Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 109

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH CHÂU ÂU (EVFTA) VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh doanh thương mại

HỌ TÊN HỌC VIÊN: LÊ QUỲNH THƠ

Hà Nội - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA)
và những vấn đề đặt ra đối với ngành Nông nghiệp Việt Nam

Ngành: Kinh doanh


Chuyên ngành: Kinh doanh thương mại

Mã số: 60340121

Họ và tên học viên: Lê Quỳnh Thơ

Người hướng dẫn: GS,TS Hoàng Văn Châu

Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của tác
giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS, TS Hoàng Văn Châu.

Nội dung của luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được
đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và trang web theo danh mục tài liệu tham khảo
của luận văn. Các số liệu, bảng biểu được sử dụng để nghiên cứu, phân tích, nhận
xét, đánh giá trong luận văn đều được lấy từ các nguồn chính thống như đã trích dẫn
trong bài và trong danh mục tài liệu tham khảo. Những kết quả nghiên cứu được
trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình
thức nào.

Nếu phát hiện bất cứ sự gian lận nào, tác giả xin chịu trách nhiệm trước Hội
đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.

Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2017

Tác giả luận văn

Lê Quỳnh Thơ
LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian làm luận văn, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, đóng góp ý
kiến và chỉ bảo nhiệt tình của thầy cô, gia đình và bạn bè.

Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến GS,TS Hoàng Văn Châu - trường Đại
học Ngoại thương Hà Nội, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá
trình làm khoá luận.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại học Ngoại
thương Hà Nội nói chung, các thầy cô giảng dạy chuyên ngành Kinh doanh thương
mại nói riêng đã dạy dỗ cho tôi kiến thức về các môn đại cương cũng như các môn
chuyên ngành, giúp tôi có được cơ sở lý thuyết vững vàng và tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè, đã luôn tạo điều
kiện, quan tâm, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.

Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2017

Tác giả luận văn

Lê Quỳnh Thơ
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN


LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC BẢNG.................................................................................................i
DANH MỤC BIỂU ĐỒ............................................................................................i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT..................................................................................ii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN...........................................iii
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: HIỆP ĐỊNH EVFTA VÀ CÁC NỘI DUNG LIÊN QUAN NÔNG
NGHIỆP ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG HIỆP ĐỊNH.................................................8

1.1. Hiệp định EVFTA.........................................................................................8

1.1.1. Khái quát về Hiệp định EVFTA..............................................................8


1.1.2. Các đối tác tham gia.................................................................................8
1.1.3. Kết quả đàm phán EVFTA của Việt Nam...............................................9

1.2.Các nội dung liên quan đến Nông nghiệp được đề cập trong Hiệp định..11

1.2.1. Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của EU (các cam kết về thuế
quan) ............................................................................................................. 11
1.2.2. Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của Việt Nam (các cam kết về
thuế quan)........................................................................................................12
1.2.3 Cam kết về quy tắc xuất xứ.....................................................................13
1.2.4. Cam kết về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT).....................15
1.2.5. Các biện pháp phòng vệ thương mại.....................................................16
1.2.6. Cam kết về các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch
động, thực vật (SPS)........................................................................................18
1.2.7. Cam kết về sở hữu trí tuệ.......................................................................19
1.2.8. Cam kết về đầu tư...................................................................................21
1.2.9. Cam kết về hợp tác và phát triển bền vững............................................23

1.3. Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia Hiệp
định EVFTA.......................................................................................................24
1.3.1. Cơ hội.....................................................................................................24

1.3.1.1. Tiếp cận thị trường...................................................................24


1.3.1.2. Tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu..........................................24
1.3.1.3. Đổi mới và phát triển bền vững................................................25
1.3.1.4. Hoàn thiện thể chế và năng lực thực thi...................................25

1.3.2. Thách thức.............................................................................................26

1.3.2.1. Môi trường cạnh tranh khốc liệt...............................................27


1.3.2.2. Yêu cầu về quy tắc xuất xứ.......................................................28
1.3.2.3. Năng lực dự báo và năng suất lao động...................................29
1.3.2.4. Vốn và công nghệ tiên tiến.......................................................30
1.3.2.5. Công cụ thương mại quốc tế.....................................................30

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ CÁC


VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM KHI
THAM GIA EVFTA..............................................................................................32

2.1. Thực trạng ngành Nông nghiệp Việt Nam.................................................32

2.1.1. Ngành Trồng trọt...................................................................................32


2.1.2. Ngành Chăn nuôi...................................................................................35
2.1.3. Hoạt động xuất khẩu..............................................................................37
2.1.4. Hoạt động nhập khẩu............................................................................46
2.1.5. Hoạt động đầu tư....................................................................................51

2.2. Đánh giá thực trạng ngành Nông nghiệp Việt Nam..................................53

2.2.1. Điểm mạnh của ngành Nông nghiệp Việt Nam....................................53


2.2.2. Những hạn chế của ngành Nông nghiệp Việt Nam..............................55

2.3. Các vấn đề đặt ra đối với ngành Nông nghiệp Việt Nam khi tham gia
EVFTA................................................................................................................ 58

2.3.1. Đối với xuất khẩu nông sản...................................................................58

2.3.1.1. Khả năng đáp ứng cam kết về quy tắc xuất xứ.........................59
2.3.1.2. Đối mặt với các biện pháp phòng vệ thương mại, biện pháp đối
kháng và biện pháp tự vệ...............................................................................60
2.3.1.3. Đáp ứng hàng rào kỹ thuật đối với thương mại TBT................61
2.3.1.4. Đảm bảo thực hiện cam kết về các biện pháp vệ sinh và kiểm
dịch ...............................................................................................62
2.3.1.5. Các vấn đề nội tại của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản........64

2.3.2. Đối với nhập khẩu nông sản..................................................................64

2.3.2.1. Áp lực cạnh tranh tại thị trường trong nước............................64


2.3.2.2.Năng lực cạnh tranh hạn chế của doanh nghiệp trong nước........
...............................................................................................65

2.3.3. Đối với đầu tư trong nông nghiệp của Việt Nam..................................66

2.3.3.1. Hoạt động thu hút đầu tư vào Việt Nam...................................67


2.3.3.2. Hoạt động đầu tư vào thị trường EU của các doanh nghiệp
nông sản Việt Nam.........................................................................................68

2.3.4. Vấn đề sở hữu trí tuệ..............................................................................70

2.3.4.1. Thiếu nhận thức về tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ,
năng lực thực thi yếu kém..............................................................................73
2.3.4.2. Các chỉ dẫn địa lý bị sử dụng trái phép....................................74
2.3.4.3. Môi trường đầu tư kém hấp dẫn do không thực hiện được các
cam kết trong EVFTA về sở hữu trí tuệ.........................................................74
2.3.4.4. Khả năng đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ chỉ dẫn địa lý................75
2.3.4.5. Nhận thức kém của người tiêu dùng về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ ...............................................................................................75

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH NÔNG


NGHIỆP VIỆT NAM KHI THỰC THI EVFTA................................................77

3.1. Giải pháp đối với doanh nghiêp Việt Nam................................................77

3.1.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh..............................................................77


3.1.2. Xây dựng chiến lược xuất khẩu nông sản.............................................78
3.1.3. Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam....................................79
3.1.4. Tăng cường tiếp nhận chuyển giao công nghệ.....................................81
3.1.5. Mở rộng mạng lưới thông tin, nâng cao kỹ năng dự báo.....................81

3.2. Giải pháp đối với các Hiệp hội ngành hàng...............................................82

3.2.1. Hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp trong hoạt động mở rộng mạng lưới
thông tin...........................................................................................................82
3.2.2. Tăng cường vai trò đại diện cho doanh nghiệp nông sản Việt Nam
trong quá trình hoạt động thương mại quốc tế...............................................83
3.2.3. Hỗ trợ doanh nghiệp trong tiếp cận và chuyển giao công nghệ...........84
3.2.4. Đổi mới cơ chế, tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động........................84

3.3. Kiến nghị, đề xuất đối với Bộ nông nghiệp và Chính phủ Việt Nam.......85

3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cho hoạt
động sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản.............................................85
3.3.2. Có chính sách hỗ trợ cho hoạt động sản xuất chế biến nông sản Việt
Nam ............................................................................................................. 87

KẾT LUẬN............................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................v
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1 Quy tắc cụ thể mặt hàng đối với một số sản phẩm nông nghiệp...............15

Bảng 2.1 Sản lượng cây lương thực, cây thực phẩm 2016 so với 2015...................34

Bảng 2.2 Sản phẩm chăn nuôi giai đoạn 2010 - 2015..............................................36

Bảng 2.3 Giá trị xuất khẩu từ Việt Nam sang EU giai đoạn 2013 - 2016................42

Bảng 2.4 Nhập khẩu một số mặt hàng nông sản năm 2016.....................................47

Bảng 2.5 Trị giá nhập khẩu từ EU vào Việt Nam giai đoạn 2013 - 2016................49

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1 Tăng trưởng sản lượng cây trồng giai đoạn 1990 - 2013......................33

Biểu đồ 2.2 Tăng trưởng sản xuất chăn nuôi 1990 - 2013.......................................35

Biểu đồ 2.3 Thị phần xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới ở một số mặt hàng giai
đoạn 2000 - 2013.....................................................................................................37

Biểu đồ 2.4 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam với EU giai đoạn 2013 - 2016...43

Biểu đồ 2.5 Kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU giai đoạn 2003 - 2016..............44

Biểu đồ 2.6 Kim ngạch xuất khẩu điều sang EU giai đoạn 2003 - 2016..................44

Biểu đồ 2.7 Kim ngạch xuất khẩu tiêu sang EU giai đoạn 2003 - 2016...................45

Biểu đồ 2.8 Kim ngạch xuất khẩu gạo sang EU giai đoạn 2003 - 2016...................45

Biểu đồ 2.9 Kim ngạch xuất khẩu chè sang EU giai đoạn 2003 - 2016...................46

Biểu đồ 2.10 Kim ngạch nhập khẩu thịt và nội tạng từ EU giai đoạn 2003 - 2016. . .50

Biểu đồ 2.11 Kim ngạch nhập khẩu mật ong từ EU giai đoạn 2003 - 2016.............50

Biểu đồ 2.12 Kim ngạch nhập khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa từ EU giai đoạn
2003 - 2016.............................................................................................................. 51

Biểu đồ 2.13 Kim ngạch nhập khẩu đường và bánh kẹo từ EU giai đoạn 2003 - 2016
................................................................................................................................. 51

Biểu đồ 2.14 Cơ cấu đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp theo nguồn vốn đầu
tư giai đoạn 2007 - 2015..........................................................................................52
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết Diễn giải


Ý nghĩa
tắt

Association of South East


ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Asian Nations

Vietnam – Eu Free Trade Hiệp định Thương mại tự do Việt


EVFTA
Agreement Nam - Liên minh Châu Âu

EU European Union Liên minh Châu Âu

EURO Đồng tiền chung Châu Âu

Food And Agriculture


Tổ chức lương thực và Nông nghiệp
FAO Organization of the United
Liên hợp quốc
Nations

FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do

General Agreement on Trade Hiệp định chung về thương mại dịch


GATS
in Services vụ

GI Geographical Indication Chỉ dẫn địa lý

MFN Most Favoured Nation Nguyên tắc tối huệ quốc

MUTRA Multilateral Trade Policy Dự án hỗ trợ chính sách thương mại


P Assistance Project đa biên

R&D Research and Development Nghiên cứu và phát triển

SHTT Sở hữu trí tuệ

Sanitary and Phytosanitary Biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm


SPS
Measure và kiểm dịch động, thực vật

TBT Technical Barriers to Trade Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại

TRIPS Trade-Related Intellectual Hiệp định về khía cạnh thương mại


Chữ viết Diễn giải
Ý nghĩa
tắt

Property Rights Agreement của quyền sở hữu trí tuệ

UN United Nations Liên hợp quốc

USD US DOLLARS Đồng đô la Mỹ

WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới


iii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

Có thể nói, ký kết và thực thi các FTA là một bước đi không thể thiếu trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của bất cứ quốc gia nào. Ký kết và thực thi
EVFTA là một bước đệm cho quá trình đẩy mạnh hợp tác phát triển kinh tế của Việt
Nam và Liên minh Châu Âu EU. Đối với nền kinh tế lấy Nông nghiệp là gốc rễ, nền
tảng, đứng trước cơ hội cần phải biết tận dụng, đứng trước khó khăn cần phải có
những nhận định và giải pháp để đưa ngành Nông nghiệp Việt Nam ngày càng phát
triển mạnh hơn nữa, đưa thương hiệu nông sản Việt Nam đến với người tiêu dùng ở
các quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới. Qua quá trình nghiên cứu,
luận văn đạt được những kết quả như sau:

Thứ nhất, tác giả đã hệ thống hóa các nội dung cam kết trong Hiệp định
EVFTA một cách tổng quát và liệt kê chi tiết các cam kết liên quan trực tiếp đến
ngành Nông nghiệp. Đồng thời, tác giả cũng tổng hợp ngắn gọn các cơ hội và thách
thức mà EVFTA mang lại đối với Việt Nam.

Thứ hai, tác giả đã nêu lên thực trạng của ngành Nông nghiệp Việt Nam, và
mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và EU hiện nay, từ việc tổng hợp và các
phân tích, suy luận, tác giả đã chỉ ra các vấn đề đặt ra đối với ngành Nông nghiệp.
Các vấn đề được chỉ ra nằm trong bốn hoạt động của thương mại liên quan đến
ngành Nông nghiệp, bao gồm: Xuất khẩu, Nhập khẩu, Đầu tư và Sở hữu trí tuệ.
Trong từng hoạt động, tác giả chỉ ra các tác động tiêu cực mà EVFTA có thể mang
lại cho Nông nghiệp một cách cụ thể đến các khía cạnh như năng lực của doanh
nghiệp, tác động của môi trường kinh doanh, tác động của các biện pháp thuế quan
và phi thuế quan theo Hiệp định, cũng như các vấn đề liên quan đến hệ thống pháp
luật, chính sách hỗ trợ Nông nghiệp của Chính phủ Việt Nam…

Thứ ba, từ bối cảnh thực trạng cũng như các vấn đề khó khăn gặp phải được
đề cập trong Chương II, tác giả đã đề xuất các giải pháp, kiến nghị trên ba cấp độ:
Nông dân và doanh nghiệp nông sản, Hiệp hội ngành hàng, Bộ nông nghiệp và
Chính phủ Việt Nam. Theo đó, bên cạnh nỗ lực cải tổ, hạn chế các vấn đề nội tại
của doanh nghiệp, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của các doanh nghiệp
iv

thì Hiệp hội ngành hàng cần làm tốt vai trò hỗ trợ và đại diện cho doanh nghiệp khi
trong bối cảnh hội nhập, các can thiệp về trợ cấp của Chính phủ đã bị hạn chế. Về
phía mình, các bộ ngành liên quan và Chính phủ Việt Nam cũng cần có những động
thái kiến tạo một hệ thống pháp luật hoàn thiện, hỗ trợ cho hội nhập, cùng với đó là
thực thi các chính sách hỗ trợ Nông nghiệp một cách toàn diện và hiệu quả.
1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện đang là xu hướng phát triển của
toàn thế giới và là điều kiện tất yếu trong quá trình phát triển nền kinh tế của bất cứ
quốc gia nào. Thực tế cho thấy, vai trò của các Hiệp định thương mại tự do ngày
càng lớn khi là một công cụ chính sách mà thông qua đó, thực hiện triệt để mục tiêu
mở cửa thị trường quốc tế với hàng loạt các cam kết về cắt giảm thuế quan và phi
thuế quan, cũng như các cam kết về hợp tác bền vững, tạo điều kiện cho thương mại
các quốc gia phát triển được hết tiềm năng trong môi trường và điều kiện kinh
doanh thuận lợi nhất.

Là một quốc gia đang phát triển và tiến tới hòa nhập vào xu hướng mở cửa thị
trường, hội nhập một cách sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã chủ động
tham gia vào quá trình này thể hiện bằng việc ký kết và thực thi các FTA song
phương và đa phương. Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực thi 11 FTA, kết
thúc đàm phán 1 FTA và đang trong giai đoạn đàm phán 4 FTA khác. 11 FTA đã ký
kết gồm có: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do của ASEAN với các đối tác
Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand, Nhật Bản (trong đó Việt Nam
ký kết với tư cách thành viên), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các
đối tác Nhật Bản, Chile, Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế Á - Âu. Hiệp định thương
mại tự do giữa Việt Nam - Liên minh Châu Âu là FTA đã kết thúc đàm phán, 4
FTA mà Việt Nam đang trong giai đoạn đàm phán bao gồm: Hiệp định đối tác kinh
tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Khối EFTA,
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Israel. Các hiệp định mà Việt Nam đã ký
kết hiện đã có những tác động nhất định đến hoạt động thương mại quốc tế nói riêng
và ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung, đặc biệt ở các lĩnh vực xuất nhập khẩu,
đầu tư…Bên cạnh các tác động tích cực như đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút đầu tư
nước ngoài, Việt Nam cũng phải đối mặt với các tác động tiêu cực khác như sức ép
cạnh tranh và các rào cản phi thuế nghiêm ngặt mà các quốc gia khác áp dụng.
2

EVFTA là Hiệp định Việt Nam vừa kết thúc đàm phán, đánh dấu bước thiết
lập chặt chẽ mối quan hệ thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu
khi Việt Nam trở thành quốc gia thứ hai trong khu vực ASEAN ký kết FTA song
phương với EU (sau Singapore), đặc biệt trong bối cảnh EU đang trở thành đối tác
thương mại lớn đứng thứ hai của Việt Nam.

Sau hơn hai mươi năm thiết lập quan hệ ngoại giao, từ năm 1995 Hiệp định
khung về hợp tác EC - Việt Nam được ký kết, EU đã trở thành đối tác chiến lược
trong nhiều lĩnh vực của Việt Nam, đặc biệt là trong thương mại và đầu tư. Thời
gian gần đây, hoạt động thương mại quốc tế giữa Việt Nam và EU liên tục tăng
trưởng với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 1.736 triệu Euro năm 2013 lên tới 2.420
triệu vào năm 2016, trong khi nhập khẩu giai đoạn này tăng hơn gấp hai lần từ 679
triệu lên 1.441 triệu Euro. Thành công trong việc đàm phán EVFTA sẽ là bước đệm
để Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh phát triển quan hệ thương mại hợp tác với các quốc
gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới.

Khi EVFTA được thực thi, có nhiều cơ hội mở ra đối với các ngành xuất khẩu
của Việt Nam. Bên cạnh các ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay
như da giày, dệt may, Nông nghiệp cũng là một ngành kinh tế có nhiều thuận lợi để
phát triển. Việc cắt giảm thuế quan ngay lập tức đối với nhiều nông sản cũng như cắt
giảm theo lộ trình và áp dụng hạn ngạch các mặt hàng nhạy cảm như gạo là một cơ
hội thúc đẩy xuất khẩu, đưa nông sản Việt Nam đến tay người tiêu dùng EU. Bên
cạnh đó, người tiêu dùng Việt Nam được tiếp cận với các sản phẩm xuất xứ EU từ lâu
đã nổi tiếng về chất lượng với mức giá giảm hơn nhiều, nông dân và doanh nghiệp
nông sản được tiếp cận với nguồn vồn và công nghệ tiên tiến từ thu hút đầu tư nước
ngoài…

Tuy nhiên, bên cạnh các cơ hội cũng tồn tại các thách thức mà EVFTA mang
lại đối với Việt Nam như các biện pháp phi thuế quan, rào cản kỹ thuật, an toàn
thực phẩm…Vì vậy, nông dân, doanh nghiệp, các cơ quan ban ngành và Nhà nước
cần có những đánh giá, nhận định toàn diện và sâu sắc về các vấn đề mà Nông
nghiệp Việt Nam phải đối mặt khi EVFTA có hiệu lực vào năm 2018 nhằm đưa ra
những giải pháp, kiến nghị đón đầu, chuẩn bị sẵn sàng nhằm tận dụng các cơ hội
3

tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực mang lại. Bản thân tác giả là một cá nhân
tham gia vào nền kinh tế Việt Nam, là người tiêu dùng các sản phẩm nông sản,cũng
cần có những hiểu biết, những nhận định về các yếu tố có thể ảnh hướng đến lĩnh
vực kinh tế liên quan trực tiếp đến mình.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả xin được chọn đề tài: Hiệp định
Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA) và những vấn đề đặt
ra đối với ngành Nông nghiệp Việt Nam làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Các nghiên cứu về Hiệp định EVFTA đã xuất hiện ngay từ khi Việt Nam và
EU khởi động các vòng đàm phán đầu tiên. Cho đến nay có thể liệt kê một số các
nghiên cứu như sau:

Nghiên cứu trong nước

Công trình nghiên cứu: “Quan hệ kinh tế Việt Nam - Liên minh Châu Âu: thực
trạng và triển vọng” của GS.TS Nguyễn Quang Thuấn (2010)

Phân tích “Tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU đến xuất
nhập khẩu của các ngành công nghiệp Việt Nam” của Phạm Ngọc Phong, Đặng
Thùy Linh và Nguyễn Thị Ánh Ngọc trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập (12/2016).

“Kiến nghị chính sách của Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam về Triển vọng
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Châu Âu” của Ủy ban tư vấn
chính sách Thương mại quốc tế - VCCI (2013). Bài viết “Đánh giá tác động theo
ngành của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU: Sử dụng các chỉ số thương
mại” của Vũ Thanh Hương, Nguyễn Thị Minh Phương trên Tạp chí ĐHQGHN:
Kinh tế và Kinh doanh, Tập 32, số 3 (2016).

Báo cáo “Vietnam - EU free trade agreement: Impact and policy implications
for Việt Nam” (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu: Tác
động và những kiến nghị về chính sách cho Việt Nam) của tác giả Nguyễn Bình
Dương, Đại học Ngoại thương Hà Nội.
4

Các nghiên cứu ở trên đề cập mối quan hệ hợp tác kinh tế của Việt Nam và EU,
bên cạnh đó đề cập đến triển vọng phát triển mối quan hệ này ở góc nhìn vĩ mô của
toàn bộ nền kinh tế. Ở một số nghiên cứu đã có đề cập đến xuất nhập khẩu nói chung
của Việt Nam - EU và tập trung vào một số ngành công nghiệp chủ đạo. Đối với
EVFTA, nghiên cứu cũng chỉ ra các động cơ tham gia hiệp định của EU, đề cập đến
các điểm cần phải cân nhắc của Việt Nam nhằm đưa ra những biện pháp khắc phục
cũng như đề cập đến cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, về các kỳ vọng và quan
ngại, các tác động đến thương mại, các cơ hội thách thức đặt ra và từ đó đưa ra các
giải pháp kiến nghị về mặt chính sách. Chi tiết hơn tại nghiên cứu “Đánh giá tác động
theo ngành của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU: Sử dụng các chỉ số
thương mại”, tác giả đã sử dụng các chỉ số thương mại gồm: giá trị, tỷ trọng xuất
nhập khẩu, chỉ số lợi thế so sánh hiện hữu (RCA) và chỉ số chuyên môn hóa xuất
khẩu (ES) để đánh giá các tác động theo các ngành chia theo mã HS gồm có 19
nhóm.

Như vậy các nghiên cứu trên đã đưa ra những cái nhìn tổng thể nhất về mối
quan hệ thương mại Việt Nam - EU và các tác động cơ bản của EVFTA lên nền kinh
tế, bên cạnh việc đưa ra nghiên cứu tổng quan, cũng có những nghiên cứu chỉ ra tác
động trên một số lĩnh vực nhất định như công nghiệp, các nhóm hàng cụ thể, tuy
nhiên, chưa có một nghiên cứu nào chỉ ra các nội dung của Hiệp định liên quan đến
nông nghiệp, các vấn đề cụ thể Nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt và đưa ra được
giải pháp.

Nghiên cứu nước ngoài

Báo cáo “The free trade agreement between Vietnam and the European Union:
Quantitative and qualitative impact analysis” (Hiệp định thương mại tự do giữa Việt
Nam và Liên minh Châu Âu: Phân tích tác động về định lượng và định tính) của
Mutrap (2011).

Báo cáo “Sustainable impact assessment EU - Vietnam FTA”(Đánh giá tác


động dài hạn của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu) của
Mutrap (2014).
5

Các nghiên cứu nước ngoài hiện có về EVFTA chủ yếu là các báo cáo của
Mutrap. Trong đó, giới thiệu mối quan hệ Thương mại và Đầu tư Việt Nam - EU,
đề cập đến Hiệp định EVFTA, đánh giá tác động về định lượng dựa trên mô hình
cân bằng tổng thể và đánh giá chi tiết các ảnh hưởng đến từng ngành, đặc biệt phân
tích các tác động với một số ngành chủ lực của Việt Nam như dệt may, giày dép, ô
tô, ngân hàng và lĩnh vực đầu tư. Bên cạnh đó cũng đưa ra các kiến nghị cụ thể để
Việt Nam hướng tới phát triển bền vững.

Như có thể thấy ở trên, có khá nhiều các nghiên cứu về EVFTA đã được thực
hiện trong thời gian qua, tuy nhiên các nghiên cứu này phần lớn còn ở góc độ tổng
quan, nghiên cứu vĩ mô cả nền kinh tế. Một số nghiên cứu chỉ ra tác động trực tiếp
của Hiệp định đến các hoạt động thương mại và đầu tư nói chung ở trên tất cả lĩnh
vực, ở các nghiên cứu khác tập trung vào nghiên cứu các ngành hàng quan trọng như
dệt may, da giày, ô tô, điện tử, các ngành công nghiệp khác, chứ chưa có một nghiên
cứu sâu sắc toàn diện nào về lĩnh vực Nông nghiệp. Như vậy, bài luận văn được thực
hiện trong bối cảnh hiện nay, khi EVFTA đã kết thúc đàm phán và sẽ được thực thi
vào năm 2018, được coi như bài nghiên cứu đầu tiên khi chỉ ra các vấn đề cụ thể
ngành Nông nghiệp phải đối mặt cũng như đưa ra các giải pháp, kiến nghị.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm: Thứ nhất, hiệp định EVFTA; thứ
hai, các vấn đề thách thức đặt ra liên quan đến ngành Nông nghiệp Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt nội dung: nghiên cứu những vấn đề đặt ra đối với ngành Nông nghiệp
Việt Nam, trong đó ngành Nông nghiệp được hiểu theo định nghĩa về Nông nghiệp
trong Hiệp định Nông nghiệp của WTO, có nghĩa nông sản bao gồm các sản phẩm
trồng trọt và chăn nuôi, không bao gồm các ngành thủy sản, lâm nghiệp và diêm
nghiệp.

Về mặt không gian: Nông nghiệp của Việt Nam trong lãnh thổ Việt Nam và ở
các nước thuộc Liên minh Châu Âu.
6

Về mặt thời gian: từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là chỉ ra các vấn đề đặt ra đối với Nông nghiệp
Việt Nam khi EVFTA có hiệu lực, từ đó đưa ra các giải pháp đối với doanh nghiệp,
Hiệp hội ngành hàng và các kiến nghị về mặt chính sách.

Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:

NV1) Tìm hiểu cơ sở lý luận chung về Hiệp định EVFTA, các vấn đề liên
quan đến Nông nghiệp được đề cập trong Hiệp định và khái quát các cơ hội nhận
được và thách thức gặp phải của Việt Nam;

NV2) Thực trạng của ngành Nông nghiệp Việt Nam, đánh giá thực trạng và
nêu lên các vấn đề đặt ra đối với nông nghiệp Việt Nam khi tham gia EVFTA;

NV3) Giải pháp cho các vấn đề đặt ra đối với Nông nghiệp Việt Nam khi thực
thi EVFTA.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện các nhiệm vụ trên, tác giả sẽ dựa trên cơ sở lý luận, sử dụng các
phương pháp phân tích, đánh giá, suy luận, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu để tìm ra
các vấn đề đặt ra đối với Nông nghiệp Việt Nam khi tham gia EVFTA.

Cụ thể, với nhiệm vụ 1, để tổng hợp cơ sở lý luận, tác giả đã sử dụng phương
pháp thu thập, tổng hợp dữ liệu, thông tin. Với nhiệm vụ 2, tác giả tiếp tục sử dụng
phương pháp thu thập, tổng hợp dữ liệu, thống kê ngoài ra áp dụng phân tích, so
sánh, suy luận để tìm ra các vấn đề. Với nhiệm vụ 3, tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu, suy luận, so sánh để đưa ra các giải pháp, kiến nghị phù hợp nhất.

6. Những tính mới của luận văn

Lựa chọn nghiên cứu chi tiết các vấn đề thách thức đặt ra đối với Nông nghiệp
Việt Nam khi thực thi EVFTA trong phạm vi ngành Nông nghiệp thuần (bao gồm
trồng trọt và chăn nuôi), từ đó đưa ra được các giải pháp cụ thể cho từng vấn đề, áp
dụng được vào thực trạng ngành Nông nghiệp Việt Nam là tính mới của luận văn.
Các công trình nghiên cứu trước đây chỉ nghiên cứu ở góc nhìn vĩ mô của nền kinh
7

tế như tác động đến hoạt động thương mại hàng hóa và dịch vụ, tác động đến đầu
tư, lao động…các giải pháp đưa ra cũng còn mang tính chung chung ở góc độ vĩ mô
khái quát. Ở một số nghiên cứu về các lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế cũng tập
trung vào các ngành chủ lực như da giày, dệt may, công nghiệp điện tử… mà không
có một nghiên cứu lớn nào về ngành Nông nghiệp Việt Nam ngoài các bài báo, tạp
chí, bài phát biểu…; Ở các bài báo và phát biểu bên ngoài có đề cập đến nông
nghiệp cũng chưa mang tính toàn diện, bao quát, và chưa hệ thống hóa được một
cách đầy đủ các vấn đề mà Nông nghiệp Việt Nam gặp phải và đưa ra được một loạt
các giải pháp, kiến nghị một cách hiệu quả.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm có 90 trang, 06 bảng biểu, 14 biểu đồ, ngoài lời mở đầu, phần
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính được chia làm 3 chương, chi
tiết như sau:

CHƯƠNG 1: HIỆP ĐỊNH EVFTA VÀ CÁC NỘI DUNG LIÊN QUAN NÔNG
NGHIỆP ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG HIỆP ĐỊNH

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ CÁC


VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM KHI
THAM GIA EVFTA

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH NÔNG


NGHIỆP VIỆT NAM KHI THỰC THI EVFTA
8

CHƯƠNG 1: HIỆP ĐỊNH EVFTA VÀ CÁC NỘI DUNG LIÊN QUAN


NÔNG NGHIỆP ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG HIỆP ĐỊNH

1.1. Hiệp định EVFTA

1.1.1. Khái quát về Hiệp định EVFTA

Hiệp định EVFTA là Hiệp định thương mai tự do giữa Việt Nam với Liên
minh Châu Âu. Hiệp định đã được các bên ký tuyên bố kết thúc đàm phàn vào ngày
2/12/2015. Bắt đầu đàm phán từ năm 2012, sau 3 năm đàm phán và chỉ sau 4 tháng
tuyên bố kết thúc cơ bản, EVFTA sẽ sớm được ký kết, làm thủ tục phê chuẩn hiệp
định và đi vào thực thi cam kết. Các bên sẽ nỗ lực hoàn tất các thủ tục cần thiết để
Hiệp định có hiệu lực vào đầu năm 2018 (Trung tâm WTO và hội nhập, 2015)

EVFTA là Hiệp định toàn diện thế hệ mới, và là FTA đầu tiên mà EU ký kết
với quốc gia có mức thu nhập trung bình như Việt Nam.

