TT - Thu Mai

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 27

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THU MAI

NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA


DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ DÂN CHỦ TƯ SẢN
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ


CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08

HÀ NỘI - 2018
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Bách

Phản biện 1:.........................................................


.........................................................

Phản biện 2:.........................................................


.........................................................

Phản biện 3:.........................................................


.........................................................

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia


và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Dân chủ vốn là một giá trị phổ biến xuất phát từ thực tiễn sản xuất và sinh
hoạt của nhân loại từ thời nguyên thủy xa xưa - dân chủ nguyên thủy. Sau đó,
dân chủ còn là khát vọng và là mục tiêu đấu tranh không ngừng của đại đa số
nhân dân trong lịch sử hình thành và phát triển tiếp theo của xã hội loài người.
Thực tế cho thấy, vấn đề dân chủ đã và đang được các nhà tư tưởng, các nhà
hoạt động chính trị trong mọi thời đại, từ thời cổ đại đến nay, tiếp tục quan
tâm và bàn luận. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua một quá trình hình thành
và phát triển thực tiễn, lý luận và các chế độ dân chủ khác nhau: dân chủ
nguyên thủy (khi chưa có chế độ tư hữu, giai cấp); chế độ dân chủ chủ nô, chế
độ dân chủ tư sản và ngày nay, theo quan điểm mácxít, là chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa cộng sản là đích đến mà dù sớm hay muộn, tất cả nhân loại sẽ
vươn tới; là xã hội tốt đẹp trong đó mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do và
hạnh phúc. Dân chủ là một trong những giá trị, đặc trưng cơ bản thuộc về bản
chất của xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ điều
kiện, hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, trong di sản lý luận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội, tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ là một
trong những nội dung quan trọng và có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc, to lớn. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, dân chủ có nghĩa "dân là chủ" và "dân làm
chủ"; rằng, "dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân".
Trong thời đại ngày nay, đối với dân tộc Việt Nam, thực hiện tốt dân chủ là
một trong những mục tiêu và động lực cơ bản để hội nhập và phát triển theo
con đường cách mạng mà Đảng và dân tộc ta đã xác định. Có thể nói, những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đạt được trong công cuộc đổi
mới, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó không thể không nói đến nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, cho dù vẫn đang trong quá trình từng bước hoàn thiện, cụ thể
hoá, thực thi và đã có nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
2
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, như Đại hội XII của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân còn hạn chế; tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa
dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở nhiều nơi; quyền làm chủ của nhân
dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm; có lúc, có nơi, việc thực hiện
dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ
gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội… Đã xuất hiện không ít những hoài nghi về nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, rằng: Liệu dân chủ xã hội chủ
nghĩa có "dân chủ hơn" dân chủ tư sản hay không? Bản chất nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là gì? Và có gì giống, khác với dân chủ tư sản mà các nước phương
Tây đang xây dựng? Tại sao có những nước thực hiện dân chủ thành công,
trong khi các nước khác lại thất bại? Tại sao việc đánh giá thế nào là dân chủ và
không dân chủ lại không giống nhau giữa các nước? Đâu là mô hình dân chủ
chung cho các quốc gia khi mà các nước trên thế giới đang ngày càng xích lại
gần nhau và Việt Nam học hỏi được kinh nghiệm gì về xây dựng dân chủ ở các
quốc gia đó?
Nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa phải vừa xuất phát từ nguồn cội
của nó là "dân chủ nguyên thủy" với "nội hàm gốc" là "quyền lực của nhân
dân", vừa phải kế thừa những giá trị của chế độ dân chủ tư sản - một chế độ dân
chủ ra đời trước dân chủ xã hội chủ nghĩa hàng thế kỷ, với cả những thành quả,
giá trị lẫn những hạn chế của nó - trên cơ sở làm rõ những điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản sẽ có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Nghiên cứu những điểm "tương đồng" và những "khác biệt" của dân chủ
