng trở về nhà chỉ còn mảnh áo duy nhất trên người và nói
cùng ta, “Hãy vui mừng hoan hỷ với đại công đức ta đã thực
hiện! Ta đã bố thí chiếc áo choàng duy nhất trên mình cho Đức
Phật.”
29.Đoạn ta cũng kính lễ và hân hoan vui mừng không kém, nói
rằng, “Ôi đức lang quân yêu, chàng đã bố thí thật khéo chiếc áo
choàng đó cho Bậc đáng kính, là người tuỵêt hảo nhất trong số
chư vị Phật.
30. Vô cùng sung sướng và vui mừng, chúng ta đã chu du tái sanh
khắp nhiều nơi trong thành Baranasi, chàng trở thành vị vua,
Chúa Tể cõi thế gian này.
31.Vào thời đó, ta là chánh hậu có địa vị quan trọng nhất trong
số rất nhiều phụ nữ, và ta rất được ngài sủng ái vì tình yêu của
người chồng tiền kiếp của ta.
32. Chàng đã chứng kiến tám vị lãnh tụ Phật Độc Giác (Pacceka)
đang trên đường khất thực. Với lòng hoan hỷ chàng đã bố thí cho
họ rất nhiều vật thực đắt tiền.
33. Thế rồi chàng còn mời họ dùng bữa. Chàng cho xây một toà
sảnh đường châu báu, và lại sai một người kệï kim khí để đúc
những chiếc bát bằng vàng vô cùng hấp dẫn.
34. Và với tâm vô cùng hoan hỷ, chàng đã đem tất cả các bát đó
với chính tay mình chàng đã bố thí cho chư vị Phật đang tọa trên
ghế vàng đó.
95
35.Vào thời điểm đó, ta cùng người chồng bố thí cho nhà vua
Kasi. Thế rồi ta sanh ra trong thành Baranasi trong ngôi làng có
tên là Kasika.
36. Chàng được sanh ra cùng với người em trai trong một gia
đình giàu có hạnh phúc, và ta đã trở thành phu nhân tịnh tín cho
cả người anh trai nữa.
37.Ta nhìn thấy Phật Độc Giác (Pacceka) và bố thí cho ngài
phần ăn của người em trai ta. Sau khi ta đã bố thí người em trở
về và ta đã cho người em biết.
38.Người em đó không đồng ý với ta. Thế rồi ta đem một chiếc
nồi và đưa vật thực lại cho hắn, và chàng lại bố thí cho ngài.
39.Ta đã vứt của thí đó đi với ác tâm. Đoạn ta đưa cho Đức Phật
một tô đầy đất bùn.
40.Và ngài chấp nhận của thí đó, cả thứ tinh chất lẫn dơ bẩn.
Chứng kiến tâm an tịnh và diện mạo tươi tỉnh ta cảm thấy vô
cùng hổ thẹn.
41.Thế rồi ta lại nhận lấy bát đó, rửa sạch sẽ với dầu thơm. Và
với tâm hoàn toàn sẵn sàng phục vụ ngài, ta đổ đầy bơ tươi và
kính lễ Ngài rồi cúng dường.
42. Bất kỳ nơi nào ta tái sanh, ta đã trở thành rất xinh đẹp do kết
quả của phước thí đó đem lại, nhưng vì việc tổn thương ta gây
cho Đức Phật ta đã phải chịu một mùi hôi thối xuất ra từ miệng.
43. Còn nữa, khi điện thờ đã được xây dựng dâng cúng cho Vị
Đại Anh Hùng Kassapa ta đã dâng cho ngài một viên ngói bằng
vàng, cảm nghiệm được niềm vui cảm kích.
44.Ta đã thu luợm được bốn loại hương thơm cùng với mái ngói
đó và ta được thoát khỏi mùi hôi đó, cùng với tứ chi rất cân đối.
45.Ta đã cho làm bảy ngàn chiếc bát với bảy thứ châu báu, đổ
đầy trong đó với bơ tươi và hàng ngàn bấc đèn.
46.Với tâm đã thanh tịnh, ta đã cúng dường những chiếc đèn đó,
thắp sáng lên và rồi xếp thành bảy hàng để kính lễ vị bảo vệ cõi
thế gian.
47.Vào thời điểm đó đặc biệt ta được chia xẻ phước nghiệp đó
còn nữa chàng (người chồng tiền kiếp của ta) lại sanh ra làm
thần dân của Kasi, với tên gọi nổi tiếng là Sumitta.
48.Ta trở thành phu nhân của chàng, sung sướng, hoan hỷ, đáng
yêu. Vào thời điểm đó, chàng đã bố thí một chiếc khăn choàng rất
dầy cho vị Phật Độc Giác (Pacceka).
96
49.Ta cũng được chia sẻ trong công phước đó nữa. Vui mừng với
thắng thí đó và lại nữa, chàng sanh ra trong vương quốc Kasi
thuộc dòng họ Koliya.
50. Vào thời điểm đó cùng với năm trăm thành viên trong dòng
tôïc Koliya đã chàng đã phục vụ cho năm trăm Phật Độc Giác
(Pacceka).
51.Chàng đã làm cho các ngài sảng khoái trong ba tháng liền và
đã bố thí cho họ mỗi vị một bộ ba chiếc y cà sa. Ta là phu nhân
của chàng ở thời điểm đó theo chánh đạo các phước nghiệp của
chàng.
52.Thế rồi, rời khỏi nơi đó, chàng trở thành vị vua tên là Nanda
rất nổi danh, ta lại là chánh hậu của nhà vua đó, vây quanh là đủ
loại dục lạc cảm khoái.
53.–54. Vào thời điểm đó, chàng cũng là Vua Brahmadatta, là
lãnh chúa thế gian. Vào thời điểm đó, cũng xuất hiện chính xác
năm trăm Phật Độc Giác (Pacceka) Đại trí, là các con trai của
Padumavati, là người chàng đã phục vụ trong suốt cuộc sống.
Chàng đưa họ vào vườn thượng uyển hoàng cung. Và ta đã tôn
kính những vị đã đạt vô dư níp bàn.
55. Và cả hai chúng ta đã xây dựng điện thờø, xuất gia, và tu tập
tứ vô hạn lượng và tái sanh nơi cõi Phạm Thiên.
56.Thế rồi tịch diệt khỏi cõi đó, chàng sanh ra trong gia đình
Mahatittha có tên là Pipphalayana. Mẹ ngài là Sumanadevi, và cha
ngài là một vị Bà la môn thuộc dòng họ Kosigotta.
57.Trong một khu phố tuyệt vời Sakala trong thành Madda. Ta
được sanh ra làm con gái vị Bà la môn Kapila, và mẹ ta là bà
Sucimati.
58.Chàng cho tạc tượng ta bằng vàng rất lớn và cha ta lại gả ta
cho ngài Kassapa-Dhira, là người đã thoát khỏi mọi dục vọng
dục lạc.
59.Một ngày kia, vị đại bi ra ngoài nhìn ngắm công việc đã được
thực hiện, và ngài vô cùng cảm kích khi chứng kiến các thọ sanh
bị những chú quạ rỉa thịt v.v…
60.Và thế là ngồi lại trong nhà, ta lại chứng kiến làm sao người
ta gieo trồng hạt vừng mọc lên nơi những mảnh đất cháy xén
dưới nắng nóng mặt trời, bị sâu bọ và quạ nhặt ăn hết, ta vô cùng
giao động trước cảnh đó.
97
61.Thế rồi vị Đại Trí đó lại xuất gia và ta cũng xuất gia theo ngài.
Trong năm năm ta sống theo lời nguyện của một hành giả.
62.Thế rồi Gotami, người đã nuôi nấng vị Chiến thắng cũng đã
xuất gia, thế rồi ta cũng xuất gia theo bà do chính Đức Phật thôi
thúc.
63.Ta chứng đắc thánh quả A-la-hán chỉ sau đó một thời gian
ngắn, ôi vinh dự biết bao, trong toàn cảnh bầu bạn với Kassapa!
64.– 65. Kassapa, là thiên tử và là người thừa tự của Đức Phật,
thiền định tuyệt hảo. Người biết rõ những người nơi tiền kiếp. Và
cũng chứng kiến cõi thiên giới và cảnh hỏa ngục nữa và là người
đã triệt phá mọi tái sanh là vị đại trí toàn hảo với kiến thức trực
tiếp. Do ba kiến thức đó ngài là vị Bà là môn chứng đắc tam
tri vậy.
66. Trong cùng cách như vậy, Bhadda Kapilani vị tam tri, đã bỏ
lại phía sau tử thần, cùng mang thân phận cuối cùng của nàng.
Sau khi đã chiến thắng Ma-vương và đoàn quân của hắn.
67.Sau khi đã chứng kiến nỗi khổ thế gian, cả hai chúng ta đã
xuất gia, tịch diệt được vết nhơ ô uế. Được thuần hóa, chúng ta
trở thành lạnh mát, và nhập níp bàn
68.– 70. Mọi lậu hoặc của ta đã bị thiêu rụi… [xin đọc tr. 10] ta
đã thực thi lời Phật dạy.
Giờ đây sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán, nàng đã trở thành
một người chế ngự được tam tri tiền kiếp. Thế rồi, do thực chất
nàng đã thực hiện quyết tâm nhiệt tâm, khi vị Đạo Sư ngồi thiền
giữa đám đông các vị phạm hạnh trong khu rừng Kỳ Viên, sắp
xếp chư vị Tỳ khưu Ni vào vị trí thích hợp trong số những kẻ nhớ
lại tiền kiếp. Một ngày kia, nàng là người đầu tiên tán thán những
phẩm hạnh thiện của trưởng lão Maha-Kassapa, làm rõ những
phẩm chất thiện đó như đã thực hiện bổn phận của mình, và thực
hiện lời tuyên bố long trọng nàng đã thốt lên những đoạn kệ này.
63-64. Kassapa, là trưởng tử, thừa tự của Đức Phật là Ca Diếp Tỳ
khưu thiền định, biết được tiền kiếp, thấy được cõi trời và đoạ xứ.
Là người đạt diệt tái sanh, thắng trí được thành tựu, cùng với tam
minh này ngài chính là vị Bà la môn tam minh.
65. Cũng như vậy nàng Bhadda Kapilani, với tam minh sau khi
đã loại bỏ tái sanh, mang lấy thân phận cuối cùng sau khi đã
thắêng Ma vương và đạo quân hùng mạnh.
98
66. Sau khi nhìn thấy nguy hại cho cõi đời này, cả hai chúng ta
đều xuất gia. Chúng ta được chế ngự, đoạn tiệt các lậu hoặc cảm
xúc thành mát lạnh được tịch tịnh giải thoát.
63. Ở đây, trưởng tử, người thừa kế của Đức Phật có nghĩa là:
người con trai sanh ra do vị toàn giác, được giác ngộ sau khi Đức
Phật và nhờ kết quả việc theo đuổi chính giáo lý siêu thế. Khi
chàng trở thành vị thừa kế (dayada-bhutassa),chàng là kassapa…
thừa tự (dayado). Ngài khéo nhập thiền định (susama-hito), vì tâm
ngài khéo tập trung vào một điểm thông qua thiền định hiệp thế và
siêu thế (lokiya-lokuttarehi samadhihi). Người nào biết được tiền
kiếp của ngài có nghĩa là: cụ thể là trưởng lão Maha-Kassapa đã
sống trước đó. Sau khi đã thực hiện liên tiếp rõ rệt nơi các uẩn
ngài đã sống do chính ngài và do tha nhân người đã biết được tiền
kiếp ; người nào thông hiểu, người biết rõ, thấu triệt. Và nhận rõ
cả thiên giới lẫn đọa xứ (saggapayađ) có nghĩa là: ngài nhận ra
thiên giới (saggam), được chia ra thành hai mươi sáu cõi chư
thiên (chabbisati-deva-loka-bhedam), và bốn hạ giới (apayađ) với
thiên nhãn như thể nhìn vào một trái amalaka trong lòng bàn tay.
[có nghĩa là rất rõ ràng].
64-65. Và đã loại bỏ được tái sanh (jati-kkhayam) có nghĩa là:
thế rồi sau đó ngài chứng thánh quả A-la-hán được gọi là triệt phá
tái sanh (jati-khaya-sankhatam). Thông qua tam minh trực
tiếp ngài am hiểu Giáo Pháp, đó chính là hiểu biết thông qua kiến
thức tột đỉnh, sau khi biết được những gì cần hiểu biết. Sau khi đã
loại bỏ điều gì cần loại bỏ. Sau khi đã thể hiện được điều cần phải
thể hiện, ngài đã hoàn tất được, ngài đã đến đích, sau khi đã thực
hiện nhiệm vụ của mình. Ngài trở thành vị đại trí (mâu ni) vì ngài
đã đạt trí tuệ được gọi là trí thông minh để triệt phá hết các lậu
hoặc. Trong chính trường hợp của ngài Bhadda Kapilani. Có
nghĩa là: giống như ngài Maha-Kassapa là người được cho là thọ
tam minh (te-vijja) thông qua tam minh đó (tihi vijjahi) và bỏ lại
đàng sau là sự chết (maccu-hayi) y hệt như cách Bhadda
Kapilani, với tam minh (te-vijja) sau khi đã bỏ lại đàng sau sự
chết (maccu-hayini). Kết quả là, [nàng] phải mang thân xác cuối
cùng, sau khi đã chiến thắng Ma vương và đoàn quân của nó, có
nghĩa là: nàng chỉ rõ cho thấy nàng là một người khác thực sự.
66. Giờ đây chính vì việc tu tập của Trưởng lão đã tốt đẹp ngay từ
lúc đầu ở quãng giữa và cuối cùng, cùng một cách như vậy, chỉ ra
99
cho thấy “còn với ta cũng vậy”, sau khi đã nhìn thấy mối nguy
hiểm, nàng nói đoạn kệ kết như sau: ở đây, chúng ta được chế
ngự, đoạn tận các lậu hoặc cảm xúc thành mát lạnh được tịch tịnh
giải thoát: có nghĩa là chúng ta (te maya?)[20]. Trưởng lão Maha-
Kassapa được thuần thục bằng các thuần thục tối cao (uttamena
damena), và trong mọi trường hợp với các lậu hoặc bị triệt tịch,
cảm xúc thành mát lạnh được tịch tịnh giải thoát có nghĩa là:
chính vì thế, chúng ta trở nên (amha=bhavama) mát lạnh. Vì
không phải bị lậu hoặc thiêu đốt và trở nên tịch tịnh có nghĩa là
đại tịch tịnh với kết quả dính bén trong quá khứ vẫn còn sót
lại. Đó là ý nghĩa.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni Bhadda
Kapilani.
Đến đây cũng kết thúc chú giải Tập Bốn Kệ.
1. CHÚ GIẢI BÀI KỆ TRƯỞNG LÃO NI VÔ DANH
Trong tập năm kệ, những đoạn kệ bắt đầu với Đã được hai mươi
lăm năm kể từ khi ta xuất gia là của một Trưởng lão Ni vô danh.
Nàng cũng đã thực hiện những phước nghiệp dưới thời chư Phật
tiền kiếp và cũng đã tích lũy được những hạnh nghiệp đa dạng
làm cơ sở để cho nàng được giải thoát. Dưới thời Đức Phật hiện
tại, nàng là người vú nuôi của Trưởng lão Ni Maha-Pajapati và
phục vụ nàng rất cẩn thận, nhưng dòng họ không ai biết.
Vào thời điểm Trưởng lão Ni Maha-Pajapati xuất gia, chính nàng
cũng xuất gia theo. Ước muốn dục lạc đã tấn công nàng trong
suốt hai mươi lăm năm trời. Tuy nhiên nàng không thể an trụ
được cho dù chỉ trong nháy mắt. Nàng la lối, khua tay múa chân.
Nàng được nghe giáo pháp cùng với Trưởng lão Ni
Dhammadinna, và từ bỏ không theo đuổi thú vui dục lạc nữa.
Nàng chọn đề mục thiền và tu tập rất siêng năng cần mẫn. Sau
một thời gian ngắn nàng đã đạt lục minh. Nhìn lại những thành
tích đã đạt được, nàng thốt lên những đoạn kệ như là lời tuyên bố
long trọng.
67. Hai mươi lăm năm kể từ khi ta xuất gia. Không có được tâm
an tịnh thanh thản cho dù chỉ một giây phút ngắn ngủi trong nháy
mắt.
68. Không có tâm an tịnh, vì đầy ước muốn tham dục, ta giơ tay
múa chân than khóc thảm thiết, và gia nhập thiền viện.
100
69. Ta đến với Tỳ khưu Ni là người ta tin cậy. Nàng dạy ta giáo
pháp : các uẩn, xứ và các giới.
70– 71. Ta thọ lãnh giáo pháp nơi nàng, và ngồi sang một bên. Ta
hiểu rõ đời tiền kiếp với thiên nhãn được thanh tịnh, và ta đọc
được tâm tha nhân ta lại thanh tịnh cả nhĩ căn luôn thể, ta chứng
thần túc thông. Ta triệt hạ hết lậu hoặc, ta còn chứng lục thắng tri
rồi ta thực hiện lời Phật dạy.
67. Ở đây, không chỉ trong khoảng thời gian ngắn bằng búng ngón
tay có nghĩa là: giống như thời gian ngắn ngủi chỉ bằng một búng
ngón tay, bằng thời gian ta thực hiện một cái búng tay. Đây là ý
nghĩa của đoạn này. Ta chiếm được an tịnh (upasam’) tâm hồn
(cittass’) có nghĩa là: an tịnh (upasama?) tâm hồn (citassa), là tâm
nhất cảnh tính (cittakaggam) ta không có được đây chính là mối
tương quan. Ý nghĩa ở đây là: ta không làm được [điều đó]
68. Vì tâm đầy ước muốn tham dục có nghĩa là: tâm nàng luôn bị
chi phối với đam mê và ước muốn tham dục vì nàng đã hướng
chiều về ước muốn vật chất gọi là năm sợi dây trói buộc của tham
dục.
69. Tỳ khưu Ni có nghĩa là: nàng nói tới điều này có liên quan đến
Trưởng lão Ni Dhammadinna.
71. Và được hiểu biết tâm tha nhân có nghĩa là: và biết được, thấu
triệt được tâm linh. Mối liên quan nên thực hiện ở đây là “đã được
thanh tịnh” (visodhitan ti). Nàng đạt đến điều đó. Đây là ý nghĩa. Ý
nghĩa những gì còn lại đã được giải thích.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni vô danh.
2. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI VIMALA
Các bài kệ bắt đầu với Say mê với nhan sắc tuyệt trần là của
Trưởng lão Ni Vimala. Nàng cũng đã thực hiện được nhiều phước
nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và tích lũy được những
hạnh thiện nơi nhiều kiếp khác nhau làm căn giải thoát. Dưới thời
Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong thành Vesali làm con gái
của một phụ nữ kiếm sống bằng sắc đẹp của mình. Tên nàng là
Vimala. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng cũng kiếm sống cùng
một cách như mẹ mình vậy.
Một ngày kia, nàng nhìn thấy trưởng lão Maha-Moggallana đang
khất thực trong thành Vesali. Nàng đã đem lòng say mê Trửơng
lão, đến nơi cư trú của Trưởng lão và bắt đầu thực hiện những
101
hành vi quyến rũ vị Trưởng lão. Vài ngày sau đó nàng đã thực
hiện hành vi thúc dục thông qua các thành viên. Vị Trưởng lão
giảng dạy cho nàng, sau khi đã khiến cho nàng khiếp sợ với lời
giải thích những điều ô uế bất tịnh. Lời khuyến dụ này được
truyền lại cho chúng ta trong những đoạn kệ của vị Trưởng lão
nói trên.
[Bốn đoạn kệ này được tụng lên thành lời chỉ dạy cho các kỹ nữ
đến với ngài do ước muốn bất chính:
Nhà ngươi chỉ là chiếc chòi nghèo nàn, được làm bằng một nắm
xương, xâu vào nhau với nắm thịt và gân, thật xấu hổ thay mùi
hôi thối xông ra từ thân xác ngươi, ngươi chỉ ấp ủ cho tứ chi
người khác.
Ngươi chỉ là một túi phân hôi thối, cột chặt lại với lớp da, ngươi
đồ bẩn thỉu với những cục thịt trên ngực ngươi. Chín lỗ thoát trên
thân mình ngươi luôn liên tục chảy ra những thứ ô uế.
Thân xác ngươi với chín lỗ đó luôn toát ra mùi hôi thối khó chịu
và phân thối thường hay làm tắc nghẽn. Một Tỳ khưu ước muốn
điều tinh khiết tránh thân xác đó như tránh đồ phân tro.
Nếu bất kỳ ai biết nhà ngươi như ta biết ngươi, ắt phải tránh
ngươi cho xa, như tránh xa hầm phân vào mùa mưa vậy.
Như vậy Trưởng lão chỉ rõ những uế trượt nơi thân xác. Kỹ nữ đó
an trú kính trọng Trưởng lão đó do cảm thấy bị xúc phạm vì mắc
cỡ. Nàng nói, “Đúng như vậy, thưa vị Đại Anh Hùng” và thốt lên
đoạn kệ này nàng kính lễ Trưởng lão và đứng sang một bên.
Hỡi vị Đại Anh Hùng, đúng như lời ngài nói, hỡi vị ẩn sĩ khổ
hạnh; và ở đây một số vị đã ngã qụy giống như con bò già lún
ngập trong bùn đất,
Đoạn Trưởng lão nói, “Những người giống như ta, phẩm hạnh đó
quả thật vô dụng và còn gây phiền toái nữa,” và rồi chỉ lên trời,
ngài thốt lên hai đoạn kệ như sau:
Vì bất kỳ người nào dám nghĩ mình sẽ sơn bầu trời bằng màu
vàng hay bất kỳ màu sắc nào, ý nghĩ đó chỉ để gây rắc rối mà
thôi.
Nơi tâm khéo thiền định, cũng giống như bầu trời. Những kẻ có
ác tâm, xin đừng tấn công ta như con thiêu thân tấn công lửa đốt
rác vậy.
Đoạn quan sát kỹ nữ, ngài lại thốt lên một đoạn kệ nữa để dạy
chư vị Tỳ khưu đang theo đuổi ý nghĩ ô nhiễm. Sau khi nghe
102
những lời huấn dụ đó, kỹ nữ trở nên hổ thẹn và chạy trốn về
hướng nàng đã tới.
Hãy nhìn xem con rối được sơn phết loè loẹt, một đống vết thương
thê lương, một thân hình pha tạp đủ thứ bệnh tật, với biết bao ý
nghĩ bất thiện, đã gây ra biết bao điều bất ổn.
Đoạn Trưởng lão đưa ra những lời huấn dụ như vậy, một giao
động dữ dội nổi lên trong tâm kỹ nữ, thế rồi nàng cảm thấy xấu
hổ và sợ hãi mạnh mẽ về việc làm sai trái của mình. Nàng chứng
niềm tin nơi giáo pháp và sau đó xuất gia cùng với chư vị Tỳ
khưu Ni; phấn đấu và cố gắng hết sức mình thông qua những bổn
phận tu luyện phẩm hạnh ban đầu, nàng đã thọ trưởng thành và
chỉ sau một thời gian ngắn nàng đã chứng thánh quả A-la-hán.
Nhìn lại thành tích của mình, nàng thốt lên những đoạn kệ sau
như là môt lời tuyên bố long trọng:
72.Say mê với nước da kiều diễm, gương mặt xinh sắn, sắc đẹp
và danh tiếng, ỷ vào một thời trai trẻ, ta đã miệt thị những người
phụ nữ khác.
73. Sau khi đã trang điểm thân mình, theo nhiều kiểu cách loè loẹt,
đánh lừa kẻ ngu si, ta đứng bên khung cửa tại cửa hàng buôn sắc,
giống tên thợ săn độc ác, bủa lưới bẫy đặt mồi.
74. Ta khoe khoang đồ trang sức, phô bầy những chỗ kín trên
thân, ta đã làm biết bao trò ngu ngốc để châm biếm khích dụ
nhiều người.
75. Ngày hôm nay trên đường khất thực ta đã cạo tóc đầu trọc,
mình khoác đại y và đến ngồi dưới gốc cây ta thiền định, ta chứng
thiền định vô tầm.
76. Mọi ách phược ta đã chặt đứt – cả những gì thuộc thiên giới
cùng với cõi nhân sanh, ta đoạn triệt mọi vết nhơ ô uế. Ta trở nên
mát lạnh, rồi chứng tâm tịch tịnh.
72. Ở đây, ta gây nhiễm độc bằng nhan sắc kiều diễm (gu?a-va??
ena) bằng gương mặt hấp dẫn (rupena) có nghĩa là: thông qua
phẩm chất nước da và vẻ mặt hoàn hảo . Sắc đẹp
(sobhaggena) có nghĩa là: hiện trạng được may
mắn (subhagabhavena). Danh tiếng có nghĩa là: tiếng tăm lừng
lẫy. Bị nhiễm độc (matta) có nghĩa là: bị đầu độc do nét da kiều
diễm của nàng, bị nhiễm độc do nét mặt của nàng, bị sắc đẹp của
nàng đầu độc, bị tiếng tăm của nàng gây mê hoặc . Kiêu căng ỷ
lại vào một thời trai trẻ (yobbanena) có nghĩa là: ngày càng trở
103
nên chai lỳ (urarupari thaddha) do đã bị đầu độc bởi thời xanh
xuân của ta (yobbana-madena). Với tâm địa chai lỳ do tính ích
kỷ nhờ thời trai trẻ đầy ấn tượng (yobbana-nimittena), chứng tâm
bất an tịnh. Ta khinh miệt những phụ nữ khác (ađđa) có nghĩa là:
ta suy nghĩ chính mình có được toàn bộ những gì mà các phụ nữ
khác không có được liên quan đến những phẩm chất làn da xinh
đẹp, v.v…Hay, ta miệt thị những phẩm chất nước da nơi các phụ
nữ khác, v.v…của các phụ nữ khác, ta vượt trội hơn hẳn, ta suy
nghĩ, ta coi thường mọi người.
73. Sau khi đã trang điểm thân xác rất loè loẹt đủ thứ màu sắc,
nhằm khêu gợi kẻ ngu. (bala-lapanam) có nghĩa là: thân xác của
ta, đủ mọi thứ rác rưởi, đáng ghê tởm, vì ta nói với kẻ ngu “Đó là
của ta” [chính vì thế] ta đánh lừa kẻ ngu; thân xác của ta, chải
chuốt mái tóc và đủ thứ mỹ phẩm; mọi thứ màu mè loè loẹt, với
đồ trang sức và quần áo loại tốt, v.v…; được trang điểm, sau khi
đã trang điểm rất đẹp. Ta đứng bên khung cửa nhà chứa (vesi-
dvaramhi.) Giống như một thợ săn (luddo) sau khi đã bủa lưới
giăng bẫy (pasam) có nghĩa là: cũng giống như (viya) một tên
thợï săn thú rừng (miga-luddo) [trải rộng ra] lưới trên những
chiếc cọc để bẫy những con vật để có thể đưa những con thú vào
tròng. Ta đứng ngay khung của nhà chứa (vesi-dvaramhi) – cửa
nhà các kỹ nữ – phơi bầy tấm thân của ta ra, được coi như là một
cái bẫy dành cho ma vương, như ta đã nói tới.
74. Ta khoe trương đồ trang sức .Nhiều chỗ kín cũng được phơi
bầy ra (pakasam) có nghĩa là: những chỗ kín như đùi, mông,
vú.v.v…cũng như chân, đầu gối, và cả đầu nữa. v.v…cũng được
phơi bầy ra; và những nơi kín đáo đó được phơi bầy ra lại quá
nhiều, đủ thứ; những đồ trang điểm, khoe khoang đồ trang sức, bị
ô nhiễm do tính kiêu căng của tuổi trẻ. Ta đã thực hiện đủ mọi
thứ trò lừa đảo , chế nhạo nhiều người khác có nghĩa là: bị lây
nhiễm nặng nề do tính kiêu hãnh của tuổi trẻ. Để có thể lừa lọc
nhiều kẻ ngu dốt bằng những cách tiêu khiển và hài huớc.
v.v… với nước hoa, vòng hoa, quần áo, và trang điểm v.v…che
dấu bản chất đích thực của thân xác ta và với những thứ đó ta đã
tạo ra đủ loại khiêu gợi, gợi ý.
75. Hôm nay ta đang du hành khất thực… v.v… ta đã chứng định
vô tàm có nghĩa là: ta là kẻ đã sống cách bất cẩn, ngày hôm nay,
giờ đây, ta dựa vào những lời huấn thị của Trưởng lão Maha-
104
Moggallana, sau khi đã xuất gia theo giáo pháp, với đầu cạo trọc,
rất hoan hỷ mặc áo cà sa, ta đã chu du tái sanh khắp nơi để khất
thực. Ta thưởng thức món ăn của một kẻ ăn mày. Ngồi thiền dưới
gốc cây (nisinna rukkha-mulamhi) ngồi trong một nơi ẩn khuất
ngay dưới gốc cây bằng cách chứng thánh quả tột đỉnh dựa trên
cơ sở đệ nhị pháp an chỉ định. Ta đã chứng thiền định vô tàm. Đó
chính là mối tương quan cần nghiên cứu.
76. Mọi ách phược (yoga) có nghĩa là: bốn ách phược: những sợi
dây ràng buộc do cảm khoái dục lạc đem lại, v.v… ta đã cắt
đứt (samucchinna) có nghĩa là: ta đã loại bỏ, triệt phá một cách
thích hợp như đã được ăn khớp với đệ nhất chánh đạo, v.v…ý
nghĩa phần còn lại cũng đã được giải thích.
Đến đây kết thúc phần chú giải về những đoạn kệ do Trưởng lão
Ni Vimala đã đọc lên.
3. CHÚ GIẢI CÁC ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI SIHA
Những đoạn kệ bắt đầu với [Bị tham dục ảnh hưởng…] do suy
nghĩ không như lý tác ý là của Trưởng lão Ni Siha. Nàng cũng đã
thực hiện được nhiều phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền
kiếp và cũng đã tích lũy được những hạnh thiện làm căn giải
thoát. Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong thành
Vesali làm con gái của vị viên tướng tên là Siha. Nghĩ
rằng“Chúng ta hãy lấy tên người cậu mà đặt cho nàng.” Họ đã đặt
tên cho nàng là Siha.
Sau khi đến tuổi trưởng thành, do có vị Đạo Sư diễn giải giáo
pháp cho vị tướng Siha. Nàng cũng thọ đức tin, xin phép cha mẹ
cho nàng xuất gia. Và sau khi xuất gia, cho dù nàng tinh cần tu
luyện thiền quán, nàng vẫn không thể chận đứng tâm tư của mình
chạy theo những ngoại vật khả lý. Trong suốt bảy năm trời nàng
luôn bị những suy nghĩ sai trái đó dày vò, không bao giờ được an
tịnh tâm linh.
Nàng suy nghĩ, “Làm sao ta thoát khỏi cuộc sống ô nhiễm này?”
“Ta sẽ treo cổ tự vẫn cho xong.” Thế rồi nàng cột một sợi dây
thòng lọng trên một cành cây và cột vào cổ mình. Do những tu
tập của nàng trước kia, nàng đã cố gắng triển khai thiền quán. Vì
đây thực sự là cuộc sống cuối cùng của nàng với chiếc thòng lọng
cột vào cổ, nàng đã khiến cho trí tuệ của mình đạt đến viên mãn
và nàng đã chứng thánh quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải.
105
Ngay lúc nàng chứng thánh quả A-la-hán thì sợi dây thòng lọng
rớt khỏi cổ và rơi xuống đất. Được an trú nơi thánh quả A-la-hán
nàng đã thốt lên những đoạn kệ này như là một lời tuyên bố long
trọng:
77.Bị tham dục ảnh hưởng, do suy nghĩ không như lý tác ý, trước
đó ta đã bị giao động vì không thể kiềm chế tâm linh.
78.Bị lậu hoặc chi phối, nhường chỗ cho ý nghĩ hưởng lạc hạnh
phúc, ta không thể chứng tâm an tịnh. Do bị khống chế dưới ảnh
hưởng những suy tính dục lạc.
79. Sống ốm yếu, vàng da và nhan sắc tiều tụy, ta chu du tái sanh
khắp chốn trong suốt bảy năm qua, phải trải qua biết bao đau khổ
ngày đêm ta chẳng tìm được hạnh phúc.
80.Thế rồi ta tìm lấy sợi dây thòng lọng, rồi đi đến khu rừng nghĩ
rằng, “Kẻ tốt nhất chỉ là treo cổ chết cho xong hơn là sống đời hạ
giới trở lại nữa.”
81.Ta đã làm một sợi dây thòng lọng và cột chắt vào một cành
cây, ta vòng sợi dây ngay vào cổ. Thế rồi tâm ta được giải thoát
trọn vẹn.
77. Ở đây, do suy nghĩ không như lý tác ý (ayoniso manasikara)
có nghĩa là: suy nghĩ điều gì đó là hạnh phúc trong khi đó chỉ là
những gì ghê tởm vì đó chỉ là cách ứng dụng những tư tưởng sai
lầm (anupaya-manasikarena). Do bị kìm kẹp chặt vào ảo giác. Do
tham dục chi phối nặng nề (kama-ragena) có nghĩa là: bị khống
chế do những dục vọng tham dục. Trước đó ta rất tự phụ kiêu
mạn, không thể chế ngự (avasa-vattini) được tâm linh có nghĩa là:
trước đó, không hề tồn tại (avattamane) trong ta việc kiềm chế
tâm linh ta hoàn toàn bị giao động, không thể thiền định, với tâm
trí rối bời do đủ điều đa dạng.
78. Bị lậu hoặc (kilesehi) chi phối, nhường chỗ cho ý nghĩ hưởng
lạc hạnh phúc (subhasađđanuvattini) có nghĩa là: do lậu hoặc
khống chế như thể ước muốn hưởng dục lạc (kama-
ragadikilesehi) coi đó là hạnh phúc, v.v…trở thành những nỗi ám
ảnh tự bản chất hay chiều theo những nhận thức cảm khoái tham
dục thường diễn ra. Cụ thể như, “có hạnh phúc diễn ra nơi sắc
giới.” ta không chiếm được an tịnh tâm hồn (samam cittassa),
luôn bị chi phối do ảnh hưởng của những suy nghĩ tham dục.
(raga-citta-vasanuga) có nghĩa là: bị sa ngã dưới sự khống
chế (vasam) tâm linh luôn liên kết với ước muốn tham dục . Ta
106
chẳng bao giờ chiếm được mảy may an tịnh tâm hồn (cittassa
samam) an tịnh tâm linh, nhất tâm.
79. Gầy còm, xanh xao vàng vọt và dung nhan tiều tụy có nghĩa là:
như vậy ta trở nên gầy còm, do hiện trạng xao xuyến lo âu, với
mạch máu bật ra khỏi cánh tay trở nên vô cùng xanh xao vàng vọt,
và kết quả là ta trở nên thất sắc, da dẻ của ta trắng bệch. Trong suốt
bảy năm trường, ta chu du tái sanh khắp nơi có nghĩa là: ta lang
thang. Vô cùng đau khổ (sudukkhita). Ta không tìm đâu ra hạnh
phúc cả ngày lẫn đêm có nghĩa là: như vậy, trong suốt bảy năm trời
ta không thể có được hạnh phúc của một vị ẩn sĩ cho dù chỉ một
ngày hay một đêm mà thôi. Vì ta bị đau khổ quá nhiều do sầu khổ
các lậu hoặc đem lại.
80. Thế rồi có nghĩa là: hiện trạng thiếu hạnh phúc của một vị ẩn
sĩ do những lậu hoặc ám ảnh liên tục. Nếu có ai đó hỏi. “Tại sao
ta không tiến tới?” [nghĩ rằng,] “Tốt hơn hết là treo cổ tự vận cho
xong hơn là kéo dài cuộc sống đau khổ này, có nghĩa là: nếu như
ta không có khả năng chu toàn bổn phận của một vị ẩn sĩ, nếu như
ta cứ kéo dài cuộc sống (acare). Nếu như ta chỉ sống (acareyyam)
phải tập luỵên một cuộc sống đau khổ làm một chủ gia nhân, thì
một trăm một ngàn lần thà treo cổ tự vẫn (ubbandham) trong rừng
ta nghĩ là (bandhitva) còn tốt hơn. Đối với ta chết còn tốt hơn. Đó
là ý nghĩa.
81. Thế rồi tâm ta được giải thoát hoàn toàn có nghĩa là: khi ta
quẳng sợi dây lên cành cây và quàng vào cổ, thế rồi ngay sau đó,
tâm ta được hoàn toàn giải thoát khỏi mọi điều ô uế vẩn đục
thông qua chánh đạo; từng điều một, là những gì có liên quan đến
chánh đạo thiền quán dẫn đến khởi xuất; có nghĩa là, ta được giải
thoát.
4. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI SUNDARI-
NANDA
Những đoạn kệ bắt đầu với câu “Này hỡi Nanda, hãy ngắm nhìn
tấâm thân bệnh hoạn và hôi thúi xú uế” là của Trưởng lão Ni
Sundari-Nanda, Người ta kể lại rằng nàng được sanh ra trong một
gia đình rất tốt trong thành Hatsavati dưới thời Đức Phật
Padumuttara. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng lắng nghe giáo
pháp trước sự hiện diện của vị Đạo Sư và nàng nhận ra đạo sư đã
chọn một Tỳ khưu Ni vào địa vị cao nhất trong số các nữ thiền
107
sinh. Nàng đã thực hiện nhiều phước nghiệp trong suốt một trăm
ngàn đại kiếp, chu du tái sanh khắp cõi chư thiên đến cõi chúng
sanh.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong gia đình hoàng
gia thuộc dòng họ Thích Ca. Họ hàng đặt tên cho nàng là Nanda,
vì nàng có diện mạo rất hoàn chỉnh, nàng cũng được biết đến với
tên gọi là Sundari-Nanda (nàng Nanda kiều diễm), sắc đẹp
nghiêng nước nghiêng thành, [Nàng là một phụ nữ có rất nhiều
triển vọng trong bộ tộc Kapila. Không cần thiết một chiếc đèn
trong một căn phòng rộng mười hai cubits. Nàng toả sáng chói
chang do ánh sáng toát ra từ thân thể nàng, nhưng Yasodhara lại
tỏa sáng một trăm lần nhiều hơn nàng].
Sau khi Đức Thế Tôn chứng chánh đẳng chánh giác. Theo thứ tự
tiếp theo, ngài đi tới thành Kapilavatthu, hoàng tử Nanda và hoàng
tử Rahula đều xuất gia, ngài rời khỏi nơi đó, vào lúc đại vương
Suddhodana tịch diệt, Maha-Pajapati Gotami và Rahulamata cũng
xuất gia. Và nàng [Sundari-Nanda] suy nghĩ. “Người anh cả của ta
đã rời bỏ vương quyền chuyển luân vương và đã xuất gia. Anh đã
trở thành Phật, là nhân vật tuyệt hảo nhất trên cõi đời này. Con trai
anh ta, hoàng tử Rahula, cũng đã xuất gia, và cả anh ta là vua
Nanda nữa và Mẹ ta, Maha-Pajapati Gotami, và chị dâu của ta là
Rahulamata, cũng đã xuất gia. Giờ đây ta còn sống làm chi trong
gia đình này nữa? Ta cũng sẽ xuất gia.” và nàng đã vào ni viện của
chư vị Tỳ khưu Ni.
Nàng xuất gia phát xuất từ tình yêu những người họ hàng thân
thuộc. Chứ không phải do niềm tin. Chính vì thế, cho dù ngay cả
sau khi đã xuất gia, nàng vẫn còn bị ô nhiễm với sắc đẹp của
chính mình. Suy nghĩ rằng, “Vị Đạo Sư coi rẻ và nhận ra lỗi
phạm nơi sắc đẹp. Bằng nhiều cách ngài tỏ cho thấy sắc đẹp có
thể gây nguy hiểm.” Nàng đã không đến hầu hạ Đức Phật. Đây
chính là mở đầu [chuyện kể về nàng]; toàn bộ phần còn lại ta nên
hiểu như đã được mô tả trong chuyện kể về Abhirupa Nanda ở
trên; nhưng lại có sự khác biệt như sau: nàng nhìn thấy hình dáng
một người phụ nữ được tạo ra dần dà đạt đến tuổi già và tâm
Trưởng lão Ni đã quay trở lại với chủ đề thiền bằng cách tập
trung chú ý tới tính vô thường, đau khổ, và vô ngã. Nhận ra điều
này, vị Đạo Sư diễn giải Giáo Pháp bằng phương pháp thích hợp
và ngài đã thốt lên ba đoạn kệ trên:
108
82. Hỡi Nanda, hãy nhìn xem thân xác ngươi, bệnh hoạn, ô uế,
thối rữa. Hãy tu tâm khéo tập trung và chăm chú quán tưởng sự
bất tịnh.
83.Thân này cũng như thân đó, như thân đó cũng như thân này
cũng chỉ xuất ra mùi hôi thối rồi rữa nát. Chỉ có kẻ ngu mới thích
thú mà thôi.
Nàng ứng dụng tri thức như là một điều kiện của bài kinh đó và
an trú nơi thánh quả Nhập Lưu. Và để giao cho nàng một chủ đề
thiền nhằm chứng chánh đạo cao hơn, ngài nói, “Hỡi Nanda,
trong thân xác này chẳng có gì là tinh túy cả, cũng chẳng có chút
gì đáng giá cả, chỉ gồm một đống thịt xương già cỗi và chết đi
v.v… theo ngày tháng; chỉ có thế mà thôi.”Và ngài thốt lên đoạn
kệ này trong tập Pháp cú Kinh (Dhammapada):”
84. Một thành phố xây bằng xương, quét tường bằng thịt và máu
tại nơi đó khi tuổi già, chết chóc, kiêu hãnh và lừa đảo chất chứa
trong đó. (Pháp Cú Kinh 150)
Vào cuối bài kinh nàng chứng thánh quả A-la-hán.
Như được đề cập đến trong Thí Dụ Kinh như sau:
1. Một trăm ngàn đại kiếp qua vị Chiến Thắng và Thống Lãnh
cõi thế gian đã sanh ra, ngài có tên là Padumuttara, vì ngài đã
vượt qua tới bờ bên kia mọi pháp.
2. Ngài chính khi xưa đã khuyên nhủ, cũng chính ngài mới có
khả năng huấn thị mọi chúng sanh, ngài xuất chúng và kiệt xuất
thông thạo giáo pháp, vị Phật đã tạo cho một số đông đảo chúng
sanh vượt tới bến bờ.