Các nội dung chính của Hiệp định bao gồm: thương mại hàng hóa, thương mại
dịch vụ, quy tắc xuất xứ, thuế xuất nhập khẩu, hải quan và thuận lợi hóa thương
mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS),
các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các biện pháp phòng vệ thương
mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, lao động, môi trường, phát triển bền vững,
các vấn đề về pháp lý, hợp tác và xây dựng năng lực.

1.1.2. Các đối tác tham gia

Hiệp định EVFTA được ký kết giữa Việt Nam với Liên minh Châu Âu, bao
gồm 28 quốc gia ở khu vực Châu Âu. EU hiện là một trong những đối tác thương
mại lớn nhất của Việt Nam. Cho tới hiện tại, Việt Nam chưa có FTA nào với các
quốc gia trong khu vực này (VCCI, 2015)

EU đã từng khởi động đàm phán FTA với khu vực ASEAN từ năm 2007, tuy
nhiên đến năm 2009 đàm phán đã bị dừng lại. Hiện nay, EU đã hoàn tất đàm phán
FTA với Singapore và Việt Nam, ngoài ra đang đàm phán với Thái Lan và Malaysia
(VCCI, 2015)
9

Sau Hoa Kỳ, EU là đối tác thương mại lớn thứ 2 của Việt Nam. Đặc điểm nổi
bật trong cơ cấu xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và EU là tính bổ sung rất lớn, không
mang tính cạnh tranh đối đầu trực tiếp.

1.1.3. Kết quả đàm phán EVFTA của Việt Nam

Qua quá trình đàm phán, EVFTA đã đưa ra một số kết quả, cam kết ở nhiều lĩnh
vực khác nhau, được thể hiện thông qua 21 chương và các phụ lục của Hiệp định.

Về thương mại hàng hóa

Đối với xuất khẩu của Việt Nam, vào thời điểm Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ
xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3%
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Sau 07 năm kể từ khi Hiệp định có
hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 99,2% số dòng thuế, tương đương
99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đối với khoảng 0,3% kim ngạch xuất
khẩu còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế nhập
khẩu trong hạn ngạch là 0% (Trung tâm WTO và Hội nhập, 2015)

Đối với các nhóm hàng quan trọng, cam kết của EU với Việt Nam như sau:

- Các ngành hàng dệt may, giày dép và thủy sản (trừ cá ngừ đóng hộp và cá
viên): EU sẽ xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu cho các sản phẩm của Việt Nam
trong vòng 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Với cá ngừ đóng hộp, EU đồng ý
dành cho Việt Nam một lượng hạn ngạch thuế quan thỏa đáng. 

- Đối với xuất khẩu gạo: EU dành cho Việt Nam một lượng hạn ngạch đáng kể
đối với gạo xay xát, gạo chưa xay xát và gạo thơm. Gạo nhập khẩu theo hạn ngạch
này được miễn thuế hoàn toàn. Riêng gạo tấm, thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ theo
lộ trình. Đối với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế nhập khẩu về 0% trong 7 năm.

- Hàng mật ong sẽ được xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực và không
áp dụng hạn ngạch thuế quan.

- Toàn bộ các sản phẩm rau củ quả, rau củ quả chế biến, nước hoa quả khác, túi
xách, vali, sản phẩm nhựa, sản phẩm gốm sứ thủy tinh: về cơ bản sẽ được xóa bỏ
thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.
10

Đối với nhập khẩu từ EU vào Việt Nam, Việt Nam cam kết đối với các mặt
hàng chính là:

- Mặt hàng ô tô, xe máy: Việt Nam cam kết đưa thuế nhập khẩu về 0% sau từ 9
tới 10 năm; riêng xe máy có dung tích xy - lanh trên 150 cm3 có lộ trình xóa bỏ
thuế nhập khẩu là 7 năm;

- Rượu vang, rượu mạnh, bia, thịt lợn và thịt gà sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu
trong thời gian tối đa là 10 năm.

Về thuế xuất khẩu, Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn thuế xuất khẩu sau lộ
trình nhất định; chỉ bảo lưu thuế xuất khẩu đối với một số sản phẩm quan trọng,
trong đó có dầu thô và than đá.

Các nội dung khác liên quan tới thương mại hàng hóa: Hai bên cũng thống
nhất các nội dung liên quan tới thủ tục hải quan, SPS, TBT, phòng vệ thương mại,
v.v, tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên hợp tác, tạo thuận lợi cho xuất khẩu, nhập
khẩu của các doanh nghiệp. 

Về thương mại dịch vụ và đầu tư

Về thương mại dịch vụ đầu tư, Việt Nam và EU cam kết nhằm tạo ra một môi
trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp hai bên. So với
trong khuôn khổ Hiệp định WTO, cam kết của Việt Nam có đi xa hơn trong Hiệp
định EVFTA. Cam kết của EU cũng cao hơn cam kết trong WTO và tương đương
với mức cam kết cao nhất của EU trong những Hiệp định FTA gần đây của EU.

Một số lĩnh vực mà Việt Nam cam kết thuận lợi cho các nhà đầu tư EU bao
gồm các dịch vụ chuyên môn như: dịch vụ phân phối, dịch vụ viễn thông, dịch vụ
vận tải, dịch vụ tài chính. Hai bên cũng đưa ra cam kết về đối xử quốc gia trong lĩnh
vực đầu tư, đồng thời thảo luận về nội dung giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư
và nhà nước.

 Về mua sắm của Chính phủ

Qua Hiệp định EVFTA, Việt Nam và EU thống nhất các nội dung tương
đương với Hiệp định mua sắm của Chính phủ (GPA) của WTO. Trong đó gồm một
11

số nghĩa vụ như đấu thầu qua mạng, thiết lập cổng thông tin điện tử để đăng tải
thông tin đấu thầu, v.v, Việt Nam có lộ trình để thực hiện. EU cũng cam kết dành
hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam để thực thi các nghĩa vụ này. 

Việt Nam bảo lưu có thời hạn quyền dành riêng một tỷ lệ nhất định giá trị các
gói thầu cho nhà thầu, hàng hóa, dịch vụ và lao động trong nước. 

Về vấn đề sở hữu trí tuệ

Cam kết về sở hữu trí tuệ gồm cam kết về bản quyền, phát minh, sáng chế,
cam kết liên quan tới dược phẩm và chỉ dẫn địa lý, v.v. Về cơ bản, các cam kết về
sở hữu trí tuệ của Việt Nam là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. 

EVFTA đã có quy định chi tiết về chỉ dẫn địa lý, khi Hiệp định có hiệu lực,
Việt Nam sẽ bảo hộ trên 160 chỉ dẫn địa lý của EU (bao gồm 28 thành viên) và EU
sẽ bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam đều liên
quan tới nông sản, thực phẩm, tạo điều kiện cho một số chủng loại nông sản của
Việt Nam xây dựng và khẳng định thương hiệu của mình tại thị trường EU. 

Các nội dung khác

Hiệp định EVFTA cũng bao gồm các Chương liên quan tới cạnh tranh, doanh
nghiệp nhà nước, phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý - thể
chế. Các nội dung này phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam, tạo khuôn khổ
pháp lý để hai bên tăng cường hợp tác, thúc đẩy sự phát triển của thương mại và
đầu tư giữa hai Bên.

1.2. Các nội dung liên quan đến Nông nghiệp được đề cập trong Hiệp định

1.2.1. Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của EU (các cam kết về
thuế quan)

Đối với vấn đề thuế nhập khẩu vào thị trường EU, Hiệp định EVFTA đã đưa ra
những cam kết cụ thể về cắt giảm thuế đối với các sản phẩm trong ngành nông
nghiệp, được quy định trong các phụ lục về biểu thuế cam kết của EU. Phần lớn nông
sản của Việt Nam nhập khẩu vào EU sẽ được cắt giảm thuế. Một số mặt hàng thuế
suất cơ sở sẽ được xóa bỏ ngay lập tức khi Hiệp định có hiệu lực như một số loại
12

động vật sống, rau củ quả. Các mặt hàng khác sẽ được cắt giảm dẫn đến xóa bỏ thuế
quan theo lộ trình 4 năm, 6 năm, 8 năm… trong khi đó một số mặt hàng sẽ áp dụng
hạn ngạch thuế quan.

Một số mặt hàng nông sản đáng chú ý được quy định như sau:

- Gạo: EU dành cho Việt Nam một lượng hạn ngạch đáng kể đối với gạo xay
xát, gạo chưa xay xát và gạo thơm. Gạo nhập khẩu theo hạn ngạch này được miễn
thuế hoàn toàn. Riêng gạo tấm, thuế nhập khẩu sẽ được xóa bỏ theo lộ trình. Đối
với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế nhập khẩu về 0% trong vòng 7 năm.

- Mật ong: EU sẽ xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực và không áp dụng
hạn ngạch thuế quan.

- Đối với ngô ngọt, tinh bột sắn và tỏi: EU áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với
sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam.

- Đối với đường và các sản phẩm chứa hàm lượng đường cao: EU áp dụng hạn
ngạch thuế quan.

- Toàn bộ các sản phẩm rau củ quả, rau củ quả chế biến, nước hoa quả khác: về
cơ bản sẽ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực.

1.2.2. Cam kết mở cửa thị trường hàng hóa của Việt Nam (các cam kết về
thuế quan)

Đối với vấn đề thuế nhập khẩu vào thị trường Việt Nam, trong biểu thuế của
Việt Nam, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực
đối với hàng hóa của EU thuộc 65% số dòng thuế trong biểu thuế, và cam kết xóa
bỏ trên 99% số dòng thuế trong biểu thuế trong vòng 10 năm. Số dòng thuế còn
lại sẽ áp dụng hạn ngạch thuế quan với mức thuế trong hạn ngạch là 0%. Đối với
ngành nông nghiệp, phần lớn các sản phẩm được xóa bỏ thuế quan theo lộ trình
trong vòng 10 năm, một số nông sản chủ yếu nhập khẩu từ EU vào Việt Nam
được quy định chi tiết như sau:

- Thịt lợn đông lạnh: Xóa bỏ thuế trong vòng 7 năm

- Thịt bò: Xóa bỏ thuế trong vòng 3 năm


13

- Thịt gà: Xóa bỏ thuế trong vòng 10 năm

- Các sản phẩm sữa: Xóa bỏ thuế tối đa trong vòng 5 năm

- Thực phẩm chế biến: Xóa bỏ thuế tối đa trong vòng 7 năm

1.2.3. Cam kết về quy tắc xuất xứ

Mỗi Hiệp định thương mại tự do có một quy định riêng về quy tắc xuất xứ.
Hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp muốn được hưởng thuế suất ưu đãi của Hiệp
định cần phải đáp ứng được yêu cầu về quy tắc xuất xứ mà hai bên đã thống nhất.
Đối với Hiệp định EVFTA, vấn đề này được quy định tại “Nghị định thư về Quy tắc
xuất xứ của sản phẩm và các biện pháp hợp tác hành chính”.

Về cơ bản, các cam kết trong Hiệp định của phần này gồm 2 phần chính là
Các quy định chung về quy tắc xuất xứ và Quy tắc cụ thể mặt hàng (PSR), áp dụng
cho tất cả các mặt hàng, trong đó bao gồm nông nghiệp.

Các quy định chung về quy tắc xuất xứ mà Việt Nam và EU thống nhất trong
Hiệp định EVFTA có các nội dung cơ bản giống trong các Hiệp định FTA mà Việt
Nam đã ký kết trước đây. Ngoài ra, một số nội dung mới mà hai bên đã thống nhất
gồm có:

- Cơ chế tự chứng nhận xuất xứ: Bên cạnh cơ chế cấp Giấy chứng nhận xuất xứ
(C/O) truyền thống, hai bên thống nhất cho phép nhà xuất khẩu được tự chứng nhận
xuất xứ. Hiện nay, EU đang xây dựng hệ thống nhà xuất khẩu đăng ký (Registered
exporters) - là hệ thống cho phép nhà xuất khẩu chỉ cần đăng ký với cơ quan có
thẩm quyền là có thể tự chứng nhận xuất xứ. Khi hệ thống này hoàn thiện và được
áp dụng, EU sẽ thông báo cho Việt Nam trước khi thực hiện. Về phía Việt Nam:
hiện chưa chính thức triển khai cơ chế tự chứng nhận xuất xứ. Trong thời gian tới,
khi có thể chính thức áp dụng cơ chế này, Việt Nam sẽ ban hành quy định liên quan
trong nước và thông báo cho EU trước khi thực hiện.

- Thông tin thể hiện trên Giấy chứng nhận xuất xứ: Việt Nam và EU nhất trí sử
dụng mẫu C/O EUR 1 là mẫu chung trong Hiệp định EVFTA. Mẫu EUR 1 yêu cầu
thông tin khai báo đơn giản hơn so với mẫu C/O trong các Hiệp định Thương mại
14

hàng hóa ASEAN (ATIGA) và các Hiệp định FTA giữa ASEAN với các đối tác
ngoại khối mà Việt Nam đã ký kết..

- Quá cảnh và chia nhỏ lô hàng tại nước thứ ba: Hai bên đồng ý cho phép hàng
hóa được quá cảnh và chia nhỏ tại nước thứ ba ngoài Hiệp định.

- Điều khoản Tạm dừng hưởng ưu đãi: Hai bên đồng ý cho phép nước nhập
khẩu được áp dụng cơ chế tạm dừng ưu đãi, tức là không cho phép hàng hóa của
bên kia được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi khi: liên tục phát hiện gian lận xuất xứ
hàng hóa nhằm hưởng ưu đãi; nước xuất khẩu liên tục không thực hiện nghĩa vụ xác
minh xuất xứ ưu đãi theo đề nghị của nước nhập khẩu hoặc không cho phép nước
nhập khẩu vào kiểm tra xuất xứ hàng hóa hưởng ưu đãi. Hiệp định cũng quy định
chi tiết quy trình tham vấn liên quan đến vấn đề này.

- Điều khoản về Quản lý lỗi hành chính: Điều khoản Quản lý lỗi hành chính quy
định về cơ chế phối hợp giữa hai cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và EU khi
xảy ra lỗi trong việc quản lý và áp dụng các điều khoản theo Hiệp định này như một
biện pháp chống gian lận thương mại.

Ngoài các quy định chung, EVFTA còn đưa ra quy tắc xuất xứ đối với một số
mặt hàng cụ thể. Quy tắc cụ thể mặt hàng là quy tắc xác định xuất xứ đối với từng
mặt hàng (ở cấp độ mã HS 8 số).

Đối với nhóm hàng Nông nghiệp, do EU có chính sách bảo hộ mặt hàng
đường, sữa trong nước nên EU giới hạn tỷ lệ sử dụng đường, sữa nguyên liệu
không có xuất xứ trong quá trình sản xuất một số mặt hàng nông nghiệp. Trong
Hiệp định EVFTA, hai bên thống nhất tỷ lệ cơ bản được áp dụng là 20% với từng
nguyên liệu đơn lẻ và 40% với các nguyên liệu kết hợp so với trọng lượng của sản
phẩm cuối cùng. Đối với một số mặt hàng, EU đồng ý linh hoạt tỷ lệ 40% đường
nguyên liệu không xuất xứ và tỷ lệ kết hợp đường, sữa là 50%. Nhìn chung, quy
tắc xuất xứ đối với hàng nông nghiệp trong Hiệp định EVFTA chặt hơn so với các
FTA mà Việt Nam đang tham gia.

Bảng dưới đây thống kê thông tin về một số mặt hàng cụ thể:
15

Bảng 1.1 Quy tắc cụ thể mặt hàng đối với một số sản phẩm nông nghiệp

Sản phẩm Quy tắc

Mật ong (HS 0409) Quy tắc xuất xứ thuần túy

Rau củ quả và các sản phẩm Quy tắc xuất xứ thuần túy đối với rau củ quả
rau củ quả (HS 07, 08 và 20) nguyên liệu và có giới hạn tỷ lệ đường không xuất
xứ 20% đối với sản phẩm chế biến từ rau củ quả

Gạo (HS 1006) Quy tắc xuất xứ thuần túy

Chế phẩm từ ngũ cốc, tinh Nguyên liệu sử dụng từ ngũ cốc, tinh bột, khoai
bột (HS 11) tây, sắn phải có xuất xứ thuần túy

Rượu và các đồ uống có cồn Nho sử dụng làm nguyên liệu phải có xuất xứ

(HS 22) thuần túy và tỷ lệ đường nguyên liệu không xuất


xứ là 20%

Thuốc lá và nguyên liệu thuốc Lá thuốc lá chưa chế biến phải có xuất xứ thuần
lá (HS 24) túy, lá thuốc lá đã chế biến chỉ được sử dụng tối
đa 30% nguyên liệu không xuất xứ cùng Chương
24 trong quy định so với tổng nguyên liệu thuộc
Chương 24 đó được sử dụng và sản phẩm thuốc lá
điếu phải làm từ lá thuốc lá đã chế biến có xuất xứ
hoặc giới hạn tỷ lệ nguyên liệu không xuất xứ

Nguồn: Hiệp định EVFTA

1.2.4. Cam kết về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT)

Đối với ngành Nông nghiệp, rào cản kỹ thuật là một vấn đề đặc biệt được quan
tâm và hiện đang đưa ra nhiều thách thức. Cũng giống như các hiệp định thương
mại tự do khác, EVFTA cam kết tạo thuận lợi và tăng cường thương mại hàng hóa
song phương, xác định và loại bỏ các rào cản không cần thiết đối với thương mại
trong phạm vi Hiệp định HRKTTM, và đẩy mạnh hợp tác giữa các Bên. Trong Hiệp
định, một lần nữa các bên cam kết thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo Hiệp
định của WTO về hàng rào kỹ thuật thương mại (Hiệp định HRKTTM). Ngoài ra,
16

Hiệp định còn bổ sung và làm rõ các khía cạnh cụ thể của HRKTTM, trong đó có 3
loại biện pháp kỹ thật : Quy chuẩn kỹ thuật, Tiêu chuẩn kỹ thuật, Thủ tục đánh
giá hợp quy; và các vấn đề liên quan như tính minh bạch trong quá trình thực hiện
các biện pháp kỹ thuật, đảm bảo các hoạt động giám sát thị trường là đúng nguyên
tắc, công bằng; các nguyên tắc về tiếp thị và ghi nhãn; đảm bảo tạo thuận lợi cho
thương mại và hợp tác.

Đặc biệt trong Hiệp định, Việt Nam cam kết tăng cường sử dụng các tiêu chuẩn
quốc tế trong ban hành các quy định về TBT của mình, cụ thể: “sử dụng các tiêu
chuẩn quốc tế có liên quan, chẳng hạn những tiêu chuẩn do ISO, IEC, ITU, Ủy ban
Codex Alimentarius xây dựng, làm cơ sở cho các quy chuẩn kỹ thuật của mình, trừ
trường hợp các tiêu chuẩn quốc tế này sẽ là một phương tiện không hiệu quả hoặc
không phù hợp cho việc thực hiện các mục tiêu chính đáng; và khi tiêu chuẩn quốc tế
đã không được sử dụng như một cơ sở theo yêu cầu của Bên kia để xác định độ lệch
đáng kể từ tiêu chuẩn quốc tế có liên quan và để giải thích lý do tại sao các tiêu chuẩn
đó được coi là không phù hợp hoặc không hiệu quả cho mục đích đang hướng đến”.

1.2.5. Các biện pháp phòng vệ thương mại

Với EVFTA, theo Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công Thương), chương về các
biện pháp phòng vệ thương mại bao gồm các điều khoản liên quan đến việc sử dụng
công cụ phòng vệ thương thương mại truyền thống trong WTO (bao gồm các biện
pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ), cho phép EU và Việt Nam bảo vệ
các nhà sản xuất của mình khỏi những bóp méo cạnh tranh dưới dạng hàng hóa
nhập khẩu bán phá giá hoặc được trợ cấp và đối phó với những chuyển đổi mạnh
mẽ trong dòng thương mại giữa hai bên (vụ việc tự vệ).

Cả EU và Việt Nam đều ý thức thừa nhận rằng các biện pháp chống bán phá
giá và chống trợ cấp có thể bị lạm dụng để cản trở thương mại, từ đó đưa đến các
cam kết: phòng vệ thương mại nên được sử dụng một cách tuân thủ đầy đủ các yêu
cầu liên quan của WTO và phải dựa trên một hệ thống công bằng và minh bạch; và
nên xem xét cẩn thận các quyền lợi của Bên bị áp dụng biện pháp này. Đối với các
biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, áp dụng quy tắc thuế thấp hơn: Khi
17

một Bên quyết định áp thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ cấp, Bên đó phải
đảm bảo rằng số tiền thuế đó sẽ không vượt quá biên độ trợ cấp bán phá giá hoặc
thuế chống trợ cấp, và nên thấp hơn biên độ nếu mức thuế thấp hơn này sẽ đủ để
loại trừ thiệt hại cho ngành công nghiệp trong nước.

So với cam kết WTO, EVFTA bổ sung một số các quy định giới hạn việc sử
dụng các công cụ này để tránh lạm dụng và đảm bảo công bằng, minh bạch. Các
quy định này tạo ra môi trường kinh doanh ổn định và thuận lợi hơn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu.

Theo đó, nhằm tăng cường tính minh bạch, hai bên thống nhất quyền kháng
kiện của hai bên được đảm bảo đầy đủ. Để hiệu quả hơn, cơ quan điều tra sẽ sử
dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ giao tiếp và trao đổi tài liệu giữa hai bên.

Ngoài ra, EVFTA quy định ngay sau khi một bên tiến hành các biện pháp tạm
thời và ngay trước khi có quyết định cuối cùng thì bên này phải cung cấp các thông
tin đã được sử dụng để đánh giá và đưa ra quyết định. Các thông tin này cần phải
đầy đủ và có ý nghĩa, được cung cấp bằng văn bản và cho phép các bên liên quan có
một khoảng thời gian đủ dài để góp ý. Các bên liên quan có cơ hội được giải trình
trong quá trình điều tra phòng vệ thương mại.

Để đảm bảo công bằng, ngoài 3 tiêu chí của WTO cho việc khởi xướng điều
tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá hoặc đối kháng (có bán phá giá, có thiệt
hại và mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá với thiệt hại), EVFTA yêu cầu
các bên phải xem xét đến lợi ích của công chúng và các bên có liên quan (hoàn cảnh
của ngành sản xuất trong nước, lợi ích của nhà nhập khẩu, người tiêu dùng). Khi áp
dụng biện pháp chống bán phá giá hoặc đối kháng, quốc gia áp dụng phải nỗ lực
đảm bảo rằng mức thuế áp dụng thấp hơn biên độ phá giá hay trợ cấp và chỉ ở mức
đủ để loại bỏ thiệt hại.

EVFTA còn quy định một cơ chế tự vệ song phương trong thời gian chuyển
đổi là 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Cụ thể, trong trường hợp có sự gia
tăng hàng nhập khẩu do cắt giảm thuế quan theo Hiệp định và gây ra hoặc có nguy
cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước, quốc gia nhập khẩu
18

được phép áp dụng tự vệ bằng cách tạm ngừng áp dụng cam kết cắt giảm thuế quan
theo Hiệp định đối với hàng hóa liên quan, hoặc tạm tăng thuế nhập khẩu trở lại
mức thuế MFN (áp dụng cho các thành viên WTO) hiện hành hay mức thuế cơ sở
ban đầu cho đàm phán (tùy theo mức thuế nào thấp hơn).

Thời hạn áp dụng tự vệ được phép là 2 năm, có thể gia hạn thêm nhưng tối đa
không quá 2 năm. Trong hoàn cảnh khẩn cấp, quốc gia nhập khẩu có thể áp dụng cơ
chế tự vệ “nhanh” (biện pháp tự vệ tạm thời) trên cơ sở đánh giá sơ bộ về các điều
kiện tự vệ. Bên áp dụng tự vệ phải tham vấn với bên bị áp dụng tự vệ về mức
bồi thường thỏa đáng.

1.2.6. Cam kết về các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch
động, thực vật (SPS)

Đối với ngành Nông nghiệp, một vấn đề trọng yếu trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế chính là vấn đề liên quan đến vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm
dịch động thực vật. Trong EVFTA, Việt Nam và EU đạt được thỏa thuận về một số
nguyên tắc về SPS nhằm tạo điều kiện cho hoạt động thương mại đối với các sản
phẩm động thực vật. EVFTA đẩy mạnh thực hiện các nguyên tắc và quy định trong
Hiệp định VSKD cũng như các hướng dẫn, khuyến nghị, và tiêu chuẩn quốc tế đang
áp dụng của các tổ chức quốc tế liên quan; bảo vệ tính mạng và sức khỏe con người
và động thực vật trong lãnh thổ từng Bên trong khi vẫn tạo thuận lợi cho thương
mại giữa các Bên và đảm bảo rằng các biện pháp VSKD của mỗi Bên không tạo ra
các rào cản không cần thiết đối với thương mại; tăng cường thông tin, hợp tác, và
giải quyết các vấn đề vệ sinh và kiểm dịch ảnh hưởng đến thương mại giữa các Bên
và các vấn đề khác được các Bên quan tâm, và tăng cường tính minh bạch và sự
hiểu biết về việc áp dụng các biện pháp VSKD của mỗi Bên.

Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch trong EVFTA được quy định ở chương 7,
ngoài các quy định chung còn quy định chi tiết về một số vấn đề khác như: Các cơ
quan thẩm quyền và đầu mối liên lạc; Yêu cầu và thủ tục nhập khẩu; Xác minh; Thủ
tục niêm yết cơ sở; Các biện pháp liên quan đến sức khỏe động thực vật: đề cập đến
các khái niệm “vùng an toàn dịch bệnh”, “vùng an toàn sâu bệnh”; Vấn đề thành lập
19

và hoạt động của Ủy ban về Biện pháp Vệ sinh kiểm dịch; Tính minh bạch và trao
đổi thông tin; Tham vấn; Các biện pháp khẩn cấp; Hỗ trợ kỹ thuật và ưu đãi đặc biệt

Ngoài ra, chương 7 cũng đưa ra yêu cầu và quy định về chấp thuận các cơ sở
cho sản phẩm, được quy định ở phụ lục 1, trong đó yêu cầu các bên có trách nhiệm
lập và công bố danh sách các cơ sở được chấp thuận theo các yêu cầu và thủ tục
chấp nhận được quy định cụ thể.

1.2.7. Cam kết về sở hữu trí tuệ

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) đã
chính thức hoàn tất đàm phán vào tháng 12/2015, được dự báo sẽ ảnh hưởng lớn tới
thể chế pháp luật và kinh tế Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt là trong lĩnh vực
cam kết về sở hữu trí tuệ. Đây là chế định tương đối nhạy cảm trong qua trình đàm
phán do nhu cầu của EU và Việt Nam trong bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ không
giống nhau. Kết quả của đàm phán về vấn đề này trong EVFTA là một hệ thống các
cam kết theo hướng tăng cường các tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của chủ
sở hữu tương ứng với đó là những hạn chế nhất định trong khả năng tiếp cận rộng
rãi các sản phẩm sở hữu trí tuệ của công chúng hoặc người sử dụng các sản phẩm
này so với mức pháp luật hiện hành của Việt Nam.

Trong EVFTA, chế định về Sở hữu trí tuệ được quy định tập trung trong
Chương 12 về Sở hữu trí tuệ, với 40 trang, 31 Điều. Từ góc độ nội dung, các cam
kết trong Chương này có thể phân thành các nhóm:

Nhóm 1: Các cam kết về nguyên tắc chung trong bảo hộ các quyền Sở hữu trí
tuệ của EVFTA: Ghi nhận mục tiêu thúc đẩy sáng tạo, bảo hộ và thực thi hiệu quả
các quyền; Sở hữu trí tuệ, cân bằng giữa lợi ích của chủ thể quyền và người sử
dụng; Khẳng định các quyền và nghĩa vụ theo các thỏa thuận quốc tế, đặc biệt là
TRIPS; Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc; Cam kết về chấm dứt quyền.

Nhóm 2: Các cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ đối với từng loại đối tượng sở
hữu trí tuệ cụ thể: Cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên
quan; Cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu; Cam kết về các tiêu chuẩn bảo
hộ chỉ dẫn địa lý; Cam kết về các tiêu chuẩn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp; Cam
20

kết về các tiêu chuẩn bảo hộ sáng chế; Trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ mạng
trung gian.

Nhóm 3: Các cam kết về tố tụng dân sự thực thi quyền sở hữu trí tuệ: Cam kết
về các biện pháp trong thực thi quyền SHTT; Cam kết về các vấn đề thuộc về tố
tụng thực thi quyền SHTT; Cam kết về trách nhiệm vật chất trong tố tụng SHTT.

Nhóm 4: Các cam kết về biện pháp thực thi quyền SHTT tại biên giới: Phạm
vi các biện pháp tại biên giới; Trách nhiệm của cơ quan hải quan trong thực thi các
quyền SHTT tại biên giới; Hợp tác trong cải thiện chất lượng hoạt động hành chính;
Các biện pháp thực thi khác: Khuyến khích các Hiệp hội về SHTT xây dựng các Bộ
quy tắc ứng xử; Hợp tác trong thực thi SHTT.