xã hội chủ nghĩa so với dân chủ tư sản có ý nghĩa cấp thiết vì sẽ khắc phục
được cả hai xu hướng lệch lạc hiện nay: Một là, xu hướng bảo thủ với tư duy
cũ, thể hiện bệnh ấu trĩ tả khuynh, đối lập và phủ định sạch trơn dân chủ tư sản;
Hai là, xu hướng ngày càng mơ hồ, sai lệch, hữu khuynh, "hòa nhập" theo dân
chủ tư sản phương Tây - khi mà Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và toàn
diện hơn với thế giới, chủ yếu là với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
3
Việc nghiên cứu này không những góp phần nhận thức đầy đủ, đúng đắn
và toàn diện, sâu sắc hơn lý luận về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là để vận dụng sáng tạo, đối chiếu với thực tiễn,
giải đáp những vấn đề thực tiễn đất nước đang đặt ra. Mặt khác, nghiên cứu, so
sánh bản chất cũng như thực tiễn nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
đang xây dựng với nền dân chủ tư sản ở nhiều quốc gia tư bản trên thế giới hiện
nay có thể tìm thấy nhiều lời giải cho việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, góp phần đấu tranh chống chiến lược
"diễn biến hòa bình", lợi dụng chiêu bài "dân chủ nhân quyền" để chống phá
nước ta. Đó thực sự là việc làm cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, trước hết
của giới lý luận ở nước ta.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề "Những điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản. Ý nghĩa đối với
Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội
khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về những điểm tương đồng và
khác biệt giữa chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận án đề
xuất những yêu cầu cơ bản và những giải pháp chủ yếu những giải pháp vận
dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và
dân chủ tư sản vào xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ
cơ bản sau:
Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, từ đó
xác định hướng nghiên cứu của luận án;
Hai là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về những điểm tương
đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay;
4
Ba là, phân tích thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng trong xây dựng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay;
Bốn là, đề xuất những yêu cầu cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm
tiếp tục vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ
nghĩa và dân chủ tư sản trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Sự điểm tương đồng và khác biệt giữa chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và
chế độ dân chủ tư sản và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Phạm vi về nội dung:Sự tương đồng và khác biệt giữa chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa và chế độ dân chủ tư sản.
Phạm vi không gian và thời gian nghiên cứu: So sánh hai nền dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên ba lĩnh vực chủ yếu là chính trị, kinh tế và
văn hóa - xã hội cả về lý luận và thực tiễn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận về dân
chủ xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
văn kiện của Đảng, Nhà nước về dân chủ.
Luận án cũng được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của những công
trình khoa học trong và ngoài nước thời gian qua có liên quan đến đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp chung: Phân tích - tổng hợp, hệ thống - cấu trúc, so sánh,
đối chiếu, lịch sử - logic, lý luận - thực tiễn.
- Phương pháp cụ thể: Phân tích tài liệu thứ cấp (các công trình nghiên cứu
khoa học về dân chủ, các văn kiện của Đảng các văn bản, số liệu trong các tài
liệu có liên quan đến dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới).
5
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Một là, luận án góp phần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt
giữa hai chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó nêu lên
những giá trị cơ bản của dân chủ tư sản có thể tham khảo, chọn lọc, kế thừa
trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Hai là, luận án phân tích những vấn đề đặt ra và đề xuất các yêu cầu cơ
bản, những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục vận dụng những điểm tương đồng
và khác biệt về dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học: Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, những điểm tương đồng và khác
biệt giữa hai chế độ dân chủ này. Từ đó, cung cấp cơ sở lý luận cho việc bổ
sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các nội dung liên quan đến dân chủ, nhà
nước và hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội khoa học và các chuyên
ngành khoa học khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả liên
quan đến đề tài và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN


1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quan niệm, cách tiếp cận, bản
chất của dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa
Những công trình nghiên cứu về quan niệm, cách tiếp cận, bản chất của dân
chủ, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa khá phong phú như: nghiên cứu
của Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Đăng Quang, Nguyễn Tiến Phồn, Cao Văn Thống,
Nguyễn Thanh Tuấn, Hà Đăng, Lê Minh Quân, Đức Vượng...
Các tài liệu trên được sưu tầm và biên soạn về những vấn đề lý luận và thực
tiễn về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức, hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Theo đó, tập trung dân
chủ là cơ chế, nguyên tắc cốt tử trong tổ chức, vận hành của Đảng, Nhà nước và
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Vũ Văn Viên, Nhà nước pháp quyền - công cụ để thực hiện dân chủ; Lương
Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa xã hội ở nước
ta hiện nay, đã phân tích sự gắn bó mật thiết giữa pháp luật và dân chủ trong quá
trình phát triển xã hội. Nhà nước pháp quyền tư sản là hình thức tổ chức quyền lực
để thực hiện dân chủ tư sản. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ
quan trọng để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng, phát huy nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gắn liền với việc đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trần Quang Nhiếp, Dân chủ với phát triển cộng đồng. Trong công trình này,
tác giả đã trình bày, phân tích nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ và dân
chủ ở cơ sở như: tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; vai trò của dân chủ đối với
phát triển cộng đồng; những thuận lợi, khó khăn, thành tựu, hạn chế trong thực
hiện dân chủ cơ sở ở nước ta; vấn đề đặt ra và các giải pháp phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở nước ta trong tiến trình đổi mới.
Hội đồng Lý luận Trung ương, Dân chủ, nhân quyền - giá trị toàn cầu và đặc
thù quốc gia. Các tác giả của công trình không chỉ nêu lên những vấn đề chung về
7
dân chủ, về nhân quyền đang được các nhà lý luận ở nhiều nước trên thế giới sử
dụng mà còn đi sâu phân tích, phê phán những luận điệu sai trái, phản động của
các thế lực thù địch.
Hồ Sĩ Quý, Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển. Đây là một công
trình trình bày, phân tích nhiều nội dung lý luận, thực tiễn về dân chủ, độc tài và
phát triển ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Liên Xô thời Stalin.
Đặc biệt, trong Phần II của Chương I cuốn sách, tác giả đã luận bàn rất ngắn gọn,
súc tích về khái niệm và một số quan niệm cơ bản về dân chủ từ nhiều phương
diện khác nhau. Ngoài quan niệm cơ bản “Dân chủ là một hình thức tổ chức nhà
nước mà trong đó, quyền lực thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi
của nhân dân”, ở những khía cạnh khác, trong các quan hệ khác nhau của đời sống
xã hội, tác giả còn nêu ra 11 quan niệm khác nhau về dân chủ. Cuốn sách còn có
nhiều nhận định, đánh giá sâu sắc chứa đựng nhiều gợi mở. Ví dụ: “Dân chủ nếu
có khiếm khuyết, nó sẽ được sửa chữa bằng một trình độ dân chủ cao hơn. Tuy
nhiên, không phải chính thể nào cũng thừa nhận chân lý này..”.
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa
Nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản, có các tác giả tiêu biểu như: Vũ Văn
Hiền, Lê Văn Toan và Nguyễn Viết Thảo, Phạm Văn Đức...
Các công trình trên cũng đã chỉ ra những hạn chế, những “bế tắc” của nền
dân chủ phương Tây trước yêu cầu phát triển mới. Đặc biệt, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động tiếp tục đấu tranh đòi thực hiện nền dân chủ công bằng hơn,
bảo vệ lợi ích cho họ.
Từ một số công trình nghiên cứu trên có thể thấy, nền dân chủ tư sản hay
“dân chủ phương Tây” không phải là “một mô hình lý tưởng”, một “khuôn mẫu”
để các nước học tập hay mô phỏng. Bản thân các học giả phương Tây cũng thừa
nhận điều này. Đây cũng là một bài học cho quá trình xây dựng và thực thi dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng ta học hỏi, tiếp thu các giá trị tiến bộ, tích
cực của dân chủ phương Tây nhưng cũng phải biết loại bỏ những tính chất tiêu
cực của nó, đặc biệt đấu tranh phê phán các quan điểm có tính chất áp đặt mô hình