3. Luôn đồng cảm, lại đại bi chỉ muốn điều hạnh phúc cho muôn
dân, ngài an trú toàn bộ sắc tộc đến với ngài thọ ngũ giới.
4. Bản chất vô ngã của ngài không gây phiền cho nhóm người
nào, và đó chính là đồ trang sức của chư vị A-la-hán, chỉ duy nhất
họ chế ngự được.
5. Vị Hiền Nhân có năm mươi tám ratanas, giống như lớp hoa
bằng vàng óng ánh, mang đủ ba mươi hai tướng siêu phàm.
6. Thọ mệnh ngài kéo dài suốt trăm ngàn năm không ngớt. Và
khi còn lưu lại nơi cõi trần này ngài tạo cho muôn người vượt
thắng tới bờ cõi an toàn.
7. Vào thời đó ta sanh ra trong thành Hatsavati trong một gia
đình thương gia giàu có. Toả sáng với muôn vàn châu báu cùng
đá quí. Và ta hưởng hạnh phúc thật tuyệt vời.
109
8. Ta đến gặp vị Đại Anh Hùng và lắng nghe ngài diễn giải
Phật Pháp đề cập đến điều bất tử, ôi điều ngọt ngào lớn lao nhất,
biết được điều tốt tột đỉnh cao siêu.
9. Thế rồi ta mời vị lãnh đạo thế gian cùng với Tăng Đoàn của
ngài và với tâm sẵn sàng phục dịch ngài cẩn thận chính tay ta
dâng cúng dường của thí vĩ đại.
10. Ta yêu cầu được chia địa vị cao nhất nơi chư vị Tỳ khưu, là
những kẻ học giới, đầu phủ phục xuống tận chân Đấng đại trí là
lãnh đạo cõi thế gian cùng với Tăng Đoàn của ngài.
11. Thế rồi vị thuần hoá những kẻ vô thuần hóa, nơi quy y cho
tam giới, vị Thiện Thệ, vị đánh xe chuyên chở muôn dân. Tiên
đoán như sau, “Nhà ngươi sẽ nhận được điều mong muốn đó.
12.“Một trăm ngàn đại kiếp kể từ thời điểm này, sẽ xuất hiện vị
Đạo Sư trong thế gian, tên Cồ Đàm theo dòng họThích Ca, là hậu
duệ bộ tộc Okkaka.
13.“Sẽ xuất hiện người thừa kế giáo pháp, hậu duệ hợp pháp của
giáo pháp tên là Nanda, một đệ tử của vị Đạo sư trìu mến.”
14. Ngay sau khi ta nghe điều này, tâm ta tràn ngập niềm vui
ngưỡng mộ, suốt đời ta nguyện phục vụ ngài lãnh chúa. Vị đại trí
với đủ thứ nhu thiết yếu cùng với tâm tràn ngập lòng nhân ái.
15. Do kết quả nghiệp công đức đó và do lòng quyết tâm cùng
mục tiêu rõ ràng, khi ta từ bỏ cái thân hèn phàm tục. Ta tái sanh
nơi cõi Trời Đâu Xuất hân hoan.
16. Rời khỏi cõi đó, ta xuống cõi Diêm Vương, rồi từ đó ta trở lại
cõi Trời Đâu Xuất (Tusita). Từ cõi đó tiến vào cõi Nimmanarani;
rồi từ đó được trú xứ nơi Vasavatti.
17. Bất kỳ nơi đâu ta được tái sanh, nhờ có phước nghiệp ta đã
thực hiện trong tiền kiếp, với tư thế chánh hậu ta cai quản các vị
vua cùng những cõi chư thiên.
18. Bất cứ nơi nào ta được tái sanh, nơi kiếp làm con người phàm
tục. Với tư cách chánh hậu của nhà vua kính mến ta cai quản
chuyển luân vương và các vua chúa đang cai quản vương quốc.
19. Ta tận hưởng niềm thịnh vượng nơi chư thiên cõi thiên giới
cùng với cõi chúng sanh, nơi nào ta cũng được hạnh phúc chu du
tái sanh khắp trong nhiều đại kiếp.
20. Cõi cuối cùng ta phải tái sanh, ta đến được trú xứ an lạc tên là
Kapila, và ta chính là con gái vô tỳ vết của nhà vua Suddhodana.
110
21.Chiêm ngưỡng vinh quang thể chất của ta, gia đình đó quả đầy
hoan hỷ. Chính vì thế ta được đặt tên mỹ miều đặc biệt là Nanda
[“kẻ được hoan hỷ”]
22. Và danh tiếng ta lừng lẫy khắp nơi. Mọi người gọi ta là, “nàng
xinh đẹp nhất nơi mọi phụ nữ.” chỉ trừ có Yasodhara, trong thành
đó mà thôi.
23. Người anh cả tuyệt hảo nhất trên thế gian, và người em gái
Nanda cũng chứng quả A-la-hán. Ta còn lại một mình trở thành
tín nữ. Mẹ ta luôn động viên cổ vũ ta:
24.“Ôi con gái yêu, thuộc dòng dõi Thích Ca, con là em gái Đức
Thiện Thệ Buddha. Làm sao ở nhà mà thiếu vắng Nanda?
25.Tuổi trẻ khống chế do tuổi già, sắc đẹp được coi như đồ nhơ
nhớp. Và cả sức khoẻ tốt cũng tận cùng bằng bệnh tật. Cuộc sống
ta chấm dứt khi lìa đời.
26.–28. “Giờ đến lúc già chẳng còn bao lâu nữa, khi tuổi già sẽ
khống chế sắc đẹp của ta, thân xác bạn giống như đá tươi xinh,
tảng đá mặt trăng quả là hấp dẫn, cả đồ trang sức lẫn trang điểm
cho thân, chất đống lại giống như đống phế liệu, liều thuốc tiên
cho mắt ta chứng kiến, chỉ có công đức tạo niềm hoan hỷ trong
gia đình Okkaka mới khiến người nổi tiếng trên đời này. Hãy bố
thí cả nhà cửa và thực hành giáo pháp với lòng đại bi, ôi kẻ vô tội
của ta ơi.”
29. Khi nghe lời mẹ ta nói vậy, ta xuất gia sống đời vô gia cư, thật
hoan hỷ thời niên thiếu với sắc đẹp. Nhưng tâm ta chẳng có gì
tích lũy.
30. Sau đó mẹ ta lại nhủ bảo nhập thiền quán cho tinh thông,
nhưng ta không hứng thú thực thi điều đó.
31-32. Thế rồi Đức Đại Bi nhận ra ta hướng về tham dục. Để
khiến ta ghê tởm chính sắc đẹp của mình, vị chiến thắng dùng
thần thông làm phép, khiến xuất hiện ngay trước mắt ta một phụ
nữ lộng lẫy thật kiêu xa. Rất kiều diễm còn đẹp hơn ta muôn
phần.
33. Vừa nhìn thấy người phụ nữ lộng lẫy đó, ta kinh ngạc suy
nghĩ như sau: “Đây quả thật có lợi cho ta, lại có thể chứng kiến
ngay cả một người phàm như vậy.”
34. Thế rồi ta lên tiếng với ngài bằng lời rằng, “Nào, ôi kẻ may
mắn kia ơi, hãy cho ta biết ngươi muốn gì nào, cho ta biết gia đình,
tên gọi cùng dòng họ ngươi nếu được như thế.
111
35. Đây không phải là lúc lừa gạt phỉnh phờ nhau, ôi nàng may
mắn, hãy cho ta an nghỉ trong lòng ngươi nào, hãy ngồi xuống
đây, cho tứ chi ta nghỉ ngơi trong giây lát.
36. Thế rồi ta gục đầu vào lòng nàng, nàng có con mắt đẹp
đang ngủ an giấc. Thế rồi một con nhện khủng khiếp xuất hiện
ngay trán nàng.
37. Vừa lúc con vật đó rớt trên nàng, một đinh nhọt xuất hiện
ngay trên đó, và vỡ ra tuôn trào đủ thứ ô uế, nào máu, nào mủ
trào ra khắp nơi.
38. Rồi miệng nàng trào đủ mùi xú uế. Mùi hôi hám thối rữa,
sưng vù và biến sắc kinh hoàng, rồi toàn thân nàng chỉ còn là một
đống mủ.
39. Tứ chi nàng run rẩy, nàng liên tục Thở dài luyến tiếc. Nàng
cảm nhận nỗi khổ của chính mình, rồi than vãn thảm thương chưa
từng thấy.
40. Nàng cất tiếng, “Sầu khổ đã gây cho ta hết chịu nổi. Những
cảm thọ khiến ta đau khổ khôn lường, ta ngụp lặn trong đau khổ
khủng khiếp. Ôi bạn hiền hãy đến cứu giúp ta.”
41. “Lỗ miệng nhà ngươi đâu rồi? Cả lỗ mũi cao duyên dáng
khi xưa? Lỗ miệng xinh xắn này điểm cặp môi đẹp tuyệt đỏ chót
hơn cả bôi son? [ta lên tiếng hỏi]
42. “Làn da sáng của ngươi tựa ánh trăng biến đâu mất rồi?
Đầu cổ ngươi trông tựa ốc xà cư biến đâu rồi? Lỗ tai ngươi trông
giống tựa điệu nhẩy đong đưa mờ nhạt màu.
43. Bộ ngực ngươi trông như búp bông tàn úa và từ đó tuôn
trào những chất dơ bẩn hôi thối tan rữa thật khó ngửi.
44. “Nhà ngươi với vòng eo và bộ mông hấp dẫn, đã trở thành
một đống phân tro ô uế giống như những khiếm khuyết dẫn đến lò
sát sanh, ôi sắc đẹp quả không tồn tại vĩnh cửu!
45. “Toàn bộ mùi hôi thối xông ra từ thân xác thật khủng khiếp
khôn tả. Ghê tởm tựa bãi tha ma mà chỉ kẻ ngu mới thích thú
trong đó.
46. Thế rồi người anh của ta, là vị Đại Bi khôn xiết, vị lãnh tụ
cõi thế gian qui tụ. Nhìn thấy ta đang trong cảnh giao động và
ngài thốt lên đoạn kệ như sau:
47. “Hỡi Nanda, hãy nhìn kỹ thân xác đầy bệnh hoạn, ô uế thối
rữa. Hãy một mặt tinh tấn tu tập, hãy chú tâm và luyện tâm nhất
cảnh. Để hành thiền quán những thứ ghê tởm kia.
112
48. Thân này cũng như thân ấy, như thân ấy cũng như thân này
vậy. chỉ toát ra mùi hôi thối tan rữa mà thôi chỉ có kẻ khờ mới lấy
đó làm thích thú.
49. “Nhìn vào cảnh đó theo cách trên đây, xin đừng dễ duôi
ngày cũng như đêm. Rồi dùng chính tuệ giác ngươi mà phân tích,
chẳng bao lâu ngươi sẽ nhận ra ngay.
50. Thế rồi tâm ta đầy cảm kích khi nghe được những đoạn kệ
khéo thốt ra. Đứng lặng người, ta rung bắn cả người, rồi sau đó ta
chứng quả A-la-hán.
51. Bất kỳ nơi đâu ngồi thiền, ta đều quán tưởng với đề mục đó,
vị Đạo Sư thật hài lòng ta với những phẩm chất đó và chọn ta vào
địa vị bậc nhất nơi những kẻ học giới của ngài.
52–54. Mọi lậu hoặc của ta đã bị thiêu huỷ hết...[xin đọc tr. 10] ta
đã thực hiện lời Phật dạy.
Thế rồi nàng chứng thánh quả A-la-hán và nhìn lại những thành
tích của mình, nàng đã thốt lên hai đoạn kệ sau đây:
85. Cảnh giác, thận trọng thiền quán thân ấy theo cách đó. Ta quan
sát tấm thân này như thật để thấy rõ bên trong lẫn bên ngoài.
86. Rồi ta chán ngấy tấm thân này, ta chẳng chút màng đến trong
thâm tâm; đầy cảnh giác thận trọng, lại giải thoát khỏi ly tham ta
chứng được an bình tịch tịnh nơi níp bàn.
84. Ở đây, quan sát thân xác ta theo cách này… v.v… ngươi sẽ
nhận ra có nghĩa là: thân xác này thật đáng ghê tởm, v.v… tự bản
chất; như vậy: “thân này cũng như thân ấy, như thân ấy cũng như
thân này vậy” [v. 83], v.v… như ngài đã nói, cả ngày lẫn
đêm, luôn luôn, không được lơi là, dứt bỏ hiểu biết bao gồm điều
nhà ngươi đã nghe được, dựa trên những gì người khác đã
nói. Thế rồi phân tích tướng đó cho chính ngươi đã tạo ra nhờ vào
trí tuệ của chính ngươi lại dựa trên việc tu luyện tâm linh nữa, do
tạo ra đúng lúc được biệt phân sâu rộng. Điều ta nhận ra tồn tại ra
làm sao vậy? Do nhìn kỹ điều này thông qua thiền quán thông
qua nhãn tiền kiếp, là ta suy luận. Đây chính là ý nghĩa.?
85. Ý nghĩa điều đó là: Hãy tỉnh thức, cảnh giác, luôn lúc nào
cũng nhập thiền định, một cách hợp lý. Khôn khéo, bằng trí tuệ
và thiền quán về tính vô thường v.v…suy tư, nghiền ngẫm, ta
nhận ra thân xác này, là từ đồng nghĩa với ngũ uẩn, bên trong và
bên ngoài. Chính là vì có sự phân tích nội bên trong chính liên tục
tính của ta và của cả tha nhân nữa, như thật vậy.
113
86. Thế rồi, nhận ra như vậy sau đó, ta cảm thấy ghê tởm với
(‘nibbind’) thân xác (kaye) này. Ta cảm thấy chán ngấy với
(nibbindi?) thân xác này (attabhave) nhờ hiểu biết được chánh
đạo kèm theo với hiểu biết do thiền quán đem lại. Chính vì thế ta
chẳng còn quan tâm đến thân xác nữa, đặc biệt ta đã không còn tỏ
thái độ dửng dưng với liên tục tính nội tại nữa. Ta trở nên cảnh
giác (appamatta), sau khi đã đạt đến tột đỉnh tu luyện cảnh giác
(thân xác này) thật sự (là như vậy), không bị ràng buộc do những
ách phược đã bị cắt đứt toàn bộ và ta chứng đắc an bình và tịch
tịnh nơi níp bàn.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Sundari-Nanda.
5. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI
NANDUTTARA
Những đoạn kệ bắt đầu với [Ta thường đảnh lễ] lửa và mặt trăng,
v.v…là của Trưởng lão Ni Nanduttara. Nàng cũng đã thực hiện
những phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và tích lũy
được nhiều hạnh thiện trong nhiều kiếp khác nhau làm căn giải
thoát. Đến thời Đức Phật hiện tại. nàng sanh ra trong gia đình một
vị Bà la môn trong thành Kammasadhamma trong vương quốc
Kuru. Nàng đã theo học một số ngành học và nghệ thuật. Thế rồi
nàng đã xuất gia trở thành một ni kiền đà (Jain) và nàng chủ tâm
kinh, nàng đã cầm lấy cành cây diêm phù và đi khắp nước Ấn Độ
giống như nàng Bhadda. Nàng đã đến gặp Trưởng lão Maha-
Moggallana, tranh luận với ngài, ngài trưởng lão đã chiến thắng
trong cuộc tranh luận đó. Nghe theo lời dạy của Trưởng lão, nàng
đã xuất gia theo giáo pháp của ngài và chu tất được những bổn
phận bước đầu của công việc tu trì. Nàng chứng thánh quả A-la-
hán sau đó một thời gian ngắn. Chiêm ngưỡng những thành quả
mình đã đạt được, nàng thốt lên năm đoạn kệ như việc công bố
long trọng về những thành tích đó như sau:
87.Ta thường đảnh lễ thần lửa và mặt trăng cả mặt trời cùng chư
vị thần linh. Ta thường lui tới nơi bến sông và bước xuống nước
để tắm mát.
88.Chấp nhận thực hiện nhiều giới, ta cạo nửa mái tóc trên đầu, ta
nằm nghỉ ngay trên sàn đất, ta kiêng không dùng bữa vào ban
đêm.
114
89. Ta rất thích mang nhiều đồ trang sức và trang điểm thân mình,
ưa tắm rửa và xức dầu xoa bóp. Ta thường cung phụng tấm thân
này thật kỹ lưỡng nhằm thoả mãn những mơ ước dục lạc.
90.Từ khi ta chứng đắc niềm tin, ta quyết định xuất gia sống cảnh
vô gia cư. Nhìn thân này mọi sự như thật vậy. Ta đã triệt phá
được ước muốn hưởng tham dục.
91.Ta chặt đứt hết mọi sanh hữu – cả những ham muốn lẫn cầu
hoan hỷ nữa; ta tự giải toả khỏi mọi ách nạn. Ta chứng đắc bình
an nơi tâm linh.
87. Ở đây, ta thường đảnh lễ thần lửa, mặt trăng và mặt trời cùng
các chư thần thánh có nghĩa là: ta thực hiện cúng dường để làm
nguôi lòng chư vị chư thiên Inda, nghĩ rằng, “chư vị chư thiên lấy
lửa làm đầu họ”. Và ta thường kính lễ. Ta thực hiện kính lễ thần
lửa mỗi tháng vào ngày thứ hai tuần trăng, và [ta đảnh lễ] mặt
trăng mỗi ngày vào buổi tối và buổi sáng, ta [đảnh lễ] mặt trời và
các thần linh bên ngoài khác bắt đầu với vị Phạm thiên
(Brahma) để tìm cho ra Thanh tịnh đạo. ta đi tới những bến nước
bên bờ sông và kính lễ thần sông Hằng, v.v… ta bước xuống
dòng sông vào buổi tối và buổi sáng. Ta bước xuống nước, và
nhào xuống nước. Ta thực hiện nghi lễ rẩy nước trên khắp tứ chi
ta.
88. Ta chấp nhận rất nhiều giới cấm (bahu-vata-samadana) có
nghĩa là: ta thực hiện đủ loại lời nguyền như tra tấn hành hạ thân
… chịu đựng năm loại sức nóng . Ở đây có sự kéo dài của từ
(bahu) luật chân kệ. (metri causa). Ta xuống tóc nửa mái tóc có
nghĩa là: ta chỉ cạo trọc một nửa đầu. Một số người cho rằng ta
cạo trọc nửa mái tóc có nghĩa là: ta cột một nửa búi tóc bằng cách
cột lại thành bím và cắt bỏ một nửa. Ta sửa soạn (kappemi)
giường ngủ trên sàn nhà có nghĩa là: trở thành người nằm ngủ
trên sàn nhà không có chăn đắp. Ta không ăn vật
thực (bhatta) vào ban đêm (rattim) có nghĩa là: ta đang thực hiện
kiêng ăn vào ban đêm (ratuparata hutva). Ta không dùng bữa vào
ban đêm.
89. Ta rất thích đeo đồ trang sức và trang điểm có nghĩa là: trong
một thời gian dài thể chất ta đã mỏi mệt do ta tự hành hạ chính
bản thân. Ta suy nghĩ điều đó: “Chẳng tìm thấy việc thanh tịnh
thể chất bằng cách biếân thể xác trở nên mệt mỏi theo kiểu đó.
Nhưng có thể tìm thấy thanh tịnh thể xác bằng cách ban thưởng
115
cho thể xác cách thỏa mãn giác quan.” Ta chăm sóc thể xác
mình, thích thú đeo đồ trang sức và trang điểm liên tục tìm kiếm
thoả mãn việc trang điểm bằng xiêm y, luôn thích thú thưởng
thức hoa và nước hoa…và trang điểm. Bằng cách tắm và xức dầu
xoa bóp (napanucchadanehi ca) có nghĩa là: ta chăm sóc thân xác
mình, ta thỏa mãn thân xác đó. Nhằm thoả mãn những ước mơ
sắc dục có nghĩa là: cho dù thân xác ta có được mạnh khoẻ. Ta lại
bị đau khổ do những ước ao sắc dục, ta liên tục bị tấn công do bị
ám ảnh và do chú ý thiếu khôn ngoan.
90. Thế rồi từ khi ta chứng đắc niềm tin có nghĩa là: phá vỡ lời
nguyền được thực hiện theo kiểu cách đó, được khỏe khoắn nơi
thể chất và mải mê trong việc tranh cãi. Ta đã chu du tái sanh
khắp nơi. Thế rồi, sau này khi ta chứng đắc đức tin, sau khi đã
nhận lời dạy dỗ và khuyên bảo từ Trưởng lão Maha-
Moggallana. Quan sát thân xác mọi sự đều như vậy có nghĩa là:
sau khi quan sát thân xác của ta thực sự là như vậy nhờ tuệ giác
hai chánh đạo đầu tiên do thiền quán đem lại. Toàn bộ ước muốn
dục lạc đều bị triệt phá đến tận gốc rễ. Nhờ thánh đạo bất lai.
91. Sau đó, thông qua thánh đạo tột đỉnh, ta đã cắt bỏ mọi sanh
hữu – và những uớc muốn cũng như cầu mong nữa, có nghĩa
là: ta đã cắt đứt mọi sanh hữu tùy miên – và những ước muốn,
được gọi là ước muốn có được sanh hữu trong tương lai. Đây là
cách ta nên hiểu. Ta đã chứng đắc (papuni) an tịnh tâm hồn có
nghĩa là: ta đã đạt đến, ta đã chiếm được bình an tuyệt đối chính
là thánh quả A-la-hán đem lại.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Nanduttara.
6. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI MITTAKALI
Các đoạn kệ bắt đầu với Vì lòng tin ta đã xuất gia là của Trưởng lão
Ni Mittakali. Nàng đã thực hiện rất nhiều phước nghiệp dưới thời
chư vị Phật tiền kiếp và đã tích lũy được những hạnh thiện nơi nhiều
kiếp khác nhau làm căn giải thoát. Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng
được sanh ra trong một gia đình Bà la môn trong thành
Kammasadhamma ngay trong vương quốc Kuru. Khi đến tuổi
trưởng thành nàng chứng lòng tin thông qua lắng nghe bài kinh về
Tứ Niệm Xứ và xuất gia làm Tỳ khưu Ni.
116
Trong suốt bảy năm nàng rất thèm khát được cúng dường và được
trọng vọng, đang lúc thực hiện nhiệm vụ của vị ẩn sĩ. Nàng đã
chu du tái sanh khắp nơi. Và rồi sau đó nhờ hiểu biết được một
cách thích hợp, một giao động lớn nổi lên trong tâm nàng, và
nàng an trú nơi thiền quán. Nàng chứng thánh quả A-la-hán cùng
với Tứ vô ngại giải chỉ sau một thời gian rất ngắn. Chiêm ngưỡng
thành tích nàng đã đạt được nàng thốt lên những đoạn kệ này như
là một lời tuyên bố long trọng:
92. Vì lòng tin ta xuất gia, rời bỏ gia đình tham gia cuộc sống vô gia
cư. Và chu du tái sanh khắp nơi, rất thèm khát được cúng dường và
được trọng vọng trong nhiệm vụ của mình.
93. Ta từ bỏ đích tối thượng và phục vụ đích hạ liệt. Bị lậu hoặc
kiềm toả, ta chẳng hay biết mục đích sống đời sa môn phạm hạnh.
94.Ta cảm nghiệm một giao động mạnh mẽ khi ta ngồi thiền
trong phòng tịnh xá , nghĩ rằng, “Ta theo đuổi tà đạo, thèm khát
ái ngự trị trong ta.
95.“Sanh mệnh ta quá đoản, tuổi già và bệnh tật đã triệt hạ ta.
Chẳng còn thời gian cho ta sống quá thờ ơ trước khi thân xác này
bị huỷ diệt.”
96. Nhìn xem ngũ uẩn sinh diệt như thế nào, mọi sự đều như vậy.
Ta tỉnh thức với tâm hoàn toàn được giải thoát, ta đã thực hiện y
lời Phật dạy.
92. Ở đây, ta chu du tái sanh khắp nơi rất thèm khát được cúng
dường và trọng vọng có nghĩa là: thèm khát được (ussuka). Tịnh
tín đối với và ước muốn được cúng dường (labhe) và được trọng
vọng (sakkare). Luôn luôn ước mong được thứ đó. Ta chu du tái
sanh hết nơi này đến nơi khác để được lợi nhờ những bài kinh về
giáo pháp và kiến thức rộng rãi của ta.
93. Ta từ bỏ đích tối thượng, có nghĩa là: ta bỏ qua, ta loại bỏ
mục tiêu tối thượng nơi trạng thái an chỉ định, thiền quán, và các
thánh quả, v.v…ta theo đuổi đích hạ liệt. có nghĩa là: ta theo
đuổi thông qua những tìm kiếm không thích hợp những đích hạ
liệt, đích hạ cấp chỉ là những của cải thế gian được gọi là bốn thứ
thiết yếu. Trải qua các lậu hoặc khống chế có nghĩa là: đạt
đến (upagantva) sự khống chế nơi các lậu hoặc, kiêu mạn, nghiện
ngập và thèm khát v.v… ta không biết (na bujjhim), ta không biết
đích cuộc sống phẩm hạnh ẩn sĩ. Nhiệm vụ của vị ẩn sĩ.
117
94. Khi ta ngồi thiền ngay trong phòng tịnh xá (mama vasanaka-
ovarake) Ta cảm nghiệm được một giao động mãnh liệt. Nếu ta
hỏi, “Tại sao?” nàng sẽ trả lời, ta đã đi vào tà đạo. Ở đây, ta đã
thâm nhập vào một lối đi sai trái. có nghĩa là: cho dù giáo pháp
này đã tịch tịnh không còn chấp thủ như là đích, sau khi đã xuất
gia theo giáo pháp đó, ta không còn lưu ý đến đề mục thiền của ta
nữa. Ta (amhi) gia nhập tà đạo. Ta đã bị thèm khát khống chế có
nghĩa là: ta tới được (upagata) [phải chịu] dưới sự khống chế của
thèm khát những điều thiết yếu cho cuộc sống.
95. Sanh mệnh của ta rất ngắn ngủi có nghĩa là: thời giờ của ta đã
bị giới hạn, đã bị hạn chế, và với nguy hiểm rất lớn. Cuộc sống
của ta thật ngắn ngủi, hạn chế, lãng phí. Cuộc sống của ta thật
ngắn ngủi có nghĩa là: cuộc sống của ta quả ngắn ngủi, giới hạn,
vô ý nghĩa, vì không được loại ra khỏi một giai đoạn thời gian và
vì cuộc sống đó có quá nhiều nguy hiểm. Tuổi già và bệnh tật đã
bị trịêt phá, đã bị loại bỏ. Đây cũng là cách giải
thích maddare [maddati (“triệt phá”) Trước khi thân xác này bị
diệt có nghĩa là: trước khi thân xác này bị diệt. Lần này là cơ hội
thứ chín của ta. Bỏ lại đàng sau tám cơ hội thuận tiện trước đó.
Xin đừng chú tâm trở nên bất cẩn. Nàng phải giao động vô cùng
mãnh liệt là cách ta nên hiểu.
96. Nhìn xem ngũ uẩn sinh diệt như thế nào có nghĩa là: vì là một
người có một giao động mãnh liệt nổi lên, sau khi đã an trú thiền
quán do tập trung chú ý tới đặc tính vô thường, v.v…nhìn xem
mọi sự đều như vậy. Nhìn xem điều gì vậy? Nhìn vào sanh diệt
ngũ uẩn thực sự diễn ra như thế nào. Nhiệt tâm hành thiền quán,
quan sát và chiêm ngắm các uẩn sinh diệt như thế nào việc sinh
diệt ngũ uẩn chấp thủ chính xác với năm mươi các phân chia bằng
những khẳng định như ‘với vô minh khởi sanh liền khởi sanh
danh sắc…v.v… Thông qua chánh đạo tâm được giải thoát hoàn
toàn khỏi các lậu hoặc và hữu sanh, hết cảnh này tới cảnh
khác. Ta có thể đứng lên, ta tỉnh dậy khỏi ba cảnh hữu sanh tất cả
đều xuất phát từ thánh đạo và bằng cách khởi sanh. Ý nghĩa phần
còn lại coi như đã được giải thích.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Mittakali.
118
7. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI SAKULA
Các đoạn kệ bắt đầu với Khi ta sống trong gia đình là của Trưởng
lão Ni Sakula. Người ta kể lại rằng nàng được sanh làm con gái
của nhà vua Ananda trong thành Hamsavati dưới thời Đức Phật
Padumuttara hiện tại Nàng còn là chị gái nuôi của vị Đạo Sư và
tên nàng là Nanda. Khi đến tuổi khôn lớn, nàng đã nghe giáo
pháp trước sự hiện diện của vị Đạo Sư trong vòng một ngày. Nhìn
thấy Đức Phật chọn một vị Tỳ khưu Ni vào địa vị tối thượng nơi
những kẻ chứng thiên nhãn, nàng đã chứng chánh tinh tấn toàn
hảo và thực hiện một phước nghiệp. Trong suốt cuộc sống của
nàng tại đó nàng đã thực hiện một số nghiệp tuyệt vời. Nàng sanh
ra nơi cõi chư thiên thường xuyên, chu du tái sanh chỉ vào các cõi
hữu sanh hạnh phúc mà thôi.
Vào thời Đức Phật Kassapa hiện tại, nàng sanh ra trong một gia
đình Bà la môn. Và nàng đã xuất gia, được phong làm hành giả,
chỉ một mình nàng đã chu du tái sanh khắp nơi. Một ngày kia
nàng đi lang thang khất thực dầu ăn. Sau khi đã nhận được dầu,
nàng lại thực hiện cúng dường những chiếc đèn suốt đêm trong
điện kệ dành cho vị Đạo Sư bằng thứ dầu nàng vừa khất thực
được. Thế rồi khi nàng qua đời, và được tái sanh nơi cõi Trời Đâu
Xuất, trở thành một kẻ có thiên nhãn trong sáng nhất. Trong một
khoảng giữa chư vị Phật, nàng chỉ chu du tái sanh đến các cõi chư
thiên mà thôi.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng được sanh ra trong một gia
đình Bà la môn trong thành Savatthi. Nàng được đặt tên là
Sakula. Khi đến tuổi trưởng thành, khi Đức Phật nhận tịnh xá tại
cánh rừng Kỳ Viên, nàng trở thành một tín nữ. Sau đó nàng lắng
nghe giáo pháp từ một vị Trưởng lão nọ đã triệt phá được hết các
lậu hoặc. Một giao động mạnh mẽ nổi lên trong tâm nàng và nàng
đã xuất gia, an trú thiền quán cộng với tinh cần, sau một thời gian
rất ngắn nàng chứng thánh quả A-la-hán.
Như người ta kể lại trong Thí Dụ Kinh (Apadana) như sau:
1. Một trăm ngàn năm qua có vị chiến thắng và lãnh tụ thế gian
tên là Padumuttara. Ngài đã vượt qua tới cõi pháp bên kia được
sanh ra.
2. Nhằm đem lại hạnh phúc và sung sướng cho chúng sanh,
ngài là người lợi khẩu đệ nhất. Ngài cũng là đấng đầy dũng khí
119
chúng sanh. Ngài lên đường nhằm cứu độ chúng sanh và chư
thiên.
3. Vị Chiến thắng chứng đắc danh tiếng đệ nhất với lời tán thán
vinh quang, kính lễ nơi toàn cõi chúng sanh, tiếng tăm lừng lẫy
mười phương.
4. Ngài đã chiến thắng nghi ngờ, vượt qua những rắc rối, chu
toàn được ý tưởng tâm linh, và chứng ngộ tột đỉnh.
5. Ngài là vị tuyệt hảo tạo chánh đạo tự khởi sanh diễn giải điều
tự diễn giải. Và tạo ra điều không phải tạo thành.
6. Và ngài là người hiểu biết chánh đạo, ngài thiện xảo chánh
đạo; là người công bố chánh đạo, người thống lãnh chúng sanh.
Đạo Sư của con đường thiện mỹ, vị đệ nhất.
7. Ngài có lòng đại bi, vị Đạo Sư diễn giải Giáo pháp, vị lãnh
đạo đưa mọi chúng sanh đang trầm luân trong bùn lầy dục lạc.
8. Vào thời đó, ngài sanh ra trong thành Hamvavati, trong một
gia đình Sát đế lỵ đầy hoan lạc. Ta rất xinh đẹp và giàu có vô
song, lại dễ thương với tâm vô cũng sáng suốt.
9. Ta là con gái vị đại vương Ananda, ta sở hữu vẻ kiều diễm đệ
nhất, còn là chị em họ với Đức Phật có tên là Padumuttara.
10.Được trang điểm với vô vàn vô số đồ trang sức. Ta dạo bước
cùng chư vị công chúa trong cung đi lắng nghe Giáo pháp từ vị
đại chiến thắng.
11. Thế rồi vị đạo sư đó tán thán một Tỳ khưu Ni chứng thiên nhãn
giữa tăng chúng và chọn nàng vào địa vị đệ nhất.
12.Khi ta nghe thấy thế trong lòng vô cùng hoan hỷ, và ta đã cúng
dường một vật thí cho đạo sư. Ta kính lễ vị Giác Ngộ toàn hảo và
cầu xin ngài ban thiên nhãn cho ta.
13. Thế rồi vị Đạo Sư nói ta rằng, “Hỡi Nanda, ngươi sẽ được
điều ngươi muốn là kết quả do ước muốn ngươi tốt lành, từ vật thí
cùng dường chiếc đèn cho Giáo pháp.
14.“Một trăm ngàn đại kiếp cho đến thời điểm này sẽ có vị đạo sư
xuất hiện trên cõi trần, tên Cồ Đàm thuộc dòng họ Thích Ca, là
hậu duệ bộ tộc Okkaka.
15. Sẽ xuất hiện người thừa kế giáo pháp, một hậu duệ hợp pháp
cho giáo pháp tên là Sakula. Một đệ tử nữ của vị đạo sư đó.”
16. Do kết quả hành vi phước nghiệp đó và do lòng quyết tâm
cùng mục đích nhắm tới khi ta loại bỏ được thân xác phàm tục
này, ta tái sanh tới cõi Trời Đâu Xuất.
120
17.Trong đại kiếp thiện này vị Phạm thiên tiếng thơm lừng lẫy
khắp, có tên gọi Kassapa, ngài là người lợi khẩu đệ nhất thế gian
được sanh ra giúp chúng sanh giải thoát.
18.Vào thời đó chỉ mình ta là vị hành giả, ta chu du tái sanh khất
thực khắp nơi ta nhận được một lượng dầu đáng kể.
19. Thế rồi ta thắp sáng chiếc đèn thắp sáng trong điện thời vị Đệ
Nhất cõi thế gian, thắp sáng suốt đêm dài tâm ta minh mẫn.
20.Với kết quả phước nghiệp, lòng quyết tâm và mục đích rõ
ràng, khi ta từ bỏ tấm thân phàm tục này, ta tái sanh nơi cõi Trời
Đâu Xuất
21.Bất kỳ nơi đâu ta sanh, nhờ nghiệp đó luôn có những ngọn đèn
vĩ đại toả sáng, chỉ lối đường ta bước tới bất kỳ đâu.
22.Ta nhìn thấy bất kỳ điều gì mình muốn, cho dù có tường chắn
trước mặt ta, vượt qua cả tảng đá chắn ngang, rồi vượt qua cả ngọn
núi cao. Đó chính là quả thí ngọn đèn đó đem lại.
23. Ta còn chứng thiên nhãn thanh tịnh cùng danh thơm lừng lẫy
khắp nơi nơi. Ta tỏa sáng để bảo vệ đức tin và tuệ giác. Đó chính
là quả thí ngọn đèn đó đem lại.
24.Giờ đến thời sanh hữu sau cùng, ta được sanh ra trong gia đình
Bà la môn giàu có, với dồi dào của cải cùng ngũ cốc, vị vương giả
luôn hoan hỷ được tôn vinh.
25.Tứ chi ta toàn hảo, được trang điểm với đủ loại trang sức và
đứng ngay khung cửa sổ ta ngắm nhìn vị Thiện Thệ ngay lối vào
thành phố.
26. Ngài toả sáng với danh thơm lừng lẫy, cả chúng sanh lẫn chư
thiên tôn kính, với [ba mươi hai tướng chính] ta trang điểm, kèm
theo tám mươi tướng phụ thêm.
27.Với tâm an lạc hoan hỷ mãnh liệt, ta xuất gia và chỉ trong một
khoảng thời gian ngắn, ta đã chứng thánh quả A-la-hán.
28.Ta có khả năng sức mạnh thần thông. Bằng thiên nhĩ ta biết
được suy nghĩ tha nhân, ta tuân theo giáo pháp vị Đạo Sư.
29.Ta biết rõ tiền kiếp của ta trước. Thiên nhãn ta được thanh tịnh
thanh tịnh, sau khi đã triệt phá mọi ô uế, ta trở nên thanh tịnh
thoát khỏi mọi điều dơ bẩn.
30. Ta phục dịch Đạo Sư cẩn thận. Ta thực hiện lời Phật dạy đủ
điều. Ta trút bỏ hết mọi gánh nặng, triệt phá đến tận gốc hết
những gì dẫn đến tái sanh hữu.
121
31.Đích nhắm tới khi ta xuất gia tham gia vào cuộc sống vô gia
cư, ta đạt được đích đó dễ dàng – bằng triệt phá hết mọi ách
phược.
32.Thế rồi vị Đại Bi, người toàn hảo giữa chúng sanh đã chọn ta
thành người đệ nhất, nói rằng “Hỡi Sakula đệ nhất chúng sanh với
thiên nhãn thanh tịnh.”
33.- 35. Mọi lậu hoặc ta đã thiêu huỷ hết...[Xin đọc tr. 10] ta đã
thực hiện y lời Phật dạy.
Đoạn sau khi chứng thánh quả A-la-hán, do thực chất nàng đã
làm được nhiều phước nghiệp, nàng đã tinh thông nhận biết bằng
thiên nhãn đó. Do đó Đạo Sư đã phong ta làm đệ nhất Tỳ khưu Ni
về thiên nhãn thanh tịnh. Và nhìn lại thành tích của mình, với tâm
hoan hỷ và sung sướng, nàng thốt lên những đoạn kệ sau đây như
một lời tuyên bố trọng thể:
97.Khi còn sống trong gia đình, ta đã lắng nghe giáo pháp do vị
Tỳ khưu Ni diễn giải và nhận ra giáo pháp đó vô tỳ vết, tịch tịnh
dẫn đến Niết Bàn bất diệt.
98.Ta từ bỏ con cái và tiền tài của cải. Ta xuống tóc và xuất gia
theo đuổi cuộc sống vô gia cư.
99.Ta trở thành học giới, chuyên tu tập chánh đạo, ta loại bỏ ước
muốn sân hận cùng vết nhơ ô uế liên quan trong đó.
100. Ta thọ giới Tỳ khưu Ni và nhớ lại quãng thời gian tiền kiếp,
thiên nhãn ta thanh tịnh, vô tỳ vết lại còn khéo tu tập.
101. Nhìn rõ chư hành cùng đủ điều khác nữa, khởi sanh do có
nguyên nhân chất chứa, tịch diệt hết là điều khả thi. Ta loại bỏ hết
mọi tỳ vết, ta trở nên mát lạnh và thẳng tới Niết Bàn.
97. Ở đây, khi còn sống (vasanti) trong gia đình (agarasmim), ta
đã lắng nghe (sutvana) Giáo Pháp, có nghĩa là: trước đó, khi còn
đang sống (aham…vasamana) có sự chăm sóc trong cuộc
sống gia đình, ta đã nghe (sutva) một bài kinh về giáo pháp chứa
đựng bên trong tứ diệu đế do vị Đạo Sư vô tỳ vết diễn giải.
[Ta] đã nhận ra Giáo Pháp đó quả là vô tỳ vết, tịch tịnh, là niết
bàn bất diệt, có nghĩa là: vô tỳ vết là do chẳng có bất kỳ vết nhơ ô
uế tham dục nào, v.v… tịch tịnh là do hiện trạng loại bỏ hết tham
dục và giáo pháp đó có tên gọi là tịch tịnh dẫn đến Niết Bàn bất
diệt. Do ta đạt đến trạng thái chẳng còn phải qua đi và thông qua
điều kiện vô diệt đó [có nghĩa là bất tử]. Ta nhận ra hiện trạng vô
122
vi với thiên nhãn. Cũng là từ đồng nghĩa với nhìn thấy và được
trang hoàng với cả ngàn phương pháp.
98. Ta [“cũng chính Ta đó] có nghĩa là: đây là một cách
nói, “ta đã chứng quả Nhập Lưu.”
99. Ta trở nên một học giới có nghĩa là: sau khi xuất gia, ta chỉ là
một học giới, chưa hoàn tất được một năm tu tập. Chuyên tu tập
(bhaventi) chánh đạo (uparimaggam) nhờ theo đuổi trung dung
chi đạo (majjhima-patipatti-bhavato). Những vết nhơ có liên quan
với nhau có nghĩa là: ta đã loại bỏ, ta đã cắt đứt các lậu hoặc, đã
được đồng khởi sanh với sân hận và ước muốn tham dục được
gộp lại trong việc loại bỏ này, và đây là điều cần phải loại bỏ
thông qua đệ tam chánh đạo.
100. Ta được thọ giới Tỳ khưu Ni, có nghĩa là: ta đã nhận cụ túc
giới hoàn toàn làm Tỳ khưu Ni sau một năm tu tập. Vô tỳ vết, có
nghĩa là: vì đã được giải thoát khỏi mọi vết nhơ ô uế như vô
minh,v.v…ta đã loại sạch mọi vết nhơ ô uế. Khéo tu tập
(sadhu) có nghĩa là: đã tu tập xuyên suốt, thích hợp: hay, đã tập
luyện, tạo ra, do những thiện nhân, (sadhuhi) như Đức Phật, v.v…
và có liên quan đến thiên nhãn đã khéo thanh tịnh.
101. Các hành có nghĩa là: các hành thuộc tam giới [hữu sanh].
Khác nữa có nghĩa là: vô ngã. Đã sanh khởi có nguyên nhân
(hetu- jate), có ý nghĩa là: Do nguyên nhân khởi sanh
(paccayuppanne). Tịnh diệt rất khả thi có nghĩa là: nhìn thấy điều
đó với chính con mắt tuệ giác của ta mang tính chất diệt, như thể
hay hư hỏng. Ta đã loại bỏ được (pahasim) toàn bộ vết nhơ có
nghĩa là: ta đã loại bỏ hết. Ta đã triệt phá, toàn bộ những vết nhơ
ô uế nhờ chánh đạo đệ nhất. Đó chính là ý nghĩa. Toàn bộ những
gì còn lại coi như đã được giải thích kỹ.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni Sakula.
8. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI SONA
Các đoạn kệ bắt đầu với câu Ta sanh được mười đứa con là của
Trưởng lão Ni Sona. Nàng cũng sanh ra trong một gia đình tốt
trong thành Hatsavati dưới thời Đức Phật Padumuttara. Khi đến
tuổi trưởng thành, một ngày kia nàng đã lắng nghe Giáo Pháp cùng
với vị Đạo Sư, được chứng kiến vị Đạo Sư đã chọn một Tỳ khưu Ni
lên vị trí đệ nhất, chư vị Tỳ khưu Ni đã chuyên tu chánh tinh tấn,
nàng đã thực hiện một hành vi công đức và cũng ước ao được đạt
123
vào địa vị đó. Nàng thực hiện hạnh thiện suốt cả đời. Thế rồi sau
khi qua đời nàng chu du tái sanh trong vòng một trăm đại kiếp giữa
chư thiên và chúng sanh.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong một gia đình tốt
trong thành Savatthi. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng được gả cho
gia đình nhà chồng, nàng sanh được mười người con cả trai lẫn gái
và rất nổi tiếng với tên gọi là Bahuputtika (“người phụ nữ có nhiều
con”) Khi chồng nàng xuất gia, nàng chu toàn các con của mình
theo cuộc sống gia đình, là những đứa đã đến tuổi trưởng thành.
Nàng đã phân chia toàn bộ tài sản của mình và trao cho các con,
không để lại bất kỳ thứ gì cho mình. Các con cái của nàng chỉ
phục dịch nàng trong vòng ít ngày, thế rồi chúng đối sử với nàng
không ra gì nàng suy nghĩ, “Tại sao ta phải sống trong căn nhà mọi
người đều khinh bỉ ta?”
Đoạn nàng chạy lại gặp chư vị Tỳ khưu Ni và xin được xuất gia.
Họ chấp nhận cho nàng xuất gia. Sau khi nhận cụ túc giới, nàng
suy nghĩ, “Ta đã xuất gia vào lúc tuổi đã cao, ta phải thận trọng,
cảnh giác.” Nàng đã thực hiện rất nhiều nhiệm vụ dành cho chư
vị Tỳ khưu Ni, thế rồi nàng nghĩ rằng, “Ta sẽ thực hiện nhiệm vụ
của một vị ẩn sĩ suốt đêm.” Nàng có được một nơi ở dưới toà lâu
đài bằng chính tay nàng, và không rời khỏi tay cho qua đi, nàng
thực hiện nhiệm vụ ẩn sĩ và suy nghĩ rằng, “Khi đi lên đi xuống
trong bóng đêm tại nơi có nhiều cây, v.v…ta có thể đụng đầu phải
bất kỳ điều gì ở đây.” Thế rồi nàng giữ rịt cây đó trong tay và
không bỏ ra nữa, nàng đã thực hiện nhiệm vụ ẩn sĩ.
Kể từ thời điểm đó nàng lại nổi tiếng vì đã thực hiện cố gắng phi
thường. Vị Đạo Sư biết được trí tuệ của nàng đã chín muồi và
ngồi trong hương phòng, ngài tỏa sáng như thể ngồi đối diện với
nàng rồi thốt lên đoạn kệ này:
Ta có thể sống cả một trăm năm mà không nhận ra Giáo Pháp
tối thượng. Thà chỉ sống một ngày còn hơn cả trăm năm mà
không nhận ra Giáo Pháp Tối Thượng.
Và vào cuối đoạn kệ, nàng chứng quả A-la-hán.
Như đã được kể lại trong kinh Apadana như sau:
1. Cách đây một trăm ngàn đại kiếp qua có vị chiến thắng và
lãnh tụ thế gian tên là Padumuttara đã sanh ra, chứng đắc và
thông đạt vạn pháp.
124
2. Vào thời điểm đó ta sanh ra trong gia đình một thương gia
giàu có, sung sướng, được kính trọng và hoan hỷ. Ta đến gặp vị
Đại Trí toàn hảo và lắng nghe những lời ngọt ngào ngài thốt ra.
3. Vị Chiến Thắng tán thán một vị Tỳ khưu Ni là người có hạnh
tinh tấn hơn người. Sau khi nghe ngài, ta cảm khoái và kính lễ vị
Đạo sư.
4. Thế rồi sau khi đã kính lễ Ngài thật kính cẩn vị toàn giác tối
thượng, ta yêu cầu Ngài ban cho vị trí đó. Vị Anh Hùng vĩ đại
nhận lời nói rằng, “Cầu xin ước nguyện nàng được thành tựu!”
5. “Một trăm đại kiếp cho đến thời điểm này sẽ có vị Đạo Sư
xuất hiện trên cõi trần, tên Cồ Đàm thuộc dòng họ Thích Ca, là
hậu duệ bộ tộc Okkaka.
6. Sẽ xuất hiện người thừa kế giáo pháp, một hậu duệ hợp pháp
cho giáo pháp tên là Sona, một đệ tử nữ của vị Đạo sư đó.”
7. Ngay sau khi nghe điều đó, lòng ta tràn ngập niềm vui khôn
tả và suốt cuộc đời ta chỉ phục dịch vị Đạo Sư với những đồ thiết
yếu với tâm đầy tràn nhân ái.
8. Với kết quả phước nghiệp, với lòng quyết tâm và mục đích rõ
ràng, khi ta từ bỏ tấm thân phàm tục này, ta tái sanh nơi cõi Trời
Đâu Xuất.
9. Giờ đây, trong cõi hữu sanh cuối cùng này, ta sanh ra trong
gia đình một thương gia giàu có trong thành phố tuyệt vời
Savatthi, là nơi giàu có, thịnh vượng và phát triển.
10.Và khi tới tuổi thanh xuân, ta chuyển tới sinh sống trong gia
đình nhà chồng, ta đã sanh hạ mười cậu con trai đặc biệt kháu
khỉnh.
11. Chúng lớn lên trong tiện nghi khiếân mọi người chẳng trừ một
ai phải say đắm lòng người, ngay cả kẻ thù cũng vậy, thế nên đối
với ta còn đáng quí biết bao.
12.Thế rồi, điều khiến ta thật khó xử, chồng ta, người trưởng gia
đình lại xuất gia nghe theo tiếng gọi của chư thiên thiên giới.
13.Chỉ còn lại một mình, ta suy nghĩ, “Cuộc đời này còn nghĩa lý
gì cho cam, khi chồng ta từ bỏ ta và con cái. Ta già cả lại khổ sở
biết bao.
14. “Ta sẽ đi tới nơi chồng ta đã đến đó,” sau khi nghĩ thế, ta liền
xuất gia sống đời vô gia cư.
15.Và đoạn chư vị Tỳ khưu Ni bỏ lại ta một mình trong ni viện và
ra đi huấn dụ nói rằng, “Hãy hâm nóng nước lên,”
125
16.Thế rồi ta đi lấy nước đổ đầy bình đem đến bếp nấu. Sau khi
ngồi xuống ta nhập thiền quán.
17. Nhận ra ngũ uẩn chỉ là vô thường đau khổ và vô ngã. Ta triệt
phá mọi lậu hoặc bên ta, và chứng quả A-la-hán sau đó.
18. Dựa trên hoả đại, ta đã nhanh chóng nấu sôi nước
19.Thật kinh ngạc họ liền báo cho vị Chiến Thắng sự việc vừa
xẩy ra và nghe vậy, vị chiến thắng vui mừng hoan hỉ và thốt lên
đoạn kệ sau:
20. “Một người có thể sống cả trăm năm biếng nhác và thiếu tinh
tấn. Cuộc sống chỉ kéo dài một ngày còn tốt hơn cho người nào
có tinh tấn vững vàng.”
21.Vị Đại Anh Hùng rất hài lòng với thành tích tuyệt vời ta đạt
được và Vị Đại Trí tuyên bố ta là đệ nhất trong số những kẻ hạnh
tinh tấn.
22 – 24. Mọi lậu hoặc ta đã thiêu huỷ hết...[Xin đọc tr. 10] ta đã
thực hiện y lời Phật dạy.
Đoạn sau khi đã sắp xếp chư vị Tỳ khưu theo thứ tự trước sau,
Đức Thế Tôn đã xếp nàng vào vị trí đệ nhất những kẻ hạnh tinh
tấn. Một ngày kia, xem xét những thành tích của mình, nàng đã
thốt lên những đoạn kệ này như là một lời công bố long trọng:
102. Ta đã sanh ra mười người con trai nơi thân xác thể chất này,
và rồi khi đã già cả và yếu đuối ta đến gặp vị Tỳ khưu Ni.
103. Nàng diễn giải Phật Pháp cho ta, về uẩn xứ và giới. Khi ta
nghe ngài kinh như vậy, ta xuống tóc và rồi xuất gia.
104. Ta là học giới nàng dìu dắt. Ta đã thanh tịnh được thiên nhãn
thanh tịnh. Ta biết được tiền kiếp của ta xưa, và cả những nơi ta
đã thường qua lại.
105. Ta tu pháp vô tướng và nhất tâm ta khéo nhập thiền tức thời
ta được giải thoát, không chấp thủ tịch tịnh đâu.
106. Ngũ uẩn tốc liễu tri, chỗ đứng ta cắt gốc tham dục ta chẳng
màng. Căn cứ địa an toàn, từ nay ta chẳng còn đau khổ lẫn tuổi
già! là vấn đề tái sanh.
102. Ở đây, trong thân xác thể chất này, (rupa-samussaye) có
nghĩa là: thân xác (samussaye) được gọi là sắc giới . Từ “sắc
giới” này (rupa) được truyền xuống chúng ta như là căn đối tượng
hữu hình (rupayatane), trong cách khẳng định như “khởi sanh tùy
thuộc vào con mắt và tâm nhãn sắc (rupe)”. Đó chính là sắc uẩn
(rupa-khande) nơi những lời khẳng định như “Bất kỳ sắc giới nào
126
trong quá khứ, hiện tại và tương lai”. Đó chính là hữu sanh cá
nhân trong những lời khẳng định như “gắn kết với sắc dục, với
sắc hỉ.”. Đó chính là đối tượng Kasina, trong lời khẳng định như
“hắn nhìn thấy hình thức thể chất bên ngoài (rupani).” đây chính
là đề mục thiền (rupa-jjhane) trong những lời khẳng định như,
“Có sắc giới, ngài chiêm ngưỡng sắc giới (rupani).”. Đó chính là
sắc giới trong một cơ thể con người như trong lời khẳng định sau
“Khi khoảng không được vây quanh, và tùy thuộc vào căn và tuỳ
thuộc vào thịt, tùy thuộc vào da, thì ta gọi là “sắc giới”. Và ở đây,
ta nên hiểu như là sắc thái thể chất của thân thể. Từ thể xác chính
là cách sắp xếp xương nơi cơ thể. Đó chính là cách bày biện
xương trong cơ thể như trong câu satan ti sumussaya. Đó chính là
thể xác như trong lời khẳng định. “Hỡi Nanda, hãy nhìn xem thân
xác bệnh hoạn, ô uế và thối rữa kia”. Và ở đây ta nên hiểu là thể
xác. Như vậy người ta nói rằng, thân xác thể chất này, có nghĩa
là: thân xác được gọi là sắc giới. Đó chính là ý nghĩa. “Tồn tại”có
một từ khác là [xen lẫn vào]. Vì các từ trong (asmim) thân xác thể
chất này (rupa-samussaye) có nghĩa là: xen vào tồn tại trong
cái thể xác thể chất này. Tuỳ thuộc vào sắc giới của thể xác này,
ta đã sanh ra mười đứa con trai; đó chính là mối tương quan. Thế
rồi, (tato) có nghĩa là: chính vì thế [yếu đuối] vì đã sanh ra đến
mười đứa con. Sau khi đã trải qua tuổi trẻ của nàng, sau khi đã
sanh ra những đứa con đúng thời gian qui định, nàng trở nên một
người yếu đuối về thể chất và bạc nhược vì tuổi già. Chính vì thế
bà nói rằng: thế rồi yếu đuối và già cả.
104. “Chính vì thế” có nghĩa là: thế rồi hay, dưới quyền nàng
(tassa) có nghĩa là: với sự có mặt của nàng. Hơn thế nữa, dưới
quyền của nàng (tassa) lại là sở hữu cách hiểu theo nghĩa công cụ
cách. Ý nghĩa ở đây là: nhờ có Tỳ khưu Ni đó (taya). Với tư cách
là một học giới (sikkhamanaya) có nghĩa là: một học
giới (sikkhamana) học tam giới.
105. Tức thời ta được giải thoát có nghĩa là: ta đã được chánh đạo
cao siêu nhất (agga-maggassa) giải thoát ngay lập tức xuất
hiện (uppanna-vimokkha). Trong những câu như “có thân hình
thể chất, nhận dạng thể chất” có tới tám giải thoát
(vimokkha) Nhưng ta không thể gọi là giải thoát và không có một
giai đoạn trung gian (anantara-vimokkha) giữa hai đối tượng đó.
Vì chúng ta đạt đến hai loại giải thoát này ngay sau thánh đạo vào
127
thời điểm chiếm được thánh quả thông qua giải thoát với hiện
trạng thánh quả đó, và tiếp tục tồn tại ngay sau khi xuất hiện đệ
nhất thánh đạo, và ta gọi là ‘giải thoát không cần “giai đoạn
chuyển tiếp” vì nguồn gốc giải thoát này xuất phát từ thánh đạo
đó. Gống như ta thiền định thánh đạo được gọi là thiền định
không gián đoạn (ananatrika-samadhi). Tịch tịnh (nibbuta) không
còn chấp thủ (anupadaya) có nghĩa là: không chiếm
hữu (aggahetvava)được bất kỳ điều gì có liên quan đến sắc giới,
v.v…ta tịch tịnh bằng cách triệt phá các lậu hoặc cuối cùng.
106. Như vậy trong lúc làm rõ tam minh và hiểu biết tột đỉnh kiến
thức đó thông qua thánh quả A-la-hán, nàng đã thực hiện lời
tuyên bố long trọng này, bằng cách trách cứ thân xác đã bị tuổi
già tấn công trong một khoảng thời gian lâu dài và để có thể làm
rõ thực chất là nàng đã vượt qua thân xác đó với lý do đi kèm,
nàng đã thốt lên đoạn kệ cuối cùng [bắt đầu như sau:] Khi năm
uẩn hữu sanh v.v… đó được hiểu biết tường tận, ở đó, thật xấu hổ
(dhi) cho (atthu) ngươi (tav’), tuổi già (jane) khốn khổ (jamme)
đó có nghĩa là: vì ngươi tạo cho tứ chi thêm lỏng lẻo, ôi khốn khổ
cho tuổi già kia, đồ hạ giới (lamake) kẻ khốn khổ (hine) cùng cực,
đáng xấu hổ cho nhà ngươi – từ “xấu hổ” (dhi-karo) cho (hotu) –
nhà ngươi (tava=tuyham). Giờ đây chẳng còn phải tái sanh nơi
cõi hữu sanh lại nữa có nghĩa là: chính vì thế nhà ngươi được
thoải mái thoả thích, ta đã thắng vượt nhà ngươi. Đó chính là ý
nghĩa.
Đến đây kết thúc chú giải về các đoạn kệ của Trưởng lão Ni Sona.
9. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI BHADDA
KUNDALAKESA.
Các đoạn kệ bắt đầu Với mái tóc cắt trọc chính là của Trưởng lão
Ni Bhadda Kundalakesa. Dưới thời Đức Phật Padumuttara sanh
ra trong một gia đình tốt trong thành Hatsavati. Một ngày kia, sau
khi đã đến tuổi trưởng thành, nàng cũng đã lắng nghe Giáo pháp
trước sự hiện diện của vị Đạo sư. Nhìn thấy vị Đạo sư đã chọn
một số Tỳ khưu Ni vào vị trí đệ nhất trong số những người có trí
tuệ nhạy bén. Nàng đã thực hiện được phước nghiệp, là ước ao có
được vị trí đó, nàng đã thực hiện việc công đức trong suốt cuộc
đời của mình.
128
Trong suốt một trăm ngàn đại kiếp, nàng đã chu du tái sanh khắp
nơi giữa cõi chư thiên và cõi con người. Trong thời gian Đức Phật
Kassapa hiện tại, nàng là một trong số bảy chị trong gia đình
Kiki, là vua cai trị người Kasi tại thành Benares. Trong suốt hai
mươi ngàn năm nàng thực hiện thập giới tu luyện việc công đức.
Tu tập cuộc sống phạm hạnh với tư cách là một người trinh nữ và
nàng đã cúng dường một nơi cư trú cho Tăng Đoàn.
Nàng chỉ chu du tái sanh đến nơi hữu sanh sung sướng trong một
thời gian giữa chư vị Phật và trong niên Phật kỷ này, nàng được
sanh ra trong gia đình một thương gia giàu có trong thành
Rajagaha. Tên nàng là Bhadda. Nàng lớn lên dưới sự chăm sóc
rất cẩn thận, và khi nàng đến tuổi trưởng thành ngay trong chính
thành phố đó, đang lúc nhìn qua cửa số có chấn song lưới sắt,
nàng nhìn thấy một kẻ trộm tên là Sattuka (“kẻ thù”), là con trai
quan thừa tướng - [tên trộm này] đã bị bắt với tang vật trong tay.
– vì thế lính thành phố đã dẫn tên trộm đến nơi xử trảm và hành
quyết theo lệnh của đức vua.
Nàng đã phải lòng tên trộm và nói. “Nếu ta lấy được chàng ta sẽ
sống, bằng không ta sẽ chết.” Thế rồi nàng nằm xấp mặt xuống
giường. Khi cha nàng nghe tin đó, do sức mạnh tình yêu với
người con gái duy nhất của mình, ông ta đã đưa tiền đút lót một
ngàn đồng tiền vàng. Như vậy ông ta đã giải cứu cho tên trộm
khỏi chết, thế rồi ông ta đã tắm cho tên trộm với nước hoa và
trang điểm với đủ thứ trang sức rồi đưa chàng về nhà, với ước
nguyện được thực hiện, Bhadda thay y phục rất đẹp với đủ đồ
trang sức rồi phục vụ tên trộm đó.
Sau đó Sattuka trải qua ít ngày tại đó, lòng tham nổi lên với
những đồ trang sức của nàng, và chàng lên tiếng, “Hỡi Bhadda,
ngay khi lính canh thành bắt ta, ta nói với chư thần đang cư trú
nơi vực thẳm giam giữ những tên trộm mà rằng, “Nếu ta được
tha mạng, ta sẽ cúng dường nhà ngươi một của thí.’ Chính vì thế
hãy đồng ý với ta thực hiện một của cúng dường đi.”
Ngầm hiểu phải thực hiện cúng dường, nàng suy nghĩ, “Em sẽ
thực hiện ý định của chàng.” Trang điểm với đủ thứ đồ trang sức,
nàng lên xe với người chồng và bắt đầu đi xuống vực kẻ trộm,
nghĩ rằng, “Ta sẽ thực hiện cúng dường cho chư thiên.”
Sattuka suy nghĩ, “Với đủ thứ hạng người lên xuống [vực kẻ
trộm], ta không thể đoạt được đồ trang sức của nàng, chính vì thế
129
chàng liền ra lệnh cho những người đi theo dừng lại tại đó. Chàng
lấy chiếc bình đựng vật thí, và leo lên đỉnh núi với vợ, chàng
chẳng nói bất kỳ điều gì thân thiết với nàng cả. Nàng nhận ra ý
định của chàng qua chính cử chỉ đó.
Sattuka nói, “Hỡi Bhadda yêu, hãy cởi áo choàng ngoài ra và gom
hết đồ trang sức trên mình ngươi thành đống đi.”
Nàng nói, “Phu quân yêu, em có lỗi gì nào?”
“Đồ ngu ngốc” chàng nói, “Em suy nghĩ gì vậy? Em nghĩ ta đi
thực hiện cúng dường sao? Ngược lại, cuộc cúng dường chỉ là cái
cớ, ta chỉ muốn đoạt đồ trang sức của em mà thôi.” “Nhưng thưa
phu quân, đồ trang sức của ai kia?” Nàng thưa lại, “Em là của ai
đây?”
“Ta không cần biết cách phân chia này làm gì.” chàng trả lời.
“Được rồi chàng cứ lấy, nhưng phải cho em một lần. Hãy cho em
ôm hôn chàng khi em vẫn còn đeo đồ trang sức trên mình.”
Tên trộm đồng ý, nói rằng, “Được thôi.”
Nhận ra tên trộm đồng ý, nàng liền ôm tên trộm từ phía trước, thế
rồi [làm như thể] nàng ôm tên trộm từ phía sau, nàng đã đẩy tên
trộm xuống vực thẳm núi đá. Chàng té nhào xuống vực thẳm và
tan tành thành từng miếng.
Nhìn thấy điều kỳ diệu nàng thực hiện được, chư thiên cư trú trên
núi đó đã khiến cho mọi người biết đến tài khéo của nàng, thốt
lên những đoạn kệ sau đây:
Người đàn ông không phải lúc nào cũng khôn ngoan. Phụ nữ
cũng khôn ngoan không kém, chỗ này chỗ nọ nàng tỏ ra vô cùng
tài khéo.
Người đàn ông không phải lúc nào cũng khôn ngoan. Phụ nữ
cũng khôn ngoan không kém, suy tính nhanh chóng những gì lợi
hại.
Thế rồi Bhadda suy nghĩ, “Ta không thể quay về nhà như vậy
được, chính vì thế ta sẽ đi khỏi nơi đây, ta sẽ xuất gia một lần duy
nhất.” Và đi tới công viên của những người Jains, nàng yêu cầu
họ để được xuất gia.
Thế rồi họ nói với nàng, “Bất kỳ điều gì giúp cho nhà ngươi được
xuất gia tốt đẹp nhất, xin cứ thực hiện.”
Họ cho biết, “Thật tuyệt” và rồi nhổ hết mái tóc của nàng với hạt
thốt nốt. Sau đó khi tóc nàng mọc trở lại, cả mái tóc lại quăn tít,
kể từ đó nàng có tên gọi là Kundalakesa [“mái tóc quăn.”] Nàng
130
ra sức học tập tại đó, tu học giáo lý của họ và tham gia những
khoá tu luyện. Thế rồi nàng nhận ra rằng, “Dân này chỉ biết rõ
điều này mà thôi. Họ không thể phân biệt được những gì vượt xa
hơn nữa.”
Thế rồi nàng lại lên đường, và chu du tái sanh khắp nơi bất luận
nơi nào nàng gặp được hiền nhân, nàng học hỏi các kiến thức của
họ. Nàng không tìm đâu ra được những người có khả năng tranh
luận với nàng, chính vì thế tại bất kỳ ngôi làng nào nàng đặt chân
tới, nàng liền thu một đống cát ngay trước cổng thành và cắm trên
đó một cành cây Hồng Táo. Và ra hiệu cho trẻ nhỏ trong làng
đứng gần đó, nói rằng, “Nếu bất kỳ ai có thể tranh luận được với
ta, hãy đạp cành cây này xuống” và rồi tới nơi trú xứ của nàng nếu
như cành Hồng Táo vẫn đứng yên trong vòng bảy ngày trên đống
cát, nàng nhổ cành cây đó lên và ra đi.
Vào thời điểm đó, Đức Thế Tôn của chúng ta đã khởi sanh trên
thế gian này. Sau khi đã khởi động chuyển Pháp Luân. Đến thời
gian qui định ngài đến sống trong cánh rừng Kỳ Viên gần thành
Savatthi. Và Kundalakesa, đang du hành từ làng này sang làng
khác đến được thủ đô vương quốc theo cách đã mô tả ở trên, nàng
đã tới thành Savatthi. Nàng cũng cắm một nhánh Hồng Táo trên
đống cát ngay cổng thành và nói cho đám trẻ con rồi vào thành
Savatthi.
Thế rồi vị Trưởng lão Thống Lãnh Giáo Pháp (Sariputta), đã vào
thành có một mình, nhìn thấy cành cây đó. Vì muốn giáo hoá
nàng, ngài liền hỏi đám nhỏ, “Tại sao cành cây này lại được cắm
lên đây như thế này?” Chúng liền giải thích ý nghĩa cho Ngài
hiểu. Vị Trưởng lão nói với bọn trẻ mà rằng, “Trong trường hợp
này, hãy cứ dẫm cành cây xuống.” và đám trẻ đã làm theo lời
Trưởng lão.
Kundalakesa dùng bữa xong và ra khỏi thành. Nhìn thấy cành Hồng
Táo bị dẫm đạp xuống, nàng liền hỏi, “Người nào đã dẫm đạp cành
này xuống thế kia?” Vừa nghe biết có vị Trưởng lão đã bảo bọn trẻ
làm thế và nghĩ rằng, “Một cuộc tranh luận không có đối thủ sẽ
chẳng ra làm sao?” Nàng liền quay trở vào thành Savatthi và đi
khắp khu phố này đến khu phố khác. Nói lớn tiếng, “Các ngươi có
muốn tham dự cuộc tranh luận giữa ta và vị ẩn sĩ thuộc dòng họ
Thích Ca chăng?”
131
Có đám đông rất nhiều người vây quanh, nàng tiến lại gặp vị
Thống Lãnh Giáo Pháp, đang ngồi thiền dưới gốc cây và trao đổi
lời chào thân thiện. Đứng sang một bên, nàng lên tiếng hỏi, “Ngài
đã đạp cành cây của ta xuống có phải không?”
“Đúng vậy”, Ngài đáp lại, “Ta đã đạp cành cây của nàng đó.”
“Nếu đã như vậy, hãy tham gia cuộc tranh luận giữa ta và ngài nào.”
“Y lời nàng nói, thưa nàng.”
Chúng ta sẽ sử dụng câu hỏi và câu trả lời của phía nào đây?”
Nàng lên tiếng hỏi trước.
“Dĩ nhiên, tất cả câu hỏi của chúng ta phải được trảlời hết” Ngài
đáp lại, “Nhà ngươi thông thạo câu trả lời nào đây?”
Nàng đặt câu hỏi liên quan đến toàn bộ Giáo Pháp nàng đã thông
thạo.Trưởng lão đã lần lượt trả lời từng câu hỏi [nàng đưa ra].
Không còn biết điều gì để hỏi tiếp, nàng giữ yên lặng.
Thế rồi Trưởng lão nói với nàng, “Ngươi đã đặt rất nhiều câu hỏi.
Ta chỉ hỏi nàng có một câu thôi.”
“Bạch ngài, xin cứ hỏi.” Nàng nói.
Thế rồi Trưởng lão hỏi nàng câu hỏi này: “Chỉ có một là gì thế?”
Kundalakesa không nhìn thấy mục đích cũng như bắt đầu của câu
hỏi. Giống như kẻ nằm trong bóng tối mù mịt và nói, “Ta không
biết, thưa ngài.”
“Nếu nhà ngươi không biết chỉ có thế thôi, thì làm sao nhà ngươi
có thể biết được điều gì hơn thế nữa?” Ngài trưởng lão lên tiếng
và diễn giải Phật Pháp cho nàng.
Nàng liền sụp lạy dưới chân ngài và nói, “Bạch ngài, con xin quy
y ngài.”
Ngài liền bảo, “Hỡi Bhadda, xin đừng đến qui y ta làm gì”, “Hãy
đến quy y Đức Thế Tôn, người tuyệt hảo nhất trên thế gian này
thống lãnh cả chư thiên lẫn chúng sanh.”
Nàng nói, “Bạch ngài, con sẽ làm vậy.”
Vào buổi tối nàng đã chạy đến Đức Phật vào lúc Ngài đang kinh,
đảnh lễ Ngài với năm cử điệu thân đầu địa, và đứng sang một
bên. Đạo Sư nhận ra kiến thức của nàng đã chín muồi, liền thốt
lên đoạn kệ sau:
Chỉ một lời duy nhất mà khiến cho người nghe được an tịnh
còn tốt hơn cả ngàn lời vô nghĩa.
132
Vào cuối đoạn kệ, ngay lúc nàng còn đứng đó, nàng đã chứng
thánh quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải. Như được thuật lại
trong Thí dụ kinh Apanada như sau:
1. Một trăm ngàn đại kiếp qua, vị Chiến Thắng và Thống Lãnh
tên là Padumuttara, đã sanh ra.
2. Vào thời điểm đó, Ta sanh ra trong thành Hatsavati trong gia
đình một thương gia giàu có, tỏa sáng với đủ loại châu báu, và ta
được hưởng hạnh phúc to lớn.
3. Ta chạy lại Vị Trưởng lão và lắng nghe Giáo Pháp của
ngài. thế rồi niềm tin khởi sanh trong ta và ta chạy lại vị Chiến
Thắng xin quy y.
4. Thế rồi có Đấng Đại Bi tên là Padumuttara đã chọn một Tỳ
khưu Ni xinh đẹp làm người đệ nhất trong số những kẻ chứng đắc
tam minh nhanh chóng nhất.
5. Khi nghe được như vậy, ta hoan hỷ sung sướng trong lòng và
dâng cúng dường cho vị Đại Trí. Tôi quì sụp mặt xuống dưới chân
ngài và ước muốn được một vị trí giống như vậy.
6. Vị Đại Trí đồng ý và nói, “Hỡi Bhadda, điều gì nàng ước
muốn, tất cả đều được thực hiện Ước mong nàng được hạnh phúc
và chứng tịch tịnh níp bàn.
7. Một trăm đại kiếp trở lại đây sẽ có vị Đạo Sư sanh ra trên cõi
đời này, tên là Cồ Đàm theo đúng dòng dõi Thích Ca, là hậu duệ
bộ tộc Okkaka.
8. Sẽ xuất hiện người thừa kế giáo pháp, một hậu duệ hợp pháp
cho giáo pháp tên là Bhadda-Kundalakesa, là nữ đệ tử của vị đạo
sư đó.”
9. Với kết quả phước nghiệp lòng quyết tâm và mục đích rõ
ràng, khi ta từ bỏ tấm thân phàm tục này, ta tái sanh nơi cõi Trời
Đâu Xuất.
10.Xuất khởi cõi đó, ta tới cõi Diêm Vương. Xuất khởi cõi đó ta
tới cõi Trời Đâu Xuất, và rời khỏi cõi đó ta tới cõi Nimmanarati;
và khỏi cõi đó ta tới cư trú trong Vasavatti
11.Bất cứ nơi nào ta tái sanh, nhờ phước nghiệp đó, ta cai trị tại
đó như một chánh hậu của các vị vua thuộc cõi chư thiên đó.
12.Khới xuất khỏi cõi đó, trong thân phận làm người, với tư cách
chánh hậu ta cai trị một vương quốc của vị vua lại chính là một
chuyển luân vương và các vị vua cai trị mỗi vương quốc của
mình.
133
13.Ta được hưởng thịnh vượng nơi chư vị chư thiên và con
người. Ta được sung sướng khắp nơi nơi, chu du tái sanh trong đó
trong rất nhiều niên kỷ.
14.Trong đại kiếp thiện này, có người bà con Phạm Thiên danh tiếng
lẫy lừng, tên là Kassapa, biện tài nổi tiếng đã sanh ra.
15.Vào thời điểm đó, người nô tỳ của vị Đại Trí cũng là vua cai
trị một vương quốc tên là Kiki. là vị vua các thần dân Kasi trong
một thành phố to lớn tên là Baranasi.
16.Ta là con gái thứ tư của ngài tên là Bhikkhudayi. Sau khi đã
nghe giáo lý của ngài Chiến Thắng vĩ đại, ta có ý định mạnh mẽ
xuất gia.
17– 18. Vào thời điểm đó, cha chúng ta không cho phép chúng ta
được xuất gia chính vì thế bảy chị em chúng ta lớn lên trong an
nhàn sung sướng làm công chúa trong cung, và chúng ta theo
đuổi không mệt mỏi cuộc sống phạm hạnh như trinh nữ trong
suốt hai mươi ngàn năm trong gia đình, sung sướng hoan hỷ phục
vụ Đức Phật với niềm vui đầy cảm kích.
19. Chúng ta tên là Samani, Samanagutta, Bhikkhuni,
Bhikkhudayika, Dhamma Sudhamma và đứa thứ bảy tên là
Sanghadayika.
20. Giờ đây chúng ta lại mang tên là Khema, Uppalavanna,
Patacara, ta tên là [Kundala] Kisa-Gotami, Dhammadinna và đứa
thứ bảy tên là Visakha.
21.Với kết quả phước nghiệp lòng quyết tâm và mục đích rõ ràng,
khi ta từ bỏ tấm thân phàm tục này, ta tái sanh nơi cõi Trời Đâu
Xuất.
22. Giờ đây, trong cõi hữu sanh cuối cùng này, ta sanh ra trong
một thành phố tươi đẹp tên là Giribbaja (Rajagaha), trong gia
đình một thương gia giàu có. Khi ta vẫn còn rất trẻ.
23.Ta đã nhìn thấy một trên trộm bị dẫn đi hành quyết, ta đã phải
lòng với hắn. Thế rồi cha ta đã giải thoát hắn khỏi chết với tiền
hối lộï một ngàn đồng tiền vàng.
24. Biết được ý nguyện của ta, cha ta đã gả ta cho hắn, ta đặt hết
niềm tin nơi hắn. Ta thương yêu hắn hết lòng và tịnh tín đối với
hắn.
25. Do tham lam đồ trang sức của ta, hắn đã dẫn ta theo hắn lên
núi có tên là Vực Kẻ Trộm với ý định thực hiện việc cúng dường.
Hắn lại suy tính đến việc sát nhân.
134
26.Thế rồi ta phục lạy trước Sattuka hai tay giơ cao lên khỏi đầu
thật khẩn thiết, và để gìn giữ chính mạng sống mình, ta nói điều
này:
27. Thưa phu nhân xin hãy nhận lấy chiễc xuyến này và toàn bộ
những ngọc ngà châu báu và những viên đá màu xanh da trời này
và hãy gọi ta là nô lệ của chàng.”
28. “Hãy đặt tất cả thứ đó xuống đây, người đẹp của ta ơi.’ [Hắn
nói thêm] Xin đừng có than vãn cho cam, nếu ta không giết chết
ngươi, ta không thể biết được tài sản nhà ngươi đã mang theo là
bao nhiêu.”
29. “Kể từ đó ta có thể nhớ lại.” [ta lên tiếng] Vì em đã đến tuổi
trưởng thành, em chẳng hề biết đến ai yêu quý hơn anh đâu.”
30.“Nào hãy lại đây với em, em sẽ ôm anh, giữ phía bên phải.
Chúng ta sẽ chẳng còn bao giờ gặp lại nhau nữa.”
31. Một người đàn ông chẳng khôn ngoan trong mọi tình huống
đâu. Một người phụ nữ cũng khôn ngoan vậy thôi và tài khéo
tuyệt trần nơi này nơi khác.
32. Một người đàn ông chẳng khôn ngoan trong mọi tình huống
đâu. Một người phụ nữ cũng khôn ngoan vậy thôi, cũng biết suy
nghĩ đến những gì hữu ích trong giây lát.
33.Nhanh chóng ta đã làm phận sự của ta và nhanh chóng ta đã xô
ngã hắn với tâm an tịnh. Thế rồi ta đã giết chết Sattuka theo kiểu
đó, giống như một người kệï săn với một mũi tên đã giết chết con
vật.
34. Người nào nhanh chóng chú tâm tới vấn đề vừa nổi lên, người
đó có thể tự giải thoát khỏi bị kẻ thù thúc ép..
35. như Sattuka đã dồn ép ta vậy.
36.Thế rồi sau khi ta đã khiến cho Sattuka rơi xuống vực thẳm.
Ta chạy lại với những kẻ mặc áo choàng trắng (Jains) và rồi xuất
gia.
37.Họ đã dùng nhíp nhổ hết tóc trên đầu ta. Sau khi ta đã xuất gia,
ngay lập tức họ đã dạy ta giáo lý của nhóm đó.
38-39. Đoạn ta đã học thuộc và sống cô độc một mình, trạch pháp
giáo lý đó đến nơi đến chốn, tại nghĩa trang có người nào cắt bỏ
một cánh tay, cầm lấy rồi ném lại gần ta, và rồi ra đi ngay. Nhìn
thấy dấu đó, ta nhận được bàn tay đầy giòi bọ.
135
40.. Thế rồi ta đứng dậy, giao động và hỏi người đồng học giới
với ta về điều đó. Họ nói rằng. “Chư vị Tỳ khưu dòng Thích Ca
đọc được dấu chỉ này.”
41. “Ta sẽ đến với đệ tử của Đức Phật và hỏi về vấn đề này.” [ta
suy nghĩ]. Họ dẫn ta đến gặp vị Thiện thệ chúng sanh.
42. Ngài dạy ta giáo lý của ngài, vị lãnh đạo nói, “Ngũ uẩn, giác
căn và xứ đều xấu xa gớm ghiết vô thường gây đau khổ và lại vô
ngã.”
43-44. Ta lắng nghe giáo lý đó và tinh luỵên con mắt của mình
trước giáo pháp. Thế rồi thông hiểu Chánh Pháp đích thực ta xin
được xuất gia theo giáo lý đó và nhận cụ túc giới toàn phần. Thế
rồi vị lãnh tụ nói tiếp như sau: “Này hỡi, Bhadda hãy tới đây!” thế
rồi sau khi được xuất gia ta thấy một chút nước rĩ ra.
45.. Nhờ ta rửa chân sạch sẽ, thông biết hết điều này với sanh và
diệt; thế rồi ta suy nghĩ đến các hành uẩn cũng sẽ giống như vậy.
46. Rồâi sau đó tâm ta hoàn toàn được giải thoát khỏi hết mọi
chấp thủ hàng ngày. Thế rồi Vị Chiến Thắng công bố ta là một
trong số những người được trí minh nhanh chóng.
47. Ta có khả năng sức mạnh thần thông. Bằng thiên nhĩ ta biết được
suy nghĩ tha nhân, ta tuân theo giáo pháp vị Đạo Sư.
48. Ta biết rõ tiền kiếp của ta trước, thiên nhãn ta được thanh tịnh
thanh tịnh, sau khi đã triệt phá mọi ô uế, ta trở nên thanh tịnh
hoàn toàn thoát khỏi mọi điều dơ bẩn.
49. Ta phục dịch Đạo sư cẩn thận. Ta thực hiện lời Phật dạy. Ta
trút bỏ hết mọi gồng gánh nặng nề, triệt phá đến tận gốc rễ hết
những gì dẫn đến sanh hữu trở lại.
50. Đích nhắm tới khi ta xuất gia để tham gia vào cuộc sống vô
gia cư, ta đạt được đích đó dễ dàng – bằng triệt phá hết mọi ách
phược.
51. Và ta có được kiến thức hiểu biết về ý nghĩa, pháp và ngôn
ngữ những lời dạy của Đức Phật thật thanh tịnh và vô tỳ vết.
52-54. Mọi lậu hoặc ta đã thiêu huỷ hết...[Xin đọc tr. 10] ta đã
thực hiện y lời Phật dạy.
Sau khi ta đã chứng thánh quả A-la-hán, ngay lập tức nàng xin
được xuất gia. Đức Phật cho phép nàng xuất gia, nàng đi tới một
ni viện và xuất gia tại đó. Nàng dùng thời gian (cảm nghiệm)
hạnh phúc thánh quả A-la-hán mang lại và rồi hưởng hạnh phúc
đạt đến Níp Bàn. Nhìn lại những thành quả nàng đã đạt được,
136
nàng đã thốt lên những đoạn kệ như là lời tuyên bố long trọng mà
rằng:
107. Với đầu cắt trọc, mang đầy bụi bẩn, trước kia ta đã chu du
tái sanh khắp nơi, chỉ có một chiếc áo khoác duy nhất, coi điều lỗi
ở nơi chẳng phải là lỗi phạm, và không nhận ra lỗi phạm nơi nó
xuất hiện.
108. Đi khỏi nơi nghỉ ngơi vào ban ngày trên đỉnh núi Linh Thứu.
Ta nhìn thấy Đức Phật vô tỳ vết được Tăng Đoàn Tỳ khưu phục
dịch cẩn thận.
109. Quỳ gối dưới chân ngài ta đảnh lễ, giang tay giơ cao trên đầu
rồi chắp lại. Ta đứng đối diện với ngài chăm chú, ngài nói với ta.
“Nào Bhadda hãy lại đây”. Đó chính là cụ túc giới ngài thực hiện
cho ta.
110. Ta chu du tái sanh đến nơi A?ga và Magadha. Vajji, Kasi và
Kosala. Trong suốt năm mươi năm ta không phải nợ nần, ta
thưởng thức của thí trong vương quốc.
111. Quả thật ngài đã làm được nhiều phước nghiệp. Quả thật thiên
tử đó thật khôn ngoan người đã ban cho Bhadda một áo khoác. Giờ
đây người đó được thoát khỏi mọi gông cùm.
107. Ở đây, với đầu xuống tóc (luna-kesi) có nghĩa là: với mái tóc
cắt trọc (luna), nhổ sạch tóc. Người ta kể lại rằng, liên quan đến
họ khi xuất gia nơi những người mặc áo trắng (Jains) họ đã dùng
nhíp nhổ sạch tóc trên đầu của nàng. Mang đầy bụi bậm (panka-
dhari) có nghĩa là: bụi bám đầy trên mình vì không xỉa răng bằng
tăm. Vì mang đầy bụi và bẩn trong kẽ răng. Chỉ có một chiếc áo
khoác duy nhất (eka-sati) có nghĩa là: người chỉ mặc một chiếc áo
khoác (eka-satika) vì đó là cách thức người Jains vẫn áp
dụng. Trước đó ta đã chu du tái sanh có nghĩa là: sống với người
Jains trước đó. Ta đã chu du tái sanh theo kiểu đó. Nghĩ rằng có
lỗi xuất hiện (vajjamatini) ở nơi không có sai phạm (avajje) có
nghĩa là: cho rằng có lỗi phạm xuất hiện (savagga-sađđi) nơi
chẳng có sai phạm xẩy ra. (anavajje), như thể tắm, xoa bóp, và
dùng tăm xỉa răng. Và không nhận ra lỗi phạm nơi lại có đầy lỗi
phạm (vajje) diễn ra có nghĩa là: có quan điểm cho rằng nơi nào
không có lỗi phạm coi như không có, nơi nào không có lỗi
phạm (savajje) nào lại cho là có. Như thể đồ giả hình, thù hận và
ảo giác.