Liên quan đến ngành Nông nghiệp, ngoài các vấn đề về quy tắc chung, tố tụng
dân sự, biện pháp thực thi, trong Hiệp định có làm rõ một số vấn đề liên quan trực
tiếp như sau:

Về bản chất và phạm vi các cam kết:

Khẳng định các quyền và nghĩa vụ theo các Thỏa thuận quốc tế về SHTT, đặc
biệt là TRIPS. Nêu lên 08 loại đối tượng SHTT: quyền tác giả và các quyền liên
quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, quyền sáng chế, thiết kế và
bố trí các mạch tích hợp, bảo vệ thông tin bí mật; giống cây trồng.

Về nhãn hiệu: Hiệp định cam kết và khẳng định các quyền và nghĩa vụ theo
Thỏa ước Madrid; sử dụng cách phân loại hàng hóa dịch vụ theo Công ước Nice khi
đăng ký Nhãn hiệu; cam kết đơn giải hóa và cải thiện hệ thống đăng ký. Bên cạnh
đó, Hiệp định cũng đưa ra các cam kết về quyền tạo ra bởi nhãn hiệu (tránh nhãn
hiệu tương tự, làm giả nhãn hiệu…), thủ tục đăng ký, nhãn hiệu nổi tiếng, các ngoại
lệ đối với quyền do nhãn hiệu mang lại, và các căn cứ thu hồi nhãn hiệu.

Về chỉ dẫn địa lý: EVFTA quy định chi tiết về các vấn đề liên quan đến chỉ
dẫn địa lý bao gồm: Hệ thống đăng ký và bảo hộ chỉ dẫn địa lý; các chỉ dẫn địa lý
đã được xác lập; quy trình sửa đổi Danh mục các chỉ dẫn địa lý được công nhận;bảo
hộ chỉ dẫn địa lý; quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý; mối quan hệ với nhãn hiệu; thực thi
21

việc bảo hộ; các quy tắc chung; cam kết hợp tác và minh bạch hóa giữa Việt Nam
và EU trong quá trình thực thi; thành lập và vận hành nhóm công tác.

Đáng chú ý, cam kết về sở hữu trí tuệ trong Chương 12 EVFTA về việc công
nhận các chỉ dẫn địa lý của EU (171 chỉ dẫn địa lý liệt kê trong Phụ lục GI - I Phần
A); Theo đó, Việt Nam cam kết bảo hộ 171 chỉ dẫn địa lý của EU và EU sẽ bảo hộ
39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam đều liên quan tới
nông sản, thực phẩm.

Về kiểu dáng công nghiệp, các vấn đề được quy định trong EVFTA bao gồm:
bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký; các ngoại lệ và loại trừ

Về sáng chế, một số vấn đề về các Thỏa thuận quốc tế được quy định chi tiết.

Về giống cây trồng: Cam kết bảo hộ giống cây trồng theo Công ước UPOV

1.2.8. Cam kết về đầu tư

Hiệp định EVFTA hướng tới việc tạo ra một môi trường đầu tư và kinh doanh
minh bạch, thông thoáng và thuận lợi cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp của hai
bên. Để hiện thực hoá mục tiêu này, Việt Nam và EU đã đi xa hơn cam kết về dịch
vụ và đầu tư mà mỗi bên phải thực hiện trong khuôn khổ WTO.

Cam kết thương mại dịch vụ và đầu tư trong Hiệp định EVFTA gồm các nghĩa
vụ và khuôn khổ quản lý chung áp dụng cho cả hai bên được quy định trong phần
lời văn của Hiệp định và các nghĩa vụ mở cửa thị trường cụ thể của mỗi bên được
quy định trong các Biểu cam kết cụ thể là Phụ lục của Hiệp định

Mặc dù có nhiều cam kết đi xa hơn Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
(GATS) và Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)
của WTO - tức là mức WTO cộng, cam kết về thương mại dịch vụ và đầu tư trong
EVFTA vẫn được xây dựng theo cách tiếp cận “chọn cho” của Hiệp định GATS
nhằm giúp cộng đồng doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận.Theo đó, hai bên chỉ cam kết
các ngành/phân ngành dịch vụ được liệt kê trong Biểu cam kết cụ thể của mình. Với
những ngành/phân ngành dịch vụ không được liệt kê trong Biểu cam kết cụ thể, hai
bên không cam kết nghĩa vụ cụ thể nào, ngoại trừ các nghĩa vụ chung.
22

Về ngành Nông nghiệp, EVFTA có nêu ra một số các quy định cụ thể như sau:

Thứ nhất, về cam kết của EU, hầu hết các quốc gia đều cam kết tự do hóa về
đầu tư, chỉ có một số các quốc gia đưa ra cam kết cụ thể của mình như sau:

Cam kết của EU về quy định thành lập doanh nghiệp:

- Đối với ngành Nông nghiệp và săn bắn động vật: Tất cả các quốc gia thành
viên EU cam kết tự do hóa cho doanh nghiệp Việt Nam trừ một số quốc gia như
Pháp, Thụy Điển, Ai Len có một số quy định riêng còn Áo, Croatia, Hungary,
Malta, Romania, Slovenia chưa có cam kết đối với hoạt động nông nghiệp

- Đối với lĩnh vực sản xuất thực phẩm và đồ uống EU cam kết tự do hóa đầu tư.

Cam kết của EU về người đi công tác, người được thuyên chuyển công tác
trong nội bộ doanh nghiệp, người bán hàng cho doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ
theo hợp đồng trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiệp, săn
bắt động vật: Tất cả các quốc gia đều cam kết ưu đãi cho Việt Nam với mức cam
kết tối đa, trừ Italia, Áo có một số quy tắc riêng; tại Síp, Estonia, Malta, Romania,
Slovakia chưa có cam kết.

Cam kết của EU về cung cấp dịch vụ xuyên biên giới trong lĩnh vực dịch vụ tư
vấn hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiệp, săn bắt động vật: Hầu hết cam kết tự do hóa,
trừ một số trường hợp như đối với sản phẩm cấp 1 theo Hiệp định, tại Italy chưa có
cam kết với các phạm vi hoạt động dịch vụ dành riêng cho các chuyên gia nông học
và kỹ sư trắc địa “periti agrari”. Tại Estonia, Malta, Romania chưa có cam kết.

Thứ hai, về cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực Nông nghiệp:

Cam kết của Việt Nam về cung cấp dịch vụ xuyên biên giới và thành lập
doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ hỗ trợ cho lĩnh vực nông nghiệp, săn bắt động
vật: Việt Nam cam kết mở cửa, tạo luận lợi cho đầu tư của EU tuy nhiên chỉ cho
phép hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phần vốn góp của
phía nước ngoài không vượt quá 51% vốn pháp định của liên doanh.

Cam kết của Việt Nam trong vấn đề người đi công tác, người được thuyên
chuyển công tác trong nội bộ doanh nghiệp, người bán hàng cho doanh nghiệp, nhà
23

cung cấp dịch vụ theo hợp đồng quy định rằng tối thiểu 20% các nhà quản lý,
chuyên viên cao cấp và chuyên gia phải là người mang quốc tịch Việt Nam, trừ
trường hợp người Việt Nam không thể thay họ thực hiện công việc. Tuy nhiên, mỗi
doanh nghiệp được phép thuê tối thiểu 3 nhà quản lý, chuyên viên cao cấp và
chuyên gia không phải là người Việt Nam.

1.2.9. Cam kết về hợp tác và phát triển bền vững

Ngoài các cam kết cụ thể được quy định liên quan trực tiếp đến nông nghiệp
trong Hiệp định, EVFTA cũng thể hiện cam kết về hợp tác và phát triển bền vững
của các bên, được thể hiện trong chương 15 và 16 của Hiệp định. Trong đó các bên
cam kết chú trọng hợp tác và nâng cao năng lực hợp tác trong lĩnh vực Nông
nghiệp, thông qua các phương tiện trao đổi thông tin, kinh nghiệm và thực hành tốt
nhất, cũng như hợp tác về chính sách. Nếu có liên quan, hội thảo, chuyên đề, đào
tạo, nghiên cứu, hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực cũng có thể được xem xét.

Về vấn đề phát triển bền vững, hai bên khẳng định lại cam kết của mình để
theo đuổi phát triển bền vững, mà các hành động chính, gồm phát triển kinh tế, phát
triển xã hội và bảo vệ môi trường, là phụ thuộc lẫn nhau và củng cố lẫn nhau, tiếp
tục nhấn mạnh lợi ích của hợp tác về các vấn đề lao động và môi trường liên quan
tới thương mại như là một phần của phương pháp tiếp cận toàn cầu về thương mại
và phát triển bền vững. Trong Hiệp định, một lần nữa các bên tái khẳng định các
cam kết của mình về lao động, phù hợp với các nghĩa vụ phát sinh từ các thành viên
của Tổ chức lao động Quốc tế ILO và Tuyên bố ILO về các Nguyên tắc cơ bản và
các quyền tại nơi làm việc và tuyên bố tiếp theo đó, được thông qua bởi Hội nghị
Lao động Quốc tế tại kỳ họp lần thứ 86 của mình năm 1998, sẽ tôn trọng, thúc đẩy
và thực hiện hiệu quả các nguyên tắc về các quyền cơ bản tại nơi làm việc; bên cạnh
đó, cam kết thực hiện có hiệu quả trong các luật và thông lệ của mình các thỏa
thuận môi trường đa phương (MEAs) mà mình tham gia.
24

1.3. Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia Hiệp định
EVFTA

1.3.1. Cơ hội

1.3.1.1. Tiếp cận thị trường

Tham gia Hiệp định EVFTA, Việt Nam đã có bước đột phá trong quá trình
thiết lập mối quan hệ giao thương với Liên minh Châu Âu, từ đó tiếp cận với những
thị trường lớn với nhu cầu tiêu dùng cao và sức mua mạnh này. Khi Hiệp định
EVFTA có hiệu lực, hàng rào phi thuế quan được giảm, cũng như giảm dần và tiến
tới xóa bỏ thuế quan. Đây là chìa khóa thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam khi
EVFTA được ký kết. EU hiện là một trong các đối tác hàng đầu của Việt Nam về
kinh tế, thương mại và đầu tư (Tổng cục thống kê, 2016). Năm 2012, EU đã vươn
lên vị trí thứ nhất trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim
ngạch đạt 20,3 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm 2011 và chiếm 17,7% tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước (Tổng cục thống kê, 2012).

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc lớn vào
đối tác Trung Quốc, trong khi đó, kinh tế Trung Quốc đang có dấu hiệu suy giảm
tăng trưởng, việc đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam. Cộng thêm
những căng thẳng ở biển Đông giữa hai nước, Việt Nam đang cần tìm đến một thị
trường bền vững hơn và có tiềm năng hơn. Việc ký kết EVFTA là một cơ hội để
Việt Nam tiếp cận thị trường lớn gồm 28 quốc gia thành viên với dân số lên tới 500
triệu người (chiếm 7.3% dân số thế giới). Liên minh châu Âu chiếm khoảng 22%
(16,2 nghìn tỷ đô la Mỹ năm 2015) GDP danh nghĩa và khoảng 17% (19,2 nghìn tỷ
đô la Mỹ năm 2015) GDP sức mua tương đương của thế giới (PPP) (Bộ Ngoại giao,
vụ Châu Âu, 2015). EVFTA đã mở ra một cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn và
tiềm năng, mang đến thuận lợi rõ rệt cho nền kinh tế Việt Nam.

1.3.1.2. Tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu

Hiệp định EVFTA là một bước tiến cho Việt Nam trong quá trình tham gia sâu
rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, càng ngày
25

càng bước những bước dài hơi, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng, cực đại hóa giá trị
gia tăng nhận được từ quá trình sản xuất.

Tham gia mạnh mẽ vào EVFTA với mức độ cam kết cao nhất trong tất cả các
FTA mà Việt Nam đã tham gia, doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói
chung hứa hẹn cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy mọi tiềm năng phát
triển, hội nhập mạnh mẽ, mở cửa chào đón cũng như tiến bước ra thế giới, không
ngừng tận dụng cơ hội và đổi mới, cải tiến, nhằm đáp ứng nhu cầu của thế giới, trở
thành một mắt xích hoạt động liền mạch, hiệu quả và tiến tới là mắt xích trọng yếu
của chuỗi cung ứng toàn cầu.

1.3.1.3. Đổi mới và phát triển bền vững

EVFTA đã giúp Việt Nam thắt chặt mối quan hệ thương mại với thị trường
khó tính hàng đầu thế giới, tuy nhiên, để tăng thị phần xuất khẩu sang EU, chúng ta
buộc phải nâng cao công nghệ kỹ thuật trong quá trình sản xuất, liên kết doanh
nghiệp, bảo đảm các quy định an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm bảo đảm thực hiện
các cam kết .. tức là phải đổi mới toàn bộ nền kinh tế.

Từ việc lấy cải cách Nông nghiệp làm gốc rễ, sẽ kéo theo cải cách ở các lĩnh
vực công nghiệp và dịch vụ, tạo cơ sở cho quá trình đổi mới toàn bộ các khía cạnh
của nền kinh tế. Hiện tại hàng hóa của chúng ta vẫn chưa tiếp cận được thị trường
EU ở nhiều loại mặt hàng, bởi chưa đạt yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn
thực phẩm cũng như chất lượng dịch vụ; doanh nghiệp và các bộ ngành cần nỗ lực
nâng cao chất lượng hàng hóa để đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt theo quy định.

EVFTA vừa tạo động lực, vừa gây áp lực buộc các doanh nghiệp trong nước
phải đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu và phát triển (R&D) để giảm dần tình trạng
xuất khẩu nguyên liệu và các sản phẩm sơ chế thâm dụng lao động, hướng đến gia
tăng xuất khẩu các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao.

1.3.1.4. Hoàn thiện thể chế và năng lực thực thi

EVFTA có thể giúp Việt Nam thúc đẩy cải cách trong môi trường kinh doanh
và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói
chung thông qua những điều khoản quy định tại Hiệp định. Cụ thể như các điều
26

khoản về thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam
trước cơ hội để mở rộng thị trường và có được hiệu quả quy mô; thúc đẩy các dòng
vốn FDI từ EU vào Việt Nam - nguồn vốn FDI được tin tưởng là có chất lượng cao
và sản xuất Việt Nam có thể thu được hiệu ứng lan tỏa; yêu cầu cải thiện các tiêu
chuẩn, chất lượng sản phẩm, tiếp cận với nguồn cung đầu vào giá thấp hơn từ EU,
do đó chất lượng sản phẩm Việt Nam sẽ được cải thiện. Bên cạnh đó, các quy trình,
thủ tục hải quan được thuận lợi hóa tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh.

EVFTA còn đưa ra một bộ quy tắc trong đó yêu cầu tất cả các doanh nghiệp
nhà nước đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường và minh bạch hóa, công khai
hóa các hoạt động của mình để cho người dân có thể giám sát hiệu quả hoạt động
các doanh nghiệp nhà nước, về phía nhà nước cũng phải có sự hành xử vô tư và
khách quan đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt không được sử dụng
doanh nghiệp nhà nước như một công cụ để né tránh thực thi các nghĩa vụ khác của
hiệp định EVFTA, từ đó sẽ tạo sân chơi bình đẳng hơn cho tất cả các thành phần
kinh tế. Chính vì vậy, Việt Nam cần có điều chỉnh cải cách thể chế và chính sách
trên nhiều lĩnh vực về môi trường đầu tư, kinh doanh và năng lực cạnh tranh; cải
cách các doanh nghiệp nhà nước… Chính phủ cần xây dựng một chiến lược quốc
gia về cải cách thể chế và điều chỉnh chính sách, chiến lược sẽ xác định cơ cấu tổ
chức và chính sách để đảm bảo chất lượng thể chế.

Việc hoàn thiện thể chế và năng lực thực thi đạt tiêu chuẩn quốc tế khi tham
gia EVFTA như hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và hệ thống luật pháp, hoàn thiện và
đồng bộ hóa các thị trường trong nước, đẩy mạnh cải cách hành chính sẽ giúp Việt
Nam đạt mục tiêu tăng trưởng, hướng tới hội nhập hiệu quả với khu vực và thế giới,
nâng cao chất lượng tăng trưởng, đảm bảo phát triển bền vững về kinh tế xã hội và
môi trường.

1.3.2. Thách thức

Bên cạnh những cơ hội mà Hiệp định EVFTA mang lại, nền kinh tế Việt Nam
cũng phải sẵn sàng đối mặt với nhiều thách thức trong thời gian sắp tới khi Hiệp
27

định chính thức được thực thi. Những thách thức đặt ra được thể hiện ở một số khía
cạnh như sau.

1.3.2.1. Môi trường cạnh tranh khốc liệt

Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với cạnh tranh khốc liệt, trên thực tế,
EVFTA bên cạnh việc cam kết mở cửa thị trường, cả hai bên đều có xu hướng tiến
hành áp dụng ở mức độ nhất định về bảo hộ che chắn, sử dụng một loạt công cụ
nhằm hỗ trợ trực tiếp hoặc trợ cấp thu nhập trước sự áp lực cạnh tranh mạnh mẽ khi
mở cửa thị trường. Sức ép cạnh tranh mà Việt Nam phải đối mặt không chỉ là cạnh
tranh giữa các sản phẩm nội địa và hàng ngoại mà còn là giữa doanh nghiêp với
nhau, giữa quốc gia với nhau.

Về sản phẩm, hàng hóa xuất xứ từ EU cũng như các dịch vụ được cung cấp
bởi khu vực này từ lâu đã nổi tiếng mẫu mã đẹp, chất lượng cao vậy các sản phẩm
của Việt Nam làm sao có thể cạnh tranh về phương diện chất lượng, thương hiệu,
hàm lượng khoa học công nghệ, giá cả với các sản phẩm của EU. Đây chính là bài
toán khó của doanh nghiệp nội địa Việt Nam.

Bên cạnh thách thức cạnh tranh về sản phẩm, Việt Nam phải đối đầu với sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, thể hiện ở khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng
toàn cầu, chiến lược đổi mới, sáng tạo và phát triển bền vững. EVFTA mở ra cơ hội
tuy nhiên cũng là thách thức đối với năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên
cạnh việc mở cửa và tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng toàn cầu, vấn đề đặt ra
là khả năng đáp ứng nhu cầu lớn, chất lượng cao của thế giới. Hội nhập tồn tại cùng
với sức ép, cạnh tranh quyết liệt sẽ xảy ra với không ít sản phẩm và hệ thống phân
phối của Việt Nam. Với các doanh nghiệp, nếu không thể cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài khác thì phải đối mặt với thất bại không chỉ trong việc tham gia
vào thị trường quốc tế, mà ngay tại chính thị trường Việt Nam cũng có thể bị các
doanh nghiệp nước ngoài chiếm thị phần, gia tăng áp lực, đưa hàng hóa, dịch vụ
xuất từ nước họ sang phân phối, tiêu dùng tại thị trường Việt nam nếu như hàng hóa
và dịch vụ của Việt Nam kém cạnh tranh hơn, dẫn đến việc ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh, và có thể dẫn tới thua lỗ, phá sản.
28

Áp lực cạnh tranh gia tăng còn thể hiện ở cấp độ Quốc gia, đối với EVFTA
chính là cạnh tranh giữa Việt Nam và các quốc gia thuộc EU. Năng lực cạnh tranh
cấp độ quốc gia thể hiện ở nhiều phương diện, trong đó đề cập đến việc quốc gia sẽ
xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế như thế nào, cùng với
đó là các chính sách bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp nội địa, bảo vệ
một cách hợp pháp thị trường trong nước. Đứng trước cơ hội hội nhập thương mại
quốc tế lớn nhất từ trước đến nay, hơn khi nào hết chính phủ và các Bộ ngành liên
quan cần tạo một nền tảng vững chắc và hết sức tạo điều kiện cho các doanh nghiệp,
tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm tăng cường thúc đẩy hợp tác và
tăng trưởng kinh tế.

1.3.2.2. Yêu cầu về quy tắc xuất xứ

Đối với bất cứ Hiệp định Thương mại tự do nào, điều mà các doanh nghiệp
xuất khẩu Việt Nam quan tâm hàng đầu khi Hiệp định có hiệu lực chính là các yêu
cầu về quy tắc xuất xử. Bởi chỉ khi các sản phẩm của doanh nghiệp đáp ứng đúng
và đủ các yêu cầu về quy tắc xuất xứ, được công nhận là xuất xừ từ quốc gia mình
thì mới được hưởng các ưu đãi về thuế quan cũng như các ưu đãi khác được quy
định trong Hiệp định. Đặc biệt đối với Việt Nam, mong muốn đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam ra thị trường quốc tế, thì các
quy tắc xuất xứ càng được chú trọng, quy định chi tiết cụ thể và áp dụng rộng rãi.

Đối với xuất khẩu của Việt Nam, vấn đề về quy tắc xuất xứ trong thời gian
vừa qua luôn là một vấn đề nhức nhối đối với cả doanh nghiệp và các bộ ngành liên
quan khi liên tục gặp phải các tranh chấp, tạo thành rào cản trong xuất khẩu. Chưa
kể đến, quy tắc xuất xứ được quy định trong EVFTA được đánh giá là chặt hơn so
với các FTA mà Việt Nam đang tham gia.

Sản xuất của Việt Nam hiện nay đang gặp phải vấn đề về nguồn cung nguyên
liệu, đối mặt với thách thức từ quy tắc xuất xứ, Việt Nam gặp khó khăn khi phải đáp
ứng yêu cầu về nguồn nguyên liệu nhập khẩu theo tiêu chuẩn nào mới được hưởng
những ưu đãi mà cam kết về thuế quan mang lại. Những cam kết về thuế quan có
nguy cơ không mang lại lợi ích cho xuất khẩu vì sản phẩm không đáp ứng quy tắc
29

xuất xứ. Trong dài hạn, thực trạng trên còn đặt ra thách thức về chất lượng sản
phẩm liên quan đến uy tín, thương hiệu của hàng hóa Việt Nam và nguy cơ bị kiện
phòng vệ thương mại.

1.3.2.3. Năng lực dự báo và năng suất lao động

Tham gia EVFTA đã đặt ra cho Việt Nam một thách thức về năng lực dự báo
năng suất lao động. Giống như bất kì các Hiệp định Thương mại tự do khác,
EVFTA hướng đến hội nhập kinh tế quốc tế, tạo thuận lợi trong thương mại hàng
hóa và dịch vụ, chính vì vậy luôn tạo điều kiện để các nền kinh tế xích lại gần
nhau hơn, do đó dẫn đến sự gia tăng mức độ phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau
giữa các nền kinh tế. Vì thế, thách thức về năng lực phân tích, dự báo là một thách
thức lớn sau khi EVFTA chính thức có hiệu lực và được áp dụng. Ký kết Hiệp
định với đối tác lớn, tiếp cận thị trường tiềm năng như EU luôn là một cơ hội, tuy
nhiên với tính chất là một thị trường khó tính và có khả năng chi phối các nền
kinh tế nhỏ lẻ, hệ quả của hội nhập kinh tế luôn cần được dự báo trước, với tính
chính xác cao, nhằm giảm thiểu tất cả các rủi ro, nhận diện các cơ hội. Ký kết hiệp
định với EU, Việt Nam đã có bước giảm thiểu sự phụ thuộc trong hoạt động xuất
nhập khẩu với Trung Quốc, tuy nhiên cũng chính vì vậy cần có những nhận định,
dự báo về tình hình kinh tế thế giới nói chung và tình hình kinh tế của EU và Việt
Nam nói riêng để có sự chuẩn bị và phương án xử lý với các vấn đề phát sinh từ
các nền kinh tế có thể ảnh hướng tới Việt Nam.

Về vấn đề năng suất lao động, EVFTA đặt ra thách thức về trình độ sản xuất
của doanh nghiệp và tay nghề, kỹ năng của người lao động. Hội nhập mở ra một kỷ
nguyên cạnh tranh về năng suất lao động với sự tham gia của các cường quốc dẫn
đầu thế giới về năng suất như Bỉ, Đức, Pháp, Ý... Do đó, đây sẽ là một thách thức
lớn mà EVFTA đặt ra đối với Việt Nam trong thời gian sắp tới.

Để có thể đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí để
đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt trên trường quốc tế, đòi hỏi ở nhân tố con người
những tố chất của lao động chất lượng cao, năng suất cao. Đối mặt với lực lượng
lao động còn non trẻ của Việt Nam là hàng nghìn các lao động được đào tạo ở một
30

môi trường chuyên nghiệp, được tiếp xúc và sử dụng nhiều máy móc công nghệ tiên
tiến để phát huy tối đa năng suất lao động. Vậy câu hỏi đặt ra cho doanh nghiệp, các
bộ ngành liên quan là làm thế nào để có được lực lượng lao động với năng suất cao,
sẵn sàng đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế để có thể cạnh tranh trên thị trường; đây
chắc chắn là sẽ một câu hỏi, một thách thức mà Việt Nam phải trăn trở tìm giải
pháp.

1.3.2.4. Vốn và công nghệ tiên tiến

Như đã đề cập ở phần trên, thách thức về năng suất lao động đặt ra cho Việt
Nam phần nào gắn liền với tình trạng vốn và công nghệ hiện đang được áp dụng.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, và giống như nhiều quốc gia đang phát triển
khác, vốn và công nghệ chính vấn đề khó khăn thường gặp bởi sự thiếu thốn và
công nghệ nghèo nàn. Trong khi đó, ngân sách quốc gia phân bổ chưa thực sự hiệu
quả để có thể tận dụng hết tiềm năng phát triển của các ngành dẫn đến tình trạng
thiếu vốn, khát vốn và sự thiếu thốn về mặt công nghệ.

Bên cạnh sự thuận lợi của việc ký kết các Hiệp định thương mại tự do sẽ mang
lại cơ hội tiếp cận nguồn vốn và công nghệ tiên tiến, Việt Nam không nên chỉ kì
vọng và bị động trong việc tiếp cận các nguồn tài nguyên này. Thách thức đặt ra
không chỉ là làm sao có vốn và có công nghệ, mà còn nằm ở việc sẽ phải sử dụng
các nguồn tài nguyên này sao cho có hiệu quả, tận dụng tối đa tác dụng của các
nguồn vốn và dây chuyền công nghệ được chuyển giao.

1.3.2.5. Công cụ thương mại quốc tế

Hiệp định EVFTA được kí kết, quy định cụ thể về các công cụ thương mại
quốc tế bao gồm cả thuế quan và phi thuế quan. Việt Nam phải ứng phó và sử dụng
các công cụ phi thuế quan đó như thế nào để có thể một mặt tái lập cân bằng thương
mại, mặt khác bảo vệ ngành sản xuất nội địa và thị trường trong nước chính là một
thách thức khi EVFTA có hiệu lực. Đối với Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế trong vấn đề đối phó với các công cụ phi thuế quan, hạn chế về cả năng lực xây
dựng, ban hành chính sách, quy định và về năng lực thực thi liên quan đến những
công cụ sử dụng trong thương mại quốc tế, và trên thực tế từ năm 2002 đến năm 2010
31

có hàng nghìn lô hàng của Việt Nam bị các thị trường lớn từ chối chính bởi các hàng
rào phi thuế quan (Tổng cục thống kê, 2012). Với nền kinh tế còn non trẻ, mới bước
đầu hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần có các biện pháp khắc phục, hạn chế các
điểm yếu này.

Trong EVFTA, những biện pháp phi thế quan (NTM) có ý nghĩa quan trọng
trong Nông nghiệp Việt Nam gồm yêu cầu về vệ sinh, kiểm dịch; đóng gói, bao bì;
khả năng truy soát nguồn gốc và thủ tục hải quan nghiêm ngặt, các tiêu chuẩn do EU
áp đặt thường nằm trong số các tiêu chuẩn cao nhất trên thế giới và khó đạt được nhất
với chi phí cao nhất là thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam.

Hiệp định EVFTA mở ra cơ hội lớn cho xuất khẩu của Việt Nam. Song hàng
Việt có đủ sức vượt qua được các rào cản phi thuế quan ở thị trường này hay không
lại là câu chuyện khác. Bởi ngược lại với việc cắt giảm thuế, việc loại bỏ các rào
cản phi thuế quan không phải đơn giản. Thực tế, không phải tất cả các lĩnh vực pháp
lý đều có thể được giải quyết. Các rào cản phi thuế từ nhiều nguồn khác nhau, do
vậy, việc dỡ bỏ chúng đòi hỏi phải có những thay đổi về thể chế, thay đổi pháp lý
hoặc kỹ thuật phi thực tế. Trong dài hạn, nếu không khắc phục những những hạn
chế yếu kém trên sẽ khiến doanh nghiệp và các ngành kinh tế Việt Nam bị tổn
thương, thậm chí là bị thôn tính bởi các nước phát triển.

Nhìn chung, Hiệp định EVFTA bao gồm các cam kết của hai bên trong đó có
các cam kết cụ thể liên quan trực tiếp đến ngành Nông nghiệp Việt Nam như các
cam kết về thuế quan, hàng rào kỹ thuật TBT, các biện pháp vệ sinh dịch tễ SPS…
Với những cam kết đã đưa ra, kinh tế Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội lớn để phát
triển: cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn EU; tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng
toàn cầu… Tuy nhiên những thách thức như: môi trường cạnh tranh khốc liệt cả
trong và ngoài nước, quy tắc xuất xứ; năng lực dự báo và năng suất lao động, rào
cản thương mại quốc tế… cũng là những thách thức lớn do Hiệp định mang lại mà
Việt Nam phải vượt qua được nếu muốn đứng vững trên thị trường thế giới.
32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ


CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM KHI
THAM GIA EVFTA

2.

