Professional Documents
Culture Documents
TT - Thu Mai
TT - Thu Mai
TT - Thu Mai
HÀ NỘI - 2018
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2018
2.1. QUAN NIỆM VỀ DÂN CHỦ VÀ CÁC CÁCH TIẾP CẬN DÂN CHỦ
2.1.1. Quan niệm về dân chủ
2.1.1.1. Quan niệm chung về dân chủ
Dân chủ với tính cách là một phạm trù khoa học, một khái niệm chính trị
được nảy sinh và hình thành trong quan hệ với áp bức, chuyên chế, với những hiện
tượng độc tài, độc đoán, chuyên quyền. Là khái niệm mang tính lịch sử, nên dân
chủ không xuất hiện tức khắc và cũng không tồn tại bất biến. Nó được phát triển
trong tiến trình lịch sử nhân loại và trong quá trình đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giữa các mặt đối lập: giữa tư tưởng tự do và nô lệ, giữa dân chủ và chuyên chế,
độc tài.
Khái niệm "dân chủ" hiện nay được hiểu rất rộng và theo nhiều chiều cạnh
phong phú, đa dạng: dân chủ với tư cách là một giá trị xã hội (tự do, bình đẳng,
quan hệ giữa người với người trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: gia
đình, bạn bè, thầy trò...); dân chủ với tư cách là một hình thức nhà nước. Dân chủ,
không chỉ là phạm trù chính trị, mà còn là phạm trù xã hội, không chỉ là phạm trù
lịch sử, mà còn phạm trù vĩnh viễn.
2.1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ ra đời trên cơ sở kế thừa
các thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông phát triển những tư tưởng
dân chủ đã có, mặt khác bổ sung, phát triển quan điểm mới phù hợp với điều kiện
lịch sử đương thời.
Quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển về dân chủ được biểu hiện ở một
số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, trên cơ sở từ “nội hàm gốc” của “dân chủ nguyên thủy” - với
nghĩa thật sự là “quyền lực của nhân dân” trong điều kiện chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, các ông đã tập trung nghiên cứu “vấn đề dân chủ” từ khi xã hội loài
người có chế độ tư hữu và phân chia thành giai cấp và xuất hiện các loại nhà nước,
12
dân chủ (chế độ dân chủ hoặc nền dân chủ). Đó là hình thức tổ chức nhà nước dựa
trên nguyên tắc nhân dân là chủ thể của quyền lực.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin sử dụng khái niệm dân chủ trên phương diện
quyền lợi của nhân dân, là vấn đề quyền lợi dân chủ được hiểu theo nghĩa rộng.
Thứ ba, trên phương diện chế độ chính trị, chủ nghĩa Mác đã lý giải khái
niệm dân chủ như một hình thức nhà nước hay một hình thái nhà nước, như là chế
độ dân chủ hay chính thể dân chủ.
2.1.1.3. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa
Về nền dân chủ tư sản, nghiên cứu vấn đề dân chủ được đặt ra trong điều
kiện phải đấu tranh trực tiếp với những quan điểm tư sản về dân chủ; sự tuyệt đối
hóa những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản đương thời cũng như
nhu cầu thực tiễn phải vượt qua dân chủ tư sản, C.Mác và Ph.Ăngghen trước hết
vạch trần bản chất giả dối của dân chủ tư sản.
Việc phân tích tính chất tạm thời, tính chất nhất định sẽ bị vượt qua của dân
chủ tư sản đã đưa các nhà kinh điển mácxít đến tư tưởng về cách mạng xã hội chủ
nghĩa như là bước đi tất yếu để tiến tới một xã hội dân chủ chân chính mà đỉnh cao
nhất trong sự phát triển của nó, dân chủ sẽ tiêu vong.
Về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền
lực chính trị thuộc về giai cấp công nhân: “Trước hết nó tạo ra một chế độ dân
chủ mà nhờ đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai
cấp vô sản”.