137
108. Ra khỏi (nikkhamma) chỗ nghỉ trưa vào ban ngày (diva-
vihara) có nghĩa là: ra ngoài (nikkhamitva) khỏi chỗ nàng sở
hữu (attano) nghỉ trưa vào ban ngày. Người phụ nữ này đến gặp
vị Trưởng lão vào buổi giữa trưa, và qua câu trả lời cho vấn đề đó
và một bài kinh về giáo pháp, thì lòng kiêu mạn cố hữu của nàng
được dịu xuống và tâm nàng sẵn sàng phục dịch ngài. Vì muốn
đến trước sự hiện diện của vị Đạo Sư. nàng đã đến nơi cư trú của
nàng và ngồi thiền trong nửa ngày. Vào buổi tối nàng đến gặp vị
Đạo Sư.
109. Sau khi đã gập (nihacca) gối xuống, sau khi đã kính lễ
ngài có nghĩa là: sau khi đã gập cả hai đầu gối lại (nihantva) đặt
xuống sàn nhà được an trú. Sau khi đã kính lễ ngài với ngũ chi
đầu địa. Chụm hai tay giơ cao lên ta đứng đối diện với ngài có
nghĩa là: ta đứng đối mặt với vị Đạo sư, giơ hai tay lên chụm lại
trên đầu với mười đầu ngón tay có móng được trang điểm bóng
láng. “Hãy lại đây, hỡi Bhadda.” Ngài nói với ta đó chính là ngài
ban cụ túc giới đầy đủ có nghĩa là: đối với Đức Phật, khi ta đứng
đó sau khi đã chứng quả A-la-hán và khẩn nài ngài [ban cho tôi]
được phép xuất gia và xuất gia đầy đủ.” Chính vì lệnh của Đạo
Sư dành cho tôi chính là lý do ta được xuất gia. Điều đó trở thành
cụ túc giới dành cho ta.
110. Hai đoạn kệ này bắt đầu với Ta chu du tái sanh khắp
nơi chính là hai đoạn kệ nàng tuyên bố về hiểu biết của nàng. Ở
đây, ta đã chu du tái sanh khắp vùng Adga và Magadha có nghĩa
là: trước đó ta đã du hành tới đó, ta đã đi vòng thành Adga và
Magadha, Vajji, Kasi và kosala như kẻ mắc nợ, thưởng thức đồ
khất thực trong vương quốc. Trong chính những thành đó bắt đầu
từ khi ta gặp vị Đạo sư. Ta được thưởng thức vật thực trong
vương quốc mà không nợ nần gì, vô tỳ vết, với những ô uế đã bị
triệt phá hết trong vòng năm mươi năm
111. Khi tín nữ đó đã bố thí chiếc áo khoác của chính mình với
tâm tịnh tín cho rằng nàng nói lên đoạn kệ cuối cùng bắt đầu
với Quả thật ngài đã thực hiện rất nhiều hạnh thiện, cho thấy kiến
thức toàn hảo của nàng bằng cách tán dương bản chất của công
đức đó.[Phần con lại] cũng được hiểu rất dễ dàng.
Đến đây kết thúc chú giải đoạn kệ của Trưởng lão Ni Bhadda
Kundalakesa.
138
10. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI
PATACARA.
Các đoạn kệ bắt đầu với Dùng chiếc cày để cày ruộng là của
Trưởng lão Ni Patacara. Dưới thời Đức Phật Padumuttara nàng
cũng sanh ra trong một gia đình tốt trong thành Hatsavati. Một
ngày kia, khi đã đến tuổi trưởng thành, nàng nghe giáo pháp trước
sự hiện diện của vị Đạo Sư. Nhìn thấy Đức Phật chọn một số Tỳ
khưu Ni vào vị trí đệ nhất những kẻ thông thạo giới luật, nàng đã
thực hiện phước nghiệp, ước muốn cũng được một vị trí như vậy.
Và xuyên suốt cuộc sống của mình nàng đã thực hiện nhiều hạnh
thiện và chu du tái sanh khắp các cõi chư thiên lẫn cõi con người.
Vào thời Đức Phật Kassapa hiện tại, nàng tái sanh trong hoàng
cung Kiki, là vua cai trị thần dân Kasi. Nàng là một trong số bảy
chị em đã tu luyện cuộc sống phạm hạnh trong khoảng thời gian
kéo dài tới hai mươi ngàn năm và nàng đã cho xây một thiền viện
dâng cúng cho chư vị Tỳ khưu Ni. Khi qua đời nàng tái sanh nơi
cõi chư thiên, và nàng đã chứng những thành tích thiên giới trong
suốt một Thời đức Phật.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong gia đình một
thương gia giàu có trong thành Savatthi và khi nàng lên mười sáu
tuổi, cha mẹ cho nàng trên lầu bảy toà nhà và cho lính gác vây
quanh. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng đã có quan hệ trái phép
với một kẻ nô tỳ trong chính gia đình mình. Cha mẹ nàng đã định
gả nàng cho một chàng trai trẻ rất môn đăng hộ đối. Khi nghe biết
sự việc này, nàng gom hết tài sản của mình và cùng với tên đầy tớ
nàng đã ăn ở với hắn, bỏ trốn qua cổng chính dẫn ra ngoài [thành
phố] Thế rồi sống trong ngôi làng đó nàng đã có thai. Khi bào
thai trưởng thành, nàng nói rằng, “Chồng yêu quí, tại sao lại lưu
lại đây chẳng có ai bảo vệ cả? Hãy trở lại nhà của gia đình em
đi!”
Khi chàng còn chần chừ, nói rằng, “Em yêu, hôm nay chúng ta sẽ
đi, thôi ngày mai đi.” Nàng suy nghĩ, “Gã điên này sẽ chẳng lấy
ta làm vợ đâu.” Khi hắn ra ngoài nàng sắp xếp gọn gàng những gì
cần thiết trong nhà và nói với những người sống gần bên xóm
giềng mà rằng, “Xin nói với chồng ta là ta quay trở về gia đình.”
Nghĩ rằng, “Ta sẽ tự quay trở lại gia đình.” Thế là nàng lên đường
một mình.
139
Khi anh chàng trở về nhà không thấy nàng, chàng ta hỏi những
người hàng xóm và nghe biết nàng đã bỏ về gia đình, chàng suy
nghĩ rằng, “Chính do ta, người con gái của một gia đình tốt này
lại không có được người bảo vệ.” Thế rồi đi lần theo vết chân
nàng, chàng đã bắt kịp nàng. Nàng đã sanh con ngay trên đường
đi. Kể từ thời gian nàng sanh con thì ước muốn quay trở về nhà
đã bị lắng dịu. Chính vì thế nàng bám lấy chồng và quay trở lại
ngôi làng đó.
Thế rồi nàng lại mang thai lần thứ hai, và mọi sự đều diễn ra như
lần trước. Nhưng có một vài chi tiết khác như sau: Khi ngày giờ
khai hoa nở nhị của nàng đã đến ngay trên đường đi, có một cơn
bão bất thình lình ập tới, từ tứ phía sấm chớp nổi lên giống như
ánh lửa và giống như những đám mây bị những tia chớp xé toang.
Hàng suối nước từ trời đổ xuống xối xả liên tục. Khi nhìn thấy
vậy, nàng nói, “Chồng yêu, hãy kiếm cho em một nơi có thể trú
qua cơn mưa.”
Chàng tìm kiếm khắp nơi và nhìn thấy một bụi cây có cỏ khô che
phủ. Chàng tới đó và muốn cắt một ít cỏ trong bụi rậm đó với
chiếc rìu chàng đang cầm trong tay, chàng cắt một cành cây rồi
ném lên đỉnh ổ kiến có cổ che kín. Có một con rắn độc khủng
khiếp xuất hiện bò ra khỏi ổ kiến và mổ chàng một cái. Chàng
ngã lăn ra chết ngay tại chỗ . Nàng đã phải trải qua đau khổ lớn
lao khi chờ chàng quay trở lại và hai đứa nhỏ không thể chịu nổi
mưa gió la khóc thảm thiết trên ngực nàng. Nàng ép cả hai chân
hai tay trên sàn đất và trải qua suốt đêm trong tư thế đó.
Vào lúc bình minh, nàng bỏ lại một đứa con trai mới sanh đỏ hỏn
như cục thịt trên chiếc gối vải; rồi nàng ôm chặt một đứa con lớn
trong tay ấp vào ngực. Nói rằng, “Nào con ta ơi, cha con đã bỏ đi
khỏi đây rồi.”
Nàng đi dọc theo lối đi chồng nàng đã đi và nhìn thấy chàng ngồi
chết gần một ổ kiến. Khóc lóc thảm thiết và than vãn rằng,
“Chính vì ta mà chàng phải chết.” Nàng đến một khúc sông trên
đường đi có nước chảy ngập đến đầu gối hay đến bụng do trời
mưa suốt đêm qua. Do trí thông minh chậm chạp và yếu đuối
nàng đã không thể vượt sông với hai đứa con trai cùng một lượt.
Thế rồi nàng để lại đứa con lớn trên bờ sông và mang theo một
đứa mới sanh, nàng đi tới bờ bên kia, kéo ra một bó cây và rồi bỏ
đứa con lại trên chiếc gối vải. Nghĩ rằng, “Ta sẽ quay trở lại để
140
mang theo đứa kia.” Nhưng vì không thể bỏ đứa con nhỏ một
mình, nàng cứ quay đi quay lại để nhìn đứa nhỏ trong lúc bước
xuống sông.
Khi nàng tiến ra đến giữa sông, một con diều hâu nhìn thấy đứa
bé, nghĩ rằng đứa bé là một cục thịt, nó liền lượn xuống và tha
ngay đứa bé lên trời, nàng nhìn rõ cảnh tượng đó và chỉ biết vẫy
cả hai tay mà thôi. Nàng thốt lên tiếng kêu thảm thiết đến ba lần,
“Shoo, shoo, shoo!” Con diều hâu không để ý đến tiếng kêu của
nàng vì nàng ở rất xa. Đứa bé đứng trên bờ bên này, nhìn thấy cả
hai tay mẹ giơ lên vẫy và nghe tiếng kêu lớn mẹ thốt ra nghĩ rằng,
“Chắc mẹ đang nói với mình.” Thế rồi thình lình thằng bé ngã lăn
xuống nước. Thế là đứa con nhỏ bị diều hâu giết chết còn đứa con
lớn thì bị nước cuốn trôi.
Nàng kêu gào thảm thiết và khóc lóc rằng, “Một đứa con trai ta bị
diều hâu cấp đi mất; một đứa lại bị nước sông cuốn trôi! Chồng ta
thì chết trên đường đi!” Tiếp tục lên đường nàng gặp một người
đàn ông từ thành Savatthi đến. Nàng cất tiếng hỏi, “Thưa ngài,
ngài sống ở đâu vậy?”
Chàng ta đáp lại, “Ta sống trong thành Savatthi.
Nàng hỏi, “Có một gia đình nọ đang sống trong căn phố này nọ
trong đó, ngài có biết không thưa ngài?
Chàng ta trả lời, “Ta có biết họ, thưa bà, nhưng xin đừng hỏi ta về
họ, hãy hỏi người khác thì hơn.”
Nàng nói, “Ta chẳng quan tâm đến ai cả, ta chỉ hỏi về họ mà thôi,
thưa ngài.”
Chàng lại nói, “Thưa bà, bà không nhìn lại chính mình xem?” Bà
không thấy sao trời đổ mưa suốt đêm hôm qua?”
Nàng nói, “Thưa ngài, ta biết chứ, ta đã trải qua trong mưa suốt
đêm qua, ta sẽ giải thích điều này sau. Giờ thì xin ngài nói cho ta
biết tin tức về căn nhà của thương gia giàu có kia.”
Chàng trả lời, “Thưa bà, đêm hôm qua ngôi nhà đó đã đổ và đè
chết ba người trong đó - người thương gia, vợ ông ta và đứa con
trai. Giờ đây họ đang bị thiêu trên cùng một giàn thiêu an táng.
Bà có thể nhìn thấy khói bốc lên kìa, thưa bà”
Ngay lúc đó nàng không còn để ý đến mảnh vải nàng đang mặc
trên người đã rơi mất. Nàng đã phát rồ vì quá đau khổ và nàng đi
lang thang khắp nơi, mình để trần truồng, miệng nói lảm nhảm.
141
Cả hai đứa con trai ta đã chết. Chồng ta chết trên đường đi. Cha
mẹ ta và em trai ta đang bị thiêu trên cùng một giàn thiêu hoả
táng.
Từ đó trở đi nàng đi quanh khắp nơi chẳng mặc một thứ gì trên
người bằng một chiếc áo khoác. Và vì hành vi đạo đức của nàng
đã suy sụp. Người ta đặt tên cho nàng là Patacara. Nhìn thấy
nàng, những người đàn ông kháo nhau, “đi thôi, đồ đàn bà điên
khùng!” và có một số người còn vứt rác bẩn lên đầu nàng: số
khác lại vứt đồ dơ. Người khác lại còn đắp đất. Vị Đạo sư ngồi
thiền ngay giữa một Tăng chúng đông đảo trong khu rừng Kỳ
Viên đang diễn giải giáo pháp, đã nhìn thấy nàng đang đi lang
thang khắp nơi và quan sát thấy tri thức của nàng đã chín muồi,
khi nàng đang đến gần, tiến lại gần thiền viện, nàng chỉ biết hành
động thế thôi.
Khi Tăng chúng nhìn thấy nàng, họ nói với nhau, “Đừng để cho
người đàn bà điên này tiến lại gần đây.” Nhưng Đức Thế Tôn nói,
“Xin đừng ngăn cản nàng.” Sau khi nàng đã tới một điểm không
cách xa Ngài là bao, Ngài nói, “Thưa chị, hãy lấy lại bình tĩnh
đi!”
Ngay lập tức nàng lấy lại được trí nhớ qua phép thần thông của
Đức Phật, và nàng nhận ra được thực chất đó là quần áo nàng mặc
đã rơi đâu mất cả rồi. Điều đó khiến cho nàng mắc cở và sợ có kẻ
làm tầm bậy và rồi nàng ngồi xuống, nàng ngồi xổm khi nàng
loay hoay ngồi xuống chỗ đó. Thế rồi có một người đàn ông đưa
cho nàng một chiếc áo khoác ngoài. Nàng mặc áo vào và tiến đến
gặp Đức Phật, nàng đảnh lễ ngài với năm cử điệu thân đầu địa và
tường thuật lại nguyên nhân sầu khổ của nàng. “Bạch Ngài, hãy
trở thành niềm hỗ trợ cho con, một đứa con trai của con đã bị diều
hâu cấp lên trời mất; đứa khác thì bị nước sông cuốn trôi, chồng
con bị chết trên đường đi, cha mẹ và em trai con bị nhà sập đè
chết và đang thiêu trên cùng một giàn thiêu.”
Hỡi Patacara, xin đừng nghĩ tới những sự việc đó nữa.” Vị Đạo Sư
cất tiếng bảo, “Nàng đang hiện diện trước một người có thể giúp cho
ngươi. Cũng như nhà ngươi đang tạo ra nước mắt vì cái chết của
chồng con v.v…cũng như vậy những hữu sanh liên tiếp vô thuỷ vô
chung và nước mắt đổ ra vì cái chết của con trai v.v…còn nhiều hơn
cả nước bốn đại dương.” Để chứng tỏ cho nàng thấy vấn đề này,
ngài thốt lên đoạn kệ này:”
142
Nước trong bốn đại dương vẫn ít hơn nước mắt của người bị sầu
khổ dày vặt và than khóc Mẹ mình, tại sao nhà ngươi lại sao lãng
chính mình đến như vậy?
Khi Đức Phật đang giải thích bài kinh này [về hữu sanh tiếp diễn]
vô thuỷ vô chung (liên tục), thì nỗi buồn khổ của nàng vơi hẳn đi.
Nhận ra nỗi buồn khổ của nàng đã vơi dần đi, Ngài nói, “Hỡi
Patacara, đối với những kẻ đã sang cõi bên kia, con trai và v.v…
không thể là nơi cư trú, là nơi bảo vệ, hay nơi trợ giúp. Chính vì
thế chánh đạo dẫn đến Níp Bàn do kẻ khôn hoàn tất được bằng
cách thanh tịnh chính phẩm hạnh của mình. và rồi ngài diễn giải
giáo pháp bằng cách giải thích những đoạn kệ này:
Chẳng phải con cái hay cha mẹ hoặc giả họ hàng ruột thịt, là nơi
nương tựa cho ta. Họ hàng thân thuộc cũng chẳng phải là nơi nương
tựa cho ta đâu họ cũng bị thần chết bắt mất.
Biết rõ vấn đề này, người Đại Tri lấy phẩm hạnh mà kiềm chế
mình, có thể nhanh chóng thanh tịnh chánh đạo dẫn đến Níp Bàn.
Đến khi kết thúc bài kinh, Patacara được an trú nơi thánh quả
Nhập Lưu, và nàng xin vị Đạo Sư được xuất gia. Vị Đạo sư dẫn
nàng đến với chư vị Tỳ khưu Ni và họ đã chấp nhận cho nàng
được xuất gia. Sau khi đã nhận cụ túc giới, nàng tinh tấn tu luyện
thiền quán mong đạt quả vị cao hơn. Một ngày kia, nàng lấy nước
trong một chiếc bình và đổ ra để rửa chân. Lần đầu tiên nước
chảy được một đoạn rồi dừng lại, thế rồi lần thứ hai, khi nàng đổ
nước ra thì nước chảy thêm một đoạn dài hơn và khi nàng đổ
nước ra lần thứ ba thì nước lại chảy thành một đoạn dài hơn nữa.
Dựa trên sự kiện này làm nền tảng nhập thiền, nàng nhận ra ba
giai đoạn trong cuộc sống. Nghĩ rằng, “Giống như ta đổ nước ra,
những người chết dưới thời niên thiếu, thế rồi giống như nước đổ
ra lần thứ hai chảy thêm một đoạn dài hơn, là những người chết
trong độ tuổi trung niên và giống như ta đổ nước ra lần thứ ba
nước chảy thêm một đoạn dài hơn nữa, đó là những người chết ở
tuổi già.”
Vị Đạo Sư ngồi trong hương phòng, tỏa sáng rực rỡ và nói như
thể nàng đang đứng trước mặt ngài, làm rõ ý nghĩa điều này như
sau: “Hỡi Patacara, cũng giống như vậy, tất cả mọi người ai cũng
đều phải chết. Vậy tốt hơn hết là sống như thế nào để hiểu rõ
được sanh diệt ngũ uẩn, tốt hơn hết là chỉ sống được có một ngày
143
mà nhận ra được sự thật ấy còn hơn là sống cả trăm năm.” Và
Ngài thốt lên đoạn kệ này:
Và nếu như một người sống được một trăm năm mà không
nhận ra sanh dịêt, cũng không bằng một người chỉ sống có một
ngày song lại nhận rõ sanh diệt là gì vậy.
Vào cuối bài kinh, Patacara chứng đắc quả A-la-hán cùng với Tứ
vô ngại giải. Như người ta nói trong Thí Dụ Kinh như sau:
1. Một trăm ngàn đại kiếp qua, có vị Chiến Thắng và Lãnh Tụ
tên là Padumuttara là người đã đạt đến bến bờ Pháp bên kia đã
sanh ra.
2. Vào thời điểm đó, Ta sanh ra trong thành Hatsavati trong gia
đình một thương gia giàu có, tỏa sáng với đủ loại châu báu, và ta
được hưởng hạnh phúc to lớn.
3. Ta chạy lại Vị Đại Anh Hùng và lắng nghe Giáo Pháp của
ngài.
4. Thế rồi niềm tin khởi sanh trong ta và ta chạy lại xin quy y vị
Chiến Thắng.
5. Thế rồi với lòng hoan hỷ, mong được địa vị đó, ta đã mời
Đức Thế Tôn Thập Lực, là lãnh tụ thế gian, cùng với Tăng Đoàn
của ngài.
6. Ta đã cúng dường họ trong suốt bảy ngày, và ta đã bố thí cho
ngài ba chiếc y cà sa. Trước tiên ta sụp đầu lạy dưới chân ngài và
thốt lên những lời này:
7. “Ôi vị Anh Hùng vĩ đại, ta sẽ giống như người ngài tán
dương tuần qua. Ôi vị Đại Tri, nếu điều đó thích hợp, Ôi vị Lãnh
Đạo cõi thế gian”
8. Thế rồi vị Đạo sư nói với ta. “Ôi phụ nữ thánh đạo kia, xin
đừng sợ hãi làm chi, hãy tin tưởng, bởi kiếp sống tương lai ngươi
sẽ chu tất ước muốn đó.
9. “Một trăm đại kiếp cho đến thời điểm này sẽ có vị đạo sư
xuất hiện trên cõi trần, tên Cồ Đàm thuộc dòng họ Thích ca, là
hậu duệ bộ tộc Okkaka.
10.Sẽ xuất hiện người thừa kế giáo pháp, một hậu duệ hợp pháp
cho giáo pháp tên là Patacara , một nữ đệ tử của vị đạo sư đó.”
11.Ngay sau khi ta nghe điều đó, lòng ta tràn ngập niềm vui khôn
xiết và suốt cuộc đời ta chỉ phục dịch vị Đạo Sư với những đồ
thiết yếu với tâm đầy tràn nhân ái.
144
12.Với kết quả phước nghiệp lòng quyết tâm và mục đích rõ ràng,
khi ta từ bỏ tấm thân phàm tục này, ta tái sanh nơi cõi Trời Đâu
Xuất.
13.Giờ đây nơi đại kiếp thiện này, hậu duệ Phạm Thiên danh
tiếng lừng lẫy, có tên là Kassapa, vị đại hùng biện đã giáng lâm.
14.Vào thời điểm đó, có một đệ tử của vị Đại Trí tên là Kiki , là vua
trị vì thần dân Kasi trong thành phố vĩ đại Baranasi.
15.Ta là con gái thứ ba, tiếng thơm lừng lẫy tên là Bhikkhuni. Sau
khi đã lắng nghe Giáo pháp của vị chiến thắng vĩ đại, ta đã mạnh
mẽ quyết tâm xuất gia.
16.– 17. Vào lúc đó, cha mẹ lại không cho phép ta [xuất gia].
Chính vì thế bảy chị em chúng ta lớn lên trong gia đình được làm
công chúa trong suốt cả ngàn năm và theo đuổi cuộc sống giới
đức không dễ duôi, sống đời trinh nữ trong suốt hai mươi ngàn
năm trong gia đình, hết lòng hoan hỷ phục vụ Đức Phật.
18. Tên chúng ta là Samani, Samanagutta. Bhikkhuni,
Bhikkhudayika, Dhamma, Sudhamma, và đứa thứ bảy là
Sanghadayika.
19. Ngày nay, ta có tên là Uppalavanna (và các tên khác là)
Khema, Bhadda, Bhikkhuni, Kisa-Gotami, Dhammadinna và
Visakha là tên thứ bảy.
20. Với kết quả phước nghiệp và lòng quyết tâm và mục đích rõ
ràng, khi ta từ bỏ tấm thân phàm tục này, ta tái sanh nơi cõi Trời
Đâu Xuất.
21. Và giờ đây, vào hữu sanh cuối cùng này, ta sanh ra trong gia
đình một thương gia giàu có trong thành phố tuyệt vời Savatthi, là
nơi giàu có, thịnh vượng và phát triển.
22. Khi ta trở thành một người phụ nữ trẻ, ta đã lấy một người
đàn ông dâm đãng, và dưới sự kiềm chế của những suy nghĩ [dâm
loạn] ta đã đến với hắn.
23. Ta đã sanh một đứa con trai đầu lòng và rồi thêm đứa con thứ
hai do chính ta sanh ra. Đoạn ta quyết định, “Ta sẽ về thăm cha
mẹ ta sau đó.”
24. Ta thông báo cho chồng ta biết, thế rồi khi chàng không có ở
nhà, ta đã rời gia đình chỉ một thân một mình để tới thành phố
tuyệt hảo tên là Savatthi.
25. Ngay sau đó chồng ta đã xuất hiện và bắt kịp ta đang trên
đường đi. Đoạn ta đến thời điểm lâm bồn đau đớn.
145
26. Và rồi một cơn bão lớn xuất hiện ngay lúc ta sanh con. Thế rồi
chồng ta đi vào rừng và bị rắn cắn chết trên đường.
27. Thế rồi trong lúc cùng khổ khi ta sanh con, không có nguời
bảo vệ, trên đường đi về nhà, ta nhìn thấy con sông nhỏ nước lũ
chảy xiết.
28. Ta bế một đứa con sang sông và để đứa nhỏ lại một mình trên
bờ sông đó và lại vượt sông bế đứa thứ hai.
29. Khi ta đang quay trở về, thì một con diều hâu cỗng mất đứa
con thứ hai đang bị bỏ, và dòng nước cuốn mất đứa con khác. Ta
tràn ngập sầu khổ khôn xiết.
30. Đi vào thành Savatthi, ta nghe biết những người thân của ta
đã chết. Thế rồi, khốn cùng tuyệt vọng, tràn ngập sầu khổ khôn
xiết. Ta thốt lên tiếng nói như sau:
31. “Cả hai đứa con ta đã chết. Chồng ta cũng chết trên đường đi.
Cha mẹ và em trai bị thiêu trên cùng một giàn thiêu hỏa táng”.
32. Đoạn ta bị gầy xọp đi, mặt mũi xanh xao không còn người
bảo trợ, tâm thần xuy xụp. Sau đó ta đi lang thang khắp nơi, và ta
nhìn thấy vị Đánh Xe muôn chúng sanh.
33. Và vị Đạo Sư nói với ta, “Ôi người con gái xin đừng sầu khổ
làm chi. Hãy đặt niềm tin, xin hãy tìm lại chính mình. Tại sao nhà
ngươi lại sầu khổ vô ích như vậy?
34. Chẳng còn con cái, mất hết cha mẹ, hay họ hàng làm chỗ
nương thân, họ hàng thân thuộc chẳng làm nơi nương thân cho
những kẻ tử thần đã bắt.”
35. Khi ta nghe được những lời nói của Đức Phật, ta đã đạt được
thánh quả nhập lưu, và chỉ trong một thời gian ngắn ta chứng đắc
thánh quả A la hán.
36. Ta đã khống chế được sức mạnh thần thông. Nhờ thiên nhĩ, ta
biết được suy nghĩ của tha nhân, ta thực hiện y lời đạo sư dạy.
37. Ta biết rõ tiền kiếp của ta trước. Thiên nhãn ta được thanh
tịnh thanh tịnh, sau khi đã triệt phá mọi ô uế, ta trở nên thanh
tịnh, hoàn toàn thoát khỏi mọi điều dơ bẩn.
38. Thế rồi ta thông hiểu mọi giới luật của vị Đạo Sư, nhận định
được toàn bộ giới luật đó đến từng chi tiết. Ta đã tụng như thật
vậy.
39. Vị Chiến Thắng rất hài lòng với những phẩm chất tốt và đã
chọn ta vào số những người tuỵêt vời nhất, nói rằng, “Patacara là
đệ nhất nhân vật trên trần.”
146
40. Ta phục dịch đạo sư cẩn thận. Ta thực hiện lời Phật dạy cho
ta. Ta trút bỏ hết mọi gồng gánh nặng nề, triệt phá đến tận gốc rễ
hết những gì dẫn đến sanh hữu trở lại.
41.Đích nhắm tới khi ta xuất gia để tham gia cuộc sống vô gia cư,
ta đạt được đích đó dễ dàng – bằng triệt phá hết mọi ách phược.
42-44. Mọi lậu hoặc ta đã thiêu huỷ hết...[Xin đọc tr. 10] ta đã
thực hiện y lời Phật dạy.
Sau khi đã chứng quả A-la-hán và nhìn lại những thành tích của
mình vào thời điểm còn làhọc giới, giải thích cách thức điều kiện
tuyệt vời này đã diễn ra qua lời tuyên bố long trọng, nàng thốt lên
những đoạn kệ sau đây:
112. Với chiếc cày cày ruộng, gieo hạt giống trên cánh đồng dọn
sẵn, để nuôi vợ nuôi con và gia đình, người Bà la môn trẻ tận thu
được giàu có.
113. Được giới đức tu luyện như thế, tại sao ta tuân thủ lời Phật
dạy song vẫn chưa đạt Níp bàn? Không biếng nhác, cũng chẳng
giao động tâm linh.
114. Ta rửa chân và chú ý dòng nước chảy. Và nhận ra nước chảy
ra từ chân ta chảy xuống từ đồi cao chảy đầy vũng đất trũng.
115. Thế rồi ta nhập thiền chủ đề đó, giống như ngựa hiền khéo
luyện thế rồi ta lấy chiếc đèn dầu, rồi đi vào phòng nhỏ ta thiền
quán với ngọn đèn.
116. Rồi lấy cây kim nhỏ ta dìm tim đèn xuống dần, thấy cây đèn
lụi dần tâm ta được giải thoát.
112. Ở đây, Cày ruộng có nghĩa là: cày ruộng (kasanta), những
người nào thực hiện công việc cày cấy. Đây là số ít hiểu theo nghĩa
số nhiều. Gieo hạt có nghĩa là: gieo hạt giống (vapanta). Trong thửa
ruộng đã cày cấy (chama) có nghĩa là: trên thửa ruộng, vì đây là
danh cách hiểu theo nghĩa vị trí cách. Đây là ý nghĩa ngắn gọn như
sau: những người này, các thanh niên Bà la môn, đang cày thửa
ruộng dùng cày để cày. Nhằm mục đích gieo hạt lúa và rau cỏ trên
mảnh đất đó, và lý do cày ruộng và gieo cấy cánh đồng đó chính là
để nuôi sống chính mình và vợ con v.v…họ kiếm được của cải giàu
sang. Như vậy trên cõi đời này hành động của cá nhân đều mang lại
kết qủa và đem lại lợi nhuận.
113. Ở đây, Tại sao ta tu luyện giới đức đến như vậy. (sila-
samapnna), tuân thủ tối đa lời Phật dạy (satthu sasanakarika) mà
không đạt được Níp Bàn? cho dù ta không biếng nhác cũng chẳng
147
giao động có nghĩa là: ta có giới đức thanh tịnh (suvisuddha-sila);
ta không biếng nhác vì ta cố gắng hành tinh tấn; ta không giao
động và tâm trí ta luôn thiền định nội tại. Vì ta luôn tuân giữ lời
Phật dạy được gọi là tu luyện thiền liên quan đến Tứ thánh đế,
làm sao ta không thể chứng Níp Bàn được? chắc chắn ta sẽ đạt
đến Níp bàn vậy.
114. Và suy nghĩ như vậy nàng đã tập trung chú ý tối đa để luyện
thiền quán. Một ngày kia nàng lấy nước rửa chân như là một
tướng. Chính vì thế nàng cho hay, ta rửa chân, v.v… ý nghĩa điều
này là: đang lúc rửa chân, ta nhìn thấy nước từ chân chảy từ đỉnh
đồi xuống vùng đất trũng. Và ta coi đó như là một tướng.
115. Ta tự nghĩ trong lòng, “Chính vì nước là chủ đề thiền pháp
diệt và pháp biến dạng, cũng vậy những đại cấu tạo thành cuộc
sống chúng sanh (cũng trải qua sanh diệt như vậy)” Như vậy, ta
quan sát đặc tính vô thường và hậu quả của nó là đau khổ và vô
ngã, ta gia tăng phát triển thiền quán. Thế rồi ta nhập thiền đề
mục đó như là, giống như ngựa rặc khéo luyện có nghĩa là: giống
như người đánh xe tài ba khiến cho ngựa khéo thanh tịnh chạy
tốt, ta cũng tập trung thiền quán một cách dễ dàng; ta tạo ra điều
này bằng thiền định và thiền quán. Sau khi gia tăng thiền quán
như vậy và ước muốn có được những phong cảnh chung quanh
thích hợp, ta vào phòng thiền và lấy một ngọn đèn để xua tan
bóng tối. Ta đặt chiếc đèn xuống. Sau khi vào căn phòng thiền đó
và dụi bớt tim đèn xuống với một chiếc chốt cửa để có thể dập tắt
ngọn đèn khi đến lúc ta ngồi thiền. Ngay tức khắc vừa mới đạt
được khung cảnh thích hợp tâm của nàng trở thành điềm tĩnh.
Nàng thâm nhập chánh đạo thiền quán và khai phá thánh đạo. Thế
rồi thông qua chánh đạo từng đạo một, nàng triệt phá được hết
các ô uế lậu hoặc. Chính vì thế nàng nói là: Thế rồi ta lấy chiếc
đèn … việc giải thoát tâm linh giống như ngọn đèn tàn lụi đi). Ở
đây, ta kiểm tra lại giường chiếu có nghĩa là: kiểm tra giường
chiếu với ánh sáng của ngọn đèn.
116. Chiếc kim có nghĩa là: chiếc chốt để chốt cửa lại. Ta kéo tim
đèn xuống có nghĩa là: để có thể tắt đèn, ta kéo tim đèn xuống có
phần đầu ngập trong dầu về phía ta. Giải thoát có nghĩa là: giải
thoát khỏi các lậu hoặc. Nhưng liên quan đến tâm tương tục hiểu
theo nghĩa tối thượng. Chính vì thế nàng nói rằng: thuộc tâm
ta. Nhưng người ta nói rằng khi có những điều kiện như thể tim
148
đèn và dầu, v.v…ngọn đèn sẵn sàng hoạt
động (uppajjandraho), đang khi đó nếu thiếu những điều kiện này,
thì ngọn đèn sẽ tắt nghỉm. Chính vì thế khi nhập niệm dựa trên
lậu hoặc, v.v… thì tâm phải trải qua tái sanh. [nhưng] nếu thiếu
những điều kiện đó tâm được giải thoát thông qua còn hiện hữu
sanh nữa. Chính vì thế nàng cho rằng, Giải thoát tâm linh giống
như ngọn đèn tàn lụi đi vậy.
Đến đây kết thúc chú giải về những đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Patacara.
11. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ THUỘC NHÓM BA MƯƠI
TRƯỞNG LÃO NI.
Các đoạn kệ bắt đầu với Sau khi đã đưa tay lấy những chiếc
chầy, là những đoạn kệ thuộc nhóm ba mươi Trưởng lão Ni. Cả
chư vị Tỳ khưu Ni đó cũng đã thực hiện rất nhiều phước nghiệp
dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và cũng đã tích lũy được những
hạnh thiện nơi nhiều kiếp khác nhau làm căn giải thoát. Trong
nhiều cơ hội thuận tiện chư vị đó đã tích lũy được nhiều điều thiết
yếu nhắm đến giải thoát và dưới thời Đức Phật hiện tại, chính
những phước thiện của họ thôi thúc họ được sanh ra trong những
gia đình tốt nơi này nơi khác. Khi đến tuổi trưởng thành, họ đã
lắng nghe lời Phật dạy trước sự hiện diện của Trưởng lão Ni
Patacara, họ đã trở thành những tín nữ và xuất gia. Họ thực hiện
được nhiều phẩm hạnh thiện và sống đầy đủ giới đức của mình.
Thế rồi một ngày kia, Trưởng lão Ni Patacara đã kinh cho họ và
thốt lên những đoạn kệ này:
117. Sau khi cầm chày giã gạo những vị Bà la môn trai trẻ đã
kiếm được tài sản giàu có, để nuôi vợ nuôi con.
118. Cũng giống như lời Phật dạy, khi người nào thực hiện lời
Phật dạy, sẽ không phải hối hận. Hãy mau mắn rửa chân tay, và
ngồi sang một bên. Hãy kiên tâm tu chỉ, thực hiện lời Phật dạy.
117. Đây là bản tóm lược ý nghĩa ở đây: những con người
này, sau khi đã cần lấy chầy giã gạo nhằm mục đích kiếm sống.
Họ thực hiện công việc giã gạo; họ giã gạo thuê cho những người
khác, thực hiện những công việc hèn hạ như vậy giống như người
này người kia. Nuôi sống vợ con của họ đã tích lũy được của cải
thích hợp với công việc của mình. Nhưng công việc của họ không
149
được thanh tao. Thuộc về những cư dân sống trong làng. Hạ cấp,
khổ sở, liên quan đến những gì không thích hợp.
118. Chính vì thế hãy phá hủy những ngăn cản trở ngại do lậu
hoặc tạo ra thuộc loại đó tạo ra. Hãy thực hiện lời Phật dạy; hãy
nắm giữ, hãy thực hiện lời Phật dạy được gọi là những giới luật.
Hãy thực hiện lời Phật dạy trong liên tục tính của mình. Tại đó
nàng đã giải thích lý do: Sau khi thực hiện lời ngài, thì chúng ta
không phải hối hận. Kết quả thực hiện điều này khiến ta không
phải hối hận ngay trên đời này và nơi cuộc sống đời sau. Đang lúc
thực hiện lời ngài vào lúc này hay trong tương lai thì chúng ta
không phải hối hận vì đã làm điều đó. Để cho thấy hành vi đầu
tiên và phương pháp được áp dụng cho chính mình, hãy nhanh
chóng rửa chân đi. v.v…ở đây, người nào ngồi xuống mà chưa
rửa chân (a – dhovita-padassa) và chưa rửa mặt (a-vikkhalita-
mukkhassa) thì chẳng có được hoàn cảnh thuận tiện cho mình;
nhưng nếu rửa chân (pade pana dhovitva) và nếu người đó còn
rửa cả mặt nữa (mukkhađ-mukhassa), ngồi sang một bên, thì
người đó sẽ chiếm được cả hai. Chính vì thế, nhanh chóng, có
nghĩa là đừng có mất cơ hội thuận tiện đã có được, hãy nhanh
chóng rửa chân (padani), chính chân của mình (attano
pade) , và ngồi xuống (nisidatha) một bên, hãy ngồi xuống một
nơi kín đáo. Hay tập trung suy nghĩ về ba mươi tám [chủ đề
thiền] với bất kỳ chủ đề nào có liên quan đến tâm, nhắm đến bình
ổn tâm linh (ceto-samatham anuyutta) với tâm điềm
tĩnh (samahittena cittena) thông qua tu tập hành thiền về tứ diệu
đế. Hãy thực hiện, hãy nhận lấy những lời khuyên nhủ lời dạy lời
nhắn nhủ dạy dỗ của Đức Phật, là vị Thiện Thệ.
Thế rồi chư vị Tỳ khưu Ni đó, nắm vững được lời dạy của vị
Trưởng lão Ni đó, liên an trú thiền quán, dành hết sức mình vào
việc phát triển tâm linh; và sau khi đã khiến cho hiểu biết đạt đến
độ chín muồi và thông qua thực hiện hoàn hảo những công sơ
khởi, họ đã chứng đắc quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải. Thế
rồi nhìn lại thành quả của mình đã đạt được, họ thốt lên những
đoạn kệ được coi như là những lời dạy của Đức Phật.
119. Họ đã nghe lời nàng thốt ra, là lời dạy của nàng Patacara. Họ
đã rửa chân và ngồi sang một bên, chú ý luyện tâm an tịnh và họ
đã thực hiện lời dạy của Đức Phật.
150
120. Trong canh đầu tiên họ ngồi thiền nhớ lại đời tiền kiếp, trong
canh giữa đêm họ thanh tịnh thiên nhãn, vào canh đêm cuối cùng
họ xé tan bóng tối âm u vô minh.
121. Rồi đứng dậy, họ phủ phục dưới chân Đức Phật mà kính lễ,
“chúng ta nhận lời khuyên của ngài, chúng ta tiếp tục kính lễ ngài
giống chư vị ba mươi ba đảnh lễ vị Sakka, đấng không hề bị
chiến bại. Chúng ta chứng tam minh, chẳng còn lậu hoặc nào
vương vấn cả.”
119. Ở đây, Họ lắng nghe lời tuyên bố của nàng. Lời dạy của
Trưởng lão Ni Patacarra (Patacara sanana?) có nghĩa là: Họ, tức
là nhóm ba mươi Tỳ khưu Ni, lắng nghe lời nhắn nhủ có nghĩa là
hiểu theo nghĩa những lời huấn dụ đối lại với những lậu hoặc của
nàng (tassa)Trưởng lão Ni Patacara (Patacaraya theriya).
121. Đứng thẳng người lên họ kính lễ phủ phục xuống tận chân
nàng có nghĩa là: họ chú ý tới, tập trung chú ý tới lời dạy dỗ như họ
đã nhận được nơi nàng và khi họ đã ngồi xuống vị trí thuận tiện. Họ
đã chứng đắc phát triển tâm linh tột đỉnh. Để có thể kể lại sự khác biệt
chính họ đã nhận ra, họ đã trỗi dậy khỏi nơi ngồi thiền và đến trước
sự hiện diện của nàng. Và họ thốt lên những lời sau đây, “Ôi trưởng
lão Ni vĩ đại, chúng ta đã hoàn tất được lời dạy của ngài, phù hợp với
những gì ngài đã dạy dỗ chúng ta.” Đoạn họ kính lễ ngài phủ phục
xuống tận chân thực hiện kiểu kính lễ ngũ thân đầu địa. Giống như ba
mươi chư vị kính lễ thần Indra không hề bị đánh bại nơi chiến
trường. (sangame) có nghĩa là: Giống như chư vị chư thiên nơi cõi
Trời Đâu Xuất cùng với thần Inda, là người không hề nếm mùi bại
trận với chư thiên và A-tu-la (devasura-sangame) bao giờ. Chúng ta
cũng sẽ tiếp tục duy trì kính lễ ngài vì chẳng thiếu bất kỳ điều gì cần
phải thực hiện. Chính vì thế. Chúng ta chứng tam minh. Chúng ta
chẳng còn vương vẫn lậu hoặc nào có nghĩa là: họ cho biết là họ luôn
tỏ lòng biết ơn. Và đây chính là việc công bố về hiểu biết toàn tri của
họ. Và vì vấn đề này không được phân tích ở đây vì ý nghĩa đã được
giải thích trước đó.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của nhóm ba mươi Trưởng
lão Ni.
12. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI CANDA.
Các đoạn kệ bắt đầu với Trước kia ta sống rất bất hạnh là của
Trưởng lão Ni Canda. Nàng cũng vậy đã thực hiện rất nhiều
151
phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và đã tích lũy được
các hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống trước làm căn giải thoát. Đến
đúng thời gian qui định nàng đã tích lũy được những việc ban đầu
để được giải thoát thông qua chứng kiến thức đã chín muồi.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong một ngôi làng Bà
la môn kia trong gia đình một người Bà la môn nghèo hèn. Vào
lúc nàng sanh ra tài sản gia đình nàng bị sa sút. Đến thời gian
nàng đến tuổi trưởng thành và sống trong điều kiện hết sức bi đát.