dân chủ phương Tây vào nước ta dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền của các thế
lực thù địch.
8
Về thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa có các tác giả: Nguyễn Tiến Phồn, Đỗ
Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường, Lê Minh Quân, Đinh Thế Huynh, Phùng
Hữu Phú, Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Viết Thông, Đỗ Thị Thạch...
1.1.1.3. Những công trình nghiên cứu mang tính so sánh những điểm
tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Các tác giả tiêu biểu của những nghiên cứu này là: Nguyễn Đức Bách, Thái
Ninh, Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Văn Quyết, Lô Quốc Toản,...
1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về dân
chủ, về thực hành dân chủ tư sản và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa
Một là, công trình nghiên cứu về dân chủ và các cách tiếp cận bản chất dân
chủ, tiêu biểu như: N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina, David Held,
O.T.Bogomolov, Thoma Meyer...
Hai là, các công trình nghiên cứu về thực hành dân chủ tư sản, tiêu biểu có
thể kể đến như:
Lilia Sevtsova, Người Nga bàn về các giá trị phương Tây. Câu hỏi mà tác
giả đặt ra là: tại sao những người tự do ở Nga không còn tin tưởng vào giá trị tự
do của phương Tây và Mỹ nữa? Qua việc nghiên cứu nền dân chủ phương Tây,
tiêu biểu là Mỹ, tác giả đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản là: “Sự thật là bản thân chủ
nghĩa tự do phương Tây hiện nay còn rất nhiều vấn đề, nhất là vấn đề xuất khẩu
dân chủ”.
Đài Tiếng nói quốc tế nước Nga, Những vấn đề của nền dân chủ Mỹ. Tác
giả của bài viết đã chỉ ra tính vô căn cứ trong tham vọng toàn cầu của Mỹ là “mở
rộng và bảo vệ tự do nhân quyền trên toàn thế giới” bởi những vấn đề đó của
nước Mỹ cũng không tốt đẹp gì.
Ba là, các nghiên cứu về thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu là
các công trình của các tác giả người Trung Quốc. Ở Trung Quốc, vấn đề dân chủ
xã hội chủ nghĩa cũng là chủ đề được Đảng Cộng sản Trung Quốc quan tâm và là
nội dung trọng tâm của nhiều nghiên cứu về chính trị học, luật học và xây dựng
Đảng. Các công trình bàn nhiều về vấn đề này có thể kể ra là: Cốc Văn Khang,;
Đặng Đình Lựu, Thái Thượng Kim.
Các tác giả kể trên đã rõ sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Trung
Quốc về thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là tư tưởng thực hiện dân chủ
9
gắn với nền chính trị pháp quyền, đây cũng là một bài học cho quá trình xây
dựng lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đối với việc thực hành dân chủ ở Lào, có thể kể đến công trình của Khăm
Phon Bun Na Di.
1.2. GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG CÔNG TRÌNH TỔNG QUAN VÀ NHỮNG
NỘI DUNG LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU
1.2.1. Giá trị của các công trình tổng quan
Từ những công trình nghiên cứu ở trên, nghiên cứu sinh nhận thấy: Các
công trình nghiên cứu được giới thiệu trên đây đã có nhiều đóng góp quan trọng
về mặt khoa học, làm sáng tỏ trên nhiều phương diện lý luận và thực tiễn về dân
chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản:
- Các tác giả đã có nhận thức chung về nội hàm của khái niệm dân chủ: từ
nghĩa gốc dân chủ là mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân chủ được tiếp cận trên
những góc độ, phương pháp khác nhau và được nhận thức như là phạm trù phức
tạp có bản chất nhiều thứ bậc với nội hàm rất phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, các
nghiên cứu cũng cho thấy điểm chung tương đối thống nhất trong quan niệm về
nội dung dân chủ. Dân chủ được hiểu là chế độ chính trị, hình thức nhà nước
khẳng định chủ quyền nhà nước của nhân dân; là quyền làm chủ của nhân dân,
trước hết là của giai cấp thống trị; là thành quả đấu tranh của nhân dân chống lại
áp bức, bóc lột; là cơ chế, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của các tổ chức cộng đồng
và các tổ chức chính trị - xã hội; là giá trị xã hội, giá trị nhân văn phản ánh trạng
thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình phát triển xã hội...
- Các công trình trên có nhận thức chung tương đối thống nhất về nền dân
chủ: với những cách tiếp cận khác nhau về dân chủ, các nghiên cứu cho thấy có
nhiều loại hình dân chủ, chế độ dân chủ, nền dân chủ với những nội dung, đặc