2.1.2. Một số cách tiếp cận xung quanh khái niệm dân chủ hiện nay
Thực tế đời sống tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay có nhiều cách tiếp cận
đối với khái niệm dân chủ. Trong đó có thể khái quát 5 cách tiếp cận cơ bản:
Thứ nhất, cách tiếp cận xem dân chủ là một phạm trù chính trị, nó chỉ ra đời,
tồn tại trong xã hội có giai cấp.
Thứ hai, cách tiếp cận coi nhân quyền là bộ phận cốt lõi của dân chủ, đồng
thời cho rằng nhân quyền cao hơn chủ quyền; và, xem dân chủ là một giá trị phổ
13
biến, có tính toàn nhân loại, thời gian và không gian không có giá trị nhiều trong
việc làm nó biến đổi.
Thứ ba, cách tiếp cận cho rằng, dân chủ và lãnh đạo là hai khái niệm không
thể tương dung; và muốn có dân chủ phải đa nguyên về chính trị.
Thứ tư, quan niệm cho rằng, đi tới dân chủ phải bằng khoan dung, đối thoại
hòa bình và xem dân chủ đối lập với cách mạng, đối lập dân chủ với chuyên chính
Thứ năm, xem dân chủ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử; lịch sử
xã hội loài người là lịch sử vươn lên của dân chủ với nghĩa rộng nhất của khái
niệm đó.
Từ việc phân tích những cách tiếp cận khác nhau về dân chủ trên đây có thể
nhận thấy rằng, mỗi cách tiếp cận có mặt mạnh và mặt yếu của nó. Cần phải biết
chắt lọc, kết hợp một cách biện chứng những nhân tố hợp lý từ các cách tiếp cận
đó để có một quan niệm đúng đắn, khoa học về dân chủ.
2.2. QUAN NIỆM VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC
BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.2.1. Quan niệm về "tương đồng" và "khác biệt", "tương đồng giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa", "khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa"
Khái niệm "tương đồng" được hiểu là “như nhau, giống nhau”. Trong ngôn
ngữ tiếng Việt hiện nay, có các từ tương tự như: sự giống nhau, sự tương đồng, sự
thống nhất… Những từ này đều dùng để chỉ những mặt, thuộc tính, đặc điểm, mối
liên hệ… có ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau.
Khái niệm "khác biệt" được hiểu là: “không giống hay những nét riêng biệt”.
Trong ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay, có nhiều từ để chỉ nội dung này như: “khác
nhau”, “riêng biệt”, “khác biệt”… Các khái niệm này đều dùng để chỉ những mặt,
thuộc tính, mối liên hệ, yếu tố cấu thành khác nhau trong cùng một sự vật, hiện
tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau.
Đối với luận án này, nghiên cứu về sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra những
điểm chung, những sự giống nhau có tính quy luật giữa hai nền dân chủ này, đồng
14
thời thấy được những điểm khác biệt mang tính bản chất giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2.2.2. Những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội
chủ nghĩa và dân chủ tư sản
2.2.2.1. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị
Dân chủ trong chính trị cho phép làm sáng tỏ vấn đề bản chất của hệ thống
chính trị, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhà nước, giữa nhà nước với xã
hội công dân.
2.2.2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ
nghĩa và dân chủ tư sản trên lĩnh vực kinh tế
Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất, quyết định thực chất của dân
chủ, cũng là nội dung cho thấy sự khác biệt mang tính bản chất giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về thực chất, dân chủ trong kinh tế là tôn trọng
và bảo đảm hài hòa các lợi ích, trước hết là lợi ích của người lao động. Nhà nước
phải thông qua cơ chế lợi ích, các nhân tố kích thích, các đòn bẩy kinh tế mà
khuyến khích, thúc đẩy người lao động quan tâm tới sản xuất, nâng cao năng suất
lao động và gắn bó với công việc.