Thế rồi có nạn dịch tả xảy ra trong nhà đó, và vì toàn bộ họ hàng
thân thuộc của nàng đã bị bệnh chết hết, nàng chẳng còn chỗ nào
để ở cả. Nàng đi lang thang hết nhà nọ sang nhà kia với tô khất
thực cầm trong tay. Nàng sống sót nhờ bấât kỳ vật thực nào nàng
nhận được.
Thế rồi một ngày kia, khi nàng đến một nơi ở đó có một bữa ăn
đã được dọn sẵn do Trưởng lão Ni Patacara thiết đãi. Khi chư vị
Tỳ khưu Ni thấy nàng rơi vào cảnh đáng thương hại vì đói, liền
tiếp nàng với lòng đại bi, họ đã cho nàng ăn với những thứ đồ ăn
dư thừa. Nàng chứng niềm tin và sung sướng thấy các phẩm hạnh
thiện nơi các Tỳ khưu Ni đó. Nàng đến gặp chư vị Tỳ khưu Ni đó,
đảnh lễ chư vị và ngồi sang một bên. Thế rồi chư vị Tỳ khưu giải
thích Giáo pháp cho nàng. Sau khi nghe Giáo pháp, nàng chứng
niềm tin nơi giáo lý đó; một mối giao động lớn nổi lên liên quan
đến kiếp sống luân hồi liên tục và rồi nàng xuất gia. Sau khi nàng
xuất gia, nàng theo lời giáo huấn của chư vị Tỳ khưu Ni đó. Nàng
an trú thiền quán và chuyên tâm tinh cần. Rồi với chánh tinh tấn
và lời phát nguyền cùng trí tuệ chín muồi chỉ sau một thời gian
ngắn nàng chứng thánh quả A-la-hán cùng với pháp tín thọ. Nhìn
lại những thành quả mình đã đạt được nàng thốt lên những đoạn
kệ long trọng sau đây:
122. Trước kia ta đã sống rất bất hạnh, là bà góa chẳng còn con
cái. Không bạn bè và họ hàng thân thuộc. Ta chẳng có đủ đồ ăn
thức uống và quần áo để mặc.
123. Tay cầm tô đi xin tay chống gậy qua đường. Ta đi xin hết
nhà này sang nhà khác. Phải chịu biết bao khổ sở do thời tiết
nóng lạnh thất thường và ta đã chu du tái sanh khất thực như thể
trong suốt bảy năm trời.
152
124. Và thế rồi ta nhìn thấy vị Tỳ khưu Ni. Vị này đã có đồ ăn
thức uống dư thừa. Ta tiến đến gặp nàng và lên tiếng: “Xin cho ta
được xuất gia sống đời vô gia cư.
125. Và với tâm đại bi Patacara đã đồng ý cho ta xuất gia. rồi
giảng dạy cho ta hướng ta tới chân đế.
126. Ta lắng nghe lời nàng giảng dạy ta làm theo y lời Phật dạy.
Lời giảng của bậc Trưởng lão Ni đó đã không phải uổng công. ta
chứng đắc tam minh và không còn lậu hoặc.
122. Ở đây, sống rất khổ sở bất hạnh có nghĩa là: [nàng rất] nghèo
khổ. Trước kia (pure) có nghĩa là: trước khi (pubbe) nàng xuất
gia. Kể từ thời gian nàng xuất gia, một con người vào thời điểm
này không được cho là giàu có hay nghèo do tài sản mà ra.
Nhưng Tỳ khưu Ni này rất giàu có về phẩm chất thiện. Chính vì
thế nàng nói rằng: Trước kia ta sống rất bất hạnh. Góa
bụa (vidhava) có nghĩa là: người chồng (dhavo) được cho là
người chồng (samako); nếu thiếu một người, [người này] bị góa
bụa, là người chồng chết (mata-pattika); đây là ý nghĩa. Không có
con cái có nghĩa là: thiếu con cái. Ta không có đồ ăn thức
uống và quần áo có nghĩa là: ta không có đầy đủ liên quan đến đồ
ăn và quần áo, nhưng liên quan đến đồ khất thực và miếng vải
rách, ta chỉ nhận đủ đồ ăn và y phục. Đó là ý nghĩa ở đây.
123. Chính vì thế nàng nói rằng: lấy tô khất thực và chống gậy,
v.v… Ở đây tô khất thực có nghĩa là: một tô làm bằng đất sét
nung. Chiếc gậy có nghĩa là: một chiếc gậy chống lại chó và trâu
bò…Từ nhà này sang nhà khác có nghĩa là: từ gia đình này tới gia
đình khác. Và phải chịu nóng lạnh thiêu đốt có nghĩa là: bị sức
lạnh (sitena ca) và khí nóng ảnh hưởng. Vì thiếu nơi cư trú và
quần áo đầy đủ.
124.Vị Tỳ khưu Ni có nghĩa là: nàng nói tới Trưởng lão Ni
Patacara. Nhưng rồi, có nghĩa là: sau đó, sau bảy năm.
125. Mục tiêu tối thượng (paramatthe) có nghĩa là: mục tiêu được
coi như là tối thượng (parame uttame atthe), việc tu tập chánh đạo
dẫn đến Níp Bàn hay là chính Níp Bàn vậy. [nàng] động viên ta
(niyojavi) có nghĩa là: nàng khích lệ ta (niyojesi), giải thích một
đề mục thiền. Phần còn lại đã được giải thích giống như ở trên
Đến đây kết thúc chú giải về đoạn kệ của Trưởng lão Ni Canda.
Đến đây cũng kết thúc chú giải tập năm kệ.
153
6.1. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA NĂM TRĂM TRƯỞNG LÃO NI LÀ CÁC
BÀ MẸ.
Trong tập sáu kệ, các đoạn bệ bắt đầu bằng câu [Con la khóc,
“Hỡi con ta ơi” với những ai chẳng được rõ chánh đạo mình đang
đi, v.v…là của năm trăm Trưởng lão Ni trước đã làm mẹ trong
gia đình. Họ cũng đã thực hiện nhiều phước nghiệp dưới thời chư
vị Phật tiền kiếp và cũng đã tích lũy được nhiều hạnh thiện cần
thiết để được giải thoát. Dưới thời Đức Phật hiện tại, họ sanh ra
trong nhà của rất nhiều gia đình tốt.
Khi đến tuổi trưởng thành, cha mẹ họ đã gả chồng cho họ nơi
những gia đình khác nhau và cũng đã sanh được rất nhiều con cái.
Họ sống cuộc sống gia đình nhưng vì họ đã thực hiện nhiều
phước nghiệp giống như ta đã đề cập đến ở trên. Họ cũng sống
cuộc sống tương tự như thế. Tất cả họ đều không còn con cái và
rơi vào hoàn cảnh rất buồn khổ vì chẳng có đứa con nào chịu
sống với mình. Họ chạy đến gặp Trưởng lão Ni Patacara, đảnh lễ
ngài rồi ngồi sang một bên và giải thích nguyên nhân sầu khổ của
họ cho ngài nghe. Vị Trưởng lão Ni đã xua tan nỗi sầu khổ cho
họ. Và ngài còn diễn giải Giáo Pháp cho họ với những đoạn kệ
sau đây:
127. Ngươi chẳng biết chánh đạo dẫn con ngươi đi đến đâu – vì
đó là chánh đạo nhà ngươi phải thông biết – sao ngươi lại than
khóc, “Hỡi con trai ta ơi.”
128. Nhưng ngươi chẳng nên than khóc kẻ đi và đến đâu cả. Ngài
than khóc làm gì vì đó là bản chất pháp hữu tình xưa nay.
129. Chẳng ai yêu cầu người này tới đó, cũng chẳng ai cho
phép nó tới nơi đây - Nhưng chắc người đó phải từ nơi này nơi nọ
mà t?i. Sau khi sống trên đời ắt hẳn phải có chánh đạo để đi tới
nơi này nơi kia và từ đây sẽ ra đi tới chỗ này chỗ nọ vậy.
130. Mệnh chung người đó sẽ chu du tái sanh khắp nơi dưới
hình dạng con người. Vì nó tới (sanh) rồi lại đi (diệt) nó đến một
con đường rồi ra đi một lối khác. Tại sao lại than khóc ở chốn này
làm gì?
Họ lắng nghe giáo lý của ngài Trưởng lão Ni, một giao động
mãnh liệt nổi lên nơi tâm họ, và họ đã xuất gia trước sự hiện diện
của Trưởng lão Ni. Sau khi đã xuất gia họ chuyên cần tu tập thiền
quán, chứng đắc pháp tín thọ và nghĩa tín thọ dẫn tới giải thoát,
và chỉ trong một thời gian rất ngắn họ chứng đắc quả A-la-hán
154
cùng với Tứ vô ngại giải. Thế rồi sau khi đã chứng quả A-la-hán,
họ chiêm ngưỡng những thành tích họ đã đạt được và coi đó như
lời tuyên bố long trọng về những chứng đắc đó, họ cùng nhau thốt
lên những đoạn kệ về những lời giảng dạy bắt đầu với [Nhà ngươi
than khóc, “Hỡi con trai của ta ơi”] là kẻ mà các ngươi chẳng hề
biết chánh đạo nó đi theo. Thế rồi từng người một họ đọc lên
những đoạn kệ sau đây:
131. Quả thật ngài đã rút ra mũi tên, không dễ gì thấy được,
nằm tận trong tim ta. Ngài đã rút khỏi tâm ta nỗi sầu khổ con trai
ta để lại, sầu khổ đó đã tràn ngập tim ta.
132. Hôm nay, ta đã rút mũi tên độc ra, ta chẳng còn đói khát
và đạt tới níp bàn. Ta đến quy y Phật, đại trí thiện thệ. Ta sẽ đến
quy y Pháp và qui y luôn cả Tăng Đoàn phạm hạnh.
127. Ở đây, đối với người đó người không biết rõ chánh đạo (kẻ
đó đang đi) – cả chánh đạo người đó tới cũng như người đó ra đi
có nghĩa là: đối với người nào, con đường phải qua để tới đây,
ngươi không biết – về chánh đạo kẻ đó tới, lối đi hắn tới đây,
ngay cả lối hắn ra đi, lối hắn ra đi khỏi nơi đây. Ngài nói tới điều
này liên quan đến tái sanh ngay trong quá khứ và tương lai. Vì
ngươi chẳng biết từ đâu người đó tới: đối với người đó đến từ đâu
qua ngả đường nào, ai biết được kẻ đó tới từ cõi nào, vì là con
đường người đó tới cũng như ra đi hoàn toàn lạ lẫm, trong mọi
tình huống giống như những người cùng gặp trên đường đi mà
không quen biết nhau. Đâu là lý do? Tại sao ngươi lại than khóc,
“Con ta hỡi” chỉ hoàn toàn do tính ích kỷ mà ra. Đây là ý nghĩa.
128. Nhưng ngươi lại không than khóc kẻ ngươi biết rõ đường
hướng hắn từ đâu tới và ra đi từ đâu có nghĩa là: nếu như ngươi
biết người đó tới và lối đi người đó sử dụng để tới, việc hắn ra đi
và lối đi từ đó hắn ra đi lại là một ngưòi con trai nhà ngươi hằng
yêu mến, thì ắt hẳn ngươi chẳng than vãn sầu khổ đến thế, chính
vì thế nhà ngươi chẳng nên đau buồn làm gì. Chính vì thế ngài
Trưởng lão Ni nói rằng, đây chính là pháp hưũ tình là vì vậy.
Trên cõi đời này, đây là điều do ly biệt nơi chúng sanh với toàn
bộ những điều là đáng yêu, là cảm khoải, vì không có những thứ
đó thì đau khổ sẽ diễn ra nơi hữu sanh tương lai.
129. Không hỏi han, hắn từ đó tới có nghĩa là từ đâu mà tới, tới từ
cõi khác, chẳng có ai hỏi, hắn tới đây. Cũng có cách giải thích là
agato [thế cho agacchi] và ý nghĩa lại hoàn toàn giống nhau [hắn
155
tới], không ai cho phép, hắn tới từ nơi này có nghĩa là: hắn tới cõi
đời sau từ cõi đời này mà chẳng được ai đồng ý cả. Hắn từ cõi đời
này mà ra đi song chẳng có ai cho phép hắn làm thế cả. Tới từ
đâu có nghĩa là: từ nơi nào đó như từ hoả ngục, v.v…từ cõi nào
đó. Sau khi trải qua đó một ít ngày (katipahakam) có nghĩa là: sau
khi đã sống tại đây chỉ một ít ngày. Hắn từ đây mà tới thông qua
lối đi nào đó có nghĩa là: hắn từ cõi hữu sanh này mà tới thông
qua một con đường; hắn lìa khỏi nơi đây tới một cõi hữu sanh
khác bằng cách tái sanh. Hắn từ đây mà tới (gacchati) từ nơi đó
đến một cõi khác có nghĩa là: hắn từ cõi hữu sanh này tới cõi tái
sanh khác bằng một con đường khác; quả thật hắn sẽ đi tới một
cõi hữu sanh khác.
. Mệnh chung (peto) có nghĩa là: chết đi (apeto), ra đi từ nơi đó,
hắn được tái sanh nơi nhiều cõi hữu sanh khác nhau. Dưới hình
sắc con người (manussa-rupena) có nghĩa là: đây được coi như là
một ví dụ điển hình về điểm này. Ý nghĩa ở đây là: nơi cõi hiện
hữu con người (manussa-bhavena) hay nơi cõi hiện hữu thành súc
sinh. Chu du tái sanh khắp nơi có nghĩa là: du hành thông qua tái
sanh liên tục. Như hắn xuất hiện như thế nào (yathagato), hắn
cũng ra đi như vậy có nghĩa là: cũng giống như (yatha) hắn tới
(agato) chẳng xin phép một ai cả, thì hắn ra đi cũng vậy chẳng
được ai cho phép tới một cõi hoàn toàn xa lạ. Lời than vãn nào có
ích lợi gì đâu có nghĩa là: lời than vãn khóc lóc đó nào có đem lại
lợi ích gì, trong hoàn cảnh như vậy (tadise), màkhông tự kiềm chế
được bên trong kiếp tham dục như thế? Việc tham vãn khóc lóc
như thế có đem lại điều lợi gì (paridevitena)? Đó là ý nghĩa muốn
đề cập đến ở đây. Ý nghĩa những gì còn lại coi như đã được giải
thích ở trên.
Và ở đây, bốn đoạn kệ đầu là của Trưởng lão Ni Patacara. Ngài
đã nói với năm trăm phụ nữ từng người một để đẩy lùi sầu khổ
cho họ. Điều này nên được hiểu là đứng vững trước lời dạy dỗ
của ngài, họ đã xuất gia. Và khi họ đã phân biệt được sự việc đó,
thì cả sáu đoạn kệ đó đã được từng người trong nhóm năm trăm
Tỳ khưu Ni đó nói lên.
Năm trăm vị Patacara có nghĩa là năm trăm vị Tỳ khưu Ni đã
nhận được tên gọi là Patacara, theo như người ta đã kể lại: “Họ
hiểu rõ ngài Trưởng lão Ni Patacara đã nói điều gì, do thực chất
họ đã nhận được lời khuyến dụ trước sự hiện diện của ngài.
156
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ thuộc nhóm năm trăm chư
vị Tỳ khưu Ni.
2. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI VASITTHI.
Các đoạn kệ bắt đầu với câu Ta phải sầu muộn vì con trai ta là
của Trưởng lão Ni Vasitthi. Nàng cũng đã thực hiện những phước
nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và đã tích lũy được nhiều
hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống tiền kiếp làm cơ sở để được giải
thoát. và hoàn thành được những điều cần thiết để chứng giải
thoát sau khi kiến thức đã đến lúc chín muồi. Nàng chu du tái
sanh khắp các cõi chư thiên lẫn cõi chúng sanh và dưới thời Đức
Phật hiện tại, nàng đã sanh ra trong một gia đình tốt trong thành
Vesali.
Khi đến tuổi trưởng thành, cha mẹ nàng đã gả nàng cho một
người con trai cư trú trong một gia đình tốt rất môn đăng hộ đối.
Và nàng đã dọn về ở trong gia đình nhà chồng. Nàng sống rất
hạnh phúc với chồng, nàng đã hạ sanh được một người con trai
chỉ mới chập chững biết đi, nhưng nó đã qua đời. Phải sầu khổ
phiền muộn vì cái chết của đứa con trai, nàng đã bị mất trí. Và
đang lúc họ hàng chữa trị cho người chồng thì nàng đã bỏ đi lang
thang khắp đó đây cho đến khi nàng tới được thành Mithila.
Tại đó, nàng đã được chứng kiến Đức Phật đang xuống phố khất
thực, hoàn toàn tự tại, tự chế và làm chủ các căn. Khi nàng vừa
thấy Đức Thiện Thệ, và nhờ có Phật lực bệnh mất trí của nàng
được loại bỏ và nàng lấy lại cho mình bình tĩnh trở lại. Thế rồi vị
Đạo Sư kinh cho nàng về sầu khổ. Khi nàng nghe giáo pháp, nàng
vô cùng giao động và nôn nóng xin được xuất gia. Theo lệnh của
Đức Phật nàng đã xuất gia cùng với chư vị Tỳ khưu Ni. Nàng đã
hoàn thành tốt phận sự ban đầu; an trú nơi thiền quán và với cố
gắng vượt bậc, với trí tuệ chín muồi, nàng chứng quả A la hán,
với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ, chỉ trong một thời gian rất ngắn.
Nhìn lại thành tích của mình, nàng đã thốt lên những đoạn kệ này
như là một lời tuyên bố long trọng:
133. Ta sầu muộn vì con trai ta, với tâm đau khổ cuồng loạn, lõa
thể đầu tóc rối bù, ta sống lang thang khắp nơi nơi.
134. Lang thang khắp nơi trên đường phố, nơi rác rưởi, bãi tha
ma và trên đường xe chạy. Ta lang thang chu du tái sanh khắp
trong ba năm, thân kham khổ chịu đói nhịn khát ba năm trường.
157
135. Thế rồi ta chứng kiến vị Thiện Thệ đang tiến vào thành
Mithila, ngài điều ngự kẻ chưa điều ngự, là Bậc giác ngộ vô úy.
136. Lấy lại tâm bình tĩnh, ta kính lễ Ngài rồi ngồi xuống bên
cạnh, Với đại bi Đức Phật Cồ Đàm thuyết giảng giáo pháp cho ta
rõ.
137. Ta lắng nghe giáo pháp và xuất gia, ta tham gia cuộc sống vô
gia cư. Thực hành lời đạo sư ta chứng đạo an ổn.
138. Mọi phiền muộn được cắt đứt hết, đoạn tận được như vậy.
Vì ta biết rõ nguồn gốc từ đó sầu muộn sẽ phát sanh.
133. Ở đây, bị phiền muộn có nghĩa là: phải sầu khổ (attita). Đây
còn là một cách giải thích khác nữa. Ý nghĩa ở đây là: [nàng] phải
phiền muộn, bị thúc ép. Với tâm bị cuồng loạn (khitta-citta) có
nghĩa là: với tư tưởng bị hỗn loạn do điên loạn vì sầu khổ. Do kết
quả trí thông minh bình thường của nàng đã biến mất nàng không
còn tỉnh táo. Vì không còn biết mắc cở nữa và sợ hãi làm điều
tầm bậy, vì quần áo của nàng chẳng còn mảnh nào che thân,
[nàng trở nên] trần truồng. Vì đầu tóc của nàng hoàn toàn rối bù
lên, [đầu tóc nàng] bù xù rối ren. Đây kia có nghĩa là: Ta di
chuyển từ làng này sang làng khác, từ thành này sang thành khác,
từ phố này sang phố khác.
135. Thế rồi có nghĩa là: sau đó, những hành vi dẫn đến điên loạn
biến mất. Đức Thiện Thệ có nghĩa là: vì ngài dẫn đến điều tốt
lành (gatatta) tới nơi tốt lành; vì (gatatta) có tài hùng biện (chánh
ngữ) (gadatta), ngài là vị Thiện Thệ, là Đức Thế Tôn. [đang tiến]
về [thành] Mithila có nghĩa là: hướng về thành Mithila, về phía
thành phố Mithila.
136. Lấy lại được hồi tâm trở lại có nghĩa là: loại bỏ được cuồng
loạn tâm linh nhờ vào sức mạnh của Đức Phật, lấy lại được suy
nghĩ bình thường.
137. Tự áp dụng mình theo lời Phật dạy có nghĩa là: cố gắng thực
hành lời dạy của Đức Phật, vị toàn giác; siêng năng chuyên cần
học hỏi giáo lý của Đức Phật trong việc tu luyện tâm linh. Ta
chứng đắc (sacchakasi?) chánh đạo an tịnh, thoát khỏi bốn ách
phược luôn đè nặng lên ta, chứng đắc niết bàn
138. Kết thúc theo cách này (etad-anika) có nghĩa là: Bậc A-La-
Hán ta đã chứng đắc là cùng đích (anto) tất cả: điều này chính là
đích, Mọi sầu khổ của ta kết thúc theo cách này. Ý nghĩa ở đây là:
đến giờ phút này chẳng còn cơ hội nào sầu khổ được tạo ra nữa.
158
Liên quan đến những sầu khổ đó. Ta đã hiểu rõ (pariđđata) nhờ
am hiểu toàn bộ bằng hiểu biết, trạch pháp và loại bỏ các căn.
Cũng đồng nghĩa với năm nhóm hiểu rõ – những sầu khổ này.
Chính vì thế mọi sầu khổ của ta đều kết thúc theo cách này.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni Vasitthi.
3. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ TRƯỞNG LÃO NI KHEMA
Những đoạn kệ bắt đầu với Nàng vừa trẻ lại vừa đẹp là của
Trưởng lão Ni Khema. Nàng đã sống làm nô tỳ cho người khác
trong thành Hatsavati trong suốt thời gian Đức Phật Padumuttara
sinh tiền. Nàng kiếm sống bằng cách phục vụ cho chủ. Một ngày
nọ nàng gặp được Trưởng lão Sujata, là đồ đệ chính của vị Toàn
Giác Phật Padumuttara đang du hành khất thực. Nàng đã cúng
dường cho ngài một chiếc bánh ngọt. Và trong cùng ngày hôm
đó, nàng cũng đã xuống tóc, làm một vật thí dâng lên Trưởng lão.
Thế rồi nàng lại ước nguyện rằng, “Trong tương lai, cầu xin con
trở thành một vị đồ đệ khôn ngoan của vị Phật nào đó.” Và trong
suốt cuộc sống của mình, nàng đã chuyên tâm thực hiện phước
nghiệp.
Nàng du hành khắp các cõi chư thiên lẫn cõi chúng sanh, và đến
đúng thời gian qui định, nàng sanh ra nơi sáu cõi thiên giới giác
quan và làm chánh hậu cho nhiều vị vua chư thiên. Và nơi cõi
chúng sanh, nàng cũng đã nhiều lần là chánh hậu cho các chuyển
luân vương và nhiều vị vua cai trị rất nhiều vương quốc khác
nhau.
Dưới thời Phật Vipassi khởi sanh nơi cõi chúng sanh. Khi đến
tuổi khôn lớn nàng lắng nghe Giáo Pháp trước sự hiện diện của vị
Đạo Sư. Nàng trở nên vô cùng xúc động và đã xuất gia. Nàng
chuyên tâm thực hiện cuộc sống giới đức trong vòng mười ngàn
năm và trở thành một người thông thái và một Trưởng lão diễn
giải Phật Pháp rất tài ba. Nàng đã thực hiện rất nhiều hành vi dẫn
đến khiến thức, diễn giải cho rất nhiều người chứng Giáo Pháp
v.v…
Sau khi qua đời, nàng chỉ chu du tái sanh nơi các cõi thiện, và
trong kỷ nguyên hiện tại, nàng sanh ra trong những gia đình giàu
có dưới thời Đức Thiện Thệ Kakusandha và Đức Thiện Thệ
Kosagamana. Khi đến tuổi trưởng thành nàng thọ hưởng một trú
159
xứ vĩ đại xây dựng dâng cúng Tăng đoàn và cúng dường cho
Tăng đoàn chư vị Tỳ khưu có Đức Phật lãnh đạo.
Thế rồi dưới thời Đức Thế Tôn Kassapa thập lực, nàng đã trở
thành một người con gái cao tuổi nhất của Kiki, là vua cai trị thần
dân Kasi và được đổi tên thành Samani. Nàng đã nghe diễn giải
giáo pháp trước sự chứng giám của vị Đạo Sư và trở nên vô cùng
xúc động. Đang lúc còn sống trong gia đình như một phụ nữ trinh
tiết. Trong suốt hai mươi ngàn năm, nàng cùng với người em gái
là Samanagutta, v.v… cho xây một thiền viện thật nguy nga và
cúng dường cho Tăng đoàn chư vị Tỳ khưu có Đức Phật lãnh đạo.
Bằng cách như vậy nàng đã thực hiện những phước nghiệp to lớn
liên quan đến việc cúng dường trú xứ vậy.
Nàng chỉ chu du tái sanh nơi các cõi hữu sanh hạnh phúc. Dưới
thời Đức Phật hiện tại, nàng được sanh ra trong gia đình hoàng
gia thuộc thành phố Sakala trong vương quốc Madda. Nàng được
đặt tên là Khema, và nàng có diện mạo vàng óng, với làn da
tương tự vàng ròng. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng đến làm dâu
trong hoàng cung nhà vua Bi?bisara. Vị Đạo Sư lại cư ngụ trong
thành Veluvana, nhưng nàng không đến gặp ngài vì nàng có vẻ
kiều diễm đầy hấp dẫn và nghĩ rằng, “Ngài đã chỉ ra những lỗi
phạm nơi sắc đẹp.” Nhà vua đã khiến thần dân đề cập nhiều đến
sắc đẹp của Veluvena, và điều đó khiến cho hoàng hậu chỉ nghĩ
đến việc thăm thiền viện mà thôi.
Thế rồi hoàng hậu yêu cầu nhà vua nói rằng, “Tâu bệ hạ, xin cho
thần được đến thăm thiền viện được chăng?”
Nhà vua đến thiền viện trước. Vì không được gặp vị Đạo Sư, nhà
vua nói, “Hậu không có cơ may nào được gặp Đức Phật đâu.”
Nhà vua truyền cho cận thần của mình nói rằng, “Các ngươi hãy
để cho hậu được nhìn thấy Đức Phật Thập Lực, ngay cả phải
dùng đến võ lực nữa.”
Thế rồi hoàng hậu đến viếng thiền viện và lưu lại đó trong nửa
ngày. Quay trở về hoàng cung, hình như hoàng hậu không có dịp
được gặp vị Đạo Sư. Thế rồi cận thần của nhà vua đưa hoàng hậu
đến trước sự hiện diện của vị Đạo sư, ngay cả khi hoàng hậu
không muốn. Khi vị Đạo Sư nhìn thấy nàng đang tiến lại gần,
Ngài dùng thần thông biến một người phụ nữ giống như tiên nữ
thiên giới đang cầm một chiếc quạt lá dừa và nàng quạt hầu ngài.
Hoàng Hậu Khema được chứng kiến nàng phụ nữ xinh đẹp tuyệt
160
trần đó và nghĩ rằng, “Những phụ nữ kia sánh ngang bằng với
chư tiên nữ thiên giới. Cũng chỉ có được diện mạo đến vậy thôi.
Đứng gần vị Đạo Sư ta sẽ lu mờ vì những lỗi phạm của mình, với
tâm vô dụng. Ta không xứng được làm người hầu cho nàng.”
Nàng đứng đó nhìn trân vào người phụ nữ kia.
Thế rồi khi nàng còn đang chăm chú nhìn, vị Đạo Sư dùng phép
thần thông đã biến người phụ nữ đó trải qua suốt từ thời niên
thiếu và đến tuổi trung niên rồi chứng tuổi già với hàm răng rụng,
tóc bạc trắng, và da mặt nhăn nheo lại. Người phụ nữ đó đã ngã
xuống và nằm quằn quại trên chiếc quạt lá dừa. Thế rồi Khema do
có phước nghiệp đã thực hiện trước đó nghĩ rằng, “Ngay cả một
thân xác thuộc dạng tiên nữ như vậy cũng phải trải qua nỗi bất
hạnh đến vậy, thế thì thân xác ta cũng sẽ phải trải qua định mệnh
tương tự như vậy thôi.”
Thế rồi Đức Phật biết rõ những suy nghĩ trong tâm trí nàng thốt
lên đoạn kệ này:
Những người nào đắm say sắc dục giống như người tự lao
mình xuống dòng sông, tựa như con nhện sa lưới dệt của mình.
Người đại trí sau khi đã cắt trừ được lưới đó, loại bỏ được mọi
hạnh phúc chẳng màng đến thú vui sắc dục làm gì.
Vào lúc kết thúc đoạn kệ, nàng chứng đắc thánh quả A-la-hán
cùng vơi Tứ vô ngại giải theo những gì đã được truyền lại cho
chúng ta trong các tập chú giải. Nhưng theo những chi tiết chúng
ta biết được trong Thí Dụ kinh khi nàng nghe đoạn kệ này, nàng
chỉ an trú nơi thánh quả Nhập Lưu. Nàng được phép của nhà vua
và xuất gia. Thế rồi chứng thánh quả A-la-hán. Ở đây, theo bản
văn trong Thí dụ Kinh thuật lại như sau:
1. Một trăm ngàn đại kiếp qua vị Chiến Thắng và Thống Lãnh
cõi thế gian đã sanh ra, ngài có tên là Padumuttara, vì ngài đã
vượt qua tới bờ bên kia mọi pháp.
2. Vào thời điểm đó, ta sanh ra trong thành Hatsavati trong một
gia đình thương gia giàu có, toả sáng với đủ loại châu báu, ta
được hưởng hạnh phúc to lớn tràn trề.
3. Ta chạy lại vị anh hùng vĩ đại và lắng nghe ngài diễn giải
giáo pháp cho ta. Thế rồi niềm tin khởi sanh nơi ta và ta đã đến
qui y vị chiến thắng.
161
4. Sau khi ta năn nỉ cha mẹ ta cho phép. Ta đã mời vị Chiến
Thắng và phục vụ cúng dường Ngài cùng với các đồ đệ của Ngài
trong bảy ngày.
5. Khi trải qua đến ngày thứ bảy, vị Tối Thắng chúng sanh chọn
một Tỳ khưu Ni lên địa vị đệ nhất những người khôn ngoan kiệt
xuất.
6. Khi ta nghe điều đó, ta hoan hỷ và cúng dường một vật thí
cho vị đại trí. Rồi ta phục lạy dưới chân ngài, kính lễ và cũng xin
ngài ban cho vị trí đó.
7. Thế rồi vị Chiến Thắng cùng ta nói rằng, “Cầu xin cho khát
vọng của con được toại nguyện, việc phục dịch con đã làm cho ta
và Tăng đoàn sẽ đem lại quả vô song.
8. “Một trăm ngàn đại kiếp cho đến thời điểm này sẽ có vị đạo
sư xuất hiện trên cõi trần, tên Cồ Đàm thuộc dòng họ Thích Ca, là
hậu duệ bộ tộc Okkaka.
9. Nhà ngươi sẽ được đặt tên là Khema, là hậu duệ hợp pháp
giáo pháp cao siêu, sau khi nhà ngươi chứng vị trí đệ nhất đó.
10. Do kết quả hành vi phước nghiệp đó và do quyết tâm cùng
mục đích nhắm tới khi ta loại bỏ được thân xác phàm tục này, ta
tái sanh nơi cõi Trời Đâu Xuất.
11. Xuất khởi cõi đó, ta tới cõi Diêm Vương. Xuất khởi cõi Dạ
Mata tới cõi Trời Đâu Xuất, và rời khỏi cõi đó ta tới cõi
Nimmanarati; và khỏi cõi đó ta tái sanh Vasavatti.
12. Bất kỳ nơi nào ta được tái sanh, nhờ phước nghiệp đó, ta cai
trị như một chánh hậu các vị vua thuộc cõi chư thiên đó.
13. Khởi xuất khỏi cõi đó, trong thân phận làm người, ta được
làm chánh hậu cho một vị vua chính là một chuyển luân vương và
các vị vua cai trị mỗi vương quốc.
14. Ta được hưởng thịnh vượng nơi chư vị chư thiên và con
người. Ta được sung sướng khắp nơi nơi, chu du tái sanh trong đó
rất nhiều đại kiếp.
15. Sau chín mươi mốt đại kiếp trôi qua, lại có vị lãnh tụ tên là
Vipassi sanh ra, một người trông thật hấp dẫn, nhìn thấu rõ mọi
pháp hành trên thế gian.
16. Ta đi đến vị lãnh đạo thế gian đó, vị cứu giúp toàn cõi chúng
sanh, và lắng nghe ngài truyền giảng Giáo Pháp, đoạn ta thực
hiện xuất gia sống đời vô gia cư.
162
17. Ta thực hiện sống đời giới đức trong mười ngàn năm hợp với
giáo pháp của vị Chiến Thắng, chủ tâm hành thiền và đạt đến kiến
thức cao.
18. Tài khéo phân tích nguyên nhân và giỏi phân tích Tứ thánh
đế, ta trở nên tinh tế và có biện tài hùng biện phù hợp với giáo lý
Đức Phật dạy ta.
19. Khi ta khởi xuất khỏi cõi đó, ta được tái sanh nơi Cõi Trời
Đâu Xuất (Tusita) ta được nổi danh nơi cõi đó, bởi kiến thức siêu
vượt do cuộc sống giới đức đem lại.
20. Bất kỳ nơi đâu ta tái sanh, ta đều được hưởng giàu có, nhiều
tài sản thông thái giới đức và tăng chúng giới đức vây quanh.
21. Chính vì thế do cố gắng thực hành chánh tinh tấn nơi giáo lý
của vị chiến thắng. Mọi chứng đắc làm thanh thản tâm ta và ta
đều dễ dàng chứng đắc được.
22. Bất kỳ nơi nào ta tới, bất kỳ người nào được làm lang quân
của ta đều không thể coi thường ta được do sức mạnh thành tích
ta đạt được.
23. Trong năm thuận lợi này Kodagamana, là người bà con Bà La
Môn tiếng tăm lừng lẫy, là người có tài đại hùng biện được sanh
ra.
24– 25. Vào thời điểm đó, ta là một đứa trẻ trong một gia đình rất
khá giả. Ba phụ nữ có tên là Dhanađjani, Sumedha và ta là bạn
thân thực hiện cúng dường, chúng ta cúng dường một công viên
trong thành và còn cho xây một thiền viện dâng cho Tăng Đoàn.
26. Khi qua khỏi đời này, cả ba chúng ta đều tái sanh nơi cõi Trời
Đâu Xuất và chúng ta chứng đắc danh tiếng nổi bật hơn hẳn mọi
chúng sanh.
27. Cũng trong vùng đó, có người bà con Phạm Thiên danh tiếâng
lừng lẫy, có tài hùng biện đại tài, tên là Kassapa, đã được sanh ra.
28. Vào thời đó, người đầy tớ của vị Đại Trí là nhà vua Kiki, đang
trị vì thần dân Kasi trong thành Baranasi vĩ đại.
29. Ta là người con gái đầu lòng, tên là Samani danh tiếng lẫy
lừng. Sau khi lắng nghe giáo pháp do vị Đại Chiến Thắng diễn
giải, ta có ước muốn mạnh mẽ xin được xuất gia.
30– 31. Vào thời đó cha mẹ ta không đồng ý cho phép ta xuất gia,
chính vì thế bảy chị em ta được sống trong tiện nghi giống như
các vị công chúa trong cung và chúng ta theo đuổi cuộc sống giới
163
đức không mệt mỏi trong suốt hai mươi ngàn năm trong cảnh
hoàng cung đó. Luôn hoan hỷ phục vụ Đức Phật.
32. Chúng ta là Samani, Samanagutta, Bhikkhuni,
Bhikkhudayika, Dhamma, Sudhamma và thứ bảy là
Sanghadayika.
33.[Hiện nay chúng ta mang tên là Uppalavanna, Patacara,
Kundala. Kisa-Gotami, Dhammadinna và thứ bảy là Visakha.
34. Một ngày kia mặt trời chúng sanh diễn giải giáo pháp tuyệt
vời, ta lắng nghe bài kinh về Nhân Quả ta đã học nằm lòng bài
kinh đó.
35. Nhờ kết quả những hạnh thiện đó, với quyết tâm và mục tiêu
rõ ràng. khi thọ mệnh diệt ta vào cõi Trời Đâu xuất.
36.Và giờ đây, trong cảnh hữu sanh cùng này, ta trở thành người
con gái rất hấp dẫn và dễ thương được nhà vua Madda đang trị vì
trong thành phố tráng lệ Sakala sủng ái.
37. Được sanh ra tại thành phố thật an bình; chính vì thế do các
phẩm chất thiện đó khởi sanh, ta có tên là Khema.
38. Khi ta còn là một thiếu nữ trẻ, trang điểm với sắc đẹp kiều
diễm, đoạn ta được phong làm hoàng hậu nhà vua Bimbisara.
39. Nhà vua sủng ái ta: say mê tính khôi hài và sắc đẹp. Ta không
gặp vị Đại Bi, nghĩ rằng: “Ngài kết tội sắc đẹp.”
40. Đoạn do sủng ái nhà vua Bimbisara dành cho ta, đặt cho ta tên
gọi Veluvana, ca sướng cùng ta rằng:
41. “Thiếp nghĩ ai chưa từng thưởng lãm Veluvana đầy sảng
khoái, là cư dân của đấng Tối Thượng, hẳn chưa nhận ra Nandana
42. “Hỡi Nandana, ngươi làm say đắm đức vua bất tử, mọi người
đều say mê chiêm ngưỡng Veluvana, nguồn sảng khoái muôn
dân.
43. Khi rời khỏi Nandana và giáng trần ta nhìn thấy Veluvana,
các chư thiên vô vùng kinh ngạc và không thấy hài lòng.
44. Do công đức vị vua khởi sanh, được trang điểm với công đức
của Đức Phật, ai là người có thể mô tả được toàn bộ công đức
trong khu rừng đó?”
45. Khi nghe nói khu rừng toàn hảo. Điều làm tai ta sảng khoái, ta
muốn được chiêm ngưỡng và tâu đức vua.
46. Đoạn đức vua miễn cưỡng cho ta thưởng lãm có đoàn tuỳ
tùng hộ tống đông đảo đi kèm.
164
47.“Hậu yêu dấu” [nhà vua lên tiếng nói] nào hãy đi thưởng lãm
liều thuốc tiên chữa mắt, luôn toả sáng vinh quang đấng Tối Cao,
được làm đẹp với muôn vàn tia sáng.”
48. Khi vị hiền triết bước vào thành Giribbagga tráng lệ khất
thực, cũng là lúc ta đi tới chiêm ngưỡng công viên đó.
49.– 51. Đoạn ta chu du tái sanh khắp khu rừng đang trổ nụ đơm
bông, đầy ong bướm bay quanh, tiếng hót chim cu và đàn công
nhảy múa. Thoát tiếng ồn ào cùng đoàn người đông đảo. Ta tới
những nơi trang hoàng lộng lẫy có chỗ bước lên bước xuống, với
hương thơm và lọng che rải rác khắp nơi. Và toả sáng các bậc
hiền nhân đệ nhất. Ta suy nghĩ mắt ta được tưởng thưởng, vị Tỳ
khưu xuất hiện đang miệt mài trạch pháp.
52. [Ta suy nghĩ,] Vị Sa-môn trẻ này trong cánh rừng tuyệt đẹp
đến như vậy sao lại có sắc đẹp và sức quyến rũ tựa mùa xuân.
53. “Ngồi thiền dưới gốc cây, đầu cạo trọc, khoác ngoài y cà sa
màu vàng, Tỳ khưu này quả đang hành thiền, loại bỏ mọi cảm
khoái giác quan.
54. “Giáo pháp thật tuyệt hảo gia chủ không tu luyện, họ chỉ biết
thưởng lãm cảm khoái tham dục theo ý muốn sau đó trở thành
ông lão?”
55. Nhận thấy hương phòng trống trải không người. Ta tới thăm
nơi cư trú dành cho vị Chiến Thắng và nhìn thấy Ngài toả sáng
tựa thái dương xuất hiện.
56. Ta nhận ra ngài ngồi thiền một mình có người phụ nữ tuyệt
vời hầu quạt, và ta nghĩ, “Đây chẳng phải con người thống lãnh
chúng sanh đầy khổ hạnh.”
57. Phụ nữ trẻ này tỏa sáng ánh quang rực rỡ. Với cặp mắt và
diện mạo tựa đóa sen hé nở, có làn môi đỏ hồng rực rỡ. Nàng
trông tựa jasmine, liều thuốc tiên cho mắt nhìn và tâm suy nghĩ.
58. Cặp tai nàng trông tựa quả lắc vàng đong đưa trước gió, bộ
ngực nàng tựa cặp bình, vòng eo nàng thon thả mông tuyệt mỹ
hấp dẫn, cặp chân trông tựa cây chuối lá được trang điểm với
muôn vàn đồ trang sức.
59. Áo khoác ngoài toàn một màu đỏ, hiện dưới áo lót trong màu
xanh êm dịu. Và thân hình ngắm nhìn không mỏi mắt, đi kèm
theo với bản chất đầy vui tươi.
60. Nhìn ngắm nàng lòng ta suy nghĩ, “chưa từng nhìn tận mắt
người phụ nữ tuyệt đẹp đến như vậy.
165
61. Thế rồi tuổi già xuất hiện, với gương mặt xanh xao bẩn thỉu
và biến dạng, với hàm răng rụng tóc bạc trắng, và giọng nói lắp
bắp rung rẩy.
62. Cặp tai nàng nhăn lại, mắt trắng nhợt, cặp ngực trông khó coi
và xệ xuống, tứ chi nàng nhão nhèo và nhăn nheo, toàn thân nàng
gân guốc nổi khắp nơi.
63. Lưng nàng còng xuống, phải dùng gậy chống bước đi. xương
sườn lộ rõ, nàng gầy gò, và run rẩy chân tay, nàng vấp ngã và lắp
bắp liên tục.
64. Thế rồi niềm xúc động mạnh mẽ nổi lên trong ta với lòng kinh
ngạc hiếm thấy. Thật khổ thay cho vẻ đẹp đầy ô uế kẻ ngu xuẩn
đang thưởng lãm say mê!