trưng khác nhau; ngay cả một loại hình dân chủ cũng có những biến thể khác
nhau. Giữa các loại hình dân chủ, giữa các nền dân chủ, kể cả giữa dân chủ tư sản
và dân chủ xã hội chủ nghĩa, là những loại hình dân chủ có sự khác nhau về chất
cũng có những nguyên tắc, cơ chế, giá trị chung, phổ biến cả trên phương diện nội
dung, hình thức, cả nhận thức và thực tiễn. Theo đó, nền dân chủ, chế độ dân chủ
là một chỉnh thể xã hội trong đó các giá trị, chuẩn mực, yêu cầu, các nguyên tắc
dân chủ được ghi nhận và thực thi trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
10
- Từ những góc độ, khía cạnh khác nhau, các nhà nghiên cứu đã dành sự
quan tâm lớn đối với các nội dung của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có công
trình nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ vô sản,
dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ Xôviết. Có công trình nghiên
cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc trong sự nghiệp cải cách mở
cửa, nghiên cứu về dân chủ nhân dân và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong công cuộc
đổi mới ở Lào và ở Việt Nam. Trong đó có nhiều công trình nghiên cứu sâu về nội
dung chính trị, thể chế của dân chủ xã hội chủ nghĩa; cũng đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu về dân chủ xã hội chủ nghĩa từ góc độ cơ chế, giá trị xã hội, giá
trị văn minh của nó. Đồng thời, cũng đã có công trình quan tâm nghiên cứu nhận
thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên một số khía cạnh nội dung
qua mỗi đại hội Đảng, qua từng chặng đường đổi mới của đất nước ta (10 năm, 15
năm, 20 năm, 25 năm, 30 năm đổi mới).
Tóm lại, xung quanh vấn đề nhận thức về dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã
hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi
mới đã có rất nhiều công trình đề cập đến các khía cạnh, mức độ khác nhau, tùy
theo mục đích và phương pháp tiếp cận. Những kết quả nghiên cứu của các công
trình nói trên là tài liệu tham khảo có giá trị về nhiều mặt để tác giả luận án tham
khảo trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ và mục đích đề ra.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm
Kế thừa thành quả trong những công trình nghiên cứu của các học giả đi
trước, luận án tiếp tục triển khai nghiên cứu, làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, phân tích những nhận thức chung về khái niệm "dân chủ" một
cách có hệ thống (từ nội hàm gốc là "quyền lực của nhân dân" cho đến nhiều
quan niệm "phái sinh" theo lịch sử...), trên cơ sở đó làm rõ bản chất, quá trình
ra đời, phát triển và vai trò của dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản.
Thứ hai, so sánh những điểm tương đồng và khác biệt, những giá trị của
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đề xuất những yêu cầu cơ bản và các giải pháp chủ yếu nhằm
vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
11
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
VỀ ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN
VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. QUAN NIỆM VỀ DÂN CHỦ VÀ CÁC CÁCH TIẾP CẬN DÂN CHỦ
2.1.1. Quan niệm về dân chủ
2.1.1.1. Quan niệm chung về dân chủ
Dân chủ với tính cách là một phạm trù khoa học, một khái niệm chính trị
được nảy sinh và hình thành trong quan hệ với áp bức, chuyên chế, với những hiện
tượng độc tài, độc đoán, chuyên quyền. Là khái niệm mang tính lịch sử, nên dân
chủ không xuất hiện tức khắc và cũng không tồn tại bất biến. Nó được phát triển
trong tiến trình lịch sử nhân loại và trong quá trình đấu tranh giai cấp, đấu tranh
giữa các mặt đối lập: giữa tư tưởng tự do và nô lệ, giữa dân chủ và chuyên chế,
độc tài.
Khái niệm "dân chủ" hiện nay được hiểu rất rộng và theo nhiều chiều cạnh
phong phú, đa dạng: dân chủ với tư cách là một giá trị xã hội (tự do, bình đẳng,
quan hệ giữa người với người trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: gia
đình, bạn bè, thầy trò...); dân chủ với tư cách là một hình thức nhà nước. Dân chủ,
không chỉ là phạm trù chính trị, mà còn là phạm trù xã hội, không chỉ là phạm trù
lịch sử, mà còn phạm trù vĩnh viễn.
2.1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ ra đời trên cơ sở kế thừa
các thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông phát triển những tư tưởng
dân chủ đã có, mặt khác bổ sung, phát triển quan điểm mới phù hợp với điều kiện