2.1. Thực trạng ngành Nông nghiệp Việt Nam

Về cơ cấu ngành Nông nghiệp, trong khuôn khổ bài luận văn, xin được đề cập
đến 3 ngành Nông nghiệp thuần: Trồng trọt, Chăn nuôi và Dịch vụ. Từ năm 1986
đến nay đã có những biến động theo giá trị sản xuất giữa các nhóm tiểu ngành:
Trồng trọt, Chăn nuôi và Dịch vụ. Mặc dù lĩnh vực trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn
nhất (trên 70%) từ trước đến nay, tuy nhiên đang có xu hướng giảm dần (Tổng cục
thống kê, 2015). Ngược lại với trồng trọt, tỷ trọng của lĩnh vực chăn nuôi lại có xu
hướng gia tăng. Điều này cho thấy, lĩnh vực chăn nuôi đang thể hiện vai trò của
mình, cùng với sự cải tiến, đổi mới trong quá trình phát triển lĩnh vực chăn nuôi đã
nâng cao được giá trị đóng góp của mình vào ngành Nông nghiệp Việt Nam. Một
lĩnh vực vốn vẫn đang còn chiếm một tỷ trọng nhỏ còn lại trong cơ cấu ngành Nông
nghiệp chính là dịch vụ, trong thời gian vừa qua, cơ cấu lĩnh vực dịch vụ nông
nghiệp có xu hướng giảm dần trong cơ cấu giá trị ngành nông nghiệp, qua từng giai
đoạn hiện đang đóng góp cho ngành ở một mức khoảng 2% (Tổng cục thống kê,
2015). Tỷ trọng dịch vụ thấp đã phản ánh đúng tính chất sản xuất truyền thống và
mang tính thủ công cao, các hoạt động dịch vụ cần thiết và tiến bộ như: giống mới,
khoa học công nghệ kỹ thuật mới, khuyến nông, thú y, bảo vệ giống cây trồng, tiếp
thị...còn chưa phát triển mạnh, nên còn khó khăn trong việc nâng cao năng suất cây
trồng, vật nuôi và giá trị gia tăng của sản phẩm làm ra.

2.1.1. Ngành Trồng trọt

Trong giai đoạn 2010 - 2015, trồng trọt tiếp tục thể hiện một sự tăng trưởng
bền vững, mặc dù có nhiều khó khăn do các yếu tố môi trường tự nhiên như thiên
tai, sâu bệnh cũng như các yếu tố về môi trường kinh doanh như thị trường tiêu thụ
bị giảm sút do cạnh tranh với nông sản nhiều nơi trên thế giới, nhưng kết quả đạt
được đều vượt các mục tiêu và kỳ vọng đề ra. Hầu hết các loại cây trồng (trừ điều)
33

đều có sự gia tăng về năng suất và sản lượng, quy mô trồng từng bước được điều
chỉnh mở rộng, nâng cao chất lượng và giá trị của sản phẩm cuối cùng.

Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, giá trị trồng trọt tăng bình quân
3.76%/năm trong giai đoạn từ 2011 - 2013, trong giai đoạn 2011 - 2015 đạt
3,42%/năm. Tổng sản lượng đạt được từ 2011 đến năm 2015 về các loại lương thực
có hạt là 50,5 triệu tấn. Sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người năm 2015
đạt 550 kg (Tổng cục thống kê, 2015).

Sản phẩm trồng trọt chính của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua không có
nhiều thay đổi. Gạo vẫn là sản phẩm nông nghiệp chủ đạo chiếm 36% tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp, có lợi thế so sánh. Sau gạo, ngô là mặt hàng có diện tích
trồng lớn thứ 2 song sản lượng đang còn khiêm tốn (từ năm 2004 đến nay chỉ
khoảng 1/10 sản lượng lúa), sản lượng không đáp ứng được khiến cho mặt hàng này
vẫn còn phải nhập khẩu với số lượng lớn.

Hiện nay, đã có những chuyển biến cơ cấu cây trồng từ cây lương thực hàng
năm sang cây công nghiệp lâu năm, song quá trình chuyển dịch còn chậm. Các cây
công nghiệp lâu năm được chú trọng gồm có: điều, cà phê, cao su, chè, hồ tiêu...
Tuy nhiên, một số sản phẩm tăng trưởng còn chưa ổn định như điều, hồ tiêu. Bên
cạnh đó, sản phẩm các loại cây ăn quả cũng có tăng trưởng, tuy nhiên còn ở tốc độ
chậm và chưa bền vững.

Biểu đồ 2.1 Tăng trưởng sản lượng cây trồng giai đoạn 1990 - 2013

Nguồn: FAOSTAT (2015)


34

Như có thể thấy ở Biểu đồ 3.1 về tăng trưởng của sản lượng cây trồng, cà phê
và cao su tự nhiên là 2 mặt hàng có sự tăng trưởng mạnh mẽ nhất trong giai đoạn
1990 - 2013, mức tăng trưởng tăng đến 14 lần. Trong khi đó, các loại lương thực,
đặc biệt là lúa gạo, trái cây, rau có mức tăng trưởng thấp hơn rất nhiều (chỉ tăng gấp
2 lần trong 2 thập kỷ qua).

Năm 2016 ngành trồng trọt gặp nhiều khó khăn do thời tiết khắc nghiệt, cung
vượt cầu trên thế giới và giá cả xuống thấp, bất lợi cho sản xuất. Sản lượng sản xuất
so với năm 2015 có những biến động tăng giảm nhất định được thể hiện qua bảng:

Bảng 2.2 Sản lượng cây lương thực, cây thực phẩm 2016 so với 2015

So sánh năm
Thực hiện Thực hiện
Danh mục Đơn vị 2016/2015
2015 2016
Số lượng %

1. Cây lương thực có hạt

1.1 Lúa cả năm: 1000 tấn 45.212 44.225 - 987 97,8

1.2. Ngô: 1000 tấn 5.230 5.100 - 130 97,5

1.3. Lạc: 1000 tấn 448 460 12 102,7

1.4. Đậu tương: 1000 tấn 146 145 -1 99,3

2. Cây có củ -

2.1. Khoai lang: 1000 tấn 1.335 1.248 - 87 93,5

2.2. Sắn : 1000 tấn 10.400 10.640 240 102,3

3. Cây thực phẩm -

3.1 Rau các loại: 1000 tấn 15.303 15.975 672 104,4

3.2. Đậu các loại 1000 tấn 170 107 0,3 99,9

Nguồn: Cục Trồng trọt, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
35

2.1.2. Ngành Chăn nuôi

Bên cạnh trồng trọt thì chăn nuôi cũng là ngành kinh tế nền tảng, gốc rễ của
Việt Nam, không chỉ cung cấp được thực phẩm chủ yếu cho người dân mà còn là
hoạt động kinh tế giúp cho nông dân tăng thu nhập, giải quyết nhiều công ăn
việc làm cho người lao động.

Trong những năm qua, ngành chăn nuôi đã có những bước phát triển khá
nhanh, mức tăng trưởng bình quân hàng năm qua các giai đoạn có xu hướng tăng
lên rõ rệt. Tăng trưởng bình quân hàng năm đạt mức 9,1%/năm trong giai đoạn
2011 - 2013. Trong năm 2013, giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi đạt 147.979,5 tỷ
đồng, tăng trưởng 2,2 % so với năm 2012, chiếm 24,65% giá trị sản xuất của
toàn bộ ngành Nông nghiệp (Tổng cục thống kê, 2013).

Biểu đồ 2.2 Tăng trưởng sản xuất chăn nuôi 1990 - 2013.

Nguồn: FAOSTAT (2015)

Như có thể thấy ở biều đồ trên, hầu hết các sản phẩm chăn nuôi đều tăng
trưởng ở mức ổn định qua các năm, riêng sữa bò có sự tăng trưởng mạnh mẽ
giai đoạn từ năm 2002 cho đến 2013.
36

Bảng 2.3 Sản phẩm chăn nuôi giai đoạn 2010 - 2015

Sản lượng thịt hơi, trứng, sữa


STT Sản phẩm Đơn vị
2010 2011 2012 2013 2014 2015

I Thịt hơi các loại 1,000 tấn 4,036.9 4,331.6 4,289.8 4,354.4 4,625.1 4,806.6

1 Thịt lợn 1,000 tấn 3,036 3,200 3,160 3,217.9 3,351.1 3,491.6

Tỷ lệ % 75.52 74.18 73,99 73.90 72.46 72.67

2 Thịt gia cầm 1,000 tấn 621 708 729 747.0 875.0 908.1

Tỷ lệ % 15.38 16.34 16.99 17.16 18.92 18.89

3 Thịt trâu, bò 1,000 tấn 363 406 382 370.8 378.6 385.1

Tỷ lệ % 8.99 9.37 8.90 8.52 8.19 8.01

4 Thịt dê, cừu 1,000 tấn 16.91 17.60 18.78 18.71 20.38 21.84

Tỷ lệ % 0.42 0.41 0.44 0.43 0.44 0.45

II Trứng gia cầm Tỷ quả 6.3 7.0 7.3 7.8 8.2 8.9

III Sữa tươi 1,000 tấn 306.7 360.0 381.7 456.4 549.5 723.2

Nguồn: Tổng cục thống kê

Nhìn chung sản lượng ngành chăn nuôi tăng qua các năm.

Năm 2016, lĩnh vực chăn nuôi đã có những bước biển chuyển mạnh mẽ theo
hướng tích cực, từ tình trạng chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán, người nông dân dần
chuyển sang chăn nuôi tập trung theo mô hình trang trại, gia trại, ứng dụng công
nghệ khoa học kỹ thuật, tăng hiệu quả kinh tế. Thay vì phải đối phó với nạn dịch
bệnh, hiện đã có thể khống chế được vấn nạn này trên gia súc gia cầm, không để
xảy ra trên diện rộng; giá bán sản phẩm chăn nuôi hiện vẫn đang duy trì ở mức có
lợi cho người chăn nuôi. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi có mức tăng khá đạt 5,4%
so với cùng kỳ năm ngoái.

Không thể không nhận thấy được những thành quả mà chăn nuôi đã đạt được,
nhờ có những chính sách hỗ trợ của Nhà nước và nỗ lực của ngành chăn nuôi, người
37

nông dân đã học hỏi cách áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi, cải tiến con
giống vật nuôi, mở rộng quy mô, chăn nuôi theo trang trại với những mô hình chăn
nuôi tiên tiến. Bên cạnh đó, về cơ sở vất chất, các trang trại chăn nuôi được đầu tư
các trang thiết bị hiện đại, quy mô lớn, hệ thống quy trình xử lý chất thải thông
minh, hiệu quả cao.

2.1.3. Hoạt động xuất khẩu

Ngành Nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua bên cạnh việc đáp ứng nhu
cầu an ninh lương thực quốc gia, tiêu dùng nội địa, còn đáp ứng cho nhu cầu xuất
khẩu các sản phẩm có thế mạnh của Việt Nam như cà phê, cao su, gạo..., mang
thương hiệu nông sản Việt Nam đi khắp thế giới, thu về một nguồn ngoại tệ.

Trước năm 1990, Việt Nam không phải là quốc gia đóng vai trò quan trọng về
mặt hàng hàng nông sản trên thế giới, tuy nhiên từ năm 2011 cho đến nay, Việt
Nam đã trở thành nước đứng đầu về xuất khẩu hạt điều và hạt tiêu đen, đứng thừ 2
về xuất khẩu gạo, cà phê và sắn, và là nước đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu cao su.

Biểu đồ sau thể hiện thị phần xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới.

Biểu đồ 2.3 Thị phần xuất khẩu của Việt Nam trên thế giới ở một số mặt hàng
giai đoạn 2000 - 2013

Nguồn: UN(2015), Cơ sở dữ liệu UN Comtrade.

Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn hồi phục chậm, mặt bằng
giá cả hàng hóa ở mức thấp, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn do tình hình
38

điều kiện tự nhiên kém thuận lợi… nhưng hầu hết các loại nông sản đều được tiêu
thụ kịp thời, không xảy ra tình trạng ứ đọng, dư thừa

So với năm 2015, năm 2016 vừa qua, giá trị xuất khẩu của phần lớn các mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của nhóm nông sản đều đạt mức tăng trưởng tương đương.
Cụ thể ở một số mặt hàng có sự tăng trưởng dương như sau: cà phê đạt 3,34 tỷ
USD, tăng 24,9%; hạt điều đạt 2,84 tỷ USD, tăng 18,5%; rau quả đạt 2,5 tỷ USD,
tăng 33,6%; hạt tiêu đạt 1,43 tỷ USD, tăng 13,5%; cao su đạt 1,67 tỷ USD, tăng
9,2%; chè đạt 217 triệu USD, tăng 2,1%;.. Bên cạnh đó, một số mặt hàng có sự sụt
giá về trị giá xuất khẩu như gạo đạt 2,17 tỷ USD, giảm 22,4%; sắn và các sản phẩm
từ sắn đạt 999 triệu USD, giảm 24,2% (Bộ Công thương, 2016).

Lượng xuất khẩu (trừ rau quả) tăng giúp tăng kim ngạch xuất khẩu của nhóm
hàng này là 750 triệu USD. Tuy nhiên, giá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng đều
giảm so với cùng kỳ (trừ gạo và nhân điều) do cầu thị trường thế giới giảm trong
khi nguồn cung dồi dào và phải đối mặt với sức ép cạnh tranh gia tăng, từ đó tác
động giảm giá cũng đồng thời làm giảm kim ngạch xuất khẩu năm 2016 của nhóm
hàng này khoảng 271 triệu USD.

Tình hình xuất khẩu một số nông sản chủ lực trong năm 2016 được tổng hợp
trong báo cáo xuất nhập khẩu năm 2016 của Bộ Công thương như sau:

Gạo

Năm 2016, thị trường gạo thế giới và khu vực tiếp tục cạnh tranh gay gắt, có
nhiều diễn biến bất lợi cho xuất khẩu gạo của Việt Nam. Kết quả xuất khẩu gạo của
Việt Nam năm 2016 bị sụt giảm, chỉ đạt mức gần 4,9 triệu tấn, trị giá đạt gần 2,2 tỷ
USD, giảm tới gần 26,5% về số lượng và giảm 22,4% về trị giá so với năm 2015.

Năm 2016, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có nhiều biến động. Giá chào xuất
khẩu gạo 5% đạt mức cao nhất khoảng 385 USD/tấn, mức thấp nhất khoảng 345
USD/tấn thấp hơn của Thái Lan khoảng 5 - 10 USD/tấn nhưng cao hơn giá gạo của
Ấn Độ, Pakistan khoảng 5 USD/tấn (cùng chủng loại gạo).

Thị trường khu vực châu Á (trừ Trung Đông) chiếm 65,3% tổng lượng gạo
xuất khẩu, kim ngạch giảm 34,7% so với năm 2015; châu Phi chiếm 16,8%, kim
39

ngạch giảm 9%, châu Mỹ chiếm 9,66%, kim ngạch tăng 7,1%, châu Đại Dương
chiếm 4,5%, kim ngạch tăng 50%, châu Âu chiếm 1,7%, kim ngạch giảm 25,6%, thị
trường Trung Đông chiếm gần 2% (tăng 36%) so với năm 2015. Xuất khẩu gạo sụt
giảm đáng kể tại các thị trường truyền thống trọng điểm (thị trường Trung Quốc
giảm 8,6%, Philippines giảm 64,1%, Malaysia giảm 45, 5%, Indonesia giảm 51,8%,
Bờ Biển Ngà giảm 21,1%). Tuy nhiên, sụt giảm là bức tranh chung của thương mại
gạo thế giới trong năm 2016, không riêng Việt Nam (Bộ Công thương, 2016).

Cà phê

Năm 2016 xuất khẩu cà phê đạt 1,78 triệu tấn với kim ngạch 3,34 tỷUSD, tăng
32,8% về lượng và 24,9% về trị giá so với năm 2015. Giá cà phê xuất khẩu bình
quân năm 2016 đạt 1.872 USD/tấn, giảm 6% so với năm 2015. Xuất khẩu cà phê
sang hầu hết các thị trường trong năm 2016 đều có mức tăng trưởng cao so với năm
2015. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt
Nam, cụ thể là thị trường Đức dẫn đầu với kim ngạch 493,8 triệu USD, tăng 37,6%;
tiếp theo là Hoa Kỳ đạt 450 triệu USD, tăng 43,6%; Italia đạt 245,4 triệu USD, tăng
23,6%; Nhật Bản đạt 203 triệu USD, tăng 19,8%; Bỉ đạt 165,4 triệu USD, tăng
33,1%; Pháp đạt 70,6 triệu USD, tăng 15%; Nga đạt 118,5 triệu USD, tăng 14%.
(Bộ Công thương, 2016).

Chè

Khối lượng xuất khẩu chè năm 2016 đạt 131 nghìn tấn, kim ngạch 217 triệu
USD, tăng 5,1% về khối lượng và tăng 2,1% về trị giá so với năm 2015. Giá chè
xuất khẩu bình quân năm 2016 đạt 1.659 USD/tấn, giảm 2,8% so với năm 2015. Về
thị trường xuất khẩu, trong năm 2016 chè xuất khẩu sang Pakistan (thị trường lớn
nhất của Việt Nam, chiếm 36,2%), tăng 7% về khối lượng nhưng giảm 4% về kim
ngạch so với năm 2015. Các thị trường có kim ngạch xuất khẩu chè tăng mạnh là
Ấn Độ tăng gấp hơn 10 lần, Trung Quốc tăng 122,6%, Indonesia tăng 46,2%,
Malaysia tăng 41,4% và Philippines tăng 51,5% (Bộ Công thương, 2016).

Cao su
40

Lượng cao su xuất khẩu đạt 1,25 triệu tấn với kim ngạch 1,67 tỷ USD, tăng
10,3% về lượng và 9,2% về trị giá so với năm 2015. Đây là kết quả tích cực đối với
ngành cao su Việt Nam sau một thời gian dài sụt giảm cả về lượng và về giá. Giá
xuất khẩu cao su trung bình năm 2016 đạt 1.333 USD/tấn, giảm nhẹ 1,0% so với
năm 2015, tuy vẫn sụt giảm nhưng đã hồi phục hơn so với sự sụt giảm của cùng kỳ
các năm trước.

Ba thị trường lớn nhất của xuất khẩu cao su Việt Nam là Trung Quốc,
Malaysia và Ấn Độ, chiếm gần 75% tổng kim ngạch xuất khẩu cao su Việt Nam
trong năm 2016. Trong đó Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất với
kim ngạch đạt 994 triệu USD, tăng 30,2%; Ấn Độ đạt 116,7 triệu USD, giảm 8,2%.
Riêng kim ngạch xuất khẩu cao su năm 2016 sang Malaysia giảm mạnh 42,5%, đạt
128,9 triệu USD (Bộ Công thương, 2016).

Hạt tiêu

Lượng hạt tiêu xuất khẩu năm 2016 đạt 178 nghìn tấn với kim ngạch 1,43 tỷ
USD, tăng 35,3% về lượng và 13,5% về giá trị. Giá xuất khẩu năm 2016 có sụt
giảm so với năm 2015 và thấp hơn giá các nước khác. Các thị trường xuất khẩu
chính tăng trưởng dương như Hoa Kỳ đạt 342,4 triệu USD, tăng 30,5%, Ấn Độ đạt
84,2 triệu USD, tăng 12,2%, Các Tiểu Vương quốc Ả - rập Thống Nhất đạt 92,6
triệu USD, giảm 4,8%... Thị trường xuất khẩu lớn là Singapore sụt giảm do một số
nhà đầu cơ tại Singapore bị phá sản, tuy nhiên việc sụt giảm xuất khẩu qua
thị trường trung chuyển này lại mở rộng cơ hội xuất khẩu trực tiếp của Việt Nam tới
các đối tác khác (Bộ Công thương, 2016).

Hạt điều

Lượng hạt điều xuất khẩu năm 2016 đạt 347 nghìn tấn với kim ngạch 2,84 tỷ
USD, tăng 5,7% về lượng và 18,5% về giá trị. Nếu tính cả các sản phẩm chế biến sâu
và sản phẩm phụ (dầu vỏ hạt điều, cardanol...), kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt
trên 3,1 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay...Khác với các mặt hàng khác trong nhóm
nông sản phần lớn đều sụt giảm giá, giá xuất khẩu bình quân của điều năm 2016 ở
mức cao và liên tục tăng , giá bình quân năm 2016 đạt 8.196 USD/tấn, tăng 12,2% so
41

với năm 2015. Hạt điều Việt Nam được xuất khẩu đến 90 thị trường, trong đó Hoa
Kỳ chiếm thị phần cao nhất (35%), EU (25%) và Trung Quốc (18%). Các thị trường
xuất khẩu chủ lực đều đạt tăng trưởng dương như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hà Lan với
mức tăng trưởng lần lượt là 17,6%, 20,4% và 24,1% (Bộ Công thương, 2016).

Rau quả

Rau quả là mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh trong năm
2016 và cũng là mặt hàng mà Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công trong
công tác mở rộng thị trường. Kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 2016 đạt 2,46 tỷ
USD, tăng mạnh 33,6% so với năm 2015. Đây là ngành hàng có tăng trưởng nổi bật
nhất trong nhóm, trong khi các ngành hàng khác gặp khó khăn do sụt giảm lượng và
giá xuất khẩu thì ngành hàng này liên tục tăng trưởng mạnh trong 3 năm gần đây
(cụ thể, năm 2014 tăng 28,4%, năm 2015 tăng 23,7%). Trung Quốc là thị trường
nhập khẩu lớn nhất các loại rau quả của Việt Nam với mức tăng trưởng cao 45,8%
đạt kim ngạch 1,74 tỷ USD; tiếp theo là Hoa Kỳ tăng 44,2% đạt 84,5 triệu USD, EU
tăng 22,1% đạt 93,2 triệu USD; Hàn Quốc tăng 23,4% đạt 82,6 triệu USD; ASEAN
tăng 14,3% đạt 133,7 triệu USD... Việt Nam tuy chỉ đứng thứ 12 trong các nước
xuất khẩu rau quả lớn nhưng đã tăng từ 1 - 3 bậc so với vài năm trước (thị phần
toàn cầu tăng từ 2,1% lên 2,4%), đứng trên nhiều nước khác như Pháp, Đức,
Philippines, Ấn Độ,... Đối thủ cạnh tranh về rau quả của Việt Nam chủ yếu hiện nay
vẫn là Trung Quốc, Ấn Độ và một số quốc gia ASEAN như Thái Lan, Malaysia,
Indonesia.. (Bộ Công thương, 2016).

Sắn và các sản phẩm từ sắn

Lượng xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn đạt 3,7 triệu tấn với kim ngạch 999
triệu USD, giảm 10,3% về lượng và 24,2% về kim ngạch do giá giảm 15,5%. Trung
Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu chính trong năm 2016 chiếm tới 87% thị phần,
giảm 12% về khối lượng và giảm 25,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Trong
năm 2016, các thị trường có giá trị nhập khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của
Việt Nam giảm mạnh là Philippines (giảm 36%); Đài Loan (giảm 25,4%) và Trung
Quốc (giảm 25,7%). Thái Lan hiện là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu sắn và là
42

đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam (Bộ Công thương, 2016).

Đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam vào EU

EU là thị trường xuất khẩu lớn đứng thứ 2 của Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU cũng chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và Châu Âu với tỷ trọng đạt 74,7%.

Trong những năm vừa qua, cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng trên toàn thế giới, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU cũng ngày một
phát triển hơn với kim ngạch xuất nhập khẩu càng ngày các gia tăng, hoạt động
thương mại diễn ra một cách hiệu quả. Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2015,
kim ngạch quan hệ thương mại Việt Nam - EU đã tăng hơn 10 lần, năm 2000 đạt mức
4,1 tỷ USD đã tăng lên đến mức 41,4 tỷ USD năm 2015; trong đó xuất khẩu của Việt
Nam vào EU tăng 11 lần (từ 2,8 tỷ USD lên 30,8 tỷ USD) và nhập khẩu vào Việt
Nam từ EU tăng 8 lần (1,3 tỷ USD lên 10,4 tỷ USD) (Tổng cục Hải quan, 2015).

Từ năm 2013 đến năm 2016, ghi nhận những bước phát triển mạnh mẽ trong
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường EU tăng từ 21 tỷ EURO vào năm 2013 lên đến 33 tỷ EURO vào
năm 2016, tương ứng tăng hơn 50%.

Bảng 2.4 Giá trị xuất khẩu từ Việt Nam sang EU giai đoạn 2013 - 2016

Trị giá xuất khẩu từ Việt Nam sang EU ( triệu


Ngành sản
STT Euro)
phẩm
2013 2014 2015 2016

1 Nông nghiệp 1,736 1,887 2,268 2,420

2 Ngư nghiệp 798 915 1,019 1,028

3 Công nghiệp 18,721 19,418 26,699 29,616

Tổng 21,255 22,220 29,986 33,064

Nguồn: Ủy ban Châu Âu, Directorate - General for Trade


43

Mặc dù không phải là ngành chiếm tỷ trọng cao trong thương mại Việt Nam -
EU thời gian qua, tuy nhiên, Nông nghiệp là ngành có sự phát triển cả về xuất khẩu
và nhập khẩu. Từ năm 2013 - 2016, Nông nghiệp luôn giữ vững tăng trưởng đều đặn
và ổn đinh, kim ngạch xuất khẩu cao gần gấp 2 lần kim ngạch nhập khẩu (Biểu đồ
3.4)
3000
2268 2420
2500
1736 1887
2000
Triệu EUR

1441
1500 1093
1000 679 816

500
0
2013 2014 2015 2016
Xuất khẩu Nhập khẩu

Biểu đồ 2.4 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam với EU giai đoạn 2013 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu, Directorate - General for Trade

Về xuất khẩu, một số nông sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị
trường EU bao gồm: gạo, cà phê, tiêu, điều, chè... Trong đó, cà phê, điều, và tiêu là
3 sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất và tăng dần qua các năm. Gạo và chè
là 2 nông sản có những biến động tăng giảm từ năm 2003 cho đến nay và trong 3
năm gần đây có xu hướng giảm trong kim ngạch xuất khẩu.

Sau đây là một số ghi nhận về kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu của
Việt Nam xuất khẩu sang EU của Ủy ban Châu Âu:
44

1,400 1,267
1,1881,239
1,200 1,093 1,127
946
1,000
Giá trị (triệu EUR)
772 770
800 635 668
569
600
343
400 307 322
200
0
03 004 005 006 007 008 009 010 011 012 013 014 015 016
20 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

Biểu đồ 2.5 Kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU giai đoạn 2003 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu

Cà phê hiện là mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong tất cả các mặt hàng ở tất cả
các lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Kim ngạch xuất khẩu năm 2016 của
mặt hàng này được ghi nhận là hơn 1,2 tỷ EURO.

700 649
600
516
500
Giá trị (triệu EUR)

400
310
300
223 247 217
200 164 157 175
117
88 89
100 55 62

0
03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16
20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20 20

Biểu đồ 2.6 Kim ngạch xuất khẩu điều sang EU giai đoạn 2003 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu

Điều là mặt hàng có sự tăng trưởng bền vững nhất từ khi tham gia xuất khẩu
vào thị trường EU. Ba năm gần đây, chứng kiến một sự tăng trưởng vượt bậc với
kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 2 lần từ 310 EURO lên đến 649 triệu EURO.
45

300
248
250 221
202
183 179
Giá trị (triệu EUR)
200
149
150
112
100 68 77
52 58
50 27 35 36

0
03 004 005 006 007 008 009 010 011 012 013 014 015 016
20 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

Biểu đồ 2.7 Kim ngạch xuất khẩu tiêu sang EU giai đoạn 2003 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu

Tiêu là nông sản xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam vào EU, liên tục tăng trưởng
từ năm 2003 đến năm 2015. Vừa qua, hoạt động xuất khẩu tiêu vào thị trường EU có
sụt giảm nhẹ vào năm 2016 do giá tiêu xuất khẩu giảm 15% so với năm 2015.

30 28
25
25 23

18
Giá trị (triệu EUR)

20 17 18
16
15 13
10 11
10
10
4 4
5 3

0
03 004 005 006 007 008 009 010 011 012 013 014 015 016
20 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

Biểu đồ 2.8 Kim ngạch xuất khẩu gạo sang EU giai đoạn 2003 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu


46

14
13
12 12
12 11
11 11
10 10 10
10
10
8 9
8
Giá trị (triệu EUR)

6 6

0
03 004 005 006 007 008 009 010 011 012 013 014 015 016
20 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

Biểu đồ 2.9 Kim ngạch xuất khẩu chè sang EU giai đoạn 2003 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu

Đối với 2 mặt hàng chè và gạo, mặc dù trên thị trường Việt Nam là một nhà
cung cấp lớn, tuy nhiên gặp phải nhiều sức ép cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đối
với gạo, Việt Nam cạnh tranh gay gắt với Thái Lan và Ấn Độ về chất lượng và giá.
Còn trong xuất khẩu chè, đối với thị trường khó tính như EU, Việt Nam vẫn còn gặp
những hạn chế do sản phẩm chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về chất lượng cao.

2.1.4. Hoạt động nhập khẩu

Trong năm 2016, hầu hết các mặt hàng nông sản nhập khẩu chính của Việt
Nam như lúa mỳ, ngô, đậu tương đều giảm giá, lần lượt là 17,3%, 8,6% và 4,6%
theo xu hướng giảm giá của thế giới. Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu của hầu hết
các mặt hàng trong nhóm đều tăng cho thấy sự gia tăng sản lượng nhập khẩu trong
năm 2016. Chi tiết kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng được thể hiện ở bảng sau
47

Bảng 2.5 Nhập khẩu một số mặt hàng nông sản năm 2016

(Đơn vị tính: Lượng: nghìn tấn; Trị giá: triệu USD)

Tăng/Giảm
Năm 2015 Năm 2016
2016/2015 (%)
STT Mặt hàng
Kim Kim Kim
Lượng Lượng Lượng
ngạch ngạch ngạch

Thức ăn gia súc


1 3.391 3.461 2.1
và nguyên liệu

2 Ngô 7.622 1.651 8.445 1.671 10,8 1,2

3 Hạt điều 856 1.130 1.039 1.658 21,4 46,8

4 Lúa mỳ 2.343 601 4.807 1.019 105,2 69,6

5 Rau quả 622 925 48,7

Sữa và sản phẩm


6 900 849 - 5,6
từ sữa

Thuốc trừ sâu và


7 733 730 - 0,4
nguyên liệu

Dầu, mỡ động
8 682 701 2,8
thực vật

9 Cao su các loại 390 648 435 690 11,5 6,4

10 Đậu tương 1.707 765 1.546 661 - 9,4 - 13,6

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Tình hình nhập khẩu một số mặt hàng của Việt Nam như sau:

Thức ăn chăn nuôi, ngô và đậu tương

Hiện nay, Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn thức ăn chăn nuôi do sản
xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Trong đó, thức ăn gia súc và nguyên liệu
có kim ngạch lớn nhất, tăng 2,1% so với cùng kỳ, đạt khoảng 3,6 tỷ USD trong năm
48

2016. Nhập khẩu ngô đạt khoảng 1,67 tỷ USD tăng 1,2%, đậu tương khoảng 661
triệu USD, giảm 13,6%. Thị trường nhập khẩu chính của nhóm hàng này là châu
Mỹ, trong đó lớn nhất là Argentina với kim ngạch nhập khẩu thức ăn gia súc và
nguyên liệu là 1,56 tỷ USD tăng 8%, ngô đạt 845 triệu USD, tăng 63,3% và đậu
tương 4,2 triệu USD, giảm 62,7%. Thị trường nhập khẩu đứng thứ hai là Hoa Kỳ.
Bên cạnh đó còn có một số quốc gia khác như Brazil, Trung Quốc, Thái Lan,
Indonesia…(Bộ Công thương, 2016).