65. Rồi Vị Thiện Thệ với thần lực, nhìn thấy lòng ta đầy giao
động, với tâm hỷ ngài thốt lên những đoạn kệ sau:
66. “Hỡi Khema, hãy nhìn kỹ thân xác đó, bệnh hoạn, ô uế, thối
rữa, rỉ nước hôi thối thành dòng, chỉ tạo cảm khoái cho kẻ khờ mà
thôi.
67. Hãy tu tập tâm, hãy chú tâm và khéo luyện thiền định, do
chiêm ngưỡng những gì xảy ra. Hãy quán tưởng với thể xác, hãy
chú tâm đánh tan ảo mộng.
68. Vì điều này xảy đến, thì điều kia cũng vậy. Và điều kia thế
đó, thì điều này cũng y chang. Hãy thanh tịnh kỹ bản thân khỏi
ước muốn giác quan cả nội tại lẫn ngoại vi cũng vậy.
69. “Hãy tu học vô tướng, triệt khuynh hướng kiêu mạn tiềm ẩn.
Đoạn am hiểu kiêu mạn, ngươi sẽ được chu du tái sanh khắp nơi
tịch tịnh.
70. Bất luận ai theo đuổi tham dục tự biến mình xa vào ghềnh
thác, giống con nhện xa lưới chính mình. Một khi từ bỏ thói kiêu
mạn, thoát khỏi khao khát mãnh liệt ta sẽ loại được cảm khoái
tham dục.”
71. Thế rồi hiểu rõ tâm ta hoàn toàn sảng khoái, Người Đánh Xe
chúng sanh giảng giải cho ta bài Pháp Nhân Quả nhằm để ta tu
tập giới luật cho thông.
72. sau khi nghe bài kinh tuyệt vời đó, ta nhớ lại tướng tiền kiếp [
phụ nữ già cả kia] ta đứng đó run lên vì sung sướng và thanh tịnh
được Pháp Nhãn tinh thông.
73. Ta sụp lạy dưới chân ngài Đại Tri ta thú nhận lỗi phạm ngay
tức khắc. Ta đã thốt lên những lời sau đây:
166
74. “Tán dương ngài ôi vị thông suốt! Tán dương ngài, ôi vị Đại
Bi nhân hậu! Tán dương ngài đã vượt qua luân hồi sanh tử. Tán
dương ngài ban phát điều bất tử.!
75. “Ta ngụp lặn nơi rừng sâu tà kiến, lại bối rối trước cảm khoái
tham dục. Nhưng đặc biệt chính ngài đã thanh tịnh ta, ta hoan hỷ
nơi giới luật của ngài.
76. “Chúng sanh nào vô tham dục do không nhìn thấy bậc đại tri,
vì chẳng có dịp gặp được Đức Phật phải trải qua đau khổ nơi
vòng luân hồi liên tục.
77. “Khi chốn nương tựa thế gian cho kẻ thoát khỏi tham dục và
thắng vượt sự chết đã đến gần, ta chẳng nhận ra xin thú nhận lỗi
lầm đó.
78. “Vì nghi ngờ ta đã không nhận Bạn Hiền tri kỷ, người thi ân
vĩ đại cho chúng sanh, lại cho rằng, “Ngài chính là địch thủ.’ ta
lao vào sắc dục quá khứ. Lỗi lầm này con xin thú nhận.”
79. Đoạn với lời lẽ ngọt ngào tựa mật ngọt, vị Đại Bi đầy lòng
thương xót, vị Chiến Thắng rẩy trên tôi nước bất tử, nói với tôi,
“Hỡi Khema, hãy đứng dạy ”
80. Đoạn dưới chân ngài ta bái phục, ta đi một vòng vòng quanh
ngài, giữ bên phải, khi ta nhìn thấy nhà vua rồi lên tiếng:
81. “Ôi vị Chiến Thắng, phương cách thích hợp ta nghĩ tới. Ta
ước ao được thọ hưởng niềm an lạc, nhưng chỉ thấy Đại Trí
chứng tịch tịnh.
82. “Muôn tâu bệ hạ, nếu ngài chấp nhận thần nguyện xuất gia
thuyết giảng Pháp Độc Nhất đó. Thần sẽ từ bỏ sắc dục đúng như
lời ngài Đại Tri đã phán.”
83. Đoạn nhà vua kính trọng ta, hai tay nâng cao rồi chụm lại và
nói, “Trẫm đồng ý, hỡi phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần, chúc nàng
thành đạt xuất gia theo giáo pháp của Phật.”
84– 85. Ta xuất gia và nửa tháng trôi qua, ta nhìn thấy xuất hiện
ngọn đèn muôn màu đang chiếu sáng. Rồi tâm ta tràn ngập xao
xuyến, ta quyết tâm từ bỏ mọi hữu sanh liên tiếp. Ta phân định rõ
nhân duyên vượt qua bốn thác ghềnh bộc lưu và chứng thánh quả
A-la-hán.
86. Ta thu thúc sức mạnh thần thông, nhờ thánh trí ta biết rõ tâm
tha nhân.
167
87. Lại thấy rõ kiếp trước ta đã sống, với thiên nhãn đã thanh tịnh
kỹ càng, Mọi vết nhơ ta triệt phá hết, giờ đây ta chẳng phải tái
sanh bao giờ.
88. Quả thật ta thông hiểu ý nghĩa, pháp, và ngôn từ, biến kiến
thức thanh tịnh theo lời Phật dạy mỹ mãn khởi sanh trong ta.
89. Ta thành tựu những điều thanh tịnh, cũng thông thạo luôn cả
Kinh Phật Tự Thuyết lẫn phương pháp Vi Diệu cùng toàn bộ
Giáo Pháp của ngài.
90.Đoạn khi ta còn lưu trú trong thành Tora?avatthu, Nhà vua cai
trị thần dân Kosala đặt với ta câu hỏi thật tinh tế và ta đã trả lời
thật chính xác.
91. Đoạn nhà vua đến gặp Ngài Tối Thượng rồi cũng câu hỏi đó
nhà vua hỏi ngài: Vị Tối Thương cũng đáp lại như ta đã trả lời.
92.Đoạn vị Chiến Thắng, Đệ Nhất thần dân hoan hỷ với phẩm
chất ta chứng đắc, ngài cất nhắc ta vào vị trí cao nhất giữa chư vị
Tỳ khưu Ni nói rằng, “Tỳ khưu Ni này tuyệt hảo và khôn ngoan
vô lượng.”
93.Mọi lậu hoặc nơi ta đã bị tiêu rụi hết … [xin đọc tr. 10] ta đã
thực hiện như lời Phật dạy.
Thế rồi sau khi đã chứng thánh quả A-la-hán, trong lúc Trưởng
lão Ni còn lưu lại nơi thánh quả hạnh phúc và tịch tịnh trong lúc
chư vị Trưởng lão Ni khác cũng chứng nhiều phẩm hạnh thiện,
hết thảy họ đã triệt phá hết các lậu hoặc và thọ rất nhiều điều
thông thái. Nàng Khema trở nên nổi tiếng do trí thông minh lỗi
lạc do đã hoàn tất được nhiều nhiệm vụ sơ khởi. Như vậy, khi
Đức Thế Tôn đang ngồi thiền trong Thiền Viện tại khu rừng Kỳ
Viên giữa đám đông chư vị giới đức, ngài đã chọn nàng lên địa vị
đệ nhất giữa chư vị Tỳ khưu Ni, do trí thông thái nàng đã thọ đắc,
nói rằng, “Hỡi các vị Tỳ khưu Ni, Khema là con người trổi vượt
nhất nơi các đồ đệ Tỳ khưu Ni của ta.”
Đoạn một ngày kia khi ta còn ngồi thiền dưới gốc cây là nơi nghỉ
trưa của ta, lúc đó Ma Vương là Ác thần hiện lên với hình ảnh
một thanh niên rất tuấn tú cám dỗ ta với lòng tham dục như sau”
139. Nàng vừa trẻ lại xinh đẹp duyên dáng, ta cũng vậy vừa trẻ lại
còn đang độ tuổi thanh xuân, hỡi Khema nào chúng ta hãy hưởng
thú vui cung ngũ huyền cầm.
139. Ý nghĩa đoạn kệ này như sau: “Ôi hỡi Khema, nàng trẻ đẹp
lại đang độ tuổi thanh xuân, với sắc đẹp kiều diễm thế kia, ta
168
cũng còn trẻ, trong độ tuổi trai tráng; chính vì thế chúng ta đừng
lãng phí tuổi thanh xuân khi khúc nhạc ngũ huyền cầm trổi lên.
Nào, hãy thưởng ngoạn và tiêu khiển rồi thụ hưởng thú vui sắc
dục nào.
Khi nghe những lời này, nàng hiện rõ chính nàng đã từ bỏ moiï
tham dục cùng toàn bộ hành uẩn và nàng đã đánh bại chàng Ma
Vương đội lốt con người và liên quan đến giới hạnh của nàng
giữa chúng sanh, nàng đã quyết tâm thực hiện điều thiện. Nàng
nói rõ thực chất nàng đang thực hiện những gì phải làm. Và thốt
lên những đoạn kệ sau đây:
140. Ta phải khổ sở và mắc cở với thân xác ngu si, bệnh hoạn và
thối rữa này. Tham ái ta đã nhổ tiệt tận gốc.
141. Tham dục ví như gươm giáo và cây cọc đoạn đầu đài, các
uẩn nay đã bị chặt phá hết “Cái ngươi gọi là dục lạc” nay với ta
chỉ là “vô dục lạc”.
142. Bất kỳ ai hưởng thụ tham dục chỉ dẫn đến thất bại. Hãy phá
tan đám mây mù “vô minh”. Hãy biết rõ điều này hỡi Ác Ma, nhà
ngươi sẽ bị thất bại đúng như vậy.
143. Ngươi đảnh lễ thiên cung mặt trăng, lại kệ thần lửa giữa
rừng sâu thẳm. Ngươi chẳng biết thực hư làm sao cả, kẻ ngu ngốc
ngươi coi là thanh tịnh.
144. Nhưng ta đảnh lễ vị Toàn Giác, là thượng nhân nơi cõi
chúng sanh, làm thế ta được giải thoát khỏi mọi đau khổ, ta chỉ
thực hiện lời Phật dạy.
143. Ở đây, chăm sóc (paricaram.) ngọn lửa trong cánh rừng
(vane) có nghĩa là: đảnh lễ (paricaranto) bằng một của lễ dâng
cúng thần lửa (aggi-hutta?) trong cánh rừng của vị ẩn sĩ khổ hạnh.
Không biết được (ajananta) của lễ đó thực sự là gì có nghĩa là:
không biết rõ những biến cố đang diễn ra (aparijananta) thực sự
mang ý nghĩa là gì. phần còn lại nơi các đoạn kệ ở đây đã quá rõ
ràng như ta đã đề cập đến ở trên.
Đến đây kết phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni Khema.
4. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI SUJATA
Các đoạn kệ bắt đầu với “Được trang điểm và mặc xiêm y lộng
lẫy” là của Trưởng lão Ni Sujata. Nàng đã thực hiện nhiều phước
nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và đã tích lũy nhiều hạnh
thiện kiếp trước làm căn giải thoát. Đến đúng thời gian, nàng đã
169
tích lũy được những pháp thiện cần thiết để được giải thoát nhờ
thọ kiến tri chín muồi.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong gia đình một
thương gia giàu có trong thành Saketa. Khi đến tuổi trưởng thành,
cha mẹ nàng gả nàng cho con trai một thương gia giàu có rất môn
đăng hộ đối. Nàng chuyển đến sống trong gia đình nhà chồng và
sống rất hạnh phúc với chồng tại đó.
Một ngày kia, nàng đi tới công viên hoàng gia và tiêu khiển tại
một lễ hội Các Vì Sao, rồi kéo vào thành phố vây quanh với đoàn
tùy tùng đông đảo. Nàng nhìn thấy vị Đạo Sư trong cánh rừng
Ađjana, cảm thấy lòng mình bị thu hút về phía ngài nàng đã tiến
đến gặp ngài, kính lễ và ngồi sang một bên. Vị Đạo sư liền diễn
giải cho nàng một bài kinh, đoạn biết rõ tâm nàng đã đạt kiến
thức chín muồi, Ngài lại giải thích cho nàng nghe một bài kinh về
Giáo Pháp của Ngài, vào cuối bài kinh, nàng chứng thánh quả A-
la-hán cùng với Tứ vô ngại giải. Ngay lúc nàng còn ngồi nghe
pháp tại đó.
Nàng đảnh lễ Đức Phật và rồi trở về nhà. Nàng được phép cha mẹ
và chồng cho xuất gia. Đức Phật cho nàng tới một thiền viện của
chư vị Tỳ khưu Ni và xuất gia trước sự chứng kiến của chư vị Tỳ
khưu Ni đó. Sau khi đã xuất gia và nhìn lại những thành tích của
mình, nàng đã thốt lên những đoạn kệ sau đây:
145-146. Được trang điểm cẩn thận và mặc xiêm y rực rỡ, đeo
vòng hoa xức bột thơm chiên đàn, toàn thân phủ đồ trang sức quí
giá, lại có đoàn tuỳ tùng đông đảo theo hầu, nàng ra khỏi nhà,
mang theo vật thực mềm cứng đủ loại với số lượng không nhỏ, ta
truyền mang đến khu vườn thưởng ngoạn.
147. Ta vui chơi và thưởng ngoạn thỏa thích tại đó; rồi ta quay trở
về nhà, ta nhìn thấy một thiền viện khi ta qua khu rừng Ađjana
trong thành Saketa.
148. Khi nhìn thấy vị ẩn sĩ ta đảnh lễ ngài và ngồi sang một bên,
vì thương ta bậc Pháp Nhãn bắt đầu diễn giải Phật Pháp cho ta
hiểu.
149. Nghe xong bài kinh của vị Đại Trí, ta thấu triệt toàn bộ Chân
Đế. Tại đây ta chứng Pháp vô tỳ vết. Rồi chứng ly tầm tạo bất tử.
150. Thế rồi sau khi hiểu rõ chân đế, ta xuất gia sống đời vô gia
cư. Ta thọ đắc tam minh chứng thực lời Phật dạy quả không uổng
công.
170
145. Ở đây, được trang điểm cẩn thận có nghĩa là: trang điểm làm
đẹp. Nhưng để cho thấy cách thức trang điểm như thế nào, người
ta cho biết nàng đã mặc xiêm y rực rỡ, đeo vòng hoa xức bột
thơm chiên đàn, toàn thân phủ đầy đồ trang sức quí giá. Ở đây,
đeo vòng hoa (malini): có nghĩa là: đeo vòng hoa ở cổ (mala-
dharini). Thoa bột thơm chiên đàng (candano-kkhita) có nghĩa là:
xức bột thơm chiên đàn hương (candananulitta). toàn thân phủ
đầy đồ trang sức có nghĩa là: toàn thân đeo đủ loại đồ trang điểm
và trang sức như những thứ đeo ở cánh tay. v.v…
146. Lấy đồ ăn và thức uống, cả thứ đồ ăn cứng (khajjam) và loại
đồ ăn mềm (bhijjam) với một số lượng không nhỏ có nghĩa là: lấy
một số lượng lớn đồ ăn như cơm và canh v.v… Thứ đồ uống như
thể nước cốt xoài v.v…(ambapanadi-panam), thức ăn cứng như
thể bột nhồi, v.v… và thức ăn mềm, cũng đồng nghĩa với những
loại đồ ăn khác. Tôi đã sai đem [thứ đồ ăn đó] tới khu vườn
thưởng ngoạn có nghĩa là: ta mang [đồ ăn đó] tới khu vườn
thưởng ngoạn vì lễ hội các vì Sao đang được tổ chức tại đó. Sau
khi đã mang đủ thứ đồ ăn tới đó, ta tiêu khiển, thưởng thức và
chơi đùa với đoàn tùy tùng của ta. Đó chính là ý nghĩa.
147. Cánh Rừng Ađjana trong thành Saketa (Sakete), có nghĩa là:
ta nhập thiền ni viện trong cánh rừng Ađjana (Ađjana-vane) gần
thành phố Saketa (Saketa-samipe).
148. Ánh sáng cõi thế gian có nghĩa là: Giống như ánh sáng thế
gian nhờ ngài là ánh sáng kiến thức.
149. Ta chứng đắc có nghĩa là: ta thọ đắc, ta chứng đắc. Đó là ý
nghĩa ở đây. Ý nghĩa những phần còn lại đã được giải thích ở
trên.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni Sujata.
5. CHÚ GIẢI CÁC ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI ANOPAMA.
Các đoạn kệ bắt đầu vơi [Ta sanh ra trong một gia đình quyền
quí” là của Trưởng lão Ni Anopama. Nàng cũng đã thực hiện
được những phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và đã
tích lũy những hạnh thiện nơi tiền kiếp khác nhau làm căn giải
thoát. Nàng đã tu luyện những phẩm chất dẫn đến giải thoát và
dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong một thành phố có
tên gọi là Saketa làm con gái của một thương gia giàu có tên là
171
Majjha. Do nàng có sắc đẹp hoàn hảo nàng được đặt tên là
Anopama (“không gì sánh bằng”).
Khi đến tuổi trưởng thành, có nhiều chàng trai các thương nhân,
con trai các quan tể tướng của nhà vua và kể cả các hoàng tử đều
gởi sứ giả đến cha nàng, nói rằng, “Xin hãy gả con gái Anopama
cho ta, và chúng ta sẽ đáp lại ngài thứ này thứ kia.” Khi nàng
nghe thấy những lời lẽ như vậy, vì đã thọ Phật nghiệp cần thiết
[để chứng giải thoát] nàng suy nghĩ, “Cuộc sống gia đình không
thích hợp với ta.” Nàng đến gặp vị Đạo Sư lắng nghe giáo pháp
và kể từ đó nàng thọ đắc kiến thức chín muồi. Nàng tu luyện thiền
quán do kết quả bài kinh đó. Do hăng hái tu luyện thiền quán,
nàng đã hiện chứng chánh đạo tầng nhất và an trú thánh quả bậc
ba.
Nàng xin phép Đạo Sư để được xuất gia và theo lệnh của Đức
Phật nàng đến một thiền viện dành cho chư vị Tỳ khưu Ni và xuất
gia trước sự chứng kiến của chư vị Tỳ khưu Ni đó. Đến ngày thứ
bảy, nàng đắc chứng thánh quả A-la-hán rồi chiêm ngưỡng những
thành tích của mình, nàng thốt lên những đoạn kệ sau đây như là
lời tuyên bố long trọng:
151. Ta sanh ra trong một gia đình quyền quí, có nhiều tiền của
và tài sản, ta lại có sắc đẹp kiều diễm và gương mặt hấp dẫn, là
con gái cưng của Majjha.
152. Được con vua cầu hôn, con trai các thương gia giàu có trông
đợi. [Có người] sai sứ giả đến cha ta bảo rằng, “Xin gả con gái
Anopama cho ta đi”.
153. Con gái Anopama của nhà ngươi cân nặng bao nhiêu ta sẽ
trả cho ngươi gấp tám lần toàn vàng bạc châu báu.”
154. Ta nhìn thấy Đấng Giác Ngộ, Bậc Thế Tôn vô lượng, ta
đảnh lễ sụp lạy dưới chân ngài và rồi ta ngồi sang một bên.
155. Thương xót ta, Đức Cồ Đàm dạy ta giáo pháp của Ngài.
Ngồi ngay trên ghế ta chứng đắc thánh quả A-la-hán
156. Thế rồi ta xuống tóc và xuất gia sống đời vô gia cư. Hôm
nay là đêm thứ bảy, khát ái của ta được gột sạch.
151. Ở đây, trong một gia đình quyền quí. (kule) có nghĩa là:
trong một gia đình thương gia rất giàu sang quyền quí (vessa-
kule). Có rất nhiều tài sản có nghĩa là: có đầy đủ điều kiện tạo ra
được nhiều của cải, như đồ trang sức v.v…rất nhiều của cải
(maha-ddhane) có nghĩa là: sau khi đã tích lũy được nhiều của
172
cải. Rất giàu có do có tài sản rất lớn. (mahato dhanassa), đếm
được tới bốn mươi kotis. Và ta được sanh ra chính là mối tương
quan đó. Ta lại có (sampanna) nước da rất đẹp và ta cũng có sắc
diện rất kiều diễm (rupa-sampanna). Có nước da toàn hảo, bóng
mượt và láng bóng các chi thật duyên dáng, các đồ trang sức và
xiêm y rực rỡ. Đó chính là ý nghĩa. [Còn là] con gái đích thực cả
Majjha (dhita atraja) có nghĩa là: ta đích thực là con gái (orasa
dhita) của một thương gia tên là Majjha (Majjha-namassa).
152. Các hoàng tử (raja-puttehi) của nhà vua đến cầu hôn
(patthita) có nghĩa là: các chàng con trai nhà vua (raja-kumarehi)
gởi lời cầu hôn (abhipatthita) ta. Với những lời lẽ, “Giờ đây xin
cho biết nàng đáng giá bao nhiêu?” Các chàng trai con các thương
gia trông chờ mong đợi (gijjhita) ta có nghĩa là: cũng giống như
thế các chàng trai con các thương gia mong đợi ước ao thèm khát
cưới ta làm vợ. (abhigijjhita). “xin hãy gả Anopama cho ta” có
nghĩa là: các vị hoàng tử của nhà vua…sai sứ giả đến với cha
nàng nói rằng, “Hãy gả Anopama cho ta, hãy cho ta cưới nàng đi
nào.”
153. “Bất kể nàng cân nặng bao nhiêu” có nghĩa là: bất kể con gái
Anopama của ngài đáng giá bao nhiêu” điều nàng được cân nặng
là do những người biết đọc tướng số. “Ta sẽ trả cho ngươi tám lần
như thế” có nghĩa là: có người gửi đến cha ta một sứ giả [từ
v.152], đó là một tương quan. Ý nghĩa những gì còn lại cũng đã
được giải thích.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Anopama.
6. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI MAHA-PAJAPATI
GOTAMI.
Các đoạn kệ bắt đầu với “Bậc Giác Ngộ Anh Hùng con xin đảnh
lễ ngài” là của Trưởng lão Ni Maha-Pajapati Gotami. Người ta kể
lại rằng vào thời Đức Phật Padumuttara nàng được sanh ra trong
một gia đình tốt trong thành Hatsavati. Sau khi đến tuổi trưởng
thành, nàng đến nghe Giáo Pháp trước sự hiện diện của vị Đạo
Sư. Nhìn thấy Đức Phật chọn một Tỳ khưu Ni kia vào vị trí số
một nơi một số người đang đứng hàng dài tại đó, nàng thực hiện
một phước nghiệp ước mong cũng đạt đến vị trí đó. Và suốt cả
đời nàng đã thực hiện hạnh thiện như bố thí v.v…
173
Nàng chu du tái sanh khắp nơi suốt một ngàn đại kiếp giữa chúng
sanh và chư thiên, và nàng sanh ra trong thành Baranasi làm con
gái đầu lòng trong số năm trăm nữ nô tỳ, trong thời gian mà giáo
lý Đức Phật vào khoảng giữa Đức Phật Kassapa và Đức Phật Cồ
Đàm của chúng ta. Đoạn nàng nhìn thấy năm Phật Độc Giác
(Pacceka) vào thời bắt đầu mùa An Cư Kiết Hạ từ Nandamulaka
tới Isipatana để khất thực. Thế rồi khi tới Isipatana tìm việc làm
để xây dựng lều dùng vào mùa An Cư Kiết Hạ [39] Nàng đã động
viên ông chồng các nô tỳ đó cũng như chính họ để xây dựng năm
chiếc chòi vây quanh các lối đi.v.v…trang bị tọa sàng, ghế ngồi,
nước uống, nước rửa mặt, và bát khất thực.v.v…trong đó. Nếu
một người phụ nữ nào đến lượt mình không thể bố thí, hãy cho
nàng biết để đến tận nhà lấy của thí từ đó.
Chính vì thế họ đã chăm sóc cho chư vị Phật Độc Giác (Pacceka)
trong suốt ba tháng. Khi đến thời điểm diễn ra nghi lễ
Pavarana[40] nàng đã lệnh cho mỗi một nữ nô tỳ từng người một
đến dâng một chiếc y cà sa. Đã có tới năm trăm chiếc y cà sa
được cúng dường như thế. Nàng bảo họ thay đổi và dâng những
bộ gồm ba chiếc áo cho năm vị Phật Độc Giác (Pacceka). Thế rồi
chư vị Phật Độc Giác (Pacceka) đi trên không bay đến ngọn núi
Gandhamadana trước sự chứng kiến của họ. Toàn bộ những
người này đều thực hiện hạnh thiện khi họ còn sống và được tái
sanh nơi thiên giới.
Vị lớn nhất trong số họ, khi khởi xuất khỏi cõi đó, được sanh ra
trong gia đình một kệ cả làm nghề dệt vải trong ngôi làng làm
nghề dệt gần thành Baranasi. Khi đến tuổi khôn lớn, nàng đã nhìn
39[?]
theo Mp I 338 –40 (WL 523-25) chư vị Phật Độc Giác (Pacceka) đứng bên ngoài một
ngôi nhà của một thương gia, nhưng khi người thương gia đó nghe biết lý do tại sao họ
tới, liền nói, “Chúng ta không có kệ gian hãy để cho họ ra đi.” trưởng lão Maha-pajapati
nhìn thấy họ khi họ đang rời khỏi thành phố và lúc đó nàng đang đi vào thành phố để
kiếm nước. Nàng liền hỏi lý do tại sao họ tới đây và được biết là họ đã không thành công
khi họ xin được xây dựng những căn lều để họ qua mùa an cư kiết hạ. Nàng hỏi xem
không hiểu nhưng chiếc chòi đó chỉ do các ông chủ nhà xây và cúng dường hay các nô tỳ
có thể xây và dâng cúng được không. Họ cho nàng hay là bất cứ ai cũng có thể dâng
cúng chòi đó. nàng đã mời họ dùng bữa vào ngày hôm sau. thế rồi nàng tụ tập toàn bộ
các nữ nô tỳ lại và bảo xem nếu người nào muốn được tự do khỏi cảnh tôi đòi họ phải
kiếm cho mình một tấm chồng, để dâng một ngày công cho chư vị Phật Độc Giác
(Pacceka).
40[?]
Một nghi lễ diễn ra vào cuối mùa An Cư Kiết Hạ khi những người thiện nam tín nữ
dâng y cho chư vị Tỳ khưu. Đó cũng chính là kệøi gian dành cho chư vị Tỳ khưu để xin lỗi
về bất kỳ lỗi phạm nào họ đã phạm phải. (xin đọc BD IV 211tt trong đó nghi lễ Pavarana
được dịch là “lễ mời” nhưng điều này không nhất thiết diễn ra với chư vị Phật Độc Giác
(Pacceka).
174
thấy năm trăm chư vị Phật Độc Giác (Pacceka) là con trai của
Padumavati. Đối sử với họ thật nhã nhặn, nàng đảnh lễ toàn bộ
chư vậy và dâng cúng vật thực để họ sử dụng. Sau khi đã dùng
bữa, họ đi tới Gandhamadana. Thế rồi trong suốt cuộc đời nàng
đã làm việc thiện.
Nàng chu du tái sanh khắp cõi chúng sanh và cõi chư thiên, và chỉ
sau đó một thời gian ngắn trước khi Đức Phật của chúng ta tái
sanh, nàng sanh ra trong gia đình Maha-Suppabuddha trong thành
Devadaha nàng sanh ra trong thân tộc Cồ Đàm, và đó chính là tên
được đặt cho nàng. Nàng là em gái của Maha-Maya. Các vị đoán
tướng dự đoán rằng“Những người con của hai chị em sanh ra sẽ
trở thành Chuyển Luân Vương.”
Khi đến tuổi trưởng thành, đại vương Suddhodana đã cưới cả hai
chị em làm vợ và đem họ về sinh sống trong hoàng cung. Sau đó,
khi Đạo Sư của chúng ta đản sanh, sau khi khởi động chuyển
pháp luân, dần dà Ngài đã giúp những kẻ đó phục tùng lời Phật
dạy. Thế rồi trong lúc ngài sống gần thành Vesali trong sảnh
đường Kutagara, Đại Vương Suddhodana băng hà và vô dư níp
bàn, sau khi đã đắc chứng A-la-hán đang lúc ngài trị vì dưới chiếc
lọng màu trắng.
Thế rồi Maha-Pajapati Gotami muốn xuất gia, đã khẩn khoản nài
xin vị Đạo Sư trong một dịp nọ để xuất gia, nhưng không được
chấp nhận. Thế rồi đến cơ hội thứ hai, nàng đã cắt tóc và khoác y
cà sa màu vàng và ra đi sau bài giảng kinh tinh cần nỗ lực. Sau
khi năm trăm hoàng tử Thích Ca đã xuất gia, nàng đã đến thành
Vesali cùng với những người vợ của các hoàng tử đó. Nàng đã
cầu khẩn trưởng lão Ananda năn nỉ Đức Phật và nàng đã được
chấp nhận xuất gia rồi nhận cụ túc giới đầy đủ thông qua thọ luật
bát kính pháp. Tuy nhiên tất cả những người khác, cũng được
xuất gia một phía từ Tăng đoàn chư vị Tỳ khưu mà thôi. Đây là
bản tóm tắt, những chi tiết của chuyện kể này đã được truyền lại
cho chúng ta trong Kinh Tạng.
Sau khi đã được xuất gia theo cách này, Maha-Pajapati Gotami đã
tiến đến gặp vị Đạo Sư, tỏ lòng tôn kính ngài và đứng sang một
bên. Vị Đạo Sư đã kinh cho bà. Bà đã nhận đề mục thiền do chính
Đạo Sư ban cho và đã chuyên cần tinh tấn tu luyện, đoạn chỉ
trong một thời gian ngắn nàng chứng thánh quả A-la-hán cùng
với trí tuệ trực giác và Tứ vô ngại giải. Nhưng năm trăm Tỳ khưu
175
Ni khác cũng đã chứng sáu trí tuệ trực giác vào cuối bài kinh
Nandakovata giáo giới.
Thế rồi một hôm, Đạo Sư đang ngồi thiền giữa một nhóm thánh
chúng tại đại thiền viện trong cánh rừng Kỳ Viên, ngài xác lập
chư vị Tỳ khưu Ni theo từng vị trí đặc biệt, ngài đã xác lập Maha-
Pajapati Gotami là người có kinh nghiệm đệ nhất giữa chư vị Tỳ
khưu Ni. Nàng sống hưởng hạnh phúc thánh quả và thọ hưởng
hạnh phúc giải thoát niết bàn. Để làm rõ sự trợ giúp của ngài,
trước tiên nàng đã tán thán những phẩm hạnh thiện của Đạo Sư,
thế rồi để nói rõ hiểu biết toàn diện của bà và bà thốt lên những
đoạn kệ sau:
157. Đức Phật, ôi vị anh hùng giác ngộ, con đảnh lễ ngài, là bậc
tối thượng, người đã giải thoát con và biết bao chúng sanh khỏi
đau khổ.
158.Biết rõ đau khổ, khát ái làm nguyên nhân đã được gột sạch.
Con đã tu tập Bát Chánh Đạo và chứng đoạn diệt.
159. Trước kia ta đã làm mẹ, làm con trai, làm cha, làm anh và
làm bà nội. Đời sống trước là vậy, do không hiểu rõ tìm kiếm
luân hồi mà không gặp.
160. Nay đã gặp Đức Thế Tôn, thân này là thân tối hậu. Sanh tử
nay đoạn diệt hiện chẳng còn tái sanh.
161. Ta đã gặp toàn bộ chư đồ đệ thánh, siêng năng tinh cần tu
luyện, chính ta đảnh lễ chư vị Phật.
162. Quả thật Hoàng hậu Maya sanh Cồ Đàm nhằm đem hạnh
phúc đến muôn dân. Ngài đã giải toả hết trăm ngàn đau khổ cho
những ai bệnh tật và phải chết.
157. Ở đây, Phật, vị đại anh hùng (vira) có nghĩa là: người anh
hùng trong số những người đã giác ngộ trước tứ diệu đế (catu-
sacca-buddhesu), Đức Phật toàn tri và toàn bộ chư vị Phật được
gọi là anh hùng vì họ đã giác ngộ tứ diệu đế thông qua tinh tấn
tuyệt đối hoặc là vì các ngài đã chiến thắng và chiến thắng qua
chánh tinh tấn và tứ chánh khổ luyện. Nhưng thông qua chánh
tinh tấn nhờ quyết tâm thực hiện bốn pháp chánh tinh tấn, thông
qua tứ chánh khổ luyện cao siêu, thông qua an trú liên tục tính nơi
những kẻ sẵn sàng chấp nhận lời giảng dạy và đặc biệt là chánh
tinh tấn liên kết với nhiều người khác, Đức Thế Tôn xứng được
gọi là vị Anh Hùng. Tôn kính đảnh lễ (namo) ngài (ty atthu) có
nghĩa là: Ước mong ngài được (hotu) tôn kính, kính lễ ngài. Tối
176
thượng giữa mọi loài chúng sanh (sabba-sattanam uttama) có
nghĩa là: tối thượng nơi chúng sanh được phân loại thành loài
không chân, v.v… nhờ có những phẩm chất thiện như phẩm hạnh
giới đức, v.v…; ngài là Đức Thế Tôn. Để chứng tỏ cho thấy phần
phẩm chất thiện nơi bản chất của vị Đạo Sư, nàng nói rằng: ngài
đã giải thoát ta và nhiều người khác khỏi đau khổ. Và làm rõ bản
chất giải thoát khỏi đau khổ, nàng thốt lên đoạn kệ bắt đầu với
“mọi đau khổ”.
159. Hơn thế nữa, để chứng tỏ một phần đau khổ nơi vòng luân
hồi nàng đã được giải thoát khỏi, nàng thốt lên đoạn kệ: [Trước
kia] ta đã làm mẹ… Ở đây, do không có hiểu biết đích xác.(yatha-
bhuccam ajananti, [nghĩa đen: “không biết thực chất là gì”]) có
nghĩa là: không nhận thức rõ thực chất là (yatha-bhutam) nguyên
nhân vòng luân hồi đó như thế nào.v.v… ta (‘ham) đã chu du tái
sanh nơi vòng luân hồi đó (samsari) và không biết được có nghĩa
là: bằng cách giải thích: “ta (aha?) đã chu du tái sanh nơi
(samsarim) vòng luân hồi, phải khởi sanh nơi nhiều kiếp khác
nhau. Không tìm thấy, không chiếm được, một sự hỗ trợ nơi đại
dương luân hồi kiếp” nàng cho biết, “[ta đã] là mẹ, là con, v.v…”
nơi một kiếp nàng được làm mẹ, kiếp khác lại làm con. Thế rồi lại
trong kiếp khác nàng phải làm cha và là anh em. Đây chính là ý
nghĩa.
160. Trong đoạn kệ [bắt đầu với Nay ta đã thấy, nàng làm rõ
chính trạng thái nàng được giải thoát khỏi đau khổ. Ở đây, quả
thật ta đã thấy Đức Thiện Thệ đó có nghĩa là: chính bản thân ta
đã nhìn thấy Đức Thế Tôn, vị giác ngộ hoàn toàn, bằng nhãn
thức. Thông qua việc chính ta đã nhìn thấy những cõi trần tục và
siêu thế. Vì bất kỳ ai nhận được giáo pháp. Chắc chắn kẻ đó nhận
ra được Đức Thế Tôn. Như người ta nói rằng: “Người nào nhận ra
giáo pháp, Vakkali. Người đó cũng nhận ra ta.”v.v…
161. Siêng năng, tinh cần nỗ lực (araddha-viriye) có nghĩa là: áp
dụng tinh tấn. (paggahita-viriye). Sống quyết tâm (pahit’atte) có
nghĩa là: chủ tâm (pesita-citte) vào tịch tịnh. Luôn kiên trì tinh tấn
(da?ha-parakkame) có nghĩa là: luôn luôn cố gắng bền bỉ (thira-
para-kkhame) để tiếp tục tu luyện những gì đã đạt được và để đạt
đến những gì chưa được. Toàn bộ có nghĩa là: tất cả thông qua tụ
tậïp lại do có được phẩm hạnh thiện và chánh kiến nơi công việc
tu luyện khổ hạnh. Thông qua tái sanh sau khi đã lắng nghe
177
(savanante) vị Đạo Sư kinh, nàng đã nhận ra các đồ đệ (savake)
đích thực như vậy ta được an trú thánh đạo và thánh quả. Đây
chính là việc đảnh lễ chư vị Phật có nghĩa là: đây chính là việc
đảnh lễ vị chánh đẳng chánh giác và đảnh lễ cả các vị đồ đệ
chánh đẳng chánh giác (savaka-buddhanađ) đã đích thực tích luỹ
nhiều phẩm hạnh thiện, bất kỳ thành tích cá nhân nào nơi giáo lý
siêu thế, sau khi đã hiện chứng bản chất thánh thiện của những đồ
đệ giới đức là người đã nhập tâm giáo pháp của vị Đạo Sư.
162. Quả thật… vì hạnh phúc nhiều người có nghĩa là: trong câu
kệ cuối cùng, nàng làm rõ sự trợ giúp vị Đạo Sư làm cho nhiều
người (bahupakaratam) trên cõi đời này. Và bất kỳ điều gì không
được giải thích ở đây, đều dễ dàng hiểu được.
Thế rồi một ngày kia khi Đức Phật còn lưu lại trong thành Vesali
trong cánh rừng Vĩ Đại nơi sảnh đường Kutagara và chính Maha-
Pajapati Gotami cũng đang lưu lại trong thiền viện ni, nàng khất
thực vào buổi sáng trong thành Vesali. Nàng dùng bữa và trải qua
thời gian nghỉ ngơi thích hợp hưởng hạnh phúc chứng thánh quả.
Khi nàng khởi xuất khỏi trạng thái đó nhìn lại thành tích của
mình, đoạn tràn đầy hạnh phúc nàng nghĩ về chính các đại sanh
mệnh của mình và nhận ra chúng đã cạn kiệt.
Nàng suy nghĩ, “điều gì sẽ xảy ra nếu như ta đạt vô dư níp bàn
sau khi đã tới thiền viện để xin phép Đức Phật và rời khỏi chư vị
Trưởng lão là những người đã cùng theo ta sống cuộc sống giới
đức rồi lại quay trở lại đây? Và chính ngay lúc Trưởng lão Ni có
nhũng suy nghĩ như vậy thì toàn bộ năm trăm chư vị Tỳ khưu Ni
họp thành đoàn tuỳ tùng, như đã ghi lại trong Thí Dụ Kinh như
sau:
1. Một lần kia, Ánh Sáng thế gian này, người Đánh Xe chở
chúng sanh, đang lưu lại trong đại sảnh đường Kutagara ngay
trong khu rừng lớn trong thành Vesali.
2. Vào thời điểm đó, Tỳ khưu Ni Maha-gotami, người dì của vị
Chiến Thắng, cũng đang cư trú trong thành hạnh phúc đó trong
nhà được xây dâng cho chư vị Tỳ khưu Ni tại đó.
3. Cùng với năm trăm Tỳ khưu Ni, đã được giải thoát, sống
cảnh cô độc, nàng đã suy nghĩ như sau:
4. “Ta chẳng được diễm phúc chứng kiến vô dư níp bàn của
Đức Phật hay của hai đồ đệ chính của ngài là [Sariputta và Maha-
Moggallana] hay của Rahula, Ananda hoặc Nanda đâu.
178
5. Trước lúc Đức Phật nhập vô dư níp bàn, hai đồ đệ chính của
ngài là Maha-Kassapa và Nanda, Ananda, Rahula.
6. “Trước lúc loại bỏ thân xác nhân loại và an tịnh cuối cùng,
cầu xin ta có thể chạy đến với vị Đạo Sư, vị Đại Trí để được phép
xuất gia.”
7. Năm trăm Tỳ khưu Ni, có Khema dẫn đầu, cũng suy nghĩ
giống như vậy.
8. Vào ngay thời điểm đó, có trận động đất nổi lên và âm thanh
tiếng trốâng chư thiên vang dội khắp nơi. Chư vị chư thiên nơi
cõi nhân loại đang phải trải qua sầu khổ to lớn.
9. Đang than vãn thảm thiết, nước mắt đổ ra khắp nơi, họ chạy
lại với Gotami cùng với bạn bè của nàng đang là chư vị Tỳ khưu
Ni.
10.Chư vị Tỳ khưu Ni phủ phục dưới chân ngài và thốt lên những
lời sau đây: “Ôi nữ phạm hạnh, xin rẩy trên chúng tôi những giọt
nước cứu rỗi, chỉ mình nàng mới có năng lực như vậy.
11.“Trái đất cùng núi đồi rung chuyển, khắp nơi đều nghe thấy
vang dội tiếng trống chư thiên. Điều đó nghĩa lý là gì hỡi Gotami?
12. Đoạn nàng giải thích mọi sự như thực tế nàng nghĩ xảy ra và
họ cũng giải thích mọi sự theo như họ suy nghĩ.
13. “Ôi phụ nữ giới đức nếu như chứng đắc vô dư níp bàn khiến
nàng hài lòng.”[chư vị Tỳ khưu Ni lên tiếng] “Được phép của
Đức Phật với nhiệt tâm toàn bộ chúng ta sẽ được tịch tịnh.
14.“Chúng ta khởi xuất từ gia đình và cùng tái sanh. Chính vì thế
cùng là bạn bè chúng ta cũng sẽ tịch diệt và tới nơi cư trú tuyệt
diệu.
15. Nàng nói rằng, “Ta sẽ nói gì trước khi chứng vô dư níp bàn
đây?” Đoạn tất cả người đó rời khỏi nơi trú xứ của vị Tỳ khưu Ni.
16.“Cầu xin sao cho chư vị chư thiên đến cư trú thiền viện Tỳ
khưu Ni này thứ lỗi cho ta. Đây là lần cuối cùng ta nhìn xem nơi
cư trú của chư vị Tỳ khưu Ni này.
17.“Điều gì sẽ xảy ra nếu ta tới được chốn vô vi là nơi chẳng có
tuổi già, không có tử, không liên kết gì với điều ác cũng như ly
biệt với người ta thương yêu?”
18.Nghe thấy những lời nàng thốt lên, những kẻ chưa thoát khỏi
đam mê ái dục, những kẻ là thừa kế Đức Thiện Thệ đều buồn
phiền vì sầu khổ và than vãn rằng, “Hỡi ơi, công đức ta thu thập
được còn quá ít ỏi!”
179
19.“Trú xứ của chư vị Tỳ khưu trở nên trống trải vì chẳng còn ai
trong đó, những hậu dụê thừa kế của vị chiến thắng giống như
ánh sao lặn vào buổi bình minh ta không còn thấy được nữa.