lịch sử đương thời.
Quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển về dân chủ được biểu hiện ở một
số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, trên cơ sở từ “nội hàm gốc” của “dân chủ nguyên thủy” - với
nghĩa thật sự là “quyền lực của nhân dân” trong điều kiện chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, các ông đã tập trung nghiên cứu “vấn đề dân chủ” từ khi xã hội loài
người có chế độ tư hữu và phân chia thành giai cấp và xuất hiện các loại nhà nước,
12
dân chủ (chế độ dân chủ hoặc nền dân chủ). Đó là hình thức tổ chức nhà nước dựa
trên nguyên tắc nhân dân là chủ thể của quyền lực.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lênin sử dụng khái niệm dân chủ trên phương diện
quyền lợi của nhân dân, là vấn đề quyền lợi dân chủ được hiểu theo nghĩa rộng.
Thứ ba, trên phương diện chế độ chính trị, chủ nghĩa Mác đã lý giải khái
niệm dân chủ như một hình thức nhà nước hay một hình thái nhà nước, như là chế
độ dân chủ hay chính thể dân chủ.
2.1.1.3. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa
Về nền dân chủ tư sản, nghiên cứu vấn đề dân chủ được đặt ra trong điều
kiện phải đấu tranh trực tiếp với những quan điểm tư sản về dân chủ; sự tuyệt đối
hóa những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư bản đương thời cũng như
nhu cầu thực tiễn phải vượt qua dân chủ tư sản, C.Mác và Ph.Ăngghen trước hết
vạch trần bản chất giả dối của dân chủ tư sản.
Việc phân tích tính chất tạm thời, tính chất nhất định sẽ bị vượt qua của dân
chủ tư sản đã đưa các nhà kinh điển mácxít đến tư tưởng về cách mạng xã hội chủ
nghĩa như là bước đi tất yếu để tiến tới một xã hội dân chủ chân chính mà đỉnh cao
nhất trong sự phát triển của nó, dân chủ sẽ tiêu vong.
Về bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền
lực chính trị thuộc về giai cấp công nhân: “Trước hết nó tạo ra một chế độ dân
chủ mà nhờ đó trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền thống trị chính trị của giai
cấp vô sản”.
2.1.2. Một số cách tiếp cận xung quanh khái niệm dân chủ hiện nay
Thực tế đời sống tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay có nhiều cách tiếp cận
đối với khái niệm dân chủ. Trong đó có thể khái quát 5 cách tiếp cận cơ bản:
Thứ nhất, cách tiếp cận xem dân chủ là một phạm trù chính trị, nó chỉ ra đời,
tồn tại trong xã hội có giai cấp.
Thứ hai, cách tiếp cận coi nhân quyền là bộ phận cốt lõi của dân chủ, đồng
thời cho rằng nhân quyền cao hơn chủ quyền; và, xem dân chủ là một giá trị phổ
13
biến, có tính toàn nhân loại, thời gian và không gian không có giá trị nhiều trong
việc làm nó biến đổi.
Thứ ba, cách tiếp cận cho rằng, dân chủ và lãnh đạo là hai khái niệm không
thể tương dung; và muốn có dân chủ phải đa nguyên về chính trị.
Thứ tư, quan niệm cho rằng, đi tới dân chủ phải bằng khoan dung, đối thoại
hòa bình và xem dân chủ đối lập với cách mạng, đối lập dân chủ với chuyên chính
Thứ năm, xem dân chủ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử; lịch sử
xã hội loài người là lịch sử vươn lên của dân chủ với nghĩa rộng nhất của khái
niệm đó.
Từ việc phân tích những cách tiếp cận khác nhau về dân chủ trên đây có thể
nhận thấy rằng, mỗi cách tiếp cận có mặt mạnh và mặt yếu của nó. Cần phải biết
chắt lọc, kết hợp một cách biện chứng những nhân tố hợp lý từ các cách tiếp cận
đó để có một quan niệm đúng đắn, khoa học về dân chủ.
2.2. QUAN NIỆM VÀ NHỮNG NỘI DUNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC
BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.2.1. Quan niệm về "tương đồng" và "khác biệt", "tương đồng giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa", "khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa"
Khái niệm "tương đồng" được hiểu là “như nhau, giống nhau”. Trong ngôn
ngữ tiếng Việt hiện nay, có các từ tương tự như: sự giống nhau, sự tương đồng, sự
thống nhất… Những từ này đều dùng để chỉ những mặt, thuộc tính, đặc điểm, mối
liên hệ… có ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau.
Khái niệm "khác biệt" được hiểu là: “không giống hay những nét riêng biệt”.
Trong ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay, có nhiều từ để chỉ nội dung này như: “khác
nhau”, “riêng biệt”, “khác biệt”… Các khái niệm này đều dùng để chỉ những mặt,