2.2.2.3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa – xã hội
Dân chủ là một phạm trù phản ánh một hiện tượng xã hội, một quan hệ xã hội
khách quan ghi đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể. Nội dung cốt lõi của dân chủ là
khát vọng về tự do, bình đẳng của người dân.
2.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC
BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.3.1. Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời trong sự tác
động của những điều kiện lịch sử khác nhau
Nền dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều không xuất hiện ngẫu
nhiên mà có tính tất yếu. Nó không xuất hiện tùy ý, tùy tiện theo ý muốn chủ quan
của con người mà theo yêu cầu khách quan của lịch sử. Nó ra đời trong những
15
điều kiện lịch sử nhất định. Dựa trên những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội nhất định mà dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời và mang
những điểm tương đồng và khác biệt với nhau.
2.3.2. Tính chất của các nền dân chủ tác động và quy định sự tương đồng
và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Những tính chất cơ bản của các nền dân chủ tác động và làm cho dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có sự tương đồng nhưng mặt khác lại có
những khác biệt căn bản.
Tính giai cấp của dân chủ.
Tính nhân loại của dân chủ
Tính nhân dân của dân chủ:
Tính lịch sử và tính kế thừa của dân chủ
2.3.3. Yếu tố thời đại tác động đến những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Ra đời trong những điều kiện lịch sử nhất định nhưng mỗi thể chế dân chủ
tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn bị chi phối bởi yếu tố thời đại làm cho
chúng có xu hướng phát triển khác nhau. Bởi thế, bối cảnh thời đại được coi là
yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới sự tương đồng hay khác biệt giữa chế độ dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đương đại.
Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới đầy những biến động khôn
lường. Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, thế giới có nhiều biến đổi
nhanh chóng, phức tạp và sâu sắc trên nhiều mặt, cả về kinh tế, chính trị, quân
sự, và khoa học - công nghệ, trong đó, có những đặc điểm, xu hướng nổi bật và
có cả những chấn động bất ngờ, biến hóa khôn lường, đầy kịch tính. Những sự
kiện lịch sử, những đặc điểm, xu hướng vận động ấy của thế giới tác động, ảnh
hưởng đến xu hướng cũng như thể chế, phương thức thực hành dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa của các quốc gia trên thế giới. Trong đó, đáng chú ý là
những tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức,
toàn cầu hóa.
16
Chương 3
THỰC CHẤT NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT
GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chương 4
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG NHỮNG
ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN
VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG XÂY DỰNG
NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG
VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
4.1.1. Vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam phải trên cơ sở nhận thức đúng và vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất
biện chứng với lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, theo tinh thần khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, việc nhận thức các tư tưởng, quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải trong tổng thể, trong hoàn cảnh cụ thể,
trong quá trình phát triển biện chứng và khi vận dụng nhất thiết phải tùy theo hoàn
cảnh lịch sử.
20
Thứ ba, giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ
được tạo nên bởi sự đúng đắn, sâu sắc từ nội dung các quan điểm, tư tưởng mà
quan trọng hơn là giá trị về phương pháp luận toát lên từ những tư tưởng và quan
điểm đó.
4.1.2. Vận dụng những điểm tương đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải gắn với việc chủ động đấu
tranh chống quan điểm, hành động sai trái, thù địch
Một là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Hai là, kết hợp tuyên truyền, phổ biến thông tin lý luận, thực tiễn về dân chủ,
nhân quyền với đấu tranh lý luận về dân chủ, nhân quyền một cách công khai,
rộng rãi trên các phương tiện thông tin khoa học chuyên ngành, thông tin đại
chúng, nhất là trên mạng thông tin toàn cầu.
Ba là, đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu
tranh tư tưởng, lý luận xung quanh vấn đề về dân chủ, nhân quyền.
Bốn là, phải đặc biệt coi trọng việc hiện thực hóa tư tưởng, lý luận về dân chủ
xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.1.3. Vận dụng những điểm tương đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
phải gắn với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế vận động khách quan
của thời đại
Cần nhận thức rõ:
Thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một
cuộc biến đổi to lớn, khó khăn và sâu sắc chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta.