20.“Gotami đang tiến tới níp bàn cùng với năm trăm chư vị Tỳ
khưu Ni giống như Sông Hằng đổ vào đại dương thông qua năm
trăm nhánh sông vậy.”
21. Nhìn thấy họ đang rảo bước trên đường, những người tín nữ
chạy ra khỏi nhà, sụp lạy dưới chân họ và nói rằng:
22.“Ôi chư vị giàu sang phú quí, xin hãy ở lại với chúng ta, xin
đừng từ bỏ chúng tôi không có người bảo vệ xin đừng có ý định
tịch diệt nữa” họ than van sầu khổ như vậy.
23.[Gotami] thốt lên những lời lẽ ngọt ngào để loại trừ sầu khổ
cho họ mà rằng: “Hỡi các con thân yêu, than vãn như vậy là đủ
rồi. Hôm nay là dịp vui mừng cho các con.
24.“Ta đã hiểu rõ nổi sầu khổ, loại trừ nguyên nhân sầu khổ đó, ta
đã hiện chứng tịch diệt sầu khổ và ta đã tu luyện chánh đạo một
cách thích hợp.
25.“Ta đã hầu hạ Đức Phật, ta đã thực hiện lời Phật dạy. Ta đã
loại bỏ gánh nặng trên vai chúng ta; mọi sự dẫn đến tái sanh luân
hồi đều đã được loại bỏ đến tận gốc.
26.“Mục tiêu chúng ta xuất gia theo đuổi cuộc sống vô gia cư ta
đã chứng đắc đến đích đó. Mọi ách phược đều bị tiêu diệt.
27. Đức Phật và giáo pháp của ngài vẫn tồn tại nguyên vẹn. Giờ
đây đã đến thời điểm ta nhập níp bàn. Xin đừng than vãn làm gì,
hỡi các con thân yêu của ta.
28. “Ko??ađđa, Ananda, Nanda v.v… Rahula và vị Chiến Thắng
vẫn tồn tại vĩnh hằng, Tăng Đoàn được sung sướng và đoàn kết.
Những phe phái được cắt khỏi cây.
29.Những thần dân vương quốc Okkaka đã vùng lên, triệt hạ Ma-
vương, hỡi con cái của ta ơi. Giờ đây chẳng phải là thời điểm để
cho ta nhập níp bàn sao?
30. Điều ta hằng tìm kiếm bấy lâu hôm nay đã được thể hiện. Đây
là lúc nổi lên tiếng trống hân hoan. Hỡi các con ta ơi, làm sao các
ngươi lại phải nhỏ lệ than khóc?
31. “Nếu các ngươi còn chút thiện cảm nào với ta, và nếu các
người có chút lòng tri ân, hãy thực hiện quyết tâm mạnh mẽ.
Toàn bộ các ngươi, để tiếp tục thực hiện giáo pháp đích thực này.
180
32.Vị toàn giác đã ban cho phụ nữ được phép xuất gia khi ta khẩn
khoản nài xin ngài ban cho. Chính vì thế, giống như ta đã vui
mừng như vậy, thì chính các ngươi hãy tu luyện giáo pháp đó.’
33.“Ôi Đấng tối thượng, ta là mẹ ngươi, còn ngươi là vị anh
hùng, là cha của ta, hỡi vị ban phát hạnh phúc thông qua giáo
pháp đích thực. Ôi người bảo vệ dũng mãnh, ta được sanh ra nơi
ngươi, hỡi Vị Cồ Đàm.
34.Ôi Đấng tối thượng, cái thân xác thể chất của ngươi là do ta
nuôi dưỡng khôn lớn. Nhưng toàn bộ giáo pháp vô tỳ vết kia lại
chính do ngươi dưỡng dục mà có.
35. Trong một thời gian ngắn ta đã dùng sữa nuôi dưỡng ngươi
lớn lên làm dịu cơn khát cho nhà ngươi. Ngươi đã ban cho ta
nguồn sữa giáo pháp để uống hầu được an tịnh dài lâu.
36.Ôi vị Đại Trí, ngươi chẳng nợ nần ai cả, xin hãy bảo vệ ta khỏi
mọi cảnh tù tội. Cầu xin cho phụ nữ ước ao được sanh con cũng
có được người con trai theo ý họ mong mỏi.
37. Bất kể người nào được làm mẹ các vua chúa như Mandhata,
đang lao vào đại dương luân hồi. Ngươi đã giúp ta vượt khỏi đại
dương luân hồi, ôi con trai của ta ơi.
38. Chứng “tước chánh hậu hay thái hậu” là điều không khó khăn
gì với phụ nữ, nhưng được làm “thân mẫu Đức Phật” quả là điều
không dễ dàng gì.
39.“Và khát vọng của ta đó, ôi vị đại anh hùng, đã được chính
ngươi thực hiện nơi ta. Mọi điều ta khát vọng dù nhỏ hay lớn đều
được ngài chấp nhận cả.
40.“Ta khát khao chứng vô dư níp bàn” loại bỏ thân xác này. Xin
hãy cho phép ta làm điều đó, ôi vị đại anh hùng, người kết liễu
đau khổ, người lãnh đạo tài tình.
41.“Hãy giang chân ra, dịu dàng tựa như bông sen và che phủ với
các tướng luân, móc và cờ xí. Ta sẽ tuân phục ngài, Ôi người con
thiên thệ.
42. “Hãy biến thân xác ngươi thành một khối vàng ròng, hãy biến
thành rõ ràng như vậy ta sẽ nhìn rõ tấm thân hình nhà ngươi, ta sẽ
ra đi bình an, Ôi vị lãnh tướng.”
43. Thế rồi vị chiến thắng khiến người dì nhìn rõ thân hình của
mình được trang điểm với ba mươi hai tướng. Được trang điểm
và tỏa sáng giốâng như mặt trời mới mọc ló ra khỏi đám mây dày
đặc.
181
44. Người đàn bà ấy phủ phục dưới chân ngài điểm bằng bánh
luân tỏa sáng giống như đóa sen đang hé nở.
45. Sau khi động viên họ như vậy, dẫn đầu năm trăm Tỳ khưu
Ni, nàng tiến đến gặp Đức Phật đảnh lễ ngài và thốt lên những lời
này:
46. “Ta kính lạy mặt trời chúng sanh, ngọn cờ gia đình thái
dương.” [nàng nói thêm]. “Ta chẳng nhìn lại con nữa đâu; [nếu
như ta không chứng kiến] nhà ngươi viên tịch.
47. “Ôi vị lãnh đạo Thế gian, Người ta nghĩ rằng đàn bà chúng ta
đã thực hiện đủ điều đồi bại. Nếu ta phạm phải điều sai trái, xin
ngài thứ lỗi cho ta, Ôi ngài Đại Bi.
48.“Ta liên tục yêu cầu cho phụ nữ được xuất gia. Nếu yêu cầu đó
có chi là sai sót, cầu xin ngài thứ lỗi cho ta, Ôi vị thống lãnh
chúng sanh.
49. “Ôi vị anh hùng, được phép ngài ta giảng dạy chư vị Tỳ khưu
Ni. Nếu như có điều hướng dẫn nào không phải phép, cầu xin
ngài thứ lỗi cho ta, Ôi Chúa tể giàu lòng thứ tha.”
50. “Quả thật, ta phải đào bới lên điều gì nơi cõi hữu sanh này.
Được trang điểm với đủ điều giới đức. Lại được giải thoát khỏi
thiệt hại đây?” [Đức Phật đặt câu hỏi] ta sẽ đưa ra câu trả lời nào
khi ngài đang bước vào vô dư níp bàn?
51. “Tăng chúng Tỳ khưu Ni của ta hoàn toàn thanh tịnh, hoàn
toàn thích hợp để thoát khỏi thế gian, nhìn rõ cảnh hư mất tàn lụi
đi giống như dấu ấn trên mặt trăng ngay lúc bình minh.”
52. Đoạn chư vị Tỳ khưu Ni khác giống những vì sao đi theo mặt
trăng quanh ngọn Sumeru trong lúc vẫn giữ bên phải, sau khi đã
phủ phục xuốâng dưới chân chư vị Chiến Thắng. Đứng sững đó
nhìn gương mặt ngài chiếu sáng.
53. “Mắt ta chưa bao giờ thoả mãn trước đó, khi được chiêm
ngưỡng dung nhan ngài, tai ta cũng vâïy trước khi được nghe lời
ngài thốt ra.” [Đức Cồ Đàm nói] Ước mong toàn tâm toàn trí ta
được thoả mãn độc nhất đó nhờ có hương vị Giáo Pháp ngài đem
lại.
54. ‘Khi ngài thốt lên lời vàng ngọc giữa Tăng chúng, loại bỏ hết
tính kiêu mạn của những kẻ chủ trương quan điểm khác, may
mắn thay những kẻ nhìn ngắm và nghe lời ngài. Ôi vị thủ lãnh
chúng sanh.
182
55. “Những người nào sụp lạy dưới chân kiều diễm của ngài, với
ngón dài và móng chân màu nâu đồng và gót chân toả sáng, Ôi vị
mang nhiều phẩm hạnh thiện.
56. “Những người nào lắng nghe lời ngài, thật ngọt ngào, hoan
hỷ, triệt phá được lỗi lầm, và đem lợi lại kết quả thật hạnh phúc.
Ôi vị Thiện Thệ giữa chúng nhân.
57. “Ôi vị đại anh hùng, ta may mắn biết bao, mải mê sụp lạy
dưới chân ngài. Ta đã vượt qua hoang địa hiện hữu luân hồi nhờ
có lời ngọt ngào của vị vinh quang toát ra.
58. Thế rồi nàng được phép Tăng đoàn nhiệt tâm đảnh lễ Rahula.
Ananda, và Nanda. Và nói những lời này:
59-60. “Ta hoàn toàn chán ngấy cái thân xác này, giống như hang
rắn, là nơi bệnh hoạn, một đám sầu khổ, là chốn tuổi già và chết
chóc thường lui tới. Tràn ngập đủ thứ ô uế, tuỳ thuộc vào tha
nhân. Không có bất kỳ thôi thúc nào, chính vì thế ta ước ao được
tịch tịnh. Xin cho phép ta đi các con.
61.Nanda, Rahula và Bhadda, đượt giải thoát khỏi mọi sầu khổ,
vô tỳ vết, vững vàng như ngọn núi đứng sững, liền thiền về bản
chất các pháp.
62. “Khốn khổ cảnh hữu vi, không vững bền kiên định. thiếu bền
vững như thân cây chuối lá giống như ảo ảnh đầy lừa dối, chóng
qua, không bền vững.
63.Quả thật, khi người dì của vị chiến thắng, là người đã bú mớm
cho Đức Phật Cồ Đàm, sắp sửa đi đến diệt, thì toàn bộ các pháp
hữu vi đều vô thường cả.”
64.Và đại đức Anada, người vẫn là một hành giả và gần gũi vị
chiến thắng, vẫn bị đau đớn bởi nỗi thương tiếc Gotami. Bằng
những giọt nước mắt chảy dài, đại đức cảm động kính tiếc vô
cùng sâu sắc:
65.“Than ôi, Cồ Đàm đang chứng an tịnh. Chắc chắn Đức Phật sẽ
nhập niết bàn nay mai thôi. Giống như ngọn lửa thiếu nhiên liệu
vậy.
66.– 67. Khi bà dì còn đang than vãn như vậy. Cồ Đàm nói với
Ananda, “Kiến thức của nhà ngươi tựa như đại dương, nhà ngươi
tận tâm phục vụ Đức Phật. Xin đừng có mải mê than khóc làm
chi. Hỡi con trai ta ơi, thời gian hoan hỷ đã đến. Thông qua nhà
ngươi, hỡi con trai ta ơi. Ta sẽ lấy níp bàn là nơi quay về.
183
68.“Ngươi đã xin cha chúng ta và nhận được phép cho chúng ta
xuất gia. xin đừng có ngã lòng, con trai ta ơi. Cố gắng của nhà
ngươi đã đem lại kết quả.
69.“Điều gì họ không nhìn thấy trong quá khứ, ngay cả các đạo
sư thuộc các nhóm khác nhau. Tình trạng đó chính những đứa con
gái mới bảy tuổi của ngươi đã cảm nghiệm được.
70.“Ôi người bảo vệ giáo lý của Đức Phật đây là lần cuối cùng ta
nhìn thấy ngài. Ta sẽ ra đi, con trai ta ơi, tại nơi đó sau khi đã tới
đó, chẳng còn ai nhìn thấy được nữa.
71.“Một ngày kia, đang lúc kinh, vị lãnh tụ tối thượng thế gian đã
nhỉ mũi. Thế rồi, do đại bi, ta đã thốt lên lời nguyện ước tốt lành:
72.“Ước mong ngài sống lâu, Ôi vị anh hùng vĩ đại! Ước mong
ngài lưu lại thêm một đại kiếp nữa. Ôi vị đại trí.! Ước mong ngài
không phải trải qua tuổi già và phải chết vì lợi ích cho toàn cõi
thế gian này.!’
73.“Sau khi ta đề cập tới vấn đề này, Đức Phật nói với ta: Chư vị
Phật không được tán thán theo cách nhà ngươi kính lễ ta, hỡi
Gotami.”
74.“Thế cách kính lễ cho chư vị Thiện Thệ như thế nào, thưa ngài
toàn tri? [ta hỏi lại] “và làm thế nào là không kính lễ chư vị đó
đúng cách? Kính xin ngài hãy cho ta biết câu trả lời ta đã hỏi
ngài.”
75. “Hãy nhìn xem toàn bộ chư vị đồ đệ, hãy thực hiện chánh tinh
tấn.’ [ngài đáp lại] ‘quyết tâm với chánh tinh tấn mạnh mẽ.Đây
chính là cách kính lễ chư vị Phật vậy.’
76.“Thế rồi ta tới thiền viện, và đang lúc ta lưu lại đó một mình ta
tự nghĩ: “khi ngài chứng tịch diệt, người bảo vệ sẽ chứng thực
Tăng đoàn tụ tập lại vậy.
77. “Quả thật, ta sẽ chứng vô dư níp bàn, Ước mong ta không
phải chứng kiến tai họa do cái chết của Đức Phật đem lại.” đang
lúc suy nghĩ như vậy ta nhìn thấy vị Thiện Thệ đại trí.
78. Ta thông báo thời gian chứng níp bàn cho vị Đạo Sư. Thế rồi
ngài ban phép cho ta [nói rằng]: “Hãy biết rằng đó là thời giờ
chính xác, hỡi Gotami.’
79. Ta thiêu rụi các lậu hoặc của mình, ta phá huỷ toàn bộ tái
sanh tương lai. Sau khi đã cắt đứt mọi ách phược giống như con
voi, ta sống hoàn toàn vô tỳ vết.
184
80. Sự hiện diện của Đức Phật toàn hảo thật sự đáng hoan nghênh
đối với ta. Ta đã hiện chứng sáu tuệ giác trực tiếp đích thực ta đã
thực hiện lời Phật dạy.
81. Ta cũng hiện chứng Tứ vô ngại giải và bát giải thoát cùng với
sáu tuệ giác đích thực trực tiếp ta đã thực hiện lời Phật dạy.
82. [Thế rồi Đức Phật nói] “Hỡi Gotami, để có thể thắng vượt tà
kiến, hãy tỏ rõ sức mạnh thần lực siêu thế cho các phụ nữ này vì
họ đã hiểu rõ giáo pháp [nhưng] họ đã trở nên bối rối hỗn loạn.”
83. Thế rồi Gotami quì xuống trước Vị Chánh Đẳng Chánh Giác
và nàng đã bay lên trời và chỉ cho thấy rất nhiều thần lực siêu thế
với sự cho phép của Đức Phật.
84-85. Sau khi chỉ có một mình, nàng biến thành nhiều người và
sau khi đã biến thành nhiều người rồi lại chỉ còn có một người.
Nàng xuất hiện rồi biến mất. Nàng đi xuyên qua bức tường [như
thể di chuyển trên không trung] không gặp bất kỳ trở ngại nào.
Nàng nhào xuống đất, đi trên mặt nước như thể đi trên mặt đất mà
không bị chìm xuống.
86.Nàng di chuyển trong tư thế ngồi kiết già trên không trung
giống như một con chim. Thế rồi nàng còn kiềm chế thân xác cho
tới cõi phạm thiên.
87.Nàng biến núi Sineru thành một cây gậy; rồi lật cả mặt đất lên,
nàng biến mặt đất trở thành một cây dù, rồi mang theo cây dù đó,
nàng buớc lên bước xuống trên bầu trời.
88.Đoạn nàng biến khói bao trùm khắp mặt đất và những chùm
lửa giống như vào thời sáu mặt trời xuất hiện cuối một niên kỳ.
89. Chỉ một nắm tay nàng nắm được một tảng đá lớn trong lòng
sông Mucalinda (hồ) ngay dưới chân núi Meru giống như những
hạ mù tạt nắm trong lòng bàn tay.
90. Chỉ với đầu ngón tay nàng có thể che khuất cả mặt trời và mặt
trăng, cùng một lúc nàng có thể đeo cả ngàn mặt trời và mặt trăng
như đeo một vòng hoa vậy.
91.Nàng mang toàn bộ nước bốn đại dương trong một tay và làm
mưa xuống giống như một trận mưa dông kéo dài hàng đại kiếp.
92.Nàng khiến cho chuyển luân vương và đoàn tùy tùng xuất hiện
trên bầu trời. Nàng khiến cho Garuda, là con voi thần xuất hiện và
rống lên tiếng rống sư tử.
185
93.Nàng khiến xuất hiện cả một đám chư vị Tỳ khưu Ni đông vô
số kể. Thế rồi lại khiến họ biến mất không còn một ai, và cũng là
người thưa với vị Đại trí như sau:
94.“Ôi vị Đại Anh Hùng, người dì của ngươi đã chu tất lời dạy
của ngươi và đã đạt đến đích. Ta kính lễ sụp dưới chân ngươi, ôi
vị đại nhãn quang tinh tường.
95.Sau khi cho thấy nhiều loại thần lực siêu thế như vậy, nàng
đáp xuống từ trời cao. Nàng đảnh lễ ánh sáng Thế gian, rồi ngồi
sang một bên.
96.“Ôi vị Đại trí,” [nàng nói] đã một trăm hai mươi năm kể từ khi
ta sanh ra là thời gian lâu đủ để ta đạt đến níp bàn, Ôi vị anh dùng
dũng mãnh., lãnh tụ thế gian.”
97. Thế rồi toàn bộ Tăng đoàn tràn ngập kinh ngạc. Họ kính lễ hai
tay chụm lại trên đầu và hỏi rằng: “Ôi người phụ nữ phạm hạnh
kia, làm sao nhà ngươi có thể thực hiện được những quyền lực
thần thông siêu thế vô song đến như vậy?”
98.“Padumuttara, vị chiến thắng là người nhìn rõ mọi hiện tượng,
vị lãnh đạo thế gian đã sanh ra một trăm ngàn cõi luân hồi đã
qua.” [nàng cất tiếng trả lời.]
99.“Rồi ta được sanh ra trong thành Ha?savati trong gia đình vị
quan thừa tướng được hưởng đủ loại ân huệ, giàu có, thịnh vượng
và nhiều tài sản.
100. “Một ngày kia, ta tiến lại gặp vị thống lãnh chúng sanh cùng
với gia đình ta và có đoàn tuỳ tùng đông đảo phụ nữ hầu hạ.
101-102. Nhìn thấy ngài tựa như Vasana đang làm mưa xuống
những đám mưa giáo pháp, vô tỳ vết, giống như mặt trời thu tỏa
sáng với mạng lưới tia sáng chói chang, lòng ta vô cùng hoan hỷ,
và ta được nghe những lời vàng ngọc của ngài khi vị lãnh đạo
chúng sanh đã chọn dì của mình, làm vị Tỳ khưu Ni vào vị trí đệ
nhất.
103. “Sau khi nghe lời đó, ta tổ chức cuộc bố thí rất lớn gồm
nhiều đồ thiết yếu kéo dài trong bảy ngày, cho vị độc nhất tối
thượng nơi chúng sanh đó cùng với đoàn tuỳ tùng của ngài.
104. “Thế rồi sụp lạy dưới chân ngài, ta cũng ước được cất nhắc
vào vị trí đó. Thế rồi vị thiện thệ đại trí nói vói tăng chúng đông
đảo đó rằng:
186
105. “‘Ta sẽ tán thưởng người nào đã nuôi nấng vị lãnh đạo thế
gian và Tăng đoàn của ngài suốt bảy ngày qua hãy nghe lời ta
phán đây:
105. ‘Một trăm ngàn kiếp luân hồi cho tới nay, sắp sửa sanh
xuống cõi trần vị đạo sư tên là Cồ Đàm, thuộc dòng tộc Okkaka.
106. “Vào thời điểm đó cũng sẽ xuất hiện một đồ đệ của vị Đạo
sư tên là Cồ Đàm chính là người thừa kế Giáo pháp, một hậu duệ
đích thực cho Giáo pháp đích thực.
107. “Người này sẽ là dì của Đức Phật, cũng chính là vú nuôi
của ngài trên cõi đời này và nàng sẽ chiếm được địa vị độc tôn
trong số chư vị Tỳ khưu Ni.
108. “Ta hân hoan nghe thấy điều đó. Thế rồi xuyên suốt cuộc
đời ta chỉ một lòng phụng dưỡng vị Chiến Thắng với đầy đủ
những đồ thiết yếu. Thế rồi ta tịch diệt.
109. “Ta được tái sanh nơi cõi trời đâu xuất, và ta trổi vượt hết
mọi người nữ khác với đủ mười thuộc tính sau:
110. hình dáng, tiếng nói, hương thơm, hương vị, vật dụng, tuổi
thọ, diện mạo, giới đức và danh tiếng lẫy lừng.
111. “Bằng những đặc tính này ta được quyền lực trổi vượt. Ta
tỏa sáng chói chang, ta trở thành chánh hậu được đức vua bất tử
sủng ái.
112. “Ta chu du tái sanh liên tục nơi kiếp luân hồi, di chuyển với
cặp cánh gồm những hạnh thiện đã làm trong quá khứ. Và ta sanh
ra dưới thời nhà vua Kasi đang trị vì trong ngôi làng nô bộc đó.
113. “Chính xác năm trăm nô tỳ sống trong ngôi làng đó vào
thời điểm đó, ta đã trở thành phu nhân của người trưởng nhóm nô
tỳ đó.
114. “Năm trăm vị Độc Giác Phật đã vào ngôi làng trên đường
đi khất thực. Nhìn thấy họ, toàn bộ phụ nữ trong làng kể cả ta đều
cảm khoái trong lòng.
115. Họp thành một nhóm hội, toàn bộ những phụ nữ đó đã phục
dưỡng các ngài trong suốt bốn tháng, rồi còn cúng dường mỗi
người bộ y cà sa gồm ba chiếc. Thế rồi chúng ta cùng với đức
lang quân mỗi người du hành với các ngài.
116. “Rồi diệt khỏi cõi đời này, toàn bộ chúng ta được tái sanh
nơi cõi Trời Đâu Xuất. Giờ đây đến thời hiện hữu sau cùng, ta
được sanh ra trong thành Devadaha.
187
117. Cha ta có tên là Anjanasakka và mẹ ta là Sulakkhana. Và ta
tới làm dâu trong gia đình Sudhodana trong thành Kapilavatthu
[với tư cách là phu nhân của ngài]
118. Những phụ nữ khác lại sanh ra trong bộ tộc Thích Ca,
thuộc dòng tộc Thích Ca. Ta lại trở thành người phụ nữ kiệt xuất
nhất trong bọn họ. Ta trở nên mẹ nuôi của vị Chiến Thắng.
120 - 122. “Con trai ta đã xuất gia, và trở thành Phật, vị lãnh chúa
cõi thế gian. Sau đó ta cũng xuất gia cùng với năm trăm phụ nữ
đó, và cùng với những phụ nữ [khôn ngoan] đó. Ta chứng an tịnh
và hạnh phúc to lớn. Những người làm đức lang quân của ta nơi
kiếp trước, đã cùng chung thực hiện phước nghiệp với ta, cũng trở
thành những người thực hiện Đại Giáo Pháp, đều chứng đắc A-la-
hán nhờ lòng Đại Bi của vị Thiện Thệ.”
123. Thế rồi chư vị Tỳ khưu Ni khác cũng bay lên trời, gặp nhau
tại đó, họ toả sáng với muôn thần lực siêu thế hùng mạnh.
124. Họ còn thực hiện nhiều thần thông lực siêu thế nữa, như thể
một kệï gốm lành nghề nặm vàng ròng thành những chiếc bình
tuyệt vời.
125. Và chư vị đó còn thực hiện rất nhiều phép lạ nữa. họ hân
hoan với vị đại hùng biện, vị đại tri cùng với đoàn tùy tùng của
ngài.
126. Họ từ trời đáp xuống, đến đảnh lễ vị đệ nhất hiền trí. Thế
rồi được phép của vị đệ nhất thần dân đó, họ ngồi vào những vị trí
thích hợp cho từng người.
127. [Họ lên tiếng nói rằng:] “Ôi vị Cồ Đàm, ngài đã tỏ lòng đại
bi với chúng tôi, trong suốt một thời gian dài. Được an trú nhờ
vào thiện nghiệp của ngài, chúng ta đã tịch tịnh đoạn triệt hết mọi
lậu hoặc.
128. “Lậu hoặc của chúng ta đã được thiêu rụi hết, chúng ta
không còn phải tái sanh trong tương lai. Sau khi đã cắt đứt mọi
ách phược giống như tượng thần, chúng ta hưởng cuộc sống vô tỳ
vết.
129. “Quả thật đối với ta sự hiện diện của chư Phật đệ nhất thật
đáng quí. Chúng ta đã chứng tam minh trực tiếp. Chúng ta đã
thực hiện lời Phật dạy.
130. “Tứ vô ngại giải cùng với bát giải thoát, chúng ta đều có cả.
Chúng ta đã hiện chứng lục minh trực tiếp. Chúng ta đã thực hiện
lời Phật dạy.
188
131. Chúng ta cũng chế ngự lực thần thông siêu thế. Bằng thiên
nhĩ chúng ta biết rõ tâm linh tha nhân. Ôi vị Đại trí.
132. “Chúng ta biết rõ phần tiền kiếp của mình; do thiên nhãn
mỗi người đã được thanh tịnh kỹ. Mọi vết nhơ ô uế đã được tiêu
huỷ hết. Giờ đây ta chẳng còn phải tái sanh bao giờ.
133. “Và thật sự, Ôi vị Đại Anh Hùng. Trước sự hiện hữu của
ngài, nơi chúng ta có kiến thức đã hiện rõ, và mọi ý nghĩa, pháp
và nguyên từ được thông suốt.
134. Chúng ta đã phục dịch ngài với tình thương nhân ái. Ôi vị
lãnh chúa thế gian, xin cho phép chúng tôi nhập niết bàn. Ôi Đại
trí nhân hậu.”
135. “Ta sẽ nói gì, vì ngài đã thốt lên, “chúng ta sẽ chứng niết
bàn?”vị chiến thắng nói, “Và giờ đây, các ngươi nên thực thi
những gì đúng thời điểm.”
136. Thế rồi Gotami và chư vị Tỳ khưu Ni khác lại đảnh lễ vị
Chiến Thắng, rồi rời khỏi chỗ đang ngồi và quay trở về thiền viện
của họ.
137. Cùng với tăng chúng đông đảo, lãnh đạo tối thuợng thế
gian, đại anh hùng đã tiễn dì mình tới tận cổng [thành phố].
138. Tại đó, Gotami lại phục lạy dưới chân người bà con thế
gian cùng với chư vị Tỳ khưu Ni khác. Đây là lần kính lễ cuối
cùng nàng phục lạy dưới chân ngài.
139. “Đây là lần cuối cùng chúng ta được nhìn ngắm người bảo
vệ thế gian.” [Họ nói] “chúng ta chẳng còn được diện kiến ngài
bao giờ nữa.
140. “Việc kính lễ của ta, Ôi vị anh hùng vĩ đại, sẽ chẳng đụng
tới gót chân êm dịu của ngài nữa, ôi lãnh chúa cõi thế gian.”
[Gotami còn nói] “Ngày hôm nay, ta sẽ được ra đi bình yên”
141. Sắc giới với ngài có nghĩa lý gì, sau khi ngài đã chứng
pháp thực thụ? Toàn bộ chỉ là hữu hư, vô tướng, và vô thường.”
142. Nàng cùng với chư vị Tỳ khưu Ni khác về tới tận thiền viện
và rồi lên ngồi vào nơi trang trọng nhất. Gấp một chân trong tư
thế kiết già.
143. Thế rồi các tín nữ trong vùng, những kẻ lâu nay đã gắn bó
với Giáo Pháp của Đức Phật nghe tin nàng trở lại, liền đến gặp
ngài phủ phục đảnh lễ xuống dưới chân ngài.
189
144. Rồi đấm ngực đau buồn do sầu khổ họ cảm nhận ngay lúc
đó, nằm soài trên mặt đất giống như cây nho bị cắt đứt rễ. Lớn
tiếng than vãn rất thảm thiết.
145. “Ôi vị bảo vệ luôn nâng đỡ chúng sanh, xin đừng lìa xa
chúng tôi và đừng tịch tịnh trong an bình! [họ kêu gào thảm thiết]
“Tất cả chúng ta đầu phủ phục dưới chân ngài, phủ lạy và khẩn
khoản van xin.”
146. Có một phụ nữ đạo đức là tín nữ giới đức trong số họ đã
chứng đắc niềm tin và thông thái, đấm ngực thốt lên những lời lẽ
này:
147. “Tâm trạng buồn thảm của các ngươi như vậy đã quá đủ
rồi, hỡi các con ta ơi. Điều đó giống như tiếng trống Ma Vương
thôi. Toàn bộ chỉ là vô thường, hữu vi, đều kết thúc trong ly biệt,
và chẳng có gì bền vững.”
148. Rồi sau đó nàng để cho họ ra đi. Còn nàng được nhập đệ
nhất pháp an chỉ định rồi sau đó là đệ nhị, tam và tứ.
149. Thế rồi từng người một họ nhập cõi không vô biên xứ. Cõi
thức bô biên xứ, vô sở hữu xứ, và cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ.
150. Rồi sau đó Gotami cũng nhận các pháp an chỉ định theo thứ
tự từ ngược lại từ thấp nhất lên cao nhất.
151. Khi nàng xuất khởi khỏi đó nàng tịch tịnh giống như một
ngọn đèn hết nhiên liệu, vô tỳ vết. Và xảy ra ngay đó một chấn
động lớn và sấm sét nổi lên trên bầu trời.
152. Tiếng trống vang lên, chư thiên than vãn. Một trận mưa hoa
đổ xuống trên mặt đất từ trời cao.
153. Meru, chúa tể các ngọn núi, lắc lư như diễn viên trên sân
khấu, thất vọng do sầu khổ và đại dương rống lên tiếng khủng
khiếp.
154. Chư Thiên, Mãng xà vương, A-tu-la. Và phạm thiên đều
cảm động sâu sắc ngay lúc đó: “Quả thật, các hành đều vô
thường, giống như người phụ nữ này đã qua đi.
155. Những kẻ này đã thực hiện lời Phật dạy và vây quanh nàng
Gotami, toàn bộ họ đã nhập niết bàn, giống như ngọn lửa hết
nhiên liệu.
156. “Than ôi, tất cả đều kết thúc bằng ly biệt. Ôi toàn bộ pháp
hữu vi đều vô thường. Than ôi, cuộc sống kết thúc bằng hủy
diệt.”Đó là những lời họ lớn tiếng than vãn.
190
157. Thế rồi chư thiên và phạm thiên đã thực hiện những gì phù
hợp với thông lệ và đến đúng thời điểm ấn định họ tiến đến gặp vị
thiện thệ đại tri.
158. Đoạn vị Đạo sư nói với Ananda, vị đại lỗi lạc: “Này hỡi
Ananda hãy lên đường và thông báo cho chư vị Tỳ khưu an tịnh
cuối cùng của mẹ ta.
159. Thế rồi với mắt đẫm lệ, Ananda nói với giọng đứt quãng.
“Cầu sao chư vị Tỳ khưu tụ tập lại.
160. Những kẻ từ đông sang tây từ bắc chí nam; những kẻ đang
ở vùng phụ cận này, Ước mong chư vị Tỳ khưu, thừa tự Giáo
pháp đấng thiện thệ hãy lắng nghe ta nói.
161. “Người đã nuôi dưỡng thân xác cuối cùng của vị Đại Trí –
đó là Gotami – Bà đã ra đi bình an, giống như tinh tú trước lúc
mặt trời mọc.
162. “Hãy dẹp bỏ tranh cãi sang một bên, Mẹ nuôi dưỡng Đức
Phật đã tới chốn vô thượng, tới cõi nơi kẻ chứng ngũ nhãn, vị
lãnh chúa, cũng không thể nhìn thấy nàng nữa.
163. Bất kỳ ai đặt niềm tin nơi đấng Tối Thượng (Thiện Thệ) và
bất kỳ ai còn yêu mến vị Đại Tri, là hậu duệ Đấng Thiện Thệ,
hãy đến mà kính lễ thân mẫu Đức Phật”
164. Chư vị Tỳ khưu nghe thấy ngài nói như vậy, lần lượt kéo
nhau tới, kẻ thì do thần lực của Đức Phật kéo tới, kẻ khác do sức
mạnh thần lực đem lại.
165. Họ đặc chiếc toạ sàng xưa kia Gotami đã ngủ trên đó vào
trong một căn nhà mái cong tuyệt đẹp, sảng khoái, và lộng lẫy
được xây hoàn toàn bằng vàng ròng.
166. Bốn vị chư thiên bảo vệ cõi trần này khiêng trên vai toà nhà
mái cong đó, chư vị thiên chủ, Sakka.v.v…tất cả đều tụ tập lại
trong ngôi nhà mái cong đó.
167. Toàn bộ có tới năm trăm ngôi nhà mái cong màu sắc như
mặt trời thu. Vì chính Vissakamma xây dựng.
168. Toàn bộ năm trăm chư vị Tỳ khưu ngồi trên tọa sàng đặt
trên vai một vị chư thiên từng người một di chuyển ra ngoài theo
đúng thứ tự sắp xếp.
169. Trên không có chiếc lọng vàng được điểm với mặt trời, mặt
trăng và các tinh tú.
191
170. Nhiều cờ xí trương lên, những lớp phủ bằng hoa trải khắp
nơi. Hoa sen rơi như mưa từ trời xuống và rồi một đoá hoa từ mặt
đất mọc lên.
171. Mặt trời và mặt trăng đều xuất hiện, các tinh tú toả sáng
khắp nơi. Giống mặt trăng, mặt trời không tỏa sức nóng gay gắt.
Cho dù vào lúc chánh ngọ [trên bầu trời]
172. Chư vị chư thiên kính lễ họ bằng hương liệu chư thiên
thơm phức và những vòng hoa phát hương, nhạc cụ vũ điệu và ca
xướng tuyệt vời.
173. Đoạn căn cứ vào khả năng và phương tiện của họ, các
mãng xà vương và A-tu-la cùng với chư vị phạm thiên đến kính lễ
thân mẫu Đức Phật đã nhập vô dư níp bàn và đã được lấy đi.
174. Những người nào được chọn đi truớc, những hậu duệ đích
thực của vị Thiện thệ, đều nhập tịch tịnh (níp bàn) và Gotami, vị
đáng kính đã nuôi dưỡng Đức Phật cũng được mang đi sau đó.
175. Đi trước có chư vị chư thiên và chúng sanh cùng với các
Mãng xà vương. Các Atula cùng chư vị Phạm thiên. Theo sau là
đoàn đồ đệ cùng với Đức Phật cũng đến kính lễ mẹ ngài.
176. Việc nhập vô dư níp bàn của Đức Phật cũng không sánh
bằng Gotami nhập vô dư níp bàn. Dịp này của nàng quả thật là
một cơ hội tuyệt vời hơn nhiều.
177. Đức Phật đã không sửa soạn chư vị Tỳ khưu cho ngày
nhập diệt, Đức Phật nhập níp bàn theo cách thức của ngài và
trưởng lão Sariputta,v.v…đã thực hiện cho ngày Gotami nhập
tịch tịnh (niết bàn).
178. Họ đã thiết lập giàn thiêu gồm đủ loại hương thơm bột
thơm được rắc đều trên chỗ họ thiêu xác.
179. Ngoại trừ xương, còn toàn bộ những gì còn lại đều được
đốt sạch thế rồi Ananda nói những lời khiến mọi người phải cảm
động sâu xa:
180. Gotami đã đi tới đích của mình, đây chính là địa điểm được
chỉ định để thiêu xác bà, chẳng còn bao lâu nữa chính Đức Phật
cũng tịch diệt.”
181. Đoạn Ananda, được Đức Phật khích lệ, đã đặt xá lợi
Gotami vào một chiếc bình, và giao cho người bảo vệ.
182-183. Những vị đại trí đệ nhất nhận lấy xá lợi trong tay nói
rằng: “Cũng giống như một cây to có gỗ cứng chắc luôn đứng
vững không thể đổ ngã. Vì ngay cả một đống lớn nhất cũng mang
192
đặc tính vô thường. Gotami thuộc Tăng đoàn chư vị Tỳ khưu Ni
đã nhập vô dư niết bàn.
184. Ôi kỳ diệu thay khi mẹ ta nhập niết bàn. Chẳng có sầu khổ
lẫn than vãn vì thân xác ngài vẫn tồn tại.
185. “Chẳng có người nào khác phải sầu khổ vì nàng cả - một kẻ
đã vượt qua đại dương luân hồi hiện hữu, đã tránh khỏi sức nóng
khủng khiếp, là người đã trở thành mát rợi. Là người đã tịch tịnh
tốt đẹp.
186. “Nàng thật khôn khéo, ôi vị đại trí tuệ và cũng khôn ngoan
tột đỉnh. Hỡi chư vị Tỳ khưu, hãy nhớ kỹ trong lòng, nàng cũng
đã hoàn tất tốt cuộc sống lâu dài nơi chư vị Tỳ khưu Ni.
187. “Và Gotami đã chứng thần lực siêu thế. Thông qua đại
thiên nhĩ, nàng cũng chứng tuệ giác thấu triệt tâm tha nhân.
188. Nàng biết rõ các kiếp sống tiền kiếp của chính mình. Thiên
nhãn đã được thanh tịnh. Mọi lậu hoặc đã bị triệt phá hết. Giờ đây
nàng chẳng còn phải tái sanh nơi kiếp hiện hữu nào nữa.
189. Và nàng cũng hiểu rõ ý nghĩa, các pháp uẩn, và ngôn ngữ.
Kiến thức nàng thật tinh thông, chính vì thế nàng chẳng cần đến
bất kỳ ai than khóc nàng cả.
190-191. Giống như tia lửa phát ra từ chiếc búa tạ tan biến ngay
và chẳng ai biết tia lửa đó đi về đâu. Cũng chính vì thế định mệnh
những kẻ được giải thoát một cách tài tình. Là kẻ đã vượt qua bộc
lưu những ách phược tham dục. Người đó đã đạt tới hạnh phúc
vững chắc không ai có thể chỉ ra được.
192. Chính vì thế, hãy tìm nơi nương tựa cho chính mình. Hãy tu
tập thất giác chi nhờ lãnh vực tứ niệm xứ, và rồi ngươi sẽ kết thúc
được đau khổ.”
Như vậy người ta đã đọc lên các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Maha-Pajapati Gotami như vậy.
Đến đây kết thúc chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni Maha-
Pajapati Gotami.
7. CHÚ GIẢI CÁC ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI GUTTA
Những đoạn kệ bắt đầu với Hỡi Gutta…với mục đích tối thượng
nào, người đã xuất gia là của Trưởng lão Ni Gutta. Nàng cũng đã
thực hiện nhiều phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và
tích lũy được hạnh thiện nơi nhiều kiếp sống khác nhau làm căn
giải thoát. Đến thời kỳ đã ấn định, nàng đã tích lũy được những
193
phước hạnh ban đầu để được giải thoát, và thông qua những hạnh
thiện đó đã chín muồi làm điều kiện để chu du tái sanh nhiều cõi
hiện hữu hạnh phúc.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong một gia định Bà
la môn trong thành Savatthi, tên nàng là Gutta. Khi đến tuổi
trưởng thành, do những thành tích nơi những việc thiện ban đầu
thôi thúc, nàng chán ghét cuộc sống gia đình. Được phép cha me,ï
nàng đã xuất gia dưới Tăng đoàn củaTrưởng lão Ni Maha-
Pajapati Gotami. Và sau khi xuất gia cho dù nàng đã an trú hành
thiền quán và siêng năng hình trì tu tập. Nhưng tâm nàng vẫn
chạy theo ngoại cảnh và do vậy nàng không thể nào thiền định
được. Vị Đạo sư biết được tâm nàng như vậy và khi còn đang
ngồi thiền nơi hương phòng, ngài đã phóng hào quang để giúp
nàng. Đoạn sau đó Ngài hiện ra trước mặt nàng, như thể đang
ngồi trên không trung và chỉ bảo nàng, Ngài nói lên những đoạn
kệ này:
163. Hỡi Gutta, vì mục tiêu tối thượng, hãy bỏ hết con cái và tài
sản để xuất gia, cho đến cả bản thân mình là những gì vô cùng
thân thương với ngươi, hãy nhiệt tâm hành trì chớ để tâm chi
phối.
164. Tâm thường hay lừa đảo chúng sanh và ưa cảnh ác ma, phải
luân hồi trong nhiều kiếp sống, chúng rong ruổi si mê.
165 – 166. Ước muốn tham dục và ác tâm, kể cả với thân kiến,
cộng thêm cả giới cấm thủ và hoài nghi – Hỡi Tỳ khưu Ni, hãy từ
bỏ hết kiết sử, dẫn đến kiết sử hạ phần. Nhà ngươi sẽ không tái
sanh trên cõi đời này nữa.
167. Hãy tránh xa tham ái, ngã mạn và, vô minh, và kiêu mạn, cắt
đứt mọi kiết sử, ngươi sẽ chấm dứt đau khổ.
168. Đoạn diệt vòng luân hồi sanh tử. Hiểu biết tái sanh, không
mơ tưởng hiện hữu. Không du hành cõi uẩn xứ, chẳng còn đói
khát nữa, người sẽ được an tịnh.