Hạt điều

Năm 2016, Việt Nam nhập khẩu khoảng 1,04 triệu tấn hạt điều, kim ngạch đạt
khoảng 1,66 tỷ USD, tăng 21,4% về lượng và tăng 46,8% về trị giá so với năm
2015. Giá nhập khẩu bình quân cả năm 2016 tăng khoảng 20,8% so với mức giá
bình quân năm 2015. Năm 2016, Bờ Biển Ngà tiếp tục là thị trường nhập khẩu lớn
nhất đối với mặt hàng điều thô, kim ngạch đạt khoảng 654,5 triệu USD, chiếm
39,5% tổng nhập khẩu mặt hàng này của Việt Nam, tăng 70% so với năm 2015.
Ngoài ra, các thị trường cung ứng điều thô khác là Campuchia (114,6 triệu USD,
chiếm 6,9%, giảm 14,4%) và Indonesia (113,5 triệu USD, chiếm 6,8%, giảm 0,1%)...
(Bộ Công thương, 2016).

Rau quả

Kim ngạch nhập khẩu rau quả năm 2016 đạt khoảng 925 triệu USD, tăng
khoảng 48,7% so với cùng kỳ. Rau quả Việt Nam nhập khẩu từ khá nhiều thị trường
trên thế giới nhưng tập trung kim ngạch lớn nhất ở khu vực thị trường châu Á. Thị
trường nhập khẩu lớn nhất là Thái Lan, với kim ngạch nhập khẩu năm 2016 đạt
khoảng 410 triệu USD, tăng 98,6% so với cùng kỳ. Thị trường nhập khẩu lớn thứ
hai là Trung Quốc, kim ngạch đạt 219,4 triệu USD, tăng 17,4%, tiếp theo là Hoa
Kỳ, khoảng 85 triệu USD, tăng 16%, ngoài ra còn có một số nước như Australia,
Myanmar, New Zealand, Ấn Độ, Nam Phi, Hàn Quốc.. (Bộ Công thương, 2016).

Lúa mỳ

Lúa mỳ là sản phẩm Việt Nam không sản xuất được, tuy nhiên là nguyên liệu
không thể thay thế trong nhiều ngành chế biến thực phẩm phục vụ đời sống như bánh
49

kẹo, mỳ ăn liền, bánh mỳ cũng như là nguyên liệu phục vụ chế biến thức ăn gia súc.
Năm 2016 nhập khẩu lúa mỳ đạt 4,81 triệu tấn với kim ngạch 1,02 tỷ USD, tăng
105,2% về lượng và 69,6% về kim ngạch. Các thị trường nhập khẩu lúa mỳ chính của
Việt Nam là thị trường Australia (384,2 triệu USD, chiếm 38% tổng nhập khẩu mặt
hàng này của cả nước, tăng 23,3% so với năm 2015); Brazil (63,8 triệu USD, chiếm
6,3%, giảm 24,6%); Hoa Kỳ (78,3 triệu USD, chiếm 7,7%, tăng 12,5%); Canada
(16,1 triệu USD, chiếm 1,6%, giảm 79,0%)…(Bộ Công thương, 2016).

Về nhập khẩu từ EU vào Việt Nam

Kim ngạch nhập khẩu của EU vào Việt Nam tăng 62% từ 5,7 tỷ EURO vào năm
2013 đạt 9,3 tỷ vào năm 2016. Về cơ cấu của các ngành trong kim ngạch nhập khẩu,
có thể thấy, Công nghiệp vẫn là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất tuy nhiên đang có xu
hướng giảm dần cùng với ngư nghiệp, nhường chỗ cho nhập khẩu hàng nông sản.

Bảng 2.6 Trị giá nhập khẩu từ EU vào Việt Nam giai đoạn 2013 - 2016

Trị giá nhập khẩu từ EU vào Việt Nam


STT Ngành sản phẩm (triệu Euro)

2013 2014 2015 2016

1 Nông nghiệp 679 816 1,093 1,441

2 Ngư nghiệp 159 177 205 240

3 Công nghiệp 4,941 5,181 7,131 7,652

Tổng 5,779 6,174 8,429 9,333

Nguồn: Ủy ban Châu Âu, Directorate - General for Trade

Việt Nam nhập khẩu từ hầu hết các nước thành viên EU. Những mặt hàng
nông sản nhập khẩu vào Việt Nam từ EU chủ yếu là những sản phẩm trong nước
còn thiếu hoặc chưa sản xuất được như: sữa và sản phẩm từ sữa, thịt và nội tạng,
mật ong tự nhiên, đường và bánh kẹo. Các sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu lớn
nhất là thịt và nội tạng, mật ong tự nhiên, tiếp theo là sữa và các sản phẩm từ sữa,
Việt Nam cũng nhập một lượng nhỏ đường và bánh kẹo từ thị trường EU.
50

Giai đoạn từ năm 2013 đến nay, tốc độ tăng của kim ngạch nhập khẩu thịt và
nội tạng rất nhanh, từ năm 2013 ở mức 19 triệu EURO đã tăng gấp 7,5 lần lên đến
144 triệu vào năm 2016. Người tiêu dùng Việt Nam càng ngày càng quan tâm đến
chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm hơn, theo đó nhu cầu về các sản phẩm chất
lượng cao, đảm bảo sức khỏe từ thị trường uy tín như EU ngày càng lớn.

160 144
140
120
Giá trị (triệu EUR)

100 91
80
56
60 42 47
35 31
40 19 20 19
20 0 0 1 2
0
003 004 005 006 007 008 009 010 011 012 013 014 015 016
2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

Biểu đồ 2.10 Kim ngạch nhập khẩu thịt và nội tạng từ EU
giai đoạn 2003 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu


180
160 153
140
119
Giá trị (ngàn EUR)

120
100
100
76
80
59
60
40 30 30 34
19 20
20 11 8 5
2
0
03 004 005 006 007 008 009 010 011 012 013 014 015 016
20 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

Biểu đồ 2.11 Kim ngạch nhập khẩu mật ong từ EU giai đoạn 2003 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu

Bắt đầu nhập khẩu từ EU với số lượng nhỏ vào năm 2003 và tăng đều và bền
vững cho đến nay, kim ngạch nhập khẩu mật ong tự nhiên đạt mức 153 triệu EURO
và hứa hẹn còn tiếp tục tăng trong thời gian tới.
51

Nhắc đến hàng hóa EU, không thể không nhắc đến sữa, các sản phẩm từ sữa.
Tuy nhiên mặt hàng này có những biến động khá phức tạp, giai đoạn 2008 chứng
kiến một sự giảm sút xuống đáy của kim ngạch nhập khẩu, sau đó có sự hồi phục
dần, năm 2012 tăng đạt đỉnh ở mức 110 triệu EURO và trong những năm gần đây,
kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này từ EU có xu hướng giảm bởi có sự cạnh tranh
từ các thị trường khác mà Việt Nam vẫn nhập khẩu mặt hàng này như Singapore,
Thái Lan, Philippin và đặc biệt là sự cạnh tranh mạnh mẽ từ Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Giá trị (triệ u EUR)

120 110
100 86 88
79 76 73
80 62
60 44 49
40 27 30 27 25 30
20
0

Biểu đồ 2.12 Kim ngạch nhập khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa từ EU
giai đoạn 2003 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu


14 12 11
12 10 10
Giá trị (triệu EUR)

10 9 9
8 6 6 7
6 5 4
4 4
4 2
2
0
03 004 005 006 007 008 009 010 011 012 013 014 015 016
20 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2 2

Biểu đồ 2.13 Kim ngạch nhập khẩu đường và bánh kẹo từ EU
giai đoạn 2003 - 2016

Nguồn: Ủy ban Châu Âu

Về nhập khẩu đường và bánh kẹo, kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam không
quá lớn và ổn định trong các năm gần đây, xấp xỉ 11 triệu EURO/năm.

2.1.5. Hoạt động đầu tư


52

Về thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, so với các lĩnh vực khác của nền
kinh tế, Nông nghiệp không phải là lĩnh vực màu mỡ cho các hoat động thu hút đầu
tư nước ngoài. Trong khi nguồn đầu tư nước ngoài (FDI) của cả nước có xu hướng
tăng, thì dòng vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp lại quá nhỏ về quy mô dự án và tỷ
trọng vốn đầu tư so với tổng đầu tư nước ngoài của cả nước. Tỷ trọng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài cho ngành nông nghiệp rất thấp và xu hướng tăng lên rất chậm
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2007, tỷ trọng này chiếm 0,8% trong tổng
vốn đầu tư toàn xã hội, đến năm 2015, tỷ trọng này cũng chỉ chiếm khoảng 2%
trong tổng số (Nguyễn Phương Thảo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2017)

Biểu đồ 2.14 Cơ cấu đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp theo nguồn vốn
đầu tư giai đoạn 2007 - 2015

Nguồn: Tổng cục thống kê

So với thời kỳ trước, những năm gần đây, đầu tư nước ngoài có sự chuyển
hướng sang đầu tư vào lĩnh vực trồng trọt, chế biến nông sản, sản xuất đường mía,
sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia súc gia cầm, dịch vụ hậu cần kho lạnh,
vận chuyển… Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng
lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức
ăn gia súc chiếm 12,7%, lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án.

Các đối tác EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có British VirginIslands
(10%), Pháp (7%). Các nước Hoa Kỳ, Canada, Úc chiếm tỷ trọng đầu tư nhỏ. Một số
53

nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australia) vẫn chưa
thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta. Tuy nhiên, có thể thấy, đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào nông nghiệp trong nội bộ các đối tác châu Á có sự thay đổi, gần
đây đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam chiếm tỷ trọng cao (chiếm khoảng 33% năm
2015), tiếp theo là Hồng Kông và Thái Lan. Năm 2007, Đài Loan, Hàn Quốc và
Singapore là những nước dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp tại
Việt Nam (Nguyễn Phương Thảo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2017).

Về đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam, trong năm 2014 (tính đến ngày
31/12/2014), Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tiếp nhận 153 hồ sơ dự án đầu tư ra nước
ngoài, đã cấp mới Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài cho 109 dự án đầu tư sang
28 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đăng ký phía Việt Nam trên 1,047 tỷ đô
la Mỹ. Tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài (gồm cả cấp mới và tăng vốn) đạt
trên 1,786 tỷ USD trong đó, lĩnh vực nông - lâm nghiệp và thủy sản chiếm 27,5%.
Trong đó, các dự án trồng cao su tại Campuchia là những dự án lớn nhất trong lĩnh
vực nông nghiệp. Theo số liệu thống kê hiện có, vốn thực hiện lũy kế đến năm 2014
đạt khoảng 6 tỷ USD, chiếm trên 30,6% tổng vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
lĩnh vực nông, lâm nghiệp trên 660 triệu USD, số lượng dự án tập trung nhiều tại
Campuchia và Myanmar, vốn đầu tư tập trung chủ yếu trong trồng cây công nghiệp
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2017).

2.2. Đánh giá thực trạng ngành Nông nghiệp Việt Nam

2.2.1. Điểm mạnh của ngành Nông nghiệp Việt Nam

Để đạt được những thành quả đáng ghi nhận như trên, cùng nỗ lực với chính
phủ và các cơ quan ban ngành, nông dân và doanh nghiệp nông sản Việt nam đã xây
dựng và tận dụng được những điểm mạnh của ngành Nông nghiệp, bao gồm:

Thứ nhất, Nông nghiệp là ngành kinh tế nền tảng, gốc rễ và cơ bản của nền
kinh tế Việt Nam, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nền kinh tế. Chính vì vậy, lực
lượng lao động ở khu vực kinh tế này rất dồi dào. Hiện nay có tới hơn 70% người
trong độ tuổi lao động làm việc ở ngành Nông nghiệp. Bên cạnh đó, chi phí phải
chi trả cho người lao động là rất thấp. Mức lương trung bình mà hiện nay người
54

lao động đang được chi trả là xấp xỉ 2 - 3 USD/ngày công lao động. Do vậy, chi phí
đầu vào cho các hoạt động sản xuất liên quan đến Nông nghiệp trước hết đã được
giảm thiểu rất nhiều, đây thực sự là một lợi thế lớn cho Nông nghiệp, không chỉ
so sánh với các nền kinh tế khác mà cả các ngành Nông nghiệp của quốc gia khác .

Thứ hai, bên cạnh nhân công rẻ, các chi phí đầu vào khác của hoạt động sản
xuất nông nghiệp là rất thấp. Không giống như các ngành Công nghiệp và Dịch vụ,
chi phí cho các hoạt động đầu vào là rất tốn kém thì đối với ngành Nông nghiệp
tỷ lệ chi phí sản xuất các sản phẩm nông nghiệp thấp hơn nhiều. Đặc biệt với việc
tận dụng được truyền thống sản xuất lâu đời, cũng như thuận lợi do điều kiện
tự nhiên của Việt Nam mang lại với các nguồn tài nguyên thiên nhiên như đất đai,
rừng vàng biển bạc, từ đó hỗ trợ chi phí sản xuất và chi phí giá thành thấp, tạo ra
lợi thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản.

Thứ ba, ngành Nông nghiệp là một ngành nghề phụ thuộc vào điều kiện
tự nhiên. Do vậy, điều kiện tự nhiên thuận lợi là một điểm mạnh của Nông nghiệp
Việt Nam. Các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam hiện nay, không chỉ
đáp ứng đủ nhu cầu thị trường trong nước mà còn xuất khẩu mạnh mẽ trên
thị trường thế giới như cà phê, điều, tiêu, cao su, lúa gạo, đều là những nông sản
nhiệt đới, không phải quốc gia nào trên thế giới đều có thề nuôi trồng sản xuất
được, cho dù với trình độ kỹ thuật tiên tiến như thế nào đi chăng nữa. Việt Nam có
điều kiện khí hậu và đất đai nhiệt đới, đó là thế mạnh giúp cho chúng ta có thể
sản xuất nhiều loại nông sản mang tính đặc thù mà các quốc gia khác không có.

Thứ tư, môi trường đầu tư ổn định là một ưu điểm của Việt Nam. Bất cứ một
nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài nào, đều quan tâm đến môi trường kinh
doanh và sẽ yên tâm đầu tư vào một môi trường kinh doanh có thể chế chính trị
ổn định, hiện đang càng ngày càng nỗ lực đổi mới, cải cách và hoàn thiện hơn nữa
hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh, trên cơ sở tạo điều kiện
thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế, nhằm mục tiêu phát triển bền vững,
tích cực tham gia hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
55

2.2.2. Những hạn chế của ngành Nông nghiệp Việt Nam

Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong suốt quá trình đổi mới kinh tế cho
đến nay, Nông nghiệp Việt Nam hiện vẫn còn phải đối mặt với nhiều điểm
hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của ngành.

Thứ nhất, hoạt động sản xuất nông sản, hàng hóa còn mang tính tự phát và
phong trào, không có chiến lược, quy hoạch rõ ràng. Đây chính là việc nông dân và
doanh nghiệp sản xuất và chế biến nông sản còn yếu kém trong khả năng tổ chức
hoạt động sản xuất do trình độ và năng lực chưa cao. Từ đó dẫn đến hàng loạt các
hệ quả như: sản xuất mang tính thủ công tạo ra giá trị thấp, giá thành sản xuất lại
chưa cạnh tranh, năng suất lao động thấp, hình thức và mẫu mã của sản phẩm chưa
đẹp không thể cạnh tranh với nông sản nước ngoài, chất lượng sản phẩm chưa cao.
Từ đó dẫn đến hoạt động kinh doanh không mang lại hiệu quả.

Thứ hai, các nguồn lực đầu vào của ngành Nông nghiệp Việt Nam như đất
đai, vốn, công nghệ, cơ sở hạ tầng, lao động, quy trình kĩ thuật... còn mang tính nhỏ
lẻ nếu không muốn nói là thiếu thốn, ngoài ra vẫn chưa đảm bảo tính đồng bộ, mang
tính chất tự phát cao. Hiện tại nông dân và doanh nghiệp nông sản còn đang bị phụ
thuộc vào các yếu tố tự nhiên, dẫn đến các tác động từ điều kiện thiên nhiên như
thời tiết hạn hán, nắng nóng, lũ lụt... sẽ ảnh hưởng trầm trọng đến hoạt động
sản xuất nông sản.

Thứ ba, cơ cấu sản xuất nông sản còn chưa hợp lý, thiếu cân đối. Từ xưa đến
nay trong truyền thống Nông nghiệp Việt Nam, lúa nước vẫn là cây nông nghiệp
chính, thu hút mức độ đầu tư và chú trọng rất cao về mọi nguồn lực như lao động và
tài chính, nghiên cứu, đất đai, tổ chức, nhân sự... Nhưng chính vì chú trọng quá nhiều
vào lúa gạo đã khiến nông nghiệp Việt Nam không thể thu được nguồn lợi từ thị
trường quốc tế đối với một số nông sản khác, đặc biệt là rau củ quả. Thực tế trên thị
trường quốc tế hiện nay, rau và hoa quả có giá trị lớn gấp 7 lần so với thị trường gạo.

Tình trạng thiếu cân đối cơ cấu cây trồng này sở dĩ do Việt Nam chưa có
những nghiên cứu và định hướng phát triển phù hợp với nhu cầu thực tế của thị
trường thế giới, ngoài ra, người nông dân và các doanh nghiệp nhận thấy được còn
56

nhiều rủi ro nên không tự tin để đầu tư vào những ngành đòi hỏi đầu tư các quy
trình kỹ thuật, công nghệ cao và có tổ chức hệ thống, có chiến lược như rau, hoa
quả. Vì vậy, doanh nghiệp và nông dân chủ yếu tập trung sản xuất các mặt hàng
nông sản thô, ít chế biến như lúa gạo, cà phê hay chè. Ngoài ra, hiện nay, với chính
sách của nhà nước về việc sử dụng đất nông nghiệp được quy định có thời hạn cũng
làm tăng rủi ro cho người sử dụng đất, đây cũng là lý do khiến các doanh nghiệp
trong và ngoài nước e ngại với việc đầu tư có chiều sâu cho công nghệ cao trong
nông nghiệp. Trong 10 năm vừa qua, hầu hết các nông sản có tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu cao của Việt Nam lại có xu hướng giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trên
thị trường thế giới, điều này chứng tỏ Nông nghiệp Việt Nam còn hạn chế ở khả
năng phản ứng và thích nghi với thị trường, còn tiếp nhận thông tin từ thị trường
một cách thụ động, không có dự báo đón đầu không ở cả sản xuất, chế biến và xúc
tiến thương mại;

Thứ tư, một điểm yếu, hạn chế nữa của ngành Nông nghiệp Việt Nam, cũng
là điểm yếu chung của các quốc gia đang phát triển, đó chính là cơ sở hạ tầng còn
yếu kém, máy móc thiết bị thô sơ, công nghệ sản xuất và thu hoạch còn lạc hậu. Để
có thể tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh được diễn ra một cách hiệu
quả, tất cả các hệ thống trên cần phải được tổ chức hoạt động theo 1 quy trình xuyên
suốt, nhuần nhuyễn và đồng bộ. Tuy nhiên, thực tế là doanh nghiệp nông sản Việt
chưa xây dựng được cho mình chuỗi ngành hàng xuyên suốt và đồng bộ, ví dụ khi
sản lượng lúa gạo đạt đỉnh thì sẽ gặp những khó khăn như: thiếu kho để tạm trữ lúa
sau thu hoạch, thiếu nhà mát để lưu kho, thiếu cơ sở để chế biến, công nghệ lạc hậu,
hệ thống vận tại không đủ khả năng đảm bảo vận chuyển đã cản trở việc vận chuyển
các nguyên liệu cũng như thành phẩm, bao bì sản phẩm chưa tốt, mẫu mã không
đẹp, gây tổn thất trong quá trình thu hoạch cũng như bảo quản, làm giảm chất lượng
của sản phẩm, quan trọng nhất là việc hoạt động chế biến còn nhiều hạn chế khiến
cho doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu của thị trường về mặt hàng có giá
trị cao, thay vì vậy chỉ cung cấp được mặt hàng thô sơ có giá trị thấp hơn. Cũng
chính vì nguyên nhân này, dẫn đến tình trạng được mùa nhưng người dân phải bán
lỗ, bán tháo để lấy vốn quay vòng hoạt động sản xuất. Về cơ bản các Hiệp hội
57

ngành hàng cũng như các cơ quan ban ngành nông nghiệp Việt Nam chưa giúp
nông dân giải quyết những vấn đề này một cách hiệu quả.

Thứ năm, một điểm yếu của ngành Nông nghiệp hiện nay, ảnh hưởng không
hề nhỏ đến không chỉ hoạt động tiêu thụ trong nước mà còn cả hoạt động xuất khẩu
và hội nhập kinh tế quốc tế, đó chính là sản xuất nông sản chưa quan tâm đến vấn
đề vệ sinh an toàn thực phẩm, tầm quan trọng của bảo vệ môi trường sinh thái và
phát triển bền vững. Thực tế nông dân và doanh nghiệp Việt Nam chỉ vì lợi ích
thiển cận đã sử dụng phân bón hóa học độc hại, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, thuốc
bảo quản một cách tùy tiện, vượt quá giới hạn cho phép, không chỉ dẫn đến thoái
hóa, đất, ô nhiễm nguồn nước mà nghiêm trọng hơn là gây hại sức khỏe cho công
đồng, làm mất niềm tin của người tiêu dùng, dẫn đến nhiều hàng hóa nông sản bị
tẩy chay trong nước và không xuất khẩu ra nước ngoài được.

Thứ sáu, các sản phẩm nông sản ở Việt Nam phần lớn chưa được xây dựng
thương hiệu. Như đã nêu ở các phần trên, Việt Nam có xấp xỉ tới 1000 sản phẩm
nông nghiệp, dịch vụ đặc thù gắn liền với 721 địa danh trên cả nước, trong đó có
800 sản phẩm nổi tiếng. Tuy nhiên, số lượng sản phẩm có chỉ dẫn địa lý được đăng
ký bảo hộ chỉ là 30 chỉ dẫn địa lý, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, ngoài ra chỉ có 136
thương hiệu có đăng ký bảo hộ. Việt Nam luôn nằm trong số các quốc gia dẫn đầu
về xuất khẩu cà phê, hồ tiêu, hạt điều và hiện có rất nhiều loại trái cây của Việt Nam
như vải, nhãn, bưởi, thanh long… được ưa chuộng trên thế giới nhưng người tiêu
dùng vẫn chưa biết nhiều đến các thương hiệu đó của nông sản Việt Nam, nguyên
nhân là do các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến vấn đề thương hiệu, chưa
có ý thức tận dụng hết tiềm năng của mặt hàng nông sản. Chính vì vậy, dẫn đến
thực tế đáng buồn là 90% nông sản xuất khẩu trong thời gian qua chỉ có con đường
xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô với lợi ích kinh tế rất thấp. Trong khi đó, các
nước nhập khẩu nguồn nguyên liệu này, sau khi chế biến và mang thương hiệu của
chính họ, lại có thể được bán với giá rất cao.

Thứ bảy, Việt Nam còn bị hạn chế trong khả năng tìm kiếm và tiếp cận thông
tin, cũng như dự báo về biến động thị trường và xu hướng tiêu dùng tại thị trường
58

tiềm năng và thị trường mới. Từ đó khiến cho nền Nông nghiệp hiện tại còn đang bị
động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

2.3. Các vấn đề đặt ra đối với ngành Nông nghiệp Việt Nam khi tham gia
EVFTA

2.3.1. Đối với xuất khẩu nông sản

EVFTA được ký kết và có hiệu lực chính là một bước tiến mạnh mẽ trong mối
quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu, thể hiện các bên đều đã
sẵn sàng mở cửa cho quá trình hội nhập sâu rộng giữa các nền kinh tế. Tuy nhiên,
có những lĩnh vực của nền kinh tế mà các bên vẫn còn e ngại và được coi là nhạy
cảm, vẫn cần được bảo hộ, Nông nghiệp là một trong số các ngành đó.

Đối mặt với việc EVFTA có hiệu lực và đi vào thực thi, xuất khẩu nông sản
của Việt Nam cũng gặp một số những vấn đề nhất định. Mặc dù hàng rào thuế quan
đã được cắt giảm đáng kể, nông sản Việt Nam vẫn phải đối đầu với một số các rào
cản phi thuế quan từ lâu luôn là một rào cản lớn và ảnh hưởng tiêu cực đến
xuất khẩu nông sản.

Nhắc đến EU, chính là đề cập đến một trong những thị trường khó tính, yêu
cầu cao về chất lượng, các quy định đối với sản phẩm nhập khẩu của các nước
thuộc khối EU liên tục thay đổi khiến sản phẩm của Việt Nam không đáp ứng kịp
thời, ảnh hưởng không nhỏ đến khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.

Hàng hóa của Việt Nam khi nhập khẩu vào EU hiện tại đang gặp nhiều khó
khăn do những rào cản phi thuế quan như chất lượng, an toàn thực phẩm, nguồn gốc
xuất xứ do thị trường này đặt ra. Đối với hàng nông sản, EU đang áp dụng phương
thức kiểm tra giá trị gia tăng, cơ chế này xuất phát từ việc phát hiện nhiều lô hàng
không phù hợp với quy định của EU (như nhiễm vi khuẩn, có dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật). Đây là cơ chế EU áp dụng chung cho tất cả các đối tác thương mại. EU đã
phối hợp tiến hành kiểm tra và kết quả cho thấy hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm
của Việt Nam đối với các sản phẩm rau gia vị xuất khẩu sang EU còn hạn chế.

EVFTA quy định về các rào cản phi thuế trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động
xuất khẩu nông sản của Việt Nam, bao gồm: quy tắc xuất xứ, các biện pháp phòng
59

vệ thương mại (thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, các biện pháp tự vệ),
quy định về môi trường, rào cản kỹ thuật TBT, các biện pháp vệ sinh dịch tễ SPS,
quy định về các quy trình công nghệ..

Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu bằng
việc đáp ứng toàn bộ các quy định trên của EU trong hiệp định EVFTA.

2.3.1.1. Khả năng đáp ứng cam kết về quy tắc xuất xứ

Việt Nam đang gặp phải vấn đề khi phải nhập khẩu nguồn nguyên liệu từ nước
ngoài, nếu không thể đáp ứng được yêu cầu về giới hạn tỷ lệ % tối đa được phép
của nguyên liệu nhập khẩu thì không được áp dụng ưu đãi về thuế quan, từ đó giảm
tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế.

Hiện nay, các sản phẩm của Việt Nam đang bị EU yêu cầu áp dụng quy tắc xuất
xứ thuần túy bao gồm: Mật ong, thịt và phụ phẩm dạng thịt ăn được,trứng chim và
trứng gia cầm, rau củ quả nguyên liệu, Cà chua, nấm và nấm cục đã chế biến hoặc
bảo quản bằng cách khác trừ loại bảo quản bằng giấm, gạo, chế phẩm từ ngũ cốc, tinh
bột, lá thuốc là chưa chế biến…. Quy tắc xuất xứ thuần túy được quy định trong
EVFTA khi áp dụng vào Nông nghiệp có thể được hiểu như sau: Các sản phẩm được
xem là có xuất xứ thuần túy tại Việt Nam nếu như: sản phẩm thực vật và rau được
trồng và thu hoạch hay tập trung ở Việt Nam; động vật sống được sinh ra và nuôi ở
Việt Nam; sản phẩm từ động vật sống được nuôi ở Việt Nam; sản phẩm từ động vật
được sinh ra, nuôi, và giết mổ ở Việt Nam; Các sản phẩm thu được từ săn bắn hoặc
đánh bắt ở Việt Nam và tất cả các sản phẩm chế biến từ nguồn nguyên liệu được nêu
ở trên.

Như vậy đối với Việt Nam, các sản phẩm trên chỉ cần có 1% nguồn nguyên
liệu được nhập khẩu từ nước khác, ngay tập tức không được áp dụng các ưu đãi
thuế quan, đó là một rào cản khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam bất lợi khi
xuất khẩu nông sản.

Ngoài quy định về sản phẩm có xuất xứ thuần túy, EVFTA có những quy định
bớt nghiêm ngặt hơn nhưng còn phức tạp đối với một số sản phẩm: Sản phẩm bơ
sữa, sản phẩm ăn được gốc động vật có khối lượng đường sử dụng không quá 20%
60

khối lượng sản phẩm cuối cùng, sản phẩm chế biến từ rau củ có hàm lượng đường
không xuất xứ không được quá 20%; đối với rượu và đồ uống có cồn, nho nguyên
liệu yêu cầu xuất xứ thuần túy và lượng đường không xuất xứ tối đa là 20%; lá
thuốc lá đã chế biến chỉ được sử dụng tối đa 30% nguyên liệu không xuất xứ trong
các nguyên liệu liên quan so với tổng nguyên liệu được sử dụng và sản phẩm thuốc
lá điếu phải làm từ lá thuốc lá đã chế biến có xuất xứ hoặc giới hạn tỷ lệ nguyên liệu
không xuất xứ… vẫn sẽ được công nhận là có xuất xứ và được hưởng các ưu đãi về
thuế quan. Ngoài ra đối với chi tiết từng mặt hàng nhỏ lẻ khác như các loại kẹo từ
đường, ca cao và các chế phẩm từ ca cao, chế phẩm từ ngũ cốc tinh bột… EVFTA
đều quy định rất cụ thể và chi tiết khiến cho việc đáp ứng quy tắc cần được thực
hiện với tính chính xác cao.