Thứ hai, nước ta thực hiện đổi mới, xây dựng phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào cộng sản, công
21
nhân quốc tế có những bước hồi phục nhưng còn phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thử thách.
Thứ ba, tính quá độ là một đặc điểm khách quan nổi bật của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Đến nay, có mặt đã ở trình độ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
có khía cạnh đang là định hướng xã hội chủ nghĩa, có khía cạnh còn ở trình độ
thấp hơn nữa. Công cuộc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta phải làm rất nhiều công việc phức tạp mang tính quá độ.
4.2. GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG
ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ những nội dung
cần vận dụng từ những kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ của các quốc gia
trên thế giới
Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa; kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ của các
quốc gia trên thế giới nhằm vận dụng đúng đắn, đầy đủ hơn vào công cuộc xây
dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.2.2. Xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ xã hội
chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba trụ cột cơ bản
của thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay (cùng với nhà nước pháp
quyền và các tổ chức xã hội tự nguyện, hợp pháp của nhân dân).
4.2.3. Xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực
sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện tốt chức năng lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước; Bảo đảm để Hiến pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ
22
vai trò tối thượng; Trong tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước trước hết phải
bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm
soát có hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; Xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất tốt, tận tuỵ phục vụ nhân dân, có
tính chuyên nghiệp cao; Giáo dục, tuyên truyền pháp luật để hình thành ý thức
pháp luật, tự giác chấp hành pháp luật, hình thành văn hoá pháp luật cho nhân dân
là một việc rất quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
4.2.4. Củng cố, phát triển cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
và nâng cao năng lực thực hành dân chủ của người dân
Cần thống nhất nhận thức cơ sở xã hội đó là các tổ chức xã hội tự nguyện,
hợp pháp của nhân dân. Hình thức tồn tại của tổ chức này là các hội, hiệp hội,
câu lạc bộ, nhóm xã hội. Yêu cầu các tổ chức này không trái với các quy định
pháp luật, thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Chức năng các tổ chức này vừa
đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, vừa tham gia các hoạt
động cộng đồng.
Trình độ phát triển của một chế độ dân chủ không chỉ phụ thuộc vào việc trao
quyền lực cho nhân dân như thế nào, mà quan trọng hơn là người dân có đủ năng
lực, điều kiện và trình độ để sử dụng và thực hiện các quyền đó hay không.
4.2.5. Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng,
chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hành dân chủ trong Đảng nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta vận động, phát triển như thế nào
trước hết là do Đảng quyết định. Do đó, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên đổi mới,
chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, nhất là phải ra sức thực
hành dân chủ trong nội bộ tổ chức của mình. Đây là giải pháp cơ bản có ý nghĩa
tiên quyết đối với những bước tiến của lý luận, thực tiễn dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta trong chặng đường phát triển tiếp theo.
23
KẾT LUẬN
1. Trên cơ sở tổng quan các tài liệu, các công trình nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa,
dân chủ tư sản, luận án đã luận giải về thuật ngữ "dân chủ", quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mặt
khác, luận án cũng đã phân tích hai khái niệm cơ bản là khái niệm "tương đồng"
và khái niệm "khác biệt", so sánh cặp khái niệm này trong mối quan hệ với cặp
phạm trù "cái chung" và "cái riêng" để thấy tính biện chứng của sự "tương đồng"
và "khác biệt"; từ đó rút ra khẳng định rằng: giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa có những điểm tương đồng và những điểm khác biệt. Sự tương đồng và
khác biệt giữa chúng có khi là bản chất, có lúc chỉ mang tính tương đồng, chuyển
hóa lẫn nhau, trong tương đồng có khác biệt và ngược lại.