163. Ở đây, hãy nhiệt tâm hành trì chính điều đó, có nghĩa là: vì
lợi ích, nhằm đem lại lợi ích cho (yassa…atthaya) đạt đến tịch
tịnh chung cuộc các lậu hoặc và tịch tịnh ngũ uẩn có nghĩa là: từ
bỏ hết mọi bà con thân thuộc và khối lượng tài sản kếch xù là
những gì vô cùng thân thương với ta. Người xuất gia thực hiện
giáo pháp của ta chỉ muốn sống cuộc sống phạm hạnh. Đó chính
là việc nhà ngươi nên phát triển và cố gắng thực hiện. Chớ để
194
(ma…gami) tâm (citassa) chi phối (vasam) có nghĩa là: chớ để
(ma gacchi) bị chi phối do tâm dối trá (kuta-citassa) của nhà
ngươi nuông chiều theo những ảnh hưởng đối tượng bên ngoài
v.v trong một thời gian dài.. Từ bỏ hết con cái và tài sản là những
điều quí mến đối với ta
164. Vì tâm thực sự giống như một ảo tưởng do đó người bình
thường hay bị lừa dối. Chịu ảnh hưởng của Ma Vương, ta không
thể vượt qua nổi vòng luân hồi hiện hữu. Chính vì thế người ta
nói rằng: tâm bị lừa dối, v.v…
166. Ở đó những kiết sử, có nghĩa là: những ràng buộc do ước
muốn tham dục, do ác ý, v.v…như đã nói ở trên, hiểu theo nghĩa
năm sợi dây ràng buộc. Loại bỏ có nghĩa là: sau khi đã loại bỏ
những kiết sử đó thông qua thánh đạo dẫn đến thánh quả Bất Lai.
Tỳ khưu Ni là cách nói với nàng [có nghĩa là ở danh xưng cách].
Điều đó dẫn ta đến hạ giới. (orambhaga-m-aniyani) có nghĩa là:
hữu ích và đem lợi lại cho chúng sanh vì là những điều kiện để
cho họ được tái sanh nơi cõi dục giới thấp hơn các cõi sắc giới và
vô sắc giới. Mẫu tự m [thứ hai] [trong orambhaga-m-aniyani] chỉ
nhằm tạo yếu tố êm tai trong hai từ đó. Ora-m-agamaniyani lại là
một cách giải thích khác và cũng có cùng ý nghĩa. Nhà ngươi sẽ
chẳng đến được cõi này nữa (punar ehisi) có nghĩa là: nhờ loại bỏ
được những ràng buộc dẫn đến hạ giới nhà ngươi sẽ không phải
đầu thai nơi cõi này nữa (puna nagamissasi) thông qua tái sanh
nơi cõi tham dục, nơi đời sống dục lạc. mẫu tự r [trong punar
ehisi] cũng chỉ là yếu tố gây êm tai cho hai từ đó. “Theo cách
này” (itthattam) cũng là cách giải thích [vì punar, là “còn nữa, lại
nữa”]. “cõi đời này” và “dục hữu” (kama-bhavam) có cùng ý
nghĩa.
167. Ước ao có nghĩa là: ước ao vào cõi sắc giới và uớc muốn tái
sanh nơi cõi vô sắc giới. Kiêu mạn có nghĩa : kiêu mạn là nhân tố
huỷù hoại con đường cao thượng. Và vô minh và phóng dật có
nghĩa là: ta nên hiểu ở đây theo cùng một cách đã giải thích ở
trên. [có nghĩa là nhân tố phá hoại chánh đạo tối thượng]. Tránh
xa có nghĩa là: loại bỏ thông qua thiền quán. Cắt bỏ (chevana)
những ràng buộc, có nghĩa là: loại bỏ thông qua chánh đạo dẫn
đến thánh quả A-la-hán, năm ách phược dẫn đến thượng giới –
ước muốn tái sanh nơi cõi sắc giới.v.v…ngươi sẽ kết thúc đau
195
khổ (dukkhass’ antam) có nghĩa là: ngươi sẽ đạt tới đích, kết thúc
mọi đau khổ nơi cõi hữu sanh.
168. Đoạn diệt vòng luân hồi tái sanh có nghĩa là: kết thúc việc
chu du tái sanh nơi vòng luân hồi, bắt nguồn từ tái sanh. Không
còn đói khát, có nghĩa là: không thèm khát, an tịnh có nghĩa là: an
tịnh nhờ làm dịu đi những lậu hoặc này bằng mọi giá. Ý nghĩa
những gì còn lại coi như đã được giải thích.
Thế rồi khi Đức Phật kết thúc những đoạn kệ này, thì Truởng lão
Ni chứng quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải, nàng thốt lên
những đoạn kệ này như là lời tuyên bố long trọng được Đức Thế
Tôn công bố. Đã trở thành đoạn kệ do chính Trưởng lão Ni đó
vậy.
Đến đây kết thúc phần chú giải về những đoạn kệ của Trưởng lão
Ni Gutta.
8. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI VIJAYA.
Đoạn kệ bắt đầu với Bốn [hay năm lần] là của Trưởng lão Ni
Vijaya. Nàng cũng đã thực hiện được nhiều phước nghiệp dưới
thời chư vị Phật tiền kiếp và đã tích lũy được những hạnh thiện
làm căn giải thoát. Đến thời điểm thích hợp nàng phải chu du tái
sanh nơi vòng luân hồi giữa các chư thiên và chúng sanh lại có
căn các hạnh thiện đó tăng cường thêm sức mạnh.
Dưới thời Đức Phật hiện tại, nàng sanh ra trong gia đình tốt lành
trong thành Rajagaha. Khi tới tuổi khôn lớn, nàng kết bạn với
Trưởng lão Ni Khema khi nàng vẫn còn là một chủ gia nhân. Sau
khi nghe bạn Khema đã xuất gia, nàng tự nhủ, “Quả thật, hoàng
hậu vĩ đại đó đã xuất gia, giờ đây tại sao ta lại không làm như
vậy?” Nàng muốn xuất gia, chính vì thế nàng đến gặp Trưởng lão
Ni Khema. Trưởng lão Ni biết rõ ý định của nàng, liền thuyết
giáo pháp cho nàng để nàng phải giao động mạnh mẽ trong tâm
liên quan đến vòng luân hồi hữu sanh. Nàng chứng đức tin nơi
giáo pháp đó. Khi lắng nghe kinh nàng rất xúc động; và xin được
xuất gia. Trưởng lão Ni cho phép nàng thực hiệïn ước muốn xuất
gia. Sau khi đã xuất gia, nàng chu toàn mọi phật sự khởi đầu.
Nàng an trú thiền quán và khi những công việc sơ khởi ban đầu
đã chín muồi, chỉ trong một thời gian rất ngắn nàng chứng thánh
quả A-la-hán cùng với Tứ vô ngại giải. Thế rồi nhìn lại những
196
thành tích mình đã đạt được, nàng thốt lên đoạn kệ sau đây như là
lời tuyên bố long trọng:
169. Đã bốn năm lần ta rời khỏi tịnh xá mà không thể đạt tâm an
tịnh và không thể chế ngự được tâm.
170-171. Ta đến gặp Tỳ khưu Ni, kính lễ và đặt vấn đề với nàng.
Nàng diễn giải giáo pháp cho ta nghe, giảng về các đại, các căn
lại cả tứ diệu đế, các khả năng giác quan và sức mạnh thần thông,
thất giác chi và bát chánh đạo để chứng đích tối thượng.
172. Ta lắng nghe lời ngài tuyên bố, thực hiện lời khuyên của
ngài và ngay canh thứ nhất trong đêm ta nhìn thấy tiền kiếp của
mình.
173. Ngay canh nửa đêm ta thanh tịnh thiên nhãn và đến canh
cuối cùng ta xé tan màn đêm u tối vô minh.
174. Và từ lúc đó ta được sống trong niềm hân hoan và hạnh
phúc, vào ngày thứ bảy, ta duỗi chân ra, sau khi đã phá tan bóng
đêm [vô minh]
Ở đây, Tỳ khưu Ni có nghĩa là: nàng nói với Trưởng lão Ni
Khema.
174. Các yếu tố giác ngộ và bát chánh đạo có nghĩa là: Thất giác
chi và bát chánh đạo (ariya maggam). Việc chứng đắc đích tối
thượng, đó là chứng thánh quả A-la-hán và nhập níp bàn. Thân
xác có nghĩa là: thể xác tâm linh liên kết với hỷ và hạnh phúc và
như là một kết quả của [tâm thân], thể xác sắc giới. Được tràn
ngập có nghĩa là: tràn ngập hay toả khắp. Vào ngày thứ bảy
(sattamiya) ta duỗi chân ra có nghĩa là: sau bảy ngày ta bắt đầu tu
luyện thiền quán. Ta rời bỏ tư thế ngồi thiền, ta duỗi chân ra sau
khi xé tan (padaliya) bóng tối vô minh bằng cách nào? Sau khi xé
tan (padaletva) đám sân si trước đó chưa xé tan được bằng chiếc
gươm kiến thức bát chánh đạo tối thượng. Ý nghĩa phần còn lại
đã được giải thích.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Vijaya.
Đến đây cũng kết thúc chú giải tập Sáu Kệ.
7.1. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI UTTARA
Trong tập bảy kệ, các đoạn kệ bắt đầu với Các chàng trai trẻ Bà
la môn tay cầm chầy là của Trưởng lão Ni Uttara. Nàng đã thực
197
hiện được nhiều phước nghiệp dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và
cũng tích lũy những hạnh thiện làm căn giải thoát.
Đến đúng thời kỳ đức Phật Thích Ca, nàng sanh ra trong một gia
đình tốt trong thành Savatthi. Nàng có tên gọi là Uttara. Đến tuổi
khôn lớn, và đi đến gặp Trưởng lão Ni Patacara. Trưởng lão ni
giảng giải giáo pháp cho nàng. Khi nàng lắng nghe giáo pháp,
một niềm xúc động mạnh mẽ nổi lên liên quan đến hữu sanh luân
hồi. Nàng đã quyết định xuất gia. Nàng chứng niềm tin nơi giáo
lý đó. Sau khi đã xuất gia nàng chu toàn được những nhiệm vụ
đầu tiên và an trú thiền quán cùng với Trưởng lão Ni Patacara. Tu
luyện chuyên cần tâm linh. Nàng chu toàn những nhiệm vụ cần
thiết và các căn chín muồi, nàng nhiệt tình luyện thiền quán. Và
chỉ trong một thời gian ngắn nàng chứng thánh quả A-la-hán cùng
với Tứ vô ngại giải. Đoạn nhìn lại thành tích của mình, nàng thốt
lên những đoạn kệ sau đây như là lời tuyên bố long trọng:
175. Sau khi cầm chiếc chầy trong tay, các chàng trai trẻ Bà la
môn giã gạo. Nuôi sống vợ và con cái. Các chàng trai trẻ Bà la
môn đã có tài sản dồi dào.
176. Hãy thực hiện lời Phật dạy, sau khi đã thực hiện việc đó, ta
không phải ân hận. Hãy nhanh chóng rửa chân cho sạch và ngồi
sang một bên.
177. Sau khi đã an trú tâm, hãy nhất tâm, định tĩnh cho tích cực.
Hãy quan sát các hành, là thuộc ngoại chứ không thuộc ngã.
178. Sau khi nghe nàng tuyên bố như vậy, về lời khuyên của
Patacara. Sau khi đã rửa sạch chân, ta ngồi sang một bên.
179. Trong canh thứ nhất, ta quán thấy ta trong kiếp truớc, ở
canh giữa đêm, ta thanh tịnh thiên nhãn.
180. Vào canh cuối trong đêm, ta xé tan màn u tối vô minh.
Đoạn ta đứng ngay dậy với tam minh rõ ràng, ta đõã thực hiện
lời ngài khuyên.
181. Ta đã thực hiện lời ngài khuyên dạy. Ta sẽ kính lễ ngài như
chư thiên ở cõi ba mươi ba đáng kính lễ Sakka, người không bao
giờ bại trận. Với tam minh có được ta triệt hạ hết mọi lậu hoặc.
177. Ở đây, sau khi đã an trú tâm có nghĩa là: sau khi đã an trú tu
luyện phát triển tâm (bhavana-cittam) nhờ những chủ đề thiền.
Bằng cách nào? [nhờ] khéo nhất tâm và định tĩnh tốt. hãy quan
sát các hành (paccavekkhatha) có nghĩa là: hãy quan sát việc thực
hành; tu luyện thiền quán với ba điểm đặc trưng. Có thể là các
198
hành đều vô thường, tạo ra đau khổ và vô ngã và điều này được
nói tới vào lúc giảng dạy như là một lời động viên nàng cũng như
chư vị Tỳ khưu Ni và Trưởng lão Ni khác v.v…
178. Lời khuyên của Trưởng lão Ni Patacara có nghĩa là: lời dạy
dỗ của Trưởng lão Ni Patacara. Một cách giải thích khác là: “giáo
lý của Trưởng lão Ni Patacara (Patacara sasanan)”
180. Đoạn ta đứng lên có nghĩa là: ta đứng dậy khỏi chỗ ngồi sau
khi chứng tam minh. Một ngày kia, vị Trưởng lão Ni này đã
thanh tịnh được đề mục thiền trước sự hiện diện của Trưởng lão
Ni Patacara, đoạn nàng quay trở về phòng và ngồi trong tư thế
kiết già. Nàng đã quyết tâm như sau: “Ta sẽ không bỏ tư thế ngồi
thiền kiết già cho đến khi tâm ta được hoàn toàn giải thoát khỏi
mọi ô uế, không còn chấp thủ nữa.” Nàng bắt đầu quan sát đề
mục thiền của mình và đến đúng thời gian qui định, sau khi đã
quyết tâm hành thiền quán, nhờ vào thánh đạo nàng đã chứng đắc
từng thánh đạo một, nàng chứng thánh quả A-la-hán kèm theo
kiến thức trực tiếp và Tứ vô ngại giải. Nàng nghĩ rằng, “Giờ đây
ta đã thực hiện hoàn hảo bổn phận của mình liên quan đến mười
chín tuệ duyệt xét lại.” và tràn ngập niềm vui, nàng đã thốt lên lời
tuyên bố long trọng. Đoạn nàng duỗi thẳng chân ra vào lúc mặt
trời mọc. Đoạn vào lúc bình minh, nàng chạy lại gặp Trưởng lão
Ni Patacara và nhắc lại những đoạn kệ đó. Chính vì thế có lời nói
rằng, “Ta đã thực hiện lời khuyên của ngài. Ý nghĩa toàn bộ
những gì còn lại cũng đã được giải thích.
Đến đây kết thúc chú giải về các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Uttara.
2. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI CALA.
Các đoạn kệ bắt đầu với Sau khi đã an trú niệm là các đoạn kệ
của Trưởng lão Ni Cala. Nàng cũng đã thực hiện được rất nhiều
phước thiện dưới thời chư vị Phật tiền kiếp và tích lũy được hạnh
thiện nơi nhiều kiếp khác nhau làm căn giải thoát. Dưới thời Đức
Phật hiện tại, nàng đầu thai trong lòng phụ nữ Bà la môn tên là
Rupasari trong ngôi làng Nalaka thuộc thành phố Magadha. Vào
ngày đặt tên cho nàng, người ta quyết định lấy tên Cala đặt cho
nàng. Người em gái của nàng có tên là Upacala, và rồi lại có một
người em gái khác tên là Sisupacala. Ba người này là em gái của
vị Pháp Thống Soái. Những cậu con trai của ba chị em gái này
199
cũng được đặt cùng tên như mẹ chúng. Vì thế đoạn kệ của chư vị
Trưởng lão lại bắt đầu với. “Cala, Upacala và Sisupacala” đã
được truyền lại cho chúng ta cho đến ngày nay.
Đoạn ba chị em đã nghe tin vị Pháp Thống Soái đã xuất gia, họ
suy nghĩ: “Chắc chắn giáo pháp của ngài không thuộc hạng giáo
pháp và giới luật hạ cấp, cũng chẳng phải là cách xuất gia tầm
thường khiến cho người anh đáng kính của chúng ta phải xuất gia
để thực hiện. Họ thọ nhận chánh tinh tấn, phấn khởi và từ bỏ bà
con đang khóc lóc với vẻ mặt đẫm lệ rồi xuất gia. Sau khi đã xuất
gia họ nổ lực và cố gắng rất nhiều. Chỉ trong một thời gian rất
ngắn họ chứng thánh quả A-la-hán. Đoạn sau khi đã chứng A-la-
hán họ được hưởng hạnh phúc tịch tịnh Níp Bàn và hạnh phúc nơi
thánh quả đó.
Một ngày kia, một trong số ba người, là Tỳ khưu Ni Cala, sau khi
đã dùng bữa, quay trở về nhà sau chuyến khất thực liền đi vào
cánh rừng Andha và ngồi nghỉ tại chỗ dành riêng để nghỉ trưa.
Thế rồi Ma vương tiến gần nàng và bầy ra những lạc thú tham
dục liên quan đến vấn đề này, có lời kể lại trong bài kinh như sau:
Bấy giờ Tỳ khưu Ni Cala khoác áo choàng vào buổi sáng, lấy
y cà sa và bát khất thực, đi vào thành Savatthi trong chuyến khất
thực. Và sau khi dùng bữa nàng đã trở về từ chuyến khất thực.
Đoạn nàng tới cánh rừng Andha là nơi nghỉ trưa, nàng tiến sâu
vào khu rừng Andha và ngồi thiền dưới gốc cây. Thế rồi Ma
Vương một kẻ ác tâm xuất hiện và tiến đến gặp Tỳ khưu Ni Cala.
Sau khi đã tiến đến gặp Tỳ khưu Ni Cala hắn lên tiếng.
Khi nàng còn ngồi tại nơi nghỉ trưa trong cánh rừng Andha. Ma
vương tiến đến gặp nàng và muốn khuyến dụ nàng khỏi cuộc
sống giới đức. Hắn lên tiếng hỏi, “Nàng cạo trọc đầu theo giáo
pháp của vị nào vậy?”[9] v.v…đoạn nàng giải thích sự cứu rỗi và
những phẩm hạnh thiện nơi Giáo Pháp của Đạo sư nàng đang
theo đuổi. Và cho biết nàng đã vượt thắng tham dục và đang thực
hiện chính bổn phận nàng đã theo đuổi. Nghe nàng nói thế, Ma
Vương rất thất vọng và buồn bã vô cùng, rồi biến mất ngay. Đoạn
nàng tụng các đoạn kệ với Ma Vương và nàng đã thốt lên vào lúc
đó như là một lời tuyên bố long trọng. Nàng thốt lên như sau:
182. Sau khi an trú niệm, Tỳ khưu Ni luyện các căn, ta nhập thể
trạng thái an tịnh, an lạc tịnh các hành.
200
183. “Nàng xuống tóc là theo giáo pháp của ai?” Ma Vương hỏi
ta vậy. “Ngươi giống kẻ tu khổ hạnh, sao không theo hệ phái nào,
sao ngươi tu luyện điều đó, hỡi kẻ ngu xuẩn kia ơi.
184. Các giáo phái ngoài Tăng Đoàn này chỉ dựa trên tà kiến,
ta trả lời, “Họ không hiểu chánh pháp, cũng không thuần thục
pháp.
185-186. Xuất thân từ dòng tộc Thích Ca, Đức Phật bậc vô tỳ,
Ngài dạy ta giáo pháp Ngài, vượt qua mọi tà kiến. Ngài thuyết
bát chánh đạo về khổ cùng với nguyên nhân khổ, rồi vượt thắng
khổ và chánh đạo diệt khổ.
187. Ta nghe lời Phật dạy, an trú hoan hỷ nơi giáo pháp. Ta
chứng tam minh, ta đã thực hiện lời Phật dạy.
188. “Bất kỳ nơi nào hỷ diệt đoạn, đám mây u ám vô minh phá
tan tành, hãy biết rõ như vậy, ngươi ác ma, ngươi đã bị hại, hỡi
Ma Vương.
182. Ở đây, sau khi an trú niệm có nghĩa là: khiến cho nhập niệm
được thực hiện nhờ việc tu luyện tứ niệm xứ thân v.v…là xấu xa,
đau khổ, vô thường và vô ngã. Tỳ khưu Ni có nghĩa là: nàng muốn
nói tới chính mình. Với căn được tu luyện (bhavit’-indriya) có
nghĩa là: với ngũ căn, đức tin, v.v… được tu luyện cẩn thận nhờ
vào việc tu luyện chánh đạo. Ta đã thấu triệt an tịnh hành có
nghĩa là: ta đã thấu triệt, ta hiện chứng đạo an tịnh, tịch tịnh, níp
bàn, qua thọ hiện chứng. An lạc tịnh các hành có nghĩa là: tạo ra
nguyên nhân để an tịnh toàn bộ các hành. hạnh phúc (sukham) có
nghĩa là: hạnh phúc bất tận.
183. Theo giáo pháp của người nào là đoạn kệ chính Ma vương
thốt lên. Đây là ý nghĩa ngắn gọn: có rất nhiều giáo pháp trên cõi
đời này và cũng có nhiều người sáng lập ra các giáo phái được
gọi là đạo sư của các giáo pháp đó. Nàng nhắm tới những kẻ
trong số họ được kể như là lý do cho người ta xuống tóc theo
họ? Không những chỉ có cạo đầu không thôi, nhưng nàng còn
được coi như là một ẩn sĩ khổ hạnh vì nàng đang mặc y cà sa màu
vàng. Nhưng nhà ngươi không theo (na ca rocesi) hệ phái nào có
nghĩa là: vì vậy ngươi không theo (n’eva rocesi) bất kỳ giáo phái
nào với giáo pháp này hay giáo pháp nọ đã trở thành gương sáng
cho chư vị ẩn sĩ và chư vị hành giả v.v…sao ngươi sống si mê
như vậy hỡi đồ ngu ngốc? Có nghĩa là: tại sao nhà người lại sống
như vậy, nhà ngươi chu du tái sanh đây đó, thật lẫn lộn to lớn, đi
201
theo tà đạo. Sau khi đã từ bỏ thánh đạo dẫn đến Níp Bàn do các
giáo phái đó đã sửa soạn?.
184. Nghe thấy vậy làm cho ma vương hoảng sợ bắt đầu lời
lamđáp lại của nàng, Trưởng lão Ni đọc lên đoạn kệ bắt đầu với
[Những giáo phái] bên ngoài Tăng Đoàn này. Ở đây, những giáo
phái nằm ngoài Tăng Đoàn này, ở đó (tăng đoàn) này có nghĩa là
bắt đầu với những vị ẩn sĩ lại muốn sống tại gia, những vị ẩn sĩ
không có thiện chí, v.v.. Họ giương bẫy tham lam và bẫy tà kiến
cho chúng sanh, sau khi đã phát tán ra, chính vì thế họ được gọi
là các giáo phái. Chính vì thế nàng nói, [họ] dựa
trên (upanissita) tà kiến, có nghĩa là: dựa trên sự chấp nhận
(upecca nissita) tà kiến về vĩnh cưủ, họ tự nhận lấy cho mình tà
kiến. Đó là ý nghĩa và bất cứ lúc nào họ cũng gắn kết với tà kiến,
từ lúc đó họ là những người gắn bó với các giáo phái. Họ không
biết rõ giáo pháp có nghĩa là: bất kỳ giáo phái nào gắn kết với tà
kiến về trường cửu, cho rằng, “qui trình này tiến tới theo kiểu
này.” Họ chẳng biết qui trình giáo pháp thực sự như thế nào. Họ
không thuần thục pháp có nghĩa là: Họ cho rằng, “Điều gì quay
trở lại, như vậy có sự quay trở lại.” Họ không thuầân thục ngay cả
những điều buộc phải quay trở lại nữa. Họ tự lừa dối mình liên
quan đến chánh đạo cần phải theo, họ còn bị lừa dối đến thế nào
liên quan đến điều quay trở lại.
185. Sau khi đã chứng tỏ những giáo lý của các giáo phái khác
không dẫn đến tịch tịnh hay níp bàn, để có thể trả lời cho câu
hỏi Nàng theo đuổi giáo pháp nào mà lại xuống tóc thế? Nàng trả
lời, [Đức Phật …] được sanh ra nơi dòng tộc Thích Ca, v.v…Ở
đây, giáo pháp hoàn toàn vượt qua mọi tà kiến điều đó là sai để
chinh phục (samatikam-anupayam) toàn bộ tà kiến. Phần còn lại
đã được giải thích.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Cala.
3. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI UPACALA.
Các đoạn kệ bắt đầu với Trú niệm có pháp nhãn là của Trưởng
lão Ni Upacala. Chuyện kể về nàng cũng giống như chuyện kể
của Trưởng lão Ni Cala. Cũng Giống như Cala nàng cũng đã xuất
gia, an trú thiền quán và sau khi chứng quả A-la-hán, nàng thốt
lên đoạn kệ này như là lời tuyên bố long trọng:
202
189. Trú niệm, có pháp nhãn, có Tỳ khưu Ni tu luyện các căn,
ta thể nhập đạo an tịnh, bậc thượng nhân hành trì.
189. Ở đây, Trú niệm (satimati) có nghĩa là: được phú bẩm với
thiền niệm (sati-sampanna) trước đây ta đã có thiền niệm tuyệt
vời và khéo luyện (sati-nepakkena) sau này nàng lại có thiền niệm
lớn lao nhất (satiya) vì nàng đã chứng thiền niệm rất dồi dào (sati-
vepulla-ppattiya) và tu luyện chánh đạo. Đây chính là ý nghĩa
đoạn kệ trên. Có pháp nhãn (cakkhumati) có nghĩa là: có con mắt
khôn ngoan (pađđa-cakkhuna) v.v… có được khôn ngoan chánh
trực và thông suốt liên quan đến sanh diệt. Người ta nói rằng nàng
có pháp nhãn rất tuyệt vời (pađđa-cakkhuna) vì nàng chứng khôn
ngoan rất dồi dào. Chỉ có bậc thượng nhân mới hành trì có nghĩa
là: được các bậc thượng nhân tu luyện mà thôi. Chứ không phải
kẻ ác nhân, người hiền đức nhất, Chư Phật cao thượng v.v…
Đoạn kệ bắt đầu với Tại sao ngươi không chấp nhận tái sanh? Do
chính Ma vương là người muốn đem ngài quay trở lại với tham
dục. “Hỡi Tỳ khưu Ni, ngài không chấp nhận điều gì?” Ma vương
hỏi. Trưởng lão Ni nói, “Hỡi chư huynh, ta không chấp nhận tái
sanh.”[18] Đoạn Ma Vương chỉ ra cho thấy, “Người nào được
sanh ra thì muốn khoái cảm tham dục; chính vì thế sanh được ước
muốn, tham dục không thưởng thức được.” và ma vương thốt lên
đoạn kệ này:
190. Tại sao ngươi không thích sanh? Bất kỳ ai sanh ra đều
thích hưởng tham dục, hãy hưởng thọ dục lạc để sau này khỏi hối
tiếc.
190. Ý nghĩa đoạn kệ này như sau: Đâu là lý do mà nhà ngươi,
hỡi Upacala, lại không thích sanh? Chẳng có lý do gì [biện minh]
được thái độ đó. Vì bất kỳ ai được sanh ra đều thích hưởng
(bhuđnjati) dục lạc (kamani) bất kỳ người nào sanh ra trên thế
gian này đều muốn hưởng (paribhuđjati) hạnh phúc dục lạc bằng
cách theo đuổi sắc giới, v.v…liên quan đến những bộ phận dục
lạc. Điều này không thấy tồn tại nơi những người nào không được
sanh ra. Chính vì thế, hãy thưởng thức dục lạc, hãy cảm nghiệm
sảng khoái tiêu khiểân dục lạc. Kẻo sau này phải hối tiếc. [có
nghĩa là] xin đừng có hối tiếc sau này, nói rằng, “Ta không
thưởng thức hạnh phúc dục lạc khi ta vẫn còn trẻ và lúc còn có
thể thưởng thức được. Trên cõi đời này, tuy nhiên, các hiện tượng
đều tồn tại bao lâu đích chính là hiểu biết ý nghĩa và hạnh phúc
203
dục lạc, ý nghĩa ở đây là, mục tiêu này quá phổ biến. Khi nghe
thấy điều này, Trưởng lão Ni khiến cho Ma vương phải khiếp sợ
bằng cách giải thích đặc tính đau khổ khi sanh và chính việc nàng
đã vượt thắng được dục lạc. Và nàng đã thốt lên những đoạn kệ
này:
191. Đã có sanh thời phải có diệt. Bị chặt đứt chân tay, bị giết
và trói cột phiền não. Bất kỳ ai đã sanh ra phải chịu khổ.
192-193. Bậc Giác Ngộ bất chiến bại đã sanh ra nơi thân tộc
Thích Ca. Ngài diễn giải cho ta giáo pháp để vượt thắng khỏi
sanh: đau khổ, nguyên nhân đau khổ, diệt khổ, con đường dẫn
đến tịch tịnh khổ.
194. Ta nghe lời ngài dạy và sống vui thích giáo pháp. Ta
chứng đắc tam minh. Ta đã thực hiện lời Phật dạy.
195. Bất kỳ nơi nào hưởng dục lạc bị huỷ diệt. Khối u ám vô
minh vỡ tan tành. Hãy biết vậy hỡi ác ma ngươi đã bị diệt hỡi ma
vương.
191. Ở đây, đã có sanh thời phải có tử có nghĩa là: vì đối với bất
kỳ ai đã được sanh ra, đối với bất kỳ chúng sanh nào, đều phải
chết chứ không dành cho những kẻ không được sanh ra. Không
những chỉ có chết, nhưng đối với bất kỳ ai được sanh ra cũng phải
chịu đau khổ già cả, bệnh hoạn và toàn bộ những bất hạnh liên
quan đến sanh đó. Chính vì thế Đức Phật có nói rằng, “Với sanh
là nguyên nhân liền xuất hiện già và chết, sầu khổ, than vãn, đau
khổ, phiền muộn và thất vọng.” Chính vì thế nàng nói: tay chân
(hattha-padana) bị chặt bỏ có nghĩa là: người nào đã được sanh ra
có thể bị chặt chân tay, kẻ không sanh ra thì không phải chịu như
thế. Như vậy nàng nói: bị giết hại, bị trói buộc và bị lăng mạ
nhục nhã. Mọi người đã sanh ra đều phải chịu đau khổ. [có nghĩa
là:] mọi người đều phải sanh ra – chẳng có người nào không
được sanh ra. – đều phải chịu bất kỳ đau khổ nào diễn ra. như thể
bị phạt,bị đánh, đây cũng là từ đồng nghĩa với những cú đấm
trong cuộc sống.Và cực hình phạt trói buộc,đồng nghĩa với bị ách
phược trói buộc, chính vì thế mà ta không chấp nhận sanh.
192. Giờ đây, nàng bắt đầu với nguyên nhân và chứng tỏ cho thấy
một thực chất là chính nàng đã vượt thắng sanh và dục lạc hoàn
toàn; chính vì thế, nàng nói rằng. [Bậc giác ngộ bất chiến bại] là
người sanh ra trong dòng tộc Thích Ca v.v…ở đây, bất chiến bại
(aparajito) có nghĩa là: không bị ai đánh bại (na parajito) do bất
204
kỳ ai như thể Ma Vương hay các lậu hoặc v.v… Đối với vị Đạo
Sư người nào vượt thắng được tất cả, đứng vững đó. Sau khi đã
thắng được toàn bộ thế gian này kể cả chư thiên ; chính vì
thế [ngài trở thành] vị bất chiến bại].Ý nghĩa phần còn lại đã quá
rõ ràng.
Đến đây kết thúc chú giải về đoạn kệ của Trưởng lão Ni Upacala.
Đến đây cũng kết thúc luôn phần chú giải phẩm tập bảy kệ.
7.1. CHÚ GIẢI ĐOẠN KỆ CỦA TRƯỞNG LÃO NI
SISUPACALA
Trong tập tám kệ này, những đoạn kệ bắt đầu với Một Tỳ khưu Ni,
có tâm giới đức là của Trưởng lão Ni Sisupacala. Chuyện kể về
bà đã được mô tả giống như câu chuyện về Trưởng lão Ni Cala.
Khi nàng nghe tin vị Thống Lãnh Phật Pháp đã xuất gia, trong
lòng hết sức phấn chấn và cũng xuất gia theo gương người anh.
Nàng thực hiện những nhiệm vụ cơ bản đầu tiên và thọ trì thiền
quán. Đoạn cố gắng và hành chánh tinh tấn, chỉ trong một thời
gian ngắn, nàng đã chứng thánh quả A-la-hán. Một ngày kia, nhìn
lại thành tích của mình nàng nghĩ, “Ta đã chu toàn nhiệm vụ của
mình.” Và nàng thốt lên đoạn kệ này như là một lời tuyên bố long
trọng:
196. Một Tỳ khưu Ni đã có tâm giới đức, khéo hộ trì các căn.
Sẽ đạt được trạng thái an tịnh, chẳng tạo ra thừa mứa thưởng
thức hương vị ngọt ngào bao giờ.
196. Ở đây, có tâm giới đức tốt (sila-sampana) có nghĩa là: sẵn
có (samanagata), có tràn đầy, phẩm hạnh giới đức của một vị Tỳ
khưu Ni (bhikkhuni-silena). Khéo hộ trì các căn (indriyesu) có
nghĩa là: khéo kiểm soát (su??hu sa?vuta) các căn nơi mình, có
giác quan thứ sáu, với các căn được khéo khép lại, sau khi đã loại
bỏ tham dục liên quan đến tham lam, sân hận, liên quan đến
những gì không thiện cảm, và sân si liên quan đến những gì phải
nắm giữ một cách khách quan. Chẳng bao giờ gây ra thừa mứa
những hương vị ngọt ngào có nghĩa là: không nhất thiết bất kỳ ai
thêm vào gì nơi hương vị ngọt ngào, có tính chất ngọt ngào,có
tính chất như là liều thuốc chữa trị nhằm giảm bớt bệnh tật phiền
não, con đường cao thượng hay nói cách khác, là tịch tịnh, (hay
đạt níp bàn). Và thật là điều thích hợp khi ta gọi chánh đạo là đạo
205
an tịnh bởi vì bất kỳ ai muốn chứng tịch tịnh thiêu rụi hết lậu
hoặc đều phải theo đuổi cả.
197. Hỡi Chư Thiên Tam Thập Tam và Dạ ma (yama) rồi đến
Cõi Trời Đâu Xuất (Tusita), chư thiên Hoá lạc thiên
(Nimmanarati) rồi Chư thiên Tha hoá tự tại (Vasacatti) - hãy
hướng tâm đến nơi đó, là chỗ xưa kia các ngài đã sống.
Chính Ma vương đã thốt lên đoạn kệ này, vì muốn cho Trưởng
lão Ni sẽ từ bỏ ý nguyện bằng cách xúi giục nàng nói rằng, “Hãy
mong mỏi tái sanh nơi cõi tham dục.”
197. Tại nơi đó những cư dân thuộc cõi Tam Thập Tam đã thực
hiện được nhiều phước nghiệp đã sanh ra, nơi đó được gọi là cõi
Tam Thập Tam (“thuộc cõi tam thập tam”) tất cả chư vị chư thiên
được tái sanh trong đó được gọi là chư thiên Tam Thập Tam.
Nhưng một số người lại cho rằng Tavatimsa chỉ là tên gọi các chư
thiên Tam thập mà thôi, những người nào đã thành công và đạt
đến, đã tới nơi hạnh phúc thiên giới siêu việt nơi đệ nhị thiên giới
được gọi là chư thiên Dạ ma. Những người nào hài lòng, mãn
nguyện do thành công họ đã đạt được có tên đặt cho là chư thiên
Cõi Trời Đâu Xuất (Tusita). Những người nào cảm khoái
với (ramanti) chính những đối tượng họ tạo ra được tiêu khiển
như ý họ mong muốn bất kỳ lúc nào họ muốn thụ hưởng cảm
khoái một đối tượng cao cấp, đã được tạo ra, được gọi là chư
thiên hoá lạc thiên (Nimmanarati). Những người nào có khả năng
(vasa? vattanti) cảm khoái do tha nhân tạo ra, cũng am hiểu cảm
khoái tâm linh, có tên gọi là chư thiên Tha hoá tự tại
(Vasavatti). Hãy hướng tâm tới đó có nghĩa là: hãy dồn sự chú ý
(tâm) vào nhóm chư thiên đó, tức là chư thiên Tam Thập Tam,
v.v…hãy mong ước được tái sanh tại cõi đó. Người ta nhắc tới
chư thiên Tam Thập Tam; ý nghĩa ở đây chính là các cảm khoái
thuộc cõi Tứ Đại Thiên Vương được coi là cõi hạ giới. Là nơi
trước kia ngươi đã sanh sống có nghĩa là: nơi những nhóm chư
thiên ngươi đã sinh sống với họ trước kia. Người ta kể lại rằng
trước kia, bắt đầu với việc được tái sanh nơi cõi Ba mươi Ba,
nàng đã xem xét nghiên cứu năm cõi chư thiên dục lạc. Đoạn
cũng xuống sinh sống tại đó nơi cõi Trời Đâu xuất, và khi nàng
tịch diệt khỏi cõi đó, nàng được sanh ra nơi cõi chúng sanh này.
Nghe thấy vậy, vị Trưởng lão Ni lên tiếng, “Nói về cõi dục lạc
như vậy là đủ rồi, hỡi Ác Ma kia! Vì toàn bộ các cõi khác đã bốc
206
cháy, đang bị thiêu đốt với ngọn lửa dục vọng, v.v…và đối với
người thông thái, tâm trí họ chẳng ham thích chút nào.” Đoạn
nàng dọa Ma vương, tỏ cho biết thực chất tâm nàng đã vượt khỏi
những dục lạc và khỏi cõi đó từ lâu rồi và nàng thốt lên những
đoạn kệ này:
198- 199. Chư thiên cõi Tam Thập Tam và cõi Dạ Ma rồi cõi
Trời Đâu Xuất, chư thiên cõi Hoá Lạc và cõi Tha hoá tự tại, đã
trải qua hết thời này đến thời khác, hết hữu sanh này đến hữu
sanh khác, đều bị thân kiến thống lãnh và chi phối liên tục. Họ
không thoát nổi ảnh hưởng đó, luân chuyển vòng sanh tử.
200. Toàn cõi thế gian đang bốc cháy. Toàn cõi đời này đang
bị thiêu rụi. Toàn cõi giới đang bốc lửa. Toàn cõi thế gian đang
rúng động.
201. Đức Phật đã dạy ta giáo pháp ngài, Pháp bất động vô tỷ,
người đời thường không thể tu luyện, tâm ý ta luôn gắn bó chặt
chẽ nơi giáo pháp đó.
202. Ta nghe lời Phật dạy và vui sống pháp ấy. Ta đạt được
tâm minh, ta đã thực thi lời Phật dạy.
203. Khắp nơi nơi hỷ đoạn diệt, đám u tối vô minh bị phá vỡ
tan tành. Hãy biết rõ điều đó hỡi ác ma ngươi đã bị đánh bại, tử
là lúc kết thúc.
199. Ở đây, hết thời này đến thời khác có nghĩa là: nơi nhiều thời
khắc đa dạng. Hết hữu sanh này đến hữu sanh khác có nghĩa là:
từ hữu này tới hữu khác. Thân có nghĩa là: nhóm ngũ uẩn. Bị chi
phối (purakkhata) có nghĩa là: được đặt ra phía trước
(purakkhara-karino). Đây là điều được đề cập tới: “Hỡi ác ma,
nhà ngươi đã đề cập đến chư thiên Tam Thập Tam, v.v…phải lưu
lạc hết hiện hữu này tới hiện hữu khác, đã an trú nơi thân có dính
líu tới nhiều nỗi hiểm nghèo như thể vô thường, v.v…Chính vì
thế, vào thời điểm phải tái sanh nơi cõi hiện hữu đó. Khi họ đang
thọ hưởng được nửa cuộc đời và vào lúc sanh hết, vào bất kỳ thời
điểm nào trong cuộc sống họ chỉ biết tôn thờ cá nhân, mà không
hướng về giải thoát, đang luân chuyển lòng vòng nơi bờ bến thân
kiến. Lưu lạc nơi sanh diệt, theo đuổi sanh diệt liên hồi. Vì chạy
theo tham dục, v.v… họ không thể rời khỏi được cõi đời này.
200. Toàn bộ cõi đời này đang bốc cháy, có nghĩa là: hỡi ác ma,
không chỉ có cõi tham dục nhà ngươi đề cập đến đựơc gọi Tam
Đại. Nhưng toàn cõi thế gian này đang bốc cháy với mười một
207
ngọn lửa tham dục, v.v… Và một thực chất đó là bị bốc cháy
(adipita-taya) với những cõi đó liên tục, thì cõi này bị tiêu
huỷ (padipito); vì trở thành một ngọn lửa duy nhất, cõi đó bị thiêu
rụi; vì cõi này trở thành không ổn định do nơi này nơi khác đã bị
tham lam và tất cả các lậu hoặc khiến cho lung lạc (kampitataya)
nên cõi đó đã bị lung lay (pakampito)
201. Nơi cõi đời này đang bị thiêu rụi, bốc cháy, và rung chuyển
kiểu đó. [Giáo pháp] không ai có thể làm cho lung lay hay di
chuyển đi đâu được. Thế nên giáo pháp đó không bị lung lay. Vì
giáo pháp này không thể so sánh (tuletum) với điều gì khác được,
nói rằng, “Quả là một phẩm chất tuyệt vời.” Vì giáo pháp đó
chẳng có thể so sánh với bất kỳ điều gì khác được.Vì giáo pháp
này chỉ được tu luyện thông qua tu luyện tâm linh do những bậc
thiện thệ như chư vị Phật, thế nên người đời thường không thể tu
tập được [nhưng chỉ do] Đức Phật, là vị thiện thệ mà thôi, thông
qua đại bi của ngài, và với tâm được thôi thúc mạnh mẽ, ngài đã
diễn giải tâm ý siêu thế, chín thánh đạo, thánh quả và níp bàn;
ngài thông báo cho toàn cõi chư thiên và chúng sanh được biết rõ.
Với giáo pháp đó có nghĩa là: tâm ta đã gắn kết chặt chẽ
(nirato), tràn ngập hoan hỷ (abhirato) nơi giáo pháp của Đức
Thiện Thệ. Tâm trí ta không rời xa giáo pháp đó. Đó là ý nghĩa
muốn nói tới ở đây. Ý nghĩa phần còn lại cũng đã được giải thích
rõ.
Đến đây kết thúc phần chú giải các đoạn kệ của Trưởng lão Ni
Sisupacala.
Đến đây cũng kết thúc chú giải tập tám kệ.