Hiện nay, công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa phát triển nên phần lớn
nguồn nguyên, phụ liệu để sản xuất hàng xuất khẩu đều phải nhập khẩu. Từ những
yêu cầu chặt chẽ về quy tắc xuất xứ như trên, đối với Việt Nam với hơn 70% nguồn
nguyên liệu nhập khẩu thì đâu là giải pháp cho vấn đề đáp ứng quy tắc xuất xứ để
được hưởng ưu đãi về thuế quan theo Hiệp định EVFTA chính là một thách thức
đối với ngành Nông nghiệp.

2.3.1.2. Đối mặt với các biện pháp phòng vệ thương mại, biện pháp đối
kháng và biện pháp tự vệ

Việt Nam hiện đang gặp phải nhiều trở ngại khi tham gia thương mại quốc tế
bởi thường phải đối mặt với các vụ tranh chấp thương mại quốc tế (vụ kiện chống
bán phá giá) cũng như đối mặt với thuế đối kháng (thuế chống trợ cấp).

EVFTA quy đinh chi tiết về các biện pháp này trong chương 3 về các trường
hợp được và không được áp dụng, cũng như việc áp dụng sẽ được thực hiện như thế
nào. Hiệp định dẫn chiếu trực tiếp đến quy định của WTO trong Hiệp định của
WTO về trợ cấp và các biện pháp đối kháng cũng như các quy định khác của WTO
về tự vệ song phương.

Việc ký kết EVFTA sẽ không có tác động lớn tới việc sử dụng hành động chống
bán phá giá và đối kháng của EU đối với hàng nhập khẩu từ Việt Nam, ngược lại,
61

khối này có thể áp dụng những quy định nghiêm ngặt hơn đối với Việt Nam trong
lĩnh vực bán phá giá, trợ cấp và sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại.

Thực tế cho thấy, nông sản là mặt hàng được bảo hộ cao tại nhiều quốc gia,
việc Việt Nam xuất khẩu với mức giá cạnh tranh cao ở thị trường nước ngoài, hay
xuất khẩu ồ ạt vào thị trường thì việc tăng số lượng hàng hóa có xuất xứ Việt Nam
tại lãnh thổ của EU trong điều kiện tuyệt đối hoặc tương đối so với sản xuất trong
nước, gây ra hoặc có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất
trong nước sản xuất ra hàng hoá tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp thường
phải đối mặt với hành động tự vệ của nước nhập khẩu. Điều này dẫn đến các hành
động vô hiệu hóa ưu đãi về thuế quan, được thực hiện một cách hợp pháp như: tạm
ngưng giảm thêm thuế quan đối với mặt hàng liên quan; hoặc tăng thuế quan đối
với mặt hàng đó nhưng không được vượt quá mức nào trong các mức sau: thuế suất
tối huệ quốc áp dụng đối với mặt hàng có hiệu lực tại thời điểm mà biện pháp được
áp dụng; hoặc thuế suất cơ bản quy định tại các Biểu cam kết của Hiệp định.

Hạn chế của Việt Nam là việc hiểu và thực thi luật, các doanh nghiệp Việt
Nam thông thường thiếu sự hiểu biết sâu sắc về các biện pháp phòng vệ thương
mại, các biện pháp đối kháng và hành động tự vệ cũng như thiếu kinh nghiệm đối
phó trong các trường hợp này. Bên cạnh đó, việc theo đuổi một vụ kiện như vậy
cũng đòi hỏi khả năng tài chính lớn mà các doanh nghiệp Việt Nam khó lòng đáp
ứng được. Ngoài ra, vai trò của các Hiệp hội ngành hàng cũng như các Bộ ngành,
Chính phủ trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với vấn đề này
trong thương mại quốc tế vẫn còn những hạn chế.

Vì vậy, việc ký kết EVFTA bên cạnh việc tạo ra điều kiện thuận lợi cho xuất
khẩu nông sản cũng tạo ra những thử thách đối mặt với các hành động bảo hộ của
quốc gia nhập khẩu cho ngành Nông nghiệp Việt Nam.

2.3.1.3. Đáp ứng hàng rào kỹ thuật đối với thương mại TBT

Đối với EVFTA, cũng giống như tất cả các Hiệp định thương mại tự do khác,
trong xu thế hội nhập và tự do hóa thương mại, Việt Nam, với tư cách là nước xuất
khẩu, sẽ phải đáp ứng các tiêu chuẩn (rào cản) của các quốc gia thuộc EU. Trong một
62

số trường hợp, ở những mức độ khác nhau, các rào cản thương mại này trên thực tế đã
có những tác động tiêu cực đối với phát triển kinh tế nói chung và hoạt động xuất
khẩu nông sản nói riêng, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Trong những năm vừa qua, hoạt động xuất khẩu nông sản đã là một hoạt động mũi
nhọn, có những đóng góp to lớn vào phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, do chưa
nắm rõ các quy định có tính chất bắt buộc dưới dạng các rào cản kỹ thuật nên nhiều lô
hàng xuất khẩu của Việt Nam đã bị trả lại, thậm chí, một số mặt hàng đã bị suy giảm
nghiêm trọng cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu; cá biệt có mặt hàng mất thị
trường. Vì vậy trở ngại đầu tiên đối với doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đầu tiên
phải kể đến hiểu rõ hiểu đúng các quy định về rảo cản kỹ thuật TBT được quy định
trong EVFTA cũng như các quy định liên quan đến Quy chuẩn kỹ thuật, Tiêu chuẩn
kỹ thuật, Thủ tục đánh giá hợp quy, và từng bước đáp ứng được các tiêu chuẩn này,
đồng nghĩa với việc gia tăng chi phí sản xuất khi phải thực thi các quy định nghiêm
ngặt này. Ngoài ra, cũng giống như quy tắc xuất xứ, nếu không đáp ứng được cho dù
chỉ là một tiêu chuẩn thì mặt hàng nông sản sẽ không được áp dụng ưu đãi về thuế
quan, mục đích cuối cùng được hướng tới khi ký kết Hiệp định.

2.3.1.4. Đảm bảo thực hiện cam kết về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch

Khi EVFTA có hiệu lực, cũng là lúc doanh nghiệp xuất khẩu nông sản phải
tuân thủ quy trình, quy định nghiêm ngặt về các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch. EU
là thị trường đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ cuộc sống, sức khoẻ con người,
vật nuôi, động thực vật thông qua việc đảm bảo vệ sinh thực phẩm và ngăn chặn các
dịch bệnh, chính vì vậy, các tiêu chuẩn, các quy trình, quy định, điều kiện, yêu cầu
bắt buộc liên quan đến hoạt động nhập khẩu nhằm bảo đảm an toàn thực phẩm và
ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ động thực vật là một
trong các vấn đề được EU coi trọng, từ đó mà các hình thức của các biện pháp SPS
mà EU đưa ra đều rất cụ thể và đa dạng (từ yêu cầu về chất lượng, về bao bì, về quy
trình đóng gói, phương tiện cho đến cách thức vận chuyển động thực vật, kiểm dịch,
phương pháp lấy mẫu, thống kê…). Việt Nam phải tuân thủ theo tất cả các tiêu
chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị mang tính quốc tế, được ban hành bởi các cơ
quan hữu quan có vai trò quan trọng trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, đối
63

với an toàn thực phẩm, đó là các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị do Uỷ ban
An toàn thực phẩm xây dựng liên quan đến các chất phụ gia thực phẩm, thuốc thú y
và dư lượng thuốc trừ sâu, tạp chất, phương pháp phân tích và lấy mẫu, các mã số
và hướng dẫn về thực hành vệ sinh; đối với sức khoẻ động vật, đó là các tiêu chuẩn,
hướng dẫn và khuyến nghị được xây dựng dưới sự bảo trợ của Văn phòng Kiểm
dịch động vật quốc tế; đối với thực vật, đó là các tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến
nghị quốc tế được xây dựng dưới sự bảo trợ của Ban Thư ký Công ước Bảo vệ Thực
vật Quốc tế hợp tác cùng các tổ chức khu vực hoạt động trong khuôn khổ Công ước
Bảo vệ Thực vật Quốc tế.

Việc đáp ứng được các tiêu chuẩn, tuân thủ các quy trình theo chuẩn quốc tế
tạo ra một áp lực về chi phí cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đối với các thị trường
cao cấp như EU, nếu muốn đáp ứng được các tiêu chuẩn đó, đòi hỏi các doanh
nghiệp Việt, trong nhiều trường hợp phải điều chỉnh hoạt động sản xuất hoặc
phương pháp sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến..., nghĩa là dẫn tới chi phí tuân
thủ bị gia tăng. Đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam, phương thức nuôi
trồng và thực tiễn sản xuất vẫn còn nhiều thiếu sót, chưa phù hợp để đáp ứng được
các biện pháp SPS nghiêm ngặt. Thực tế cho thấy vẫn còn nhiều khác biệt quan
trọng tồn tại giữa các tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế
đối với các lĩnh vực chính về an toàn thực phẩm và sức khỏe trong sản xuất nông
nghiệp. Và ngay cả các tiêu chuẩn thấp, đối với các nhà sản xuất quy mô nhỏ,
những công ty nhỏ lẻ dọc theo chuỗi cung ứng nông nghiệp rời rạc, thiếu hiểu biết về
các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và yêu cầu sức khỏe cũng khó có thể đáp ứng được.

Một hạn chế nữa mà Việt Nam đang phải đối mặt đó là việc thiếu thông tin kịp
thời, các bộ ngành và các cơ quan hữu quan có liên quan đã chậm trễ trong việc
phản ứng lại và thông báo cho các doanh nghiệp. Kết quả là, thời gian các công ty
có được để đáp ứng các yêu cầu SPS này đã bị giảm đáng kể, làm tăng chi phí và
trong trường hợp nặng hơn, có thể hạn chế khả năng xuất khẩu.

Lấy trường hợp xuất khẩu tiêu sang thị trường Tây Ban Nha là một ví dụ, mặt
hàng này phải chịu các rào cản về mức độ dự lượng thuốc trừ sâu (Bộ Nông nghiệp
và phát triển Nông thôn, 2015). Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt chỉ biết đến điều này
64

qua các phương tiện truyền thông đại chúng chứ không phải từ các đầu mối cơ quan
ban ngành là đại diện thương mại của Việt Nam tại Tây Ban Nha.

Liên quan đến một thị trường nổi tiếng khó tính như EU, làm thế nào có thể
vượt qua được tất cả các biện pháp và tiêu chuẩn về vệ sinh và kiểm dịch thực sự là
một thử thách lớn cho doanh nghiệp cũng như các Bộ ngành liên quan.

2.3.1.5. Các vấn đề nội tại của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản

Ngoài các vấn đề liên quan cụ thể đến hoạt động xuất khẩu, giống như mọi
doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung khi tham gia vào quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, làm thế nào để nâng cao chất lượng lao động, cải tiến quy
trình kỹ thuật nhằm giảm bớt chi phí, nâng cao năng suất lao động và chất lượng
sản phẩm để không chỉ đạt tiêu chuẩn nhập khẩu vào EU mà còn có khả năng cạnh
tranh với các doanh nghiệp nội địa của các quốc gia có trình độ phát triển hàng đầu
thế giới cũng là một vấn đề nhức nhối đối với các doanh nghiệp, các Hiệp hội ngành
hàng. Đặc biệt đối với một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam,
đối với ngành Nông nghiệp, lực lượng lao động không được đào tạo với điều kiện
tốt nhất, còn thiếu các lao động tay nghề cao và các dây chuyền công nghệ hiện đại,
thì đây sẽ luôn là một thử thách trong dài hạn đối với hoạt động xuất khẩu nông sản.

2.3.2. Đối với nhập khẩu nông sản

2.3.2.1. Áp lực cạnh tranh tại thị trường trong nước

Ký kết Hiệp định EVFTA, Việt Nam đứng trước cơ hội xuất khẩu nông sản
lớn vào thị trường khó tính bậc nhất trên thế giờ cũng đồng nghĩa phải sẵn sàng cho
việc tiếp nhận ồ ạt các sản phẩm có xuất xứ từ EU luôn được đánh giá cao về chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, mẫu mã. Điều này dẫn đến áp lực cạnh tranh vô
cùng lớn tại thị trường nội địa.Hàng hóa của EU khi đi vào Việt Nam sẽ dễ dàng
hơn và giảm giá mạnh do không phải chịu thuế nhập khẩu. Hệ quả là, việc tiêu thụ
sản phẩm sản xuất trong nước tại thị trường nội địa sẽ gặp khó khăn, thậm chí sẽ có
những ngành phải thu hẹp sản xuất do không cạnh tranh được.

Với nhiều mặt hàng vốn là chủ lực, thế mạnh của EU nhập khẩu vào Việt Nam
như sữa và các sản phẩm từ sữa, thịt lợn, gà, bò, thực phẩm chế biến, đồ uống,
65

thuốc lá sẽ được giảm thuế, từ đó gia tăng sức ép cạnh tranh cho nhà sản xuất trong
nước, không chỉ về giá mà còn về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngành
được dự báo gặp bất lợi nhất là chăn nuôi. Các mặt hàng trong ngành chăn nuôi đều
có lộ trình giảm thuế trong vòng 10 năm, cụ thể như thịt gà và thịt lợn, có lộ trình
dài (8 - 10 năm) trong khi thịt bò, sữa và các sản phẩm từ sữa có lộ trình giảm
nhanh (từ dưới 1 năm đến 3 năm). Thịt lợn, gà, bò: Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế
quan sau 3 năm đối với thịt bò; 7 năm đối với thịt lợn đông lạnh, 9 năm đối với các
nhóm thịt lợn khác; và 10 năm đối với thịt gà. Như vậy, ngành chăn nuôi sẽ đối mặt
với áp lực cạnh tranh lớn bởi hàng nhập khẩu từ Tây Ban Nha, Đan Mạch (thịt lợn),
Pháp, Hà Lan (sữa), Ba Lan...

Việt Nam hiện có tổng đàn bò khoảng 5,6 triệu con; hơn 5,3 triệu con bò thịt;
328 triệu gia cầm và 27 triệu con lợn…đứng thứ 2 thế giới về số lượng vịt, thứ 4 về
lợn, thứ 6 về trâu và thứ 13 về tổng đàn bò. Ở châu Á, Việt Nam chỉ xếp sau Trung
Quốc, Ấn Độ và Indonesia (Hội Thức ăn chăn nuôi, 2015).

Theo nhận định của Liên minh các nhà sản xuất và sử dụng lao động trong
ngành thịt châu Âu (UPEMI), hiện có khoảng 100 nhà xuất khẩu thuộc các nước EU
đã được cấp phép xuất khẩu thịt vào Việt Nam, trong đó 40% đến từ Ba Lan. Thực
tế ghi nhận, giá thành sản phẩm chăn nuôi trong nước ở mức khá cao, cao hơn 25 -
30% so với các nước thuộc khối EU. Đồng thời, chất lượng sản phẩm và an toàn vệ
sinh thực phẩm còn kém. Vì vậy, một khi xóa bỏ hàng rào thuế quan, EVFTA có
hiệu lực thì lúc đó giá thịt lợn, bò, gà nhập khẩu từ EU sẽ rẻ hơn so với mức giá
hiện nay (thuế về mức 0%) khiến các sản phẩm thịt Việt Nam chịu nhiều áp lực.

2.3.2.2. Năng lực cạnh tranh hạn chế của doanh nghiệp trong nước

Hiện nay, năng lực canh tranh của các doanh nghiệp trong nước đang ở mức
thấp, và còn nhiều yếu kém cần phải khắc phục, nguyên nhân đến từ nội tại của các
doanh nghiệp cũng như các yếu tố về môi trường kinh doanh. Doanh nghiệp nông
sản Việt Nam với trình độ lực lượng lao động còn kém, năng suất lao động thấp,
thiếu thốn về các quy trình, dây chuyền công nghệ tiên tiến, khiến cho năng lực
cạnh tranh trên thị trường hội nhập là khó khăn.
66

Bên cạnh đó, đối thủ của Việt Nam trên thị trường quốc tế khi tham gia vào
EVFTA chính là các doanh nghiệp đến từ các quốc gia với trình độ hàng đầu trên
thế giới, không những với năng lực cạnh tranh cao, kinh nghiệm tham gia thị trường
quốc tế dày dạn cùng với khả năng tận dụng các cơ hội mà các Hiệp định thương
mại tự do mang lại, đây chính là những đối thủ lớn, tạo ra một sức ép nặng nề lên
các doanh nghiệp nông sản Việt Nam.

Việc ký kết FTA Việt Nam - EU cũng tạo ra nguy cơ các doanh nghiệp Việt
Nam bị thôn tính, cũng như tăng nguy cơ khiến Việt Nam rơi vào “bẫy tự do hóa
thương mại” nếu kinh tế trong nước không có những cải cách sâu rộng.

Như vậy, vấn đề đặt ra là làm sao doanh nghiệp Việt có thể duy trì năng lực
cạnh tranh trong thị trường nội địa, tránh được việc bị chiếm lĩnh thị trường và thất
bại ngay chính thị trường của quốc gia mình.

Mặc dù lộ trình cắt giảm thuế kéo dài đối với các sản phẩm nông sản là một
công cụ để cho các doanh nghiệp Việt Nam có thời gian chuẩn bị để điều chỉnh,
thay đổi phương thức kinh doanh và nâng cao năng lực của mình, nhưng đối với
EVFTA là Hiệp định có mức độ cam kết rộng và sâu nhất trong tất cả các Hiệp định
thương mại tự do từ trước đến nay, các doanh nghiệp cũng cần phải phát huy hết
khả năng để có thể đứng vững được trên chính thị trường Việt Nam.

2.3.3. Đối với đầu tư trong nông nghiệp của Việt Nam

Như đã đề cập ở các phần trên, Hiệp định EVFTA hướng tới việc tạo ra một
môi trường đầu tư và kinh doanh minh bạch, thông thoáng và thuận lợi cho các nhà
đầu tư và doanh nghiệp của hai bên. Để hiện thực hoá mục tiêu này, Việt Nam và
EU đã đi xa hơn cam kết về dịch vụ và đầu tư mà mỗi bên phải thực hiện trong
khuôn khổ WTO. Tuy nhiên đầu tư vào đâu, đầu tư như thế nào, những trở ngại nào
cần phải chú ý, nền tảng nào cần phải chuẩn bị lại là vấn đề mà Nông nghiệp Việt
Nam phải quan tâm.

EVFTA quy định về hoạt động đầu tư ở Chương 8 của Hiệp định bao gồm:
Các nghĩa vụ và khuôn khổ quản lý chung áp dụng cho cả hai bên và các nghĩa vụ
mở cửa thị trường cụ thể của mỗi bên. Có thể nhận thấy với hoạt động Nông nghiệp
67

vẫn được bảo hộ mạnh mẽ ở cả Việt Nam và EU, chính vì vậy vẫn còn ít các cam
kết về lĩnh vực Nông nghiệp. Mặc dù vậy, EVFTA vẫn được dự báo là tiền đề cơ sở
để trong thời gian tới sẽ có nhiều hơn các doanh nghiệp châu Âu đầu tư vào Việt
Nam, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp và bán lẻ. EU nhận thức rõ các mặt hàng cà
phê, hạt điều và nhiều loại nông sản Việt Nam có thế mạnh và Việt Nam không chỉ
là một thị trường hấp dẫn có môi trường chính trị ổn định và nhiều cơ hội hợp tác,
mà còn là điểm trung chuyển, cửa ngõ xuất khẩu hàng hóa sang các nước trong khu
vực.

Đứng trên cương vị của Việt Nam, Việt Nam luôn mong muốn và kỳ vọng khi
đưa Hiệp định đi vào đời sống, mang lại cơ hội hợp tác mới cho cộng đồng doanh
nghiệp hai bên, đặc biệt Việt Nam mong muốn EU công nhận quy chế kinh tế thị
trường cho Việt Nam dựa trên những nỗ lực cải cách, đổi mới nhằm tạo một
môi trường đầu tư minh bạch và thuận lợi nhất.

2.3.3.1. Hoạt động thu hút đầu tư vào Việt Nam

Thực tế ghi nhận rằng số nhà đầu tư EU đầu tư vào Việt Nam còn thấp, nhất là
lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản. Sở dĩ các doanh nghiệp còn e ngại đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp một mặt do mặt hàng nhạy cảm không thực sự được tạo
điều kiện tiếp cận đến nguồn đầu tư nước ngoài, một mặt khác các nhà đầu tư chưa
thực sự cảm thấy thuận lợi và triển vọng khi đầu tư vào ngành này.

Thứ nhất, Việt Nam còn thiếu chính sách thu hút đầu tư chủ động, sử dụng
nguồn vốn và công nghệ. Bên cạnh việc mở cửa thị trường đầu tư vào lĩnh vực
Nông nghiệp, nhận dòng vốn tự do hóa từ khu vực phát triển hàng đầu thế giới,
nhận sự đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia, có thể tác động tích cực đến mọi mặt
của nền kinh tế, đặc biệt đối với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, thì các
doanh nghiệp và Bộ ngành cũng cần tỉnh táo đối diện và có kế hoạch sử dụng nguồn
vốn này một cách hợp lý và hiệu quả. Ở một phương diện khác, tự do luân chuyển
vốn không phải lúc nào cũng đem lại lợi ích cho nước tiếp nhận đầu tư. Dòng vốn
vào có quy mô lớn có thể gây ra ảnh hưởng đến thị trường tài sản nói chung cũng
như tới những ngành sản xuất cụ thể như Nông nghiệp. Hiện tượng phát triển kinh
68

tế quá nóng và không bền vững cuối cùng sẽ kết thúc bằng sự đổ vỡ khi bong bóng
kinh tế xẹp xuống. Sự phụ thuộc vào dòng vốn vào cũng làm cho nền kinh tế mẫn
cảm hơn trước các cú sốc và khủng hoảng từ bên ngoài, đặc biệt là trong trường hợp
nước đang phát triển vốn còn thiếu sự linh hoạt cần thiết trong cấu trúc kinh tế. Đối
với Việt Nam, Nông nghiệp vẫn là ngành gốc rễ, nền tảng cho mọi sự phát triển,
nếu như không điều tiết được một cách linh hoạt, hợp lý và hiệu quả, không chỉ
khiến cho việc phân bổ nguồn lực trở nên kém hiệu quả mà còn có khả năng ảnh
hưởng xấu đến nền Nông nghiệp. Trong trường hợp xấu, nguy cơ lớn nhất là hiện
tượng rút vốn ồ ạt thường diễn ra bất ngờ, vốn FDI vào sụt giảm nhanh và mạnh
trong một nền kinh tế phụ thuộc vào FDI.

Thứ hai, khả năng tiếp nhận nguồn vốn và công nghệ của doanh nghiệp còn
yếu. Một vấn đề đặt ra với doanh nghiệp nông sản của Việt Nam là việc, đứng trước
cơ hội tiếp nhận nguồn vốn và công nghệ tiên tiến, doanh nghiệp sẽ cải cách, đổi
mới về cơ cấu, về nhân sự, nâng cao chất lượng lao động, điều chỉnh đường lối
chiến lược kinh doanh như thế nào để tiếp nhận được và phát huy tối đa các lợi thế
đó. Nhà nước, Bộ ngành cũng cần thực hiện đúng cam kết cung cấp một môi trường
đầu tư đủ tính minh bạch và khả năng dễ đoán định mới có thể đảm bảo thu hút
đầu tư và tận dụng được cơ hội mà đầu tư nước ngoài mang lại.

Mặt khác, doanh nghiệp Việt Nam tiếp nhận đầu tư nước ngoài cần tiếp nhận
đầu tư một cách thận trọng, nâng cao tính tự chủ, tránh trường hợp bị các doanh
nghiệp nước ngoài “thôn tính”, chiếm lĩnh thị trường, chiếm lĩnh các ngành hàng
quan trọng trong Nông nghiệp.

2.3.3.2. Hoạt động đầu tư vào thị trường EU của các doanh nghiệp nông
sản Việt Nam

Về lĩnh vực đầu tư, Việt Nam cần có những nghiên cứu về tiềm năng phát
triển của mặt hàng, về khả năng của doanh nghiệp (về điểm mạnh và điểm yếu)
trước khi đưa ra quyết định đầu tư tại thị trường nước ngoài, đặc biệt là một thị
trường khó tính và yêu cầu cao như EU.
69

Trên thực tế, trong cơ cấu lĩnh vực đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam, Nông
nghiệp không phải là lĩnh vực chiếm tỷ trọng cao, EU cũng là không phải là thị
trường có nhiều sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp
nông sản hiện có khả năng tiến hành đầu tư ra nước ngoài đang còn rất ít.

Về năng lực của doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia đầu tư
nước ngoài, mặc dù thời gian qua, các dự án đầu tư nông nghiệp ra nước ngoài đã
đạt những thành công nhất định nhưng bên cạnh những mặt tích cực vẫn còn tồn tại
một số hạn chế trong đầu tư ra nước ngoài mà từ đó tạo ra những thách thức cho
hoạt động đầu tư vào thị trường EU. Doanh nghiệp nông sản Việt Nam so với các
doanh nghiệp đa quốc gia hay các doanh nghiệp trong lĩnh vực bưu chính viễn
thông vẫn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng tài chính, kinh nghiệm trên
thị trường quốc tế cũng như khả năng xử lý, đối phó với các yếu tố tác động đến
hoạt động đầu tư còn kém, đứng trước những biến động của môi trường đầu tư, lựa
chọn thời điểm đầu tư, phương án đầu tư không hiệu quả là những thử thách mà
doanh nghiệp phải đối diện.

Bên cạnh đó còn là vấn đề nội tại của doanh nghiệp như việc huy động vốn
đầu tư, thu xếp các nguồn lực để thực hiện dự án đầu tư sao cho tận dụng tối đa các
nguồn lực để đạt thành công trong hoạt động đầu tư. Doanh nghiệp nông sản Việt
Nam gặp phải sự khác biệt về thị trường, rào cản ngôn ngữ, văn hóa, thủ tục pháp
lý, biến động kinh tế, chính trị tại địa bàn đầu tư và việc không lường hết các rủi ro
tiềm ẩn...Những vấn đề này trực tiếp trở thành các rào cản khiến nhiều doanh
nghiệp khó khăn trong việc triển khai dự án tại nước ngoài trong khi doanh nghiệp
chưa có nhiều kinh nghiệm và khả năng cạnh tranh tại thị trường khu vực và quốc tế.

EU là thị trường tiêu thụ nông sản lớn trên thế giới, đồng nghĩa với áp lực cạnh
tranh rất cao, thị trường biến đổi đa dạng, yêu cầu doanh nghiệp phải có cái nhìn bao
quát, năng lực dự báo cao và phản ứng nhanh nhạy với các tác động của thị trường.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần tuân thủ đầy đủ các quy định của cơ quan
nước sở tại, mới có thể thuận lợi tiến hành đầu tư. Đây là một thách thức đối với các
doanh nghiệp cũng như các Bộ ngành có liên quan, bởi các doanh nghiệp nông sản
70

Việt Nam còn hạn chế trong khả năng tiếp thu, hiểu sâu rộng về luật cũng như khả
năng thực thi, đáp ứng các yêu cầu về luật. Đặc biệt khi đã tiến hành đầu tư tại EU,
EU cũng có những cơ chế quản lý hành vi của nhà đầu tư được nêu rõ trong hiệp
định, nhằm ngăn chặn tham nhũng và tối thiểu hóa các tác động không thuận lợi tới
xã hội và môi trường.

Với nhiều cam kết mở cửa thị trường nhưng cũng đặt ra không ít trở ngại
trong quá trình tiếp nhận đầu tư cũng như đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam khi
EVFTA có hiệu lực, doanh nghiệp nông sản Việt Nam cần nhận định rõ các vấn đề
thử thách, và trong vai trò hỗ trợ quan trọng của các Hiệp hội ngành hàng và các Bộ
ngành có liên quan nhằm giảm thiểu các rủi ro trong quá trình tiến hành đầu tư.

2.3.4. Vấn đề sở hữu trí tuệ

Ngoài các quy định mở cửa thị trường về thuế quan, các cam kết về hàng rào
phi thuế quan cũng như về hoạt động thương mại dịch vụ và đầu tư, hợp tác và phát
triển bền vững... thì vấn đề Sở hữu trí tuệ là một trong số các vấn đề thể chế được
nhấn mạnh trong EVFTA.

Đây là chế định tương đối nhạy cảm trong quá trình đàm phán do nhu cầu của
EU và Việt Nam trong bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ không giống nhau. Kết quả
của đàm phán về vấn đề này trong EVFTA là một hệ thống các cam kết theo hướng
tăng cường các tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của chủ sở hữu, tương ứng
với đó là những hạn chế nhất định trong khả năng tiếp cận rộng rãi các sản phẩm sở
hữu trí tuệ của công chúng hoặc người sử dụng các sản phẩm này so với mức của
pháp luật Việt Nam hiện hành.

Sở hữu trí tuệ được quy định trong EU là chế định tập hợp các nguyên tắc, yêu
cầu về các tiêu chuẩn bảo hộ cũng như thực thi việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ.
EU là khu vực xuất khẩu các sản phẩm sở hữu trí tuệ hàng đầu thế giới, do đó có nhu
cầu tăng cường bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ. EU đồng thời cũng có chế độ bảo hộ
đặc thù đối với chỉ dẫn địa lý và rất chú trọng việc bảo hộ loại quyền SHTT này. Về
phía mình, là một nước đang phát triển, chỉ sở hữu một số lượng rất ít các sản phẩm
sở hữu trí tuệ so với đối tác EU, Việt Nam rất cần không gian cho phép các doanh
71

nghiệp, tổ chức, cá nhân tiếp cận các sản phẩm sở hữu trí tuệ phục vụ cho quá trình
phát triển kinh tế, khoa học, xã hội với chi phí thấp nhất có thể. Không phải ngẫu
nhiên mà vấn đề sở hữu trí tuệ, đặc biệt là chỉ dẫn địa lý, trở thành một trong những
vấn đề đàm phán khó khăn, phức tạp nhất trong EVFTA, và Chương Sở hữu trí tuệ
cũng là một trong những Chương có dung lượng lớn nhất trong toàn bộ Hiệp định.