Từ đó, luận án đã nêu lên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn chủ yếu để phân
tích, đánh giá thực chất những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận giải những vấn đề đặt ra trong nhận thức và
vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nền dân chủ này trong xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2. Nghiên cứu thực chất những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội về
sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa cho thấy: giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có những điểm
tương đồng vì chúng đều phản ánh khía cạnh, nội dung của chế độ chính trị, những
phạm trù của đời sống xã hội; giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có
những điểm khác biệt căn bản trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ra đời sau, kế thừa các giá trị tích cực của các nền dân chủ trước đó, trong đó có
dân chủ tư sản.
Việt Nam đã vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy
nhiên, những hạn chế cũng còn tồn tại rất lớn mà nguyên nhân chính được chỉ ra là
do Việt Nam thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ một xã hội tiền tư bản;
thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước chưa đạt hiệu quả cao nên ảnh
hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội; trình độ dân trí chưa cao, các điều kiện
để thực hành dân chủ còn rất thiếu và yếu, chưa có ý thức pháp luật cũng có ảnh
hưởng quan trọng đến thực hành dân chủ.
24
Yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay là cần vận dụng trên cơ sở nhận thức đúng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; hai là phải gắn
với việc chủ động đấu tranh chống quan điểm, hành động sai trái, thù địch; ba là
phải gắn với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế khách quan của thời đại.
3. Dân chủ là một giá trị phổ biến của toàn nhân loại. Lịch sử phát triển của
các nước trên thế giới cho thấy, quốc gia nào cũng cố gắng hướng tới thực hiện
dân chủ theo quan niệm, cách thức, phương pháp của mình trên cơ sở phù hợp với
điều kiện lịch sử cụ thể. Không có mô hình chung về dân chủ cho tất cả các nước.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng việc thực hành dân chủ ở mỗi nước đều có
những điểm hợp lý cũng như những hạn chế nhất định.
Nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó có những đánh giá khách quan thành tựu dân chủ tư
sản, tính chất, trình độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là cơ sở khoa học để tiếp thu có chọn lọc các giá trị dân chủ của
nhân loại được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản. Có thể khẳng định rằng đó là sự phát
triển trình độ dân chủ của văn minh nhân loại được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản
chứ không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Việt Nam không tiếp thu
bản chất giai cấp của dân chủ tư sản, nhưng tiếp thu, học tập các hình thức thực
hiện để đảm bảo quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Chỉ khi nhận thức
dân chủ trong thời kỳ quá độ khác với dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mới
cho phép học tập, vận dụng, thực hiện đa dạng các hình thức dân chủ khác nhau.
Đó cũng là sự phù hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ.
Trong khi chưa tìm ra những hình thức đặc thù để thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa, cần mạnh dạn nghiên cứu, áp dụng những hình thức dân chủ mà nhân
loại đã trải qua, được thực tiễn kiểm nghiệm là hiệu quả để vận dụng, ví như: nhân
dân trực tiếp thể hiện ý kiến của mình trước các vấn đề lớn của đất nước thông qua
trưng cầu dân ý; cơ chế cụ thể để nhân dân bãi miễn đại biểu của mình khi không
còn phù hợp, hoặc trực tiếp lựa chọn người lãnh đạo của mình thông qua bầu cử...
4. Trong điều kiện mới, để tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhận thức lý
luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam cần tập trung giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn đặt ra trên cơ sở tuân thủ
những nhóm giải pháp cơ bản với giải pháp cụ thể.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đỗ Thị Thạch, Lê Thị Thu Mai (2014), Nền dân chủ ở Cộng hòa Ấn Độ và
tham chiếu ở Việt Nam, tại trang http://cis.org.vn, ngày 12/8.
2. Lê Thị Thu Mai (2017), "Tư tưởng của V.I. Lênin về chuyên chính vô
sản và sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay", Tạp chí Giáo dục và xã hội, (139) , tr.54-58.
3. Lê Thị Thu Mai (2017), "Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ", Tạp chí Dạy và học ngày nay, (9), tr.13-14.