Liên quan trực tiếp đến Nông nghiệp, EVFTA có một số quy định cụ thể và
ảnh hướng lớn đến lĩnh vực Nông nghiệp của Việt Nam như: nhãn hiệu, chỉ dẫn
địa lý, giống cây trồng...

Vấn đề đặt ra đầu tiên đối với cả doanh nghiệp nông sản cũng như các Bộ
Ngành và cơ quan nhà nước là việc rà soát hệ thống pháp luật hiện hành với các
cam kết cụ thể trong EVFTA về sở hữu trí tuệ nhằm xác định những chế định, quy
định khác biệt hoặc chưa tương thích của pháp luật nội địa với các cam kết EVFTA
về sở hữu trí tuệ và từ đó đề xuất các phương án sửa đổi, điều chỉnh hệ thống pháp
luật để đảm bảo tuân thủ EVFTA ở khía cạnh quan trọng này đồng thời bảo đảm tốt
nhất khả năng tiếp cận các sản phẩm sở hữu trí tuệ của công chúng, doanh nghiệp,
tổ chức, cá nhân.

Đối với từng doanh nghiệp Việt Nam, phạm trù sở hữu trí tuệ vẫn là một phạm
trù khá trừu tượng và hầu hết các doanh nghiệp đều chưa hiểu sâu sắc về các vấn đề
liên quan đến sở hữu trí tuệ, việc rà soát chủ động từ góc độ của doanh nghiệp trong
trường hợp này là rất cần thiết bởi doanh nghiệp là đối tượng sở hữu và sử dụng các
sản phẩm sở hữu trí tuệ trong hoạt động kinh doanh, ví dụ như về chỉ dẫn địa lý
(nước mắm Phú Quốc...) từ đó nhằm bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp mới có
thể đề xuất các sửa đổi có lợi nhất với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cân
nhắc trong quá trình thực thi.

Liên quan tới các cam kết về sở hữu trí tuệ, xuất phát từ nguyên tắc đối xử
quốc gia và đối xử tối huệ quốc trong Hiệp định về khía cạnh thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ của WTO (Hiệp định TRIPS), mặc dù các cam kết trong EVFTA về
sở hữu trí tuệ là cam kết với riêng EVFTA nhưng việc sửa đổi pháp luật nội địa về
sở hữu trí tuệ sẽ phải thực hiện chung (áp dụng cho tất cả các thành viên WTO khác
72

ngoài EU) trừ một nhóm nhỏ ngoại lệ. Vì vậy, tác động của cam kết EVFTA về sở
hữu trí tuệ đối với các doanh nghiệp và chủ thể sử dụng các sản phẩm trí tuệ ở
Việt Nam còn cần phải đánh giá ở một góc nhìn rộng hơn từ chủ quyền của các
nước thành viên WTO.

Trên thực tế, hiện nay đang có những điểm chưa tương thích giữa pháp luật
Việt Nam về sở hữu trí tuệ đối với các cam kết trong EVFTA, liên quan trực tiếp
đến ngành Nông nghiệp, các cam kết chưa tương thích gồm: chỉ dẫn địa lý về quy
trình, cách thức bảo hộ ví dụ như việc Việt Nam phải công nhận các chỉ dẫn địa lý
của EU (171 chỉ dẫn địa lý liệt kê trong Phụ lục GI - I Phần A) theo cam kết trong
EVFTA; quy định về các biện pháp bảo hộ đặc thù đối với các sản phẩm chỉ dẫn địa
lý nằm trong Phụ lục GI - I - A của EU (trong đó có việc cấm không sử dụng các
thuật ngữ “kiểu”, “dạng”, “loại”..đi kèm chỉ dẫn địa lý đã bảo hộ cho sản phẩm
khác). Các cam kết mà Việt Nam mới chỉ tương thích được một phần bao gồm: cam
kết đảm bảo sử dụng chỉ dẫn địa lý vô thời hạn, không phải đăng ký lại hay cam kết
thực thi các biện pháp hành chính thích hợp phù hợp với pháp luật nội địa để ngăn
chặn việc sản xuất, đóng gói, bán, nhập khẩu, quảng cáo… loại thực phẩm gây
nhầm lẫn về nguồn gốc xuất xứ của thực phẩm (Nguyễn Thị Thu Trang, 2016). Vấn
đề đặt ra trước mắt cho các Bộ ngành chính là việc sửa đổi pháp luật như thế nào để
tương thích với các cam kết này. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp nông sản vẫn
còn hoang mang vì chưa có một nguồn luật cơ sở để điều chỉnh các yếu tố ảnh
hướng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của mình.

Đối với mặt hàng nông sản, chỉ dẫn địa lý là một công cụ để quan trọng để bảo
vệ lợi ích của mặt hàng cũng như của doanh nghiệp, đặc biệt trong môi trường xuất
khẩu với sức ép cạnh tranh lớn. Theo thống kê chưa đầy đủ thì ở Việt Nam có
khoảng trên 1.000 sản phẩm nông nghiệp tiềm năng có thể là đối tượng được bảo hộ
GI. Mặc dù vậy, vì nhiều lý do, cho tới nay chỉ có khoảng trên 30 sản phẩm nông
nghiệp được bảo hộ GI chính thức (Trung tâm WTO và hội nhập, 2016). Trước khi
ký kết EVFTA, nước mắm Phú Quốc là GI duy nhất được bảo hộ tại EU, vì vậy khi
ký kết EVFTA, đạt được số lượng GI được bảo hộ của Việt Nam lên đến con số 39
là một bước tiến mạnh mẽ. Tuy nhiên so với EU, là một thị trường mà các vấn đề
73

bảo hộ về sở hữu trí tuệ rất được coi trọng thì số chỉ dẫn mà Việt Nam phải bảo hộ
của EU lên tới 171.

Đạt được những bước đầu có lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng
cường quan hệ thương mại hợp tác giữa 2 bên, tuy nhiên về sở hữu trí tuệ, đối với
doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn đặt ra nhiều thử thách.

2.3.4.1. Thiếu nhận thức về tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ, năng
lực thực thi yếu kém

Thực tế tại Việt nam, việc xâm phạm quyền SHTT ngày càng nhiều, bên cạnh
việc ban hành những quy định luật pháp phù hợp thì việc tăng cường công tác thực
thi để đảm bảo tính nghiêm minh của các quy định này cũng hết sức quan trọng.
Không chỉ hàng của Việt Nam bị làm nhái, làm giả tràn lan trên thị trường mà cả
hàng ngoại cũng được làm giả một cách rất tinh vi, gây hoang mang cho người tiêu
dùng. Một trong những nguyên nhân khiến nạn hàng giả, hàng nhái, gian lận thương
mại vẫn “lộng hành” trên thị trường hiện nay là do các doanh nghiệp chưa quan tâm
đến vấn đề sở hữu trí tuệ, bảo vệ thương hiệu doanh nghiệp. Doanh nghiệp nông sản
Việt Nam chỉ chú trọng tới số lượng xuất khẩu, chưa thực sự quan tâm đến xây
dựng thương hiệu. Từ đó nông sản của Việt Nam chủ yếu chỉ được xuất khẩu dưới
dạng thô, dù xuất đi sản lượng lớn, chất lượng cao nhưng lợi ích kinh tế mang lại
thấp. Ngoài ra, chi phí bảo hộ tốn kém cũng là một vấn đề ảnh hưởng đến quyết
định đăng ký bảo hộ của doanh nghiệp.

Việc không quan tâm xây dựng và phát triển thương hiệu đã và đang là vấn đề
cấp bách đặt ra hiện nay đối với các mặt hàng nông sản của nước ta. Ngay cả một số
mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn như gạo, điều, thanh long… vẫn chưa có
thương hiệu; thậm chí nhiều nông sản đã đăng ký nhãn hiệu nhưng vẫn chưa
bền vững do bị nước ngoài đánh cắp.

Nhiều năm nay, trường hợp các nhãn hiệu nổi tiếng liên quan đến chỉ dẫn địa
lý của Việt Nam rơi vào tay những công ty nước ngoài không ít, song dường như
các doanh nghiệp vẫn chưa mặn mà với việc đăng ký bảo hộ. Sau đây là một số
trường hợp ví dụ:
74

- Nhãn hiệu Cà phê Trung Nguyên bị một công ty của Mỹ là Rice Field đăng ký
trước tại Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ vào năm 2000, thương hiệu cà
phê Trung Nguyên - thương hiệu được đánh giá là nổi bật nhất của cà phê Việt Nam.

- Năm 2008, nhãn hiệu kẹo dừa Bến Tre đã bị Công ty TNHH Rừng Dừa đăng
kí độc quyền nhãn hiệu tại Trung Quốc từ 8 tháng trước.

- Nước mắm Phú Quốc đã bị một công ty có địa chỉ tại Mỹ sử dụng làm
nhãn hiệu hàng hóa từ năm 1982.

Gần đây, nhãn hiệu cà phê Buôn Ma Thuột của Việt Nam bị công ty Cà phê
Buôn Ma Thuột Quảng Châu (Trung Quốc) từng đăng ký bảo hộ nhãn hiệu đã chính
thức được hủy bỏ sau gần 1 năm phía Việt Nam nộp đơn yêu cầu. Ngoài ra, chỉ dẫn
địa lý Kẹo dừa Bến Tre cũng đã giành lại được nhãn hiệu của mình, song quá trình
tranh chấp cũng như chi phí phải bỏ ra rất lớn.

2.3.4.2. Các chỉ dẫn địa lý bị sử dụng trái phép

Như đã chỉ ra ở trên, hiện nay có nhiều sản phẩm đã được bảo hộ chỉ dẫn
địa lý đang bị sử dụng trái phép. Ví dụ như, nhãn hiệu nước mắm Phú Quốc tràn lan
trên thị trường, thậm chí ở Malaysia cũng sản xuất nước mắm Phú Quốc. Thương
hiệu vải thiều Lục Ngạn của Bắc Giang đã được đăng ký chỉ dẫn địa lý nhưng giống
quý này được trồng khắp nơi cũng lấy tên “vải thiều Lục Ngạn”. Một lý do cho thực
trạng này là việc quản lý còn nhiều bất cập. Việc chưa có chế tài xử lý sử dụng trái
phép thương hiệu khiến người tham gia sản xuất không mặn mà bảo hộ, làm mất giá
trị sản phẩm. Chính phủ và các Bộ ngành cần có những đổi mới trong vấn đề
quản lý, nâng cao tính nghiêm ngặt trong các chế tài xử lý, nâng cao hình phạt khi
vi phạm để hạn chế dẫn đến chấm dứt các hành vi vi phạm pháp luật này.

2.3.4.3. Môi trường đầu tư kém hấp dẫn do không thực hiện được các cam
kết trong EVFTA về sở hữu trí tuệ

Việc không đảm bảo thực hiện các cam kết về sở hữu trí tuệ trong EVFTA là
một trở ngại bởi các doanh nghiệp nước ngoài sẽ e ngại một thị trường nơi mà sản
phẩm của họ cũng như sản phẩm nội địa được không được bảo hộ, từ đó tác động
đến môi trường, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng xấu tới thị
75

trường và môi trường đầu tư trong nước. Liệu các doanh nghiệp EU có sẵn sàng đầu
tư vào một thị trường mà sản phẩm của họ được làm giả với giá chỉ bằng một nửa
và người dân vẫn tin dùng và tiêu thụ sản phẩm đó hằng ngày hay không? Nếu
không đảm bảo thực hiện được các cam kết sở hữu trí tuệ theo hiệp định thì lợi ích
của Việt Nam khi tham gia cam kết sẽ bị vô hiệu hóa.

2.3.4.4. Khả năng đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ chỉ dẫn địa lý

Việt Nam được EU cam kết sẽ bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý, trong đó chủ yếu là về
các mặt hàng nông sản có tiềm năng xuất khẩu vào thị trường EU, tuy nhiên để đạt
được tiêu chuẩn được bảo hộ lại là một vấn đề khác. Điều quan trọng là các nhà sản
xuất, nuôi trồng ở Việt Nam có biết cải thiện quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm để đáp ứng các tiêu chí được bảo hộ GI của EU hay không, liệu doanh
nghiệp có tiếp tục việc xây dựng và phát triển thương hiệu sau khi đã đăng ký và
được bảo hộ hay không. Nếu chất lượng của nông sản không đồng đều, đảm bảo các
điều kiện, tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, thì sớm muộn thương hiệu đó sẽ lụi tàn.

2.3.4.5. Nhận thức kém của người tiêu dùng về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

Hiện nay nhận thức của người dân về thực thi quyền sở hữu trí tuệ, tôn trọng
và bảo hộ quyền này của các sản phẩm nông sản và doanh nghiệp sản xuất chế biến
nông sản đang ở mức thấp, người tiêu dùng chưa nhận thức được tầm quan trọng
của xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam, từ đó vô tình tiếp tay
cho các sản phẩm làm giả, làm nhái. Chính những hành động như vậy đã làm vô
hiệu hóa tác dụng của công cuộc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung cũng như
gây ra hiện tượng mất khả năng thực hiện các cam kết không chỉ trong EVFTA nói
riêng mà tất cả các Hiệp định thương mại tự do khác mà Việt Nam tham gia.

Tóm lại, khi EVFTA được thực thi, các vấn đề đặt ra đối với ngành Nông
nghiệp Việt Nam thể hiện ở nhiều khía cạnh của Nông nghiệp, bao gồm: hoạt động
xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu, hoạt động đầu tư và sở hữu trí tuệ. Trong hoạt
động xuất khẩu, Nông nghiệp Việt Nam ngoài việc phải đối mặt với các vấn đề nội
tại của doanh nghiệp còn phải đối mặt với các cam kết được coi là rào cản để xuất
khẩu vào thị trường EU như quy tắc xuất xứ, các biện pháp phòng vệ thương mại,
76

hàng rào TBT hay các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong hoạt động nhập
khẩu, nhìn chung vấn đề lớn nhất mà nông dân và doanh nghiệp Việt Nam phải đối
mặt là vấn đề cạnh tranh gia tăng tại thị trường nội địa khi mở cửa thị trường đối
với các doanh nghiệp EU. Đối với đầu tư, phải xét trên hai khía cạnh, việc thu hút
đầu tư vào Việt Nam là một cơ hội rõ ràng cho Việt Nam, tuy nhiên sử dụng nó như
thế nào để mang lại hiệu quả và không bị tác động tiêu cực ngược dẫn đến bị các
công ty nước ngoài thôn tính chính là vấn đề đặt ra. Đối với đầu tư vào các nước
của EU, doanh nghiệp Việt Nam hiện còn những yếu kém và hạn chế trong khả
năng tài chính, khả năng tổ chức quản lý, đầu tư, và còn chưa có một hệ thống
thông tin, dự báo có chất lượng, hiệu quả, khiến cho doanh nghiệp Việt Nam chưa
thực sự phản ứng nhanh nhạy với thị trường, tham gia vào thị trường ở thế bị động.
Về sở hữu trí tuệ, các vấn đề chính Nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt là việc ý
thức về quyền sở hữu trí tuệ từ nông dân, doanh nghiệp cho đến người tiêu dùng
còn ở mức thấp, chưa chú trọng vào xây dựng và quảng bá thương hiệu, các nông
sản Việt Nam chưa được bảo hộ nhiều về chỉ dẫn địa lý, một mặt giảm sức cạnh
tranh trên thị trường quốc tế, một mặt không tạo được một môi trường kinh doanh
trong sạch, thu hút đầu tư.
77

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO CÁC VẤN ĐỀ CỦA NGÀNH NÔNG


NGHIỆP VIỆT NAM KHI THỰC THI EVFTA

3.

3.1. Giải pháp đối với doanh nghiêp Việt Nam

3.1.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh.

Với thực trạng và trình độ hiện nay của doanh nghiệp nông sản Việt, để có thể
đối mặt với các vấn đề đặt ra khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, điểm quan trọng và
cơ bản nhất của các doanh nghiệp cần phải cải thiện đó là phải nâng cao năng lực
cạnh tranh.

Trước hết, nông dân cùng doanh nghiệp Việt Nam phải tăng năng suất và
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, bằng các hành động thiết thực cụ thể
như cải tạo và phát triển các loại giống tốt có nhiều ưu điểm và có năng suất, chất
lượng cao, áp dụng các quy trình gây giống, nuôi trồng tiến bộ, hiệu quả, tổ chức
các hoạt động sản xuất một cách có tổ chức, quy hoạch cụ thể hiện đại. Đặc biệt, đối
với các mặt hàng nông sản xuất khẩu, phải chịu sức ép cạnh tranh từ thị trường quốc
tế, hoạt động sản xuất cần phải được tổ chức lại một cách chuyên nghiệp, nâng cao
tiêu chuẩn hơn nữa.Bên cạnh đó, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình,
cần chú trọng thực hiện hiện đại hóa nông nghiệp, tạo lập duy trì và phát triển mối
quan hệ với các doanh nghiệp và cơ quan chức năng, từ đó hình thành các hợp tác
xã, vùng sản xuất nông nghiệp lớn, tham gia các Hiệp hội ngành hàng, cùng nhau
học hỏi, đưa ra các chính sách phát triển kinh doanh trong nước, thu hút đầu tư nước
ngoài nhằm nhận được nguồn vốn lớn và khoa học công nghệ tiên tiến.

Song song với quá trình tổ chức hoạt động sản xuất, để nâng cao năng suất lao
động, doanh nghiệp cũng cần đầu tư cho hoạt động R&D. Nông nghiệp Việt Nam
được ưu đãi về điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi cho hoạt động thâm canh, nuôi
trồng, tuy nhiên, không vì thế mà doanh nghiệp thiếu tính học hỏi tìm tòi, mà doanh
nghiệp càng cần phải nghiên cứu cho ra đời và đi vào nuôi trồng các giống cây
trồng và vật nuôi tiên tiến, tăng khả năng thích nghi của các giống này đối với các
biến đối thất thường và bất lợi cho Nông nghiệp như hạn hán, lũ lụt, hay điều kiện
78

canh tác khắc nghiệt đất đai khô cằn ở các vùng sâu vùng xa. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp cần gia tăng hàm lượng công nghệ và R&D trong sản phẩm, gia tăng giá trị
và năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Cùng với đó, nghiên cứu áp
dụng các công nghệ mới cho quy trình thu hoạch trở nên hiệu quả như hệ thống vận
tải, hệ thống kho bãi, bảo quản... Chỉ có không ngừng nhận thức những yếu kém
của bản thân, tìm các biện pháp khắc phục các yếu điểm về năng lực sản xuất của
mình thì mới có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình, vững vàng bước
chân hội nhập trên trường quốc tế.

3.1.2. Xây dựng chiến lược xuất khẩu nông sản.

Như đã trình bày ở chương 2, doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam
hiện đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề khi EVFTA có hiệu lực, như vấn đề về
quy tắc xuất xứ, vấn đề về các vệ sinh an toàn thực phẩm, các hàng rào kỹ thuật đối
với thương mại TBT... để có thể có sự chuẩn bị tốt nhất khi tham gia thương mại
trên thị trường nông sản vô cùng đa dạng phong phú của EU, doanh nghiệp cần chủ
động trong việc nghiên cứu và đưa ra những chiến lược cho nông sản xuất khẩu vào
thị trường này.

Thứ nhất, đối với thị trường yêu cầu tiêu chuẩn cao như EU, cần có những
nhóm nông sản xuất khẩu chủ lực, đồng nghĩa với việc phải xây dựng một danh
mục hàng hóa nông sản xuất khẩu. Những sản phẩm nào của Việt Nam đang có lợi
thế so sánh như dễ nuôi trồng, chế biến, phù hợp với điều kiện tự nhiên và trình độ
năng lực sản xuất của Việt Nam, các sản phẩm ở các quốc gia khác còn chưa có
hoặc chưa chú trọng sản xuất nhằm giảm bớt áp lực cạnh tranh, và đặc biệt có thể
thị trường tiêu thụ ở EU. Đối với các sản phẩm nằm trong danh mục xuất khẩu này,
cần có sự chú trọng về chất lượng, sử dụng các giống tốt, áp dụng các phương pháp
nuôi trồng tiên tiến ngay từ ban đầu.

Thứ hai, đối mặt với áp lực hội nhập với tiêu chuẩn quốc tế, doanh nghiệp cần
chú trọng đồng bộ về kĩ thuật, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế vào quá trình sản xuất
kinh doanh, làm cho sản phẩm của mình đáp ứng với nhu cầu thị trường. Để làm
được điều này, trước mắt doanh nghiệp cần nghiên cứu kĩ các rào cản thương mại
79

về kỹ thuật mà EU đang đặt ra đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Bằng
cách nghiên cứu và áp dụng các giải pháp về kỹ thuật ngay trong từng bước sản
xuất ra sản phẩm, doanh nghiệp đã có thể hạn chế bớt một phần tác động tiêu cực
của rào cản này.

Đối với doanh nghiệp Việt Nam, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
còn yếu kém về mặt tổ chức, khiến các khâu của bộ máy còn diễn ra rời rạc, khả năng
tiếp cận kỹ thuật còn kém do nhân sự trình độ chưa cao, vì vậy thời gian tới cần nỗ
lực trong hoạt động tổ chức sản xuất và kinh doanh, nhất là trong hoạt động xuất
khẩu khi và thị trường thế giới vô cùng phức tạp với nhiều biến động đa chiều.

Thứ ba, xây dựng một chiến lược tiếp cận thị trường, trong đó đã có những
nghiên cứu về thị trường tiếp cận, nhận định được những tiềm năng cũng như đánh
giá được sức cạnh tranh của từng loại nông sản, tận dụng các thế mạnh của Việt Nam
để làm bàn đạp bước những bước lớn vào thị trường EU, khai thác mọi tiềm năng của
thị trường này, điều mà trước đây Việt Nam còn dè dặt do chưa có những hiệp định
khuôn khổ điều chỉnh hoạt động thương mại của Việt Nam trong khu vực này.

3.1.3. Xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam

Như đã nêu trong phần thực trạng về ngành Nông nghiệp Việt Nam, hiện nay
vấn đề xây dựng thương hiệu nông sản trên thị trường chưa được các doanh nghiệp
Việt Nam quan tâm.

Xây dựng thương hiệu không phải chỉ đơn giản là vấn đề quảng bá thương
hiệu trên truyền thông. Điều cốt lõi đầu tiên mà doanh nghiệp Việt cần xây dựng,
chính là xây dựng thương hiệu từ trong chính bản thân sản phẩm, đấy là việc phải
bảo đảm chất lượng nông sản thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng, đáp ứng
được tiêu chuẩn của thị trường. Thị trường EU quy định rất chặt chẽ về vệ sinh an
toàn thực phẩm, cũng như các vấn đề về môi trường, phát triển bền vững..., doanh
nghiệp Việt Nam cần tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định này, nếu như muốn
thương hiệu của mình có chỗ đứng trên thị trường khó tính hàng đầu thế giới. Chỉ
cần có bất kỳ thiếu sót trong đáp ứng các yêu cầu trên, doanh nghiệp đã tự chấm dứt
con đường xuất khẩu vào thị trường EU, hoặc nếu có thể xuất khẩu được, thì cũng
80

sẽ không thể xây dựng được thương hiệu của doanh nghiệp, hoặc nghiêm trọng hơn
là sẽ bị người tiêu dùng tẩy chay. Bên cạnh vấn đề chất lượng thì mẫu mã, bao bì
của nông sản Việt Nam vẫn còn chưa đẹp và cuốn hút, so với các mặt hàng khác
của Đức, Hà Lan còn chưa hấp dẫn, doanh nghiệp Việt Nam cần đầu tư nghiên cứu
và thiết kế về mặt mẫu mã bao bì, đây chính là một công cụ đóng vai trò quan trọng
trong truyền tải để quảng cáo thương hiệu Việt Nam trên thị trường. Chỉ khi sản
phẩm của Việt Nam làm tốt vai trò thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng thì doanh
nghiệp mới có cơ hội để tiếp tục xây dựng thương hiệu. Nếu sản phẩm không tốt thì
không có con đường nào để tiếp tục phát triển.

Thứ hai, doanh nghiệp Việt cần tôn trọng và thực hiện các quyền về sở hữu trí
tuệ, đặc biệt đối với nông sản chính là chỉ dẫn địa lý. Doanh nghiệp cần thực hiện
đăng kí quyền sở hữu trí tuệ nếu như không muốn các doanh nghiệp khác sử dụng
các thiết kế bao bì, nhãn hiệu nổi tiếng của mình để kinh doanh, trong trường hợp
xấu hoàn toàn có thể phá hỏng cả thương hiệu của mình. Vấn đề này đang gây khó
khăn cho doanh nghiệp cả ở thị trường nội địa và trên thị trường quốc tế. Đối với
một số mặt hàng đang chiếm ưu thế như cà phê, tiêu, điều mà Việt Nam đang xuất
khẩu sang EU, doanh nghiệp cần khắc phục tình trạng xuất khẩu các mặt hàng này
qua trung gian dẫn đến việc sản phẩm khi đến tay người tiêu dùng lại mang thương
hiệu của các doanh nghiệp khác. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần nắm vững các quy
định về sở hữu trí tuệ, để có thể có đầy đủ tri thức khi hội nhập kinh tế quốc tế, bảo
vệ quyền lợi của mình.

Thứ ba, ký kết Hiệp định EVFTA là một nền tảng cơ sở cho doanh nghiệp
tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng tiêu dùng lớn trên thế giới. Doanh nghiệp cần
nỗ lực xây dựng các chuỗi cung ứng nông sản, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hàng nông sản với quy mô lớn, chất lượng cao. Từ đó hình thành cơ sở
xây dựng, phát triển và mở rộng các các thương hiệu nông sản của Việt Nam, nâng
cao hình ảnh của sản phẩm đối với người tiêu dùng nước ngoài không chỉ trong khu
vực EU mà từ đó phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam trên toàn thế giới.
81

3.1.4. Tăng cường tiếp nhận chuyển giao công nghệ

Hiệp định EVFTA có hiệu lực, tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp nông sản Việt
Nam thu hút đầu tư nước ngoài về cả nguồn vốn và công nghệ tiên tiến. Doanh
nghiệp cần nâng cao trình độ từ các cấp quản lý cho đến lực lượng lao động để có
đủ khả năng, tri thức tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến trong tất cả các lĩnh
vực sản xuất và dịch vụ Nông nghiệp, nhằm tận dụng cơ hội và tham gia triệt để vào
cam kết đầu tư mà EVFTA quy định. Doanh nghiệp bên cạnh việc tiếp nhận các
thành tựu khoa học công nghệ từ nước ngoài, cần chủ động tích cực tham gia
nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ nhằm áp dụng được các kỹ thuật
tiên tiến một cách có hiệu quả, từ đó nâng cao năng suất lao động, cải tạo chất
lượng cây trồng, vật nuôi và sản phẩm chế biến mà vẫn đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành.

3.1.5. Mở rộng mạng lưới thông tin, nâng cao kỹ năng dự báo

Một điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam là khả năng tiếp nhận và xử lý thông
tin kém.Tham gia EVFTA, thứ nhất, doanh nghiệp cần phải nắm được tất cả các nội
dung của EVFTA, đặc biệt là các quy định liên quan trực tiếp đến lĩnh vực sản xuất
kinh doanh của mình để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh thuận lợi và hiệu quả.

Thứ hai, đối với hoạt động sản xuất trong nước, doanh nghiệp cần tăng cường
trao đổi thông tin bà con nông dân về tình trạng nuôi trồng, điều kiện nuôi trồng,
sản lượng, mùa vụ..., ngoài ra tăng cường trao đổi với các doanh nghiệp khác cùng
ngành nghề, trao đổi thông tin với Hiệp hội, tìm kiếm thông tin trên các website uy
tín về nông sản, kinh doanh hàng nông sản.

Thứ ba, doanh nghiệp cần chủ động hoàn thiện, nâng cao khả năng khai thác
thông tin của mình khi tham gia thị trường quốc tế. Doanh nghiệp Việt Nam có bất
lợi hơn các doanh nghiệp nước ngoài khác ở việc nắm bắt các thông tin và biến đổi
của thị trường, cũng như các thay đổi trong hệ thống thể chế, khuôn khổ pháp lý của
thị trường nước xuất khẩu, trong nhiều trường hợp khiến cho hoạt động kinh doanh
tại nước ngoài bị gián đoạn, kém hiệu quả, và trong nhiều trường hợp không thể tiếp
82

tục mảng hoạt động này tại thị trường nước ngoài. Hiện tại doanh nghiệp đang còn
bị động và phụ thuộc vào các Hiệp hội ngành hàng, Cơ quan ban ngành, Chính phủ
trong hoạt động tìm kiếm và khai thác thông tin. Tình trạng này cần được cải thiện,
doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với các tổ chức khuyến nông, các câu lạc bộ
và Hiệp hội ngành hàng, thiết lập mối liên kết chặt chẽ và chủ động hơn trong việc
tìm kiếm thông tin. Ngoài ra, doanh nghiệp cần có bộ phận thực hiện theo dõi, nghiên
cứu thị trường quốc tế với cường độ làm việc cao, sát sao với thị trường, hoạt động có
chọn lọc, hiệu quả.

Thứ tư, doanh nghiệp Việt Nam cần có giải pháp cho vấn đề nâng cao năng
lực dự báo. Hiện nay so với xu thế thị trường, doanh nghiệp Việt Nam thường đi
chậm hơn một bước, nguyên nhân là do năng lực dự báo còn yếu kém. Doanh
nghiệp bên cạnh việc tìm kiếm được nguồn thông tin chọn lọc, chính xác cần tăng
cường áp dụng các công cụ kỹ thuật để xử lý, khai thác lượng thông tin đó một cách
có chất lượng, từ đó đưa ra được dự báo tiên tiến, với tính chính xác cao. Chỉ có vậy
doanh nghiệp mới có thể chuẩn bị các kế hoạch đón đầu với các biến động của thị
trường, tận dụng được các cơ hội cũng như có biện pháp để tránh hoặc hạn chế các
bất lợi do thị trường đưa đến.

3.2. Giải pháp đối với các Hiệp hội ngành hàng

3.2.1. Hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp trong hoạt động mở rộng
mạng lưới thông tin

Hiện nay, Hiệp hội ngành hàng ở Việt Nam mặc dù đã có những bước phát triển
tuy nhiên đối với nhu cầu đẩy mạnh các hoạt động Nông nghiệp trong nước cũng như
tiến xa hơn trên thị trường quốc tế, cụ thể ở đây là áp lực cạnh tranh và phát triển bền
vững mà EVFTA mang lại cũng giống như tất cả các Hiệp định thương mại tự do
khác, các Hiệp hội cần cải thiện hơn chức năng liên kết, thu thập, xử lý thông tin để
cung cấp đến bà con nông dân và doanh nghiệp nông sản Việt Nam.

Bằng việc tổ chức các buổi hội thảo, tăng cường trao đổi thông tin trong
ngành, như mùa vụ, điều kiện sản xuất, dự báo về điều kiện tự nhiên thiên nhiên, dự
báo về cung cầu thị trường trong nước và quốc tế cũng như các tác động của các
83

yếu tố môi trường nước ngoài đến hoạt động xuất khẩu và đầu tư tại đó, Hiệp hội có
những hỗ trợ cho doanh nghiệp về nguồn thông tin lớn, tăng khả năng tiếp cận của
doanh nghiệp đến các nguồn thông tin chính thống, do Hiệp hội chính là cơ quan
thương mại đại diện cho ngành hàng của Việt Nam khi tham gia hợp tác kinh tế quốc
tế, khả năng tìm kiếm và khai thác thông tin rộng lớn hơn doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Hiệp hội cần quảng bá và nâng cao hình ảnh của mình, tiếp cận
mạnh mẽ đến mới từng đầu mối bà con nông dân và doanh nghiệp, thông qua các văn
phòng đại diện tại các địa phương, cũng như thông qua phương tiện truyền thông
khác dễ tiếp cận hơn như truyền hình, internet, website của Hiệp hội, nhằm cho nông
dân và doanh nghiệp biết đến, tiếp cận một cách chủ động các nguồn thông tin mà
Hiệp hội có, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ, cải thiện, nâng cao vai trò của Hiệp hội.

Ngoài ra, không ngừng nâng cao khả năng tìm kiếm và mở rộng mạng lưới
thông tin, tăng cường độ trao đổi thông tin và mối liên kết với doanh nghiệp, Hiệp
hội cần kịp thời cung cấp thông tin đến cho doanh nghiệp, tránh tình trạng doanh
nghiệp nhận thông tin bị động từ thị trường và phát sinh các khó khăn trong quá
trình kinh doanh hay nghiêm trọng hơn có thể dẫn tới thua lỗ, phá sản trong khi
Hiệp hội hoàn toàn có thể giảm bớt hoặc tránh để xảy ra tình trạng đó.

3.2.2. Tăng cường vai trò đại diện cho doanh nghiệp nông sản Việt Nam
trong quá trình hoạt động thương mại quốc tế

Đối với hoạt động xuất khẩu và đầu tư, Hiệp hội tiếp tục đóng vai trò là đại diện
cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường quốc tế, cần một mặt bảo vệ
quyền lợi của doanh nghiệp, một mặt nâng cao hình ảnh của nông sản Việt Nam trên
thế giới. Hiệp hội ngành hàng cần thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm
hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp trong quá trình tiếp cận thị trường nước ngoài như
đứng ra tổ chức các hội chợ triển lãm, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào các hội chợ
triển lãm của các Hiệp hội và cơ quan ban ngành của nước sở tại tổ chức.

EVFTA được thực thi, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp sản xuất xuất
khẩu nông sản Việt Nam sẽ không còn được hưởng nhiều các bảo hộ từ Nhà nước và
chính phủ, không còn lợi thế về trợ cấp xuất khẩu, bảo hộ doanh nghiệp nhà nước…
84

Hiệp hội phải là tổ chức đảm nhận vai trò hỗ trợ cho doanh nghiệp trong bối cảnh
cạnh tranh gay gắt mà doanh nghiệp Việt Nam với năng lực và trình độ còn hạn chế,
lại không được nhận bất cứ sự hỗ trợ nào từ Chính phủ. Trong quá trình hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp tại nước ngoài, Hiệp hội cần làm chức năng đại diện
cho doanh nghiệp khi làm việc với chính phủ nước ngoài, các cơ quan hành chính thể
chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, và trong trường
hợp tham gia các vụ tranh chấp thương mại quốc tế, cần chủ động phối hợp với
doanh nghiệp, có tiếng nói và hành động bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp nông
sản Việt Nam.

3.2.3. Hỗ trợ doanh nghiệp trong tiếp cận và chuyển giao công nghệ.

Trong hoạt động tiếp nhận chuyển giao công nghệ của doanh nghiệp, khi hội
nhập và có cơ hội nhận được nguồn vốn, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, đứng
trước các nguồn lực lớn, bài toán đặt ra cho doanh nghiệp là tiếp cận và sử dụng
như thế nào một cách hiệu quả. Đây chính là lúc Hiệp hội ngành hàng cần nâng cao
vai trò hỗ trợ cho hoạt động tiếp cận và chuyển giao công nghệ.

Đầu tiên, Hiệp hội ngành hàng cần nâng cao vai trò là tổ chức có thể đứng ra
trực tiếp làm đầu mối cho doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn lực về vốn và khoa
học công nghệ, thông qua việc quảng bá nâng cao hình ảnh Nông nghiệp Việt Nam,
thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Bên cạnh đó, Hiệp hội tiếp tục hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động chuyển giao được diễn ra. Các hoạt động hỗ trợ có thể
bao gồm: cung cấp các thông tin về kỹ thuật, hướng dẫn vận hành và hỗ trợ nguồn
nhân lực cho quá trình tiếp nhận, vận hành.

3.2.4. Đổi mới cơ chế, tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động

Nhằm mục tiêu hoàn thành vai trò hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp trong
ngành hàng, Hiệp hội cần không ngừng cải thiện, đổi mới, nâng cao hiểu biết, nắm
vững các luật điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế cũng như thể chế, chính
sách và khuôn khổ pháp lý của quốc gia nước nhập khẩu; song song với đó, là tiếp
85

tục theo dõi một cách sâu sát những diễn biến của thị trường và thực hiện các
nghiên cứu.

Bên cạnh đó, Hiệp hội ngành hàng cần đảm bảo chất lượng thông tin dùng để
cung cấp cho doanh nghiệp, tránh tình trạng cung cấp chỉ về mặt hình thức số lượng
mà không có chất lượng dẫn đến sai lệch trong nhận định của doanh nghiệp, từ đó
dẫn đến những bất lợi và hậu quả xấu cho hoạt động kinh doanh. Ngoài ra Hiệp hội
cần nâng cao khả năng dự báo, không dự báo theo cảm tính, và mang tính lý thuyết,
dự báo sớm và chính xác để đưa thông tin đến với người nông dân và doanh nghiệp.

3.3. Kiến nghị, đề xuất đối với Bộ nông nghiệp và Chính phủ Việt Nam

3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện cho hoạt
động sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản

Vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam luôn là một
vấn đề gây nhiều thách thức cho các Bộ ngành và Chính phủ từ trước tới nay. Liên
quan trực tiếp trong tương lai gần, khi EVFTA có hiệu lực, Nông nghiệp Việt Nam
sẽ vững vàng hơn khi tham gia hợp tác thương mại với khu vực kinh tế phát triển
bậc nhất thế giới nếu như Nhà nước, Bộ Nông nghiệp, Bộ Công thương và các Bộ
ngành liên quan khác tạo ra được một khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện tốt cho Nông
nghiệp Việt nam phát huy toàn bộ tiềm năng phát triển, bà con nông dân và doanh
nghiệp hạn chế được các rủi ro khi kinh doanh trên thị trường.

Thứ nhất, nhằm đáp ứng yêu cầu của cam kết đầu tư trong EVFTA, Chính
phủ cần tạo ra được một sân chơi bình đẳng tại thị trường nội địa. Thực hiện được
điều này, Nông nghiệp Việt Nam sẽ thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư vào, thu
hút nguồn vốn lớn và tăng cường hoạt động chuyển giao công nghệ, từ đó mới có
thể giúp cho Nông nghiệp Việt Nam nâng cao được trình độ của mình, phát triển
sản phẩm, hoạt động kinh doanh, mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Để tạo ra
được một môi trường kinh doanh bình đẳng như vậy, Chỉnh phủ cần đổi mới các
quy định của mình liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư như giấy phép kinh
doanh, lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư… Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần tạo ra
những cơ hội, thuận lợi như nhau cho doanh nghiệp Việt Nam cũng như doanh
86

nghiệp đầu tư nước ngoài của EU, ví dụ như cơ hội tiếp cận các nguồn lực như tài
nguyên thiên nhiên, lao động, hay trên thực tế là cả các nguồn lực tài chính.

Thứ hai, đổi mới hệ thống khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hiện vẫn bao gồm
các quy trình, quy định rườm ra, phức tạp, mang tính hình thức cao. Hội nhập kinh tế
quốc yêu cầu các quốc gia đều phải mở cửa với nền kinh tế nước ngoài, Chính phủ
cũng cần đổi mới, cải thiện, đơn giản hóa các thủ tục như các quá trình xin giấy phép,
các thủ tục trong hải quan, thông quan hàng hóa… để tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động không chỉ của doanh nghiệp nước ngoài mà cả của doanh nghiệp Việt
Nam.

Thứ ba, là vấn đề được chú trọng trong EVFTA, nhưng sở hữu trí tuệ của Việt
Nam lại đang là một điểm hạn chế. Chính phủ và Bộ ngành cần tăng cường và thắt
chặt các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, cần có những quy định xử phạt nặng
đối với các hành vi vi phạm, triển khai chặt chẽ các chiến dịch nói không với hàng
giả hàng nhái, xử phạt nặng các cá nhân tổ chức phân phối hàng bất hợp pháp và thu
hồi lượng hàng này về. Các cuộc rà soát thị trường cần được diễn ra, đánh giá
nghiêm ngặt lại vấn đề đăng kí bảo hộ thương hiệu nhằm phát hiện các thương hiệu,
logo tương tự, nhái các thương hiệu nổi tiếng và loại bỏ các thương hiệu đấy ra khỏi
thị trường. Bên cạnh đó, có thể cải thiện vấn đề quyền sở hữu trí tuệ thông qua việc
tăng cường các quy định phải đăng ký thêm về sở hữu trí tuệ song song với các
đăng kí khác, nhằm làm cho quyền sở hữu trí tuệ được bảo đảm ngay từ đầu. Ngoài
ra, các Bộ, Ngành cần thường xuyên tổ chức các hội thảo, các chương trình nâng
cao ý thức cho nông dân và doanh nghiệp về thực hiện các quyền sở hữu trí tuệ.

Môi trường đầu tư tốt, trong sạch, một mặt thúc đẩy hoạt động Nông nghiệp
trong nước và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp xuất khẩu nông sản,
mặt khác thu hút các doanh nghiệp nước ngoài mạnh dạn đầu tư vào Nông nghiệp
Việt Nam.

Thứ tư, Chính phủ và Bộ ngành cần kiểm soát hơn chặt chẽ hơn, nâng cao hệ
thống quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm. Bằng cách xây dựng các hệ thống hỗ trợ
quản lý việc sử dụng các sản phẩm bảo vệ thực vật an toàn, đưa ra các quy định kỹ
87

thuật nhằm xóa bỏ việc sử dụng thuốc trừ sâu độc hại và có quy chế xử phạt nặng
đối với hành vi sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón trái với quy định và sử dụng các
chất bảo quản có hại cho sức khỏe con người cũng như môi trường. Bên cạnh đó,
Chính phủ cần đổi mới các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó tăng
cường sử dụng các tiêu chuẩn, quy trình kiểm nghiệm thử nghiệm mang tính quốc
tế và được công nhận. Ngoài ra, thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng,
Chính phủ cùng với cơ quan quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm cần giới thiệu, tuyền
truyền, giáo dục nâng cao ý thức người dân về vấn đề an toàn về sinh thực phẩm,
hạn chế sử dụng các sản phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ, các sản phảm rẻ tiền
không đảm bảo chất lượng. Chỉ khi khắc phục được vấn đề thực phẩm bẩn tràn lan,
nâng cao tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như quan tâm đến môi
trường, Nông nghiệp Việt Nam mới có khả năng thu hút đầu tư và song song với
đó, Nông sản Việt mới có thể đứng vững trên thị trường khó tính như EU.

3.3.2. Có chính sách hỗ trợ cho hoạt động sản xuất chế biến nông sản
Việt Nam

Bên cạnh việc tạo lập được một môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút được
nhiều nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ cũng cần có những chính sách hỗ trợ cho
hoạt động sản xuất chế biến nông sản mà không vi phạm các cam kết đã được
quy định trong EVFTA.

Thứ nhất, Chính phủ cần có chính sách tạo cơ hội cho nông dân và doanh
nghiệp nông sản được tiếp cận với các nguồn tài chính hỗ trợ một cách dễ dàng hơn,
đúng quy trình và thúc đẩy họ tham gia trực tiếp vào công cuộc hiện đại hóa nông
nghiệp. Bằng cách này, có thể hỗ trợ từ bên trong hoạt động sản xuất mà không vi
phạm đến quy tắc trợ cấp xuất khẩu, hiện đang là rào cản xuất khẩu vào EU mà Việt
Nam gặp phải.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả của các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp
như khuyến nông, cơ sở hạ tầng, đất đai... Về khuyến nông, hoạt động chuyển giao
công nghệ và kiến thức nông nghiệp đến người nông dân hiện nay Chính phủ Việt
Nam đang theo đuổi rất đúng đắn, tuy nhiên hiệu quả chưa được cao, Chính phủ cần
88

có biện pháp cụ thể cho hoạt động này như tiếp cận và chuyển giao công nghệ cho
người dân cả từ cấp cao đi xuống và cả từ cấp dưới đi lên, đi vào thực hành hơn là
huấn luyện trên khía cạnh lý thuyết mà không có áp dụng, nâng cao tính thực tiễn
vào quá trình sản xuất. Ngoài thực hiện chính sách khuyến nông, Chính phủ cần hỗ
trợ cho nông nghiệp ở khía cạnh cơ sở hạ tầng như hệ thống thủy lợi, đê điều, hệ
thống giao thông, quy hoạch xây dựng các chợ, trung tâm buôn bán... tạo thuận lợi
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nông dân lẫn doanh nghiệp. Về chính sách
đất đai, Chính phủ cần nghiên cứu và đưa ra các chính sách quy hoạch trang trại,
vùng chăn nuôi, cũng như thời hạn sử dụng đất đai phù hợp với từng loại hình
sản xuất chăn nuôi, phù hợp với đặc điểm ngành Nông nghiệp Việt Nam.

Thứ ba, Chính phủ cần tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học về nông
nghiệp, nằm chủ động nâng cao kiến thức về giống cây trồng và vật nuôi tiên tiến, chất
lượng cao, cũng như các tiến bộ về khoa học kỹ thuật để có thể giới thiệu, trao đổi,
chuyển giao kiến thức và công nghệ đến người nông dân và doanh nghiệp nông sản.

Thứ tư, Chính phủ đồng hành cùng với Hiệp hội ngành hàng trong việc cung
cấp thông tin về thị trường kinh tế thế giới cũng như các thay đổi trong quy định
pháp luật của các quốc gia nhập khẩu, bởi có lợi thế hơn bất cứ cơ quan nào khác,
Chính phủ là cơ quan đầu não, có vai trò và hoàn toàn có khả năng để thu thập được
các thông tin này một cách nhanh chóng với chất lượng cao. Bên cạnh đó, Chính
phủ và các cơ quan liên quan sở hữu các các nguồn lực dồi dào, các công nghệ kỹ
thuật tiên tiến, có thể đưa ra được các dự báo với tính chính xác cao, mang lại thuận
lợi cho nông dân và doanh nghiệp nông sản.

Thứ năm, đứng trước rủi ro khi tham gia vào quá trình thương mại quốc tế,
doanh nghiệp phải đối mặt với các rào cản phi thuế, các biện pháp chống bán phá giá
và trợ cấp, cũng như có khả năng bị áp thuế đối kháng, đặc biệt đối với thị trường EU
đã tuyên bố sẽ không khoan nhượng đối với bất cứ hành vi vi phạm nào, Chính phủ
Việt Nam cần bên cạnh hỗ trợ doanh nghiệp khi có tranh chấp thương mại quốc tế
diễn ra. Chính phủ phải là cơ quan phát ngôn, lên tiếng bảo vệ quyền lợi của doanh
nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp các kiến thức về quy định pháp luật ở nước sở tại, và các
quy định liên quan trực tiếp đến vụ kiện (quy định về chống bán phá giá như cách
89

tính, ngoại lệ... hay các quy định về việc áp dụng thuế đối kháng...). Chính phủ còn
cần tận dụng các mối quan hệ ngoại giao nếu có, cũng như mạng lưới thông tin, các
biện pháp kỹ thuật, nhằm giúp đỡ doanh nghiệp tập hợp các các tài liệu, bằng chứng
cần thiết để theo đuổi vụ kiện, một mặt bảo vệ và đòi lại quyền lợi cho doanh nghiệp,
một mặt bảo vệ và nâng cao hình ảnh của nông sản Việt Nam.

Như vậy, trải qua hơn hai thập kỷ thiết lập mối quan hệ ngoại giao, thương
mại quốc tế giữa Việt Nam và EU liên tục tăng trưởng và EU đã trở thành đối tác
thương mại lớn thứ hai của Việt Nam. Trong Nông nghiệp, kim ngạch xuất nhập
khẩu của hai bên tăng bền vững trong thời gian qua. Đứng trước thềm hội nhập
kinh tế sâu rộng với bước tiến lớn là thực thi EVFTA, đối mặt với các vấn đề
khó khăn, cả nông dân, doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng, các Bộ ngành liên quan
cũng như Chính phủ Việt Nam cần chung tay có các hành động cải tổ, đổi mới,
học hỏi, nâng cao năng lực để đưa ngành Nông nghiệp Việt Nam đi lên. Bên cạnh
việc doanh nghiệp không ngừng nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh,
tăng cường tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mở rộng mạng lưới thông tin và
khả năng dự báo, Hiệp Hội ngành hàng cần làm tốt hơn nữa vai trò hỗ trợ doanh
nghiệp trên nhiều phương diện, không ngừng năng cao năng lực tổ chức để làm tốt
vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp trên trường quốc tế.
Bên cạnh đó, các Bộ ngành và Chính phủ Việt Nam, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật, thể chế còn cần tiếp tục hỗ trợ về mặt chính sách cho ngành
Nông nghiệp Việt Nam.
90

KẾT LUẬN

Qua quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã rút ra được những kết luận sau:

1. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU là hiệp định thương mại thế
hệ mới giữa Việt Nam và 28 nước thành viên EU, hiện nay đã kết thúc đàm phán và
sẽ được thực thi vào năm 2018.

2. Hiệp định EVFTA có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam, là hiệp định
thương mại tự do có mức cam kết cao nhất từ trước đến nay, được ký kết với Liên
minh các quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới, hứa hẹn mang lại
nhiều cơ hội phát triển kinh tế cho Việt Nam.

3. Nội dung Hiệp định EVFTA bao gồm các cam kết của các bên về các ưu
đãi dành cho nhau trong hợp tác thương mại quốc tế về cả thuế quan và phi thuế
quan, phần lớn nội dung có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nông nghiệp, đáng
chú ý gồm có: Các biểu cam kết thuế quan; Cam kết về quy tắc xuất xứ; Hàng rào
kỹ thuật trong thương mại; Cam kết về các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và
kiểm dịch động thực vật; Sở hữu trí tuệ...

4. Hiệp định EVFTA được thực thi đã có những ảnh hưởng lớn đến Việt
Nam, thể hiện qua những cơ hội và thách thức mà Việt Nam sẽ phải đối mặt. Bên
cạnh những cơ hội mà hội nhập mang lại như cơ hội tiếp cận thị trường, tham gia
sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.... Việt Nam phải đối mặt với các thách thức khó
khăn, đặc biệt là môi trường cạnh tranh khốc liệt, các quy định nghiêm ngặt về xuất
xứ, năng suất dự báo và năng suất lao động, vốn và công nghệ tiên tiến, cũng như
các công cụ thương mại quốc tế khác.

5. Nông nghiệp Việt Nam đã tận dụng được các điểm mạnh của ngành như
lực lượng lao động dồi dào với chi phí thấp, chi phí đầu vào thấp, điều kiện tự nhiên
thuận lợi, môi trường đầu tư ổn định vào hoạt động sản xuất kinh doanh nông sản,
tuy nhiên, vẫn còn tồn tại các hạn chế dẫn tới khó đáp ứng các yêu cầu của EVFTA.
Tiêu biểu là các hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh còn mang tính nhỏ lẻ, tự
phát, cơ cấu sản xuất nông sản còn chưa hợp lý, cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu thốn
các nguồn lực đầu vào chất lượng cao, thiếu thốn nguồn thông tin, năng lực dự báo
91

kém, chưa chú trọng vệ sinh an toàn thực phẩm khiến cho nông sản Việt khó đáp
ứng tiêu chuẩn chất lượng của EU. Bên cạnh đó, việc thiếu quan tâm phát triển
thương hiệu và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cũng khiến cho doanh nghiệp Việt có
năng lực cạnh tranh thấp và không thực hiện được cam kết về quyền sở hữu trí tuệ.

6. Trong bối cảnh thực thi các cam kết EVFTA, nông nghiệp VN phải đối
mặt với các vấn đề trên cả 04 lĩnh vực: Xuất khẩu, nhập khẩu, đầu tư và sở hữu trí
tuệ. Nổi bật là một số vấn đề như gia tăng áp lực cạnh tranh tại thị trường nội địa và
xuất khẩu, đáp ứng các quy định nghiêm ngặt về xuất xứ, đối phó các biện pháp
phòng vệ thương mại... trong khi đó nội tại doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế. Đối
với Sở hữu trí tuệ, việc đảm bảo thực hiện các cam kết theo Hiệp định sẽ gặp trở ngại
bởi khả năng cũng như nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng còn ở mức
thấp đối với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, đặc biệt trong việc sử dụng chỉ
dẫn địa lý.

7. Để khắc phục các vấn đề mà Nông nghiệp Việt Nam gặp phải khi EVFTA
được thực thi, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh, tăng
cường chuyển giao công nghệ…; Hiệp hội ngành hàng nâng cao năng lực tổ chức để
làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp trên trường quốc tế…Các
giải pháp đối với doanh nghiệp và Hiệp hội ngành hàng là các giải pháp có tính ứng
dụng thực tiễn cao nhất, cần phải được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả.

8. Về phía các Bộ ngành và Chính phủ Việt Nam, ngoài việc phải tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế thông thoáng phù hợp còn cần tiếp tục hỗ trợ
về mặt chính sách cho ngành Nông nghiệp Việt Nam. Các kiến nghị cần được thực
hiện song song với giải pháp của doanh nghiệp và Hiệp hội nhằm tăng tính đồng bộ
trong quá trình thực thi.
v

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT:

1. Cục xuất nhập khẩu - Bộ Công Thương, Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam
2016, Hà Nội 2017

2. Bùi Việt Hưng, Chiến lược phát triển kinh tế châu Âu tầm nhìn 2020, Tạp chí
nghiên cứu châu Âu, số 7(118), 2010, tr.33 - 43

3. Vũ Thanh Hương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU: tác động đối
với thương mại hàng hóa giữa hai bên và hàm ý cho Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Đại học kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2016

4. Vũ Thanh Hương & Nguyễn Thị Minh Phương, Đánh giá tác động theo ngành
của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU: Sử dụng các chỉ số thương mại, Tạp
chí Khoa học ĐHQGHN: Kinh tế và Kinh doanh, tập 32, Số 3 (2016) 28 - 38

5. Mutrap, Báo cáo đánh giá tác động các Hiệp định thương mại tự do đối với
Kinh tế Việt Nam, Hà Nội 2010

6. Mutrap, Hài hòa hóa quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch
động thực vật của Việt Nam với quy định của EU, Bản tin Quý I - 2016

7. Mutrap - Bộ Công thương, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh
Châu Âu - Sổ tay cho doanh nghiệp Việt Nam, Hà Nội 2016

8. Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam, Kiến nghị của Hiệp hội doanh
nghiệp châu Âu tại Việt Nam, Hà Nội 2014

9. Phạm Ngọc Phong, Đặng Thùy Linh & Nguyễn Thị Ánh Ngọc, Tác động của
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU đến xuất nhập khẩu của các ngành công
nghiệp Việt Nam, Tạp chí phát triển và Hội nhập, số 05/12/2016

10. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam - VCCI, Rà soát pháp luật Việt
Nam với các cam kết của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU về Sở hữu trí
tuệ, Hà Nội 2016
vi

11. Trần Ngọc Quân, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU: cơ hội và
thách thức cho các doanh nghiệp, Tạp chí thông tin đối ngoại số T10/2015

12. Bùi Thanh Sơn, Triển vọng quan hệ Việt Nam - EU giai đoạn 2011 - 2015 và
tầm nhìn tới 2020. Hội thảo quốc tế “Triển vọng quan hệ hợp tác Việt Nam - EU
giai đoạn 2011 - 2020”, Văn phòng Chính phủ, Hà Nội 2010, số 16/11

13. Mario Telò, Liên minh châu Âu và chủ nghĩa khu vực mới, Đại học Quốc gia
Hà Nội - Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội 2010

14. Đinh Công Tuấn, Hiệp định mậu dịch tự do (FTA) Việt Nam - EU trợ lực cho
quan hệ hợp tác song phương, Tạp chí nghiên cứu châu Âu, số 11(158), 2013,
tr.14 - 18.

15. Lê Thị Thu Trang, Tác động của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU
(EVFTA) đến thương mại hàng dệt may của Việt Nam, luận văn thạc sĩ kinh tế quốc
tế, Đại học kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội năm 2015

16. Nguyễn Thị Thu Trang, Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp
định Thương mại tự do Việt Nam - EU về sở hữu trí tuệ, VCCI, 2016

17. Nguyễn Phương Thảo, Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực
nông lâm nghiệp thủy sản tại Việt Nam, Ban Thông tin đối ngoại và truyền thông,
Bộ Kế hoạch và đầu tư, 2017

18. Tiểu ban Thực phẩm, Nông nghiệp và Nuôi trồng thủy sản - Phòng thương
mại Châu Âu tại Việt Nam, Hội thoại triển vọng hợp tác kinh tế giữa Liên minh
Châu Âu và Việt Nam: Lễ công bố sách trắng 2016 & Tầm nhìn EU - Việt Nam
FTA, 2016

19. Trung tâm nghiên cứu quốc tế, Vấn đề nguyên tắc xuất xứ về dệt may trong
TPP và EVFTA, Hà Nội báo cáo chính sách số 02 - tháng 04/2016

20. Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI, Tóm lược Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam - Liên minh Châu Âu (EVFTA), Hà Nội 2015
vii

21. Ủy ban Tư vấn Chính sách Thương mại Quốc tế - VCCI, Khuyến nghị Chính
sách của Cộng đồng Doanh nghiệp Việt Nam về triển vọng Hiệp định Thương mại
Tự do Việt Nam - EU, Hà Nội 2013

TÀI LIỆU TIẾNG ANH:

22. Nguyen Binh Duong, Vietnam - EU Free Trade Agreement: Impact and Policy
Implications for Vietnam, 2015

23. Directorate - General for Trade - European Commission, European Union,


Trade in Goods with Vietnam, 2017

24. European Commission, Cumulative economic impact of future trade


agreements on EU agriculture, 2016

25. Mutrap, Implications of an IPR chapter in a hypothetical free trade agreement


between Viet Nam and the European Union, 2011

26. Mutrap, New areas: of trade: goverment procurement liberalisation under the
proposed EU - Viet Nam FTA, 2011

27. Mutrap, Suport Viet Nam in the negotiations of the EU - Viet Nam free trade
agreement, 2011

28. Mutrap, Integrating environmental provisions into the future EU - Viet Nam
FTA: issues and perspectives, 2011

29. Mutrap, Tariffs Protection and subsidisation of agro food products and
negotiation of an FTA between Viet Nam and the EU, 2011

30. Mutrap, Sustainable impact assessment EU - Vietnam FTA, 2014

31. Mutrap, The free trade agreement between Vietnam and the European Union:
Quantitative and qualitative impact analysis, 2011

32. Polski Instytut Spraw Miedzynarodowych, The Polish Institute of


International Affairs, EU - Vietnam Free Trade Agreement: Opportunities and
Challenges for European Business, No. 5(737) 15 January 2015
viii

TÀI LIỆU TRANG WEB:

33. Bảo hộ thương hiệu, Ngỡ ngàng những thương hiệu lớn của Việt Nam bị đánh
mất, http://baohothuonghieu.com/banquyen/tin-chi-tiet/ngo-ngang-nhung-thuong-
hieu-lon-cua-viet-nam-bi-danh-mat/975.html, truy cập ngày 07/04/2017.
34. Bộ Ngoại giao, Sở ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh,
http://www.mofahcm.gov.vn/vi/, truy cập ngày 07/04/2017.

35. Cục đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch đầu tư, Tình hình đầu tư ra nước ngoài
của Việt Nam trong năm 2014, http://fia.mpi.gov.vn/tinbai/2573/Tinh-hinh-dau-tu-
ra-nuoc-ngoai-cua-Viet-Nam-trong-nam-2014, truy cập ngày 07/04/2017.

36. Tổng cục Hải quan, https://www.customs.gov.vn/, truy cập ngày 07/04/2017.

37. Phan Thu, Cấp bách xây dựng chỉ dẫn địa lý cho nông sản Việt, Hải quan
online, Cơ quan của Tổng cục Hải quan, http://www.baohaiquan.vn/Pages/Cap-
bach-xay-dung-chi-dan-dia-ly-cho-nong-san-Viet.aspx, truy cập ngày 27/3/2017

38. Xuân Thân, Nông nghiệp về đích 2016 tăng trưởng dương, xuất khẩu đạt 32,1
tỷ USD, Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam, truy cập ngày 10/04/2017,
http://vov.vn/kinh-te/nong-nghiep-ve-dich-2016-tang-truong-duong-xuat-khau-dat-
321-ty-usd-581432.vov

39. Ủy ban Châu Âu, http://exporthelp.europa.eu/thdapp/index.htm, truy cập ngày


27/3/2017.

You might also like