thuộc tính, mối liên hệ, yếu tố cấu thành khác nhau trong cùng một sự vật, hiện
tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau.
Đối với luận án này, nghiên cứu về sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ
tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra những
điểm chung, những sự giống nhau có tính quy luật giữa hai nền dân chủ này, đồng
14
thời thấy được những điểm khác biệt mang tính bản chất giữa dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2.2.2. Những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội
chủ nghĩa và dân chủ tư sản
2.2.2.1. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị
Dân chủ trong chính trị cho phép làm sáng tỏ vấn đề bản chất của hệ thống
chính trị, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhà nước, giữa nhà nước với xã
hội công dân.
2.2.2.2. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ xã hội chủ
nghĩa và dân chủ tư sản trên lĩnh vực kinh tế
Đây là nội dung cơ bản và quan trọng nhất, quyết định thực chất của dân
chủ, cũng là nội dung cho thấy sự khác biệt mang tính bản chất giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về thực chất, dân chủ trong kinh tế là tôn trọng
và bảo đảm hài hòa các lợi ích, trước hết là lợi ích của người lao động. Nhà nước
phải thông qua cơ chế lợi ích, các nhân tố kích thích, các đòn bẩy kinh tế mà
khuyến khích, thúc đẩy người lao động quan tâm tới sản xuất, nâng cao năng suất
lao động và gắn bó với công việc.
2.2.2.3. Những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa – xã hội
Dân chủ là một phạm trù phản ánh một hiện tượng xã hội, một quan hệ xã hội
khách quan ghi đậm dấu ấn chủ quan của chủ thể. Nội dung cốt lõi của dân chủ là
khát vọng về tự do, bình đẳng của người dân.
2.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC
BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.3.1. Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời trong sự tác
động của những điều kiện lịch sử khác nhau
Nền dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều không xuất hiện ngẫu
nhiên mà có tính tất yếu. Nó không xuất hiện tùy ý, tùy tiện theo ý muốn chủ quan
của con người mà theo yêu cầu khách quan của lịch sử. Nó ra đời trong những
15
điều kiện lịch sử nhất định. Dựa trên những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội nhất định mà dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời và mang
những điểm tương đồng và khác biệt với nhau.
2.3.2. Tính chất của các nền dân chủ tác động và quy định sự tương đồng
và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Những tính chất cơ bản của các nền dân chủ tác động và làm cho dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có sự tương đồng nhưng mặt khác lại có
những khác biệt căn bản.
Tính giai cấp của dân chủ.
Tính nhân loại của dân chủ
Tính nhân dân của dân chủ:
Tính lịch sử và tính kế thừa của dân chủ
2.3.3. Yếu tố thời đại tác động đến những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Ra đời trong những điều kiện lịch sử nhất định nhưng mỗi thể chế dân chủ
tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn bị chi phối bởi yếu tố thời đại làm cho
chúng có xu hướng phát triển khác nhau. Bởi thế, bối cảnh thời đại được coi là
yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới sự tương đồng hay khác biệt giữa chế độ dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đương đại.
Thế giới mà chúng ta đang sống là một thế giới đầy những biến động khôn
lường. Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, thế giới có nhiều biến đổi
nhanh chóng, phức tạp và sâu sắc trên nhiều mặt, cả về kinh tế, chính trị, quân
sự, và khoa học - công nghệ, trong đó, có những đặc điểm, xu hướng nổi bật và
có cả những chấn động bất ngờ, biến hóa khôn lường, đầy kịch tính. Những sự
kiện lịch sử, những đặc điểm, xu hướng vận động ấy của thế giới tác động, ảnh
hưởng đến xu hướng cũng như thể chế, phương thức thực hành dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa của các quốc gia trên thế giới. Trong đó, đáng chú ý là
những tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, kinh tế tri thức,
toàn cầu hóa.
16
Chương 3
THỰC CHẤT NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT
GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. THỰC CHẤT NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT


GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
3.1.1. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị
Thứ nhất, trên phương diện là một phạm trù chính trị, cả dân chủ tư sản và
dân chủ xã hội chủ nghĩa đều đề cao nguyên lý “quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Tuy nhiên, bản chất giai cấp của hai kiểu nhà nước lại khác nhau.
Thứ hai, cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều phải thực hành
dân chủ thông qua hình thức nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vai trò, cơ cấu và
mối quan hệ giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở hai kiểu nhà nước
khác nhau.
Thứ ba, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa biểu hiện ra những quan
hệ giữa các tổ chức và quan hệ xã hội mang những tính chất khác nhau.
3.1.2. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế
Chế độ dân chủ tư sản và chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đều bị quy định
bởi trình độ phát triển của kinh tế. Theo đó, chế độ dân chủ tư sản lấy sự nảy sinh,
tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa làm cơ sở cho sự tồn tại
của mình. Trong khi đó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa lại lấy sự nảy sinh, tồn
tại và phát triển của sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất làm cơ sở cho sự tồn tại
của mình. dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
3.1.3. Thực chất những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Thứ nhất, ở phương diện xã hội, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa
đều được thể hiện với tính cách là phương thức tổ chức, quản lý và hoạt động của
17
tổ chức và xã hội. Tuy nhiên, cách thức thực hiện, tổ chức, quản lý và hoạt động
của tổ chức và xã hội lại có sự khác nhau mang tính bản chất.
Thứ hai, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa đều là giá trị tiến bộ xã
hội, đều thừa nhận những quyền tự do, bình đẳng của công dân.
3.2. THỰC TRẠNG VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ
KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.2.1. Thành tựu của sự vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt
giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Về nhận thức, qua 30 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã nhận
thức về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ
và sâu sắc hơn. Đó cũng là thành tựu của sự vận dụng đúng đắn hơn, đầy đủ
hơn những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
Về thực tiễn, thành tựu vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa được xem xét trên một số lĩnh vực cơ
bản là chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Trên lĩnh vực chính trị: Trong quá trình vận dụng đúng đắn những điểm
tươnng đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, học hỏi kinh
nghiệm và những ưu điểm của dân chủ tư sản trong lĩnh vực chính trị, qua hơn 30
năm đổi mới ở nước ta, dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước, đoàn
thể và xã hội, trong tổ chức và hoạt động của các cơquan dân cử được mở rộng
và có những bước tiến mới.
Trên lĩnh vực kinh tế: Điểm nổi bật thể hiện sự vận dụng điểm tương đồng
và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta qua hơn 30
năm đổi mới là đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức
tổ chức kinh doanh, hình thức phân phối, bình đẳng trước pháp luật, hoạt động
theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, tạo nên
điều kiện nền tảng cho việc thực hành và phát huy dân chủ.
18
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Qua hơn 30 năm đổi mới, dân chủ trong lĩnh
vực văn hóa - xã hội đã được mở rộng và nâng lên một bước. Nhiều văn bản pháp
luật đã cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp hơn với điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội.
Nước ta đã có nhiều tiến bộ trong việc bảo đảm các quyền con người, quyền
công dân.
3.2.2. Hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong quá trình
vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay
3.2.2.1. Hạn chế trong quá trình vận dụng những điểm tương đồng và
khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Về nhận thức: Trong quá trình vận dụng những điểm tương đồng và khác
biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhận thức và nghiên cứu lý
luận về bản chất của dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay vẫn chưa đầy đủ và hệ thống, chưa lý giải và làm sáng tỏ nhiều vấn
đề do thực tiễn đặt ra; chưa đạt được nhiều kết quả có giá trị định hướng, mang
tính đột phá cho quá trình đổi mới, xây dựng và phát huy dân chủ.
Về thực tiễn: Trong vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực tiễn xây dựng và phát huy nền
dân chủ ở Việt Nam hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập.
Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, Việt Nam thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ một xã hội tiền
tư bản.
Hai là, thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước chưa đạt hiệu quả
cao nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội.
Ba là, trình độ dân trí chưa cao, các điều kiện để thực hành dân chủ còn rất
thiếu và yếu, chưa có ý thức pháp luật cũng có ảnh hưởng quan trọng đến thực
hành dân chủ.
19
3.2.2.2. Những vấn đề đặt ra
Thứ nhất, nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ còn theo tư duy cũ, hoặc tuyệt đối hóa sự
khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, ca ngợi một chiều tính
ưu việt của dân chủ xã hội chủ nghĩa; hoặc phủ nhận sạch trơn những giá trị tiến
bộ mà dân chủ tư sản mang lại với tư cách là một thành tựu của nhân loại. Điều đó
chỉ càng làm doãng hơn sự khác biệt giữa các nền dân chủ.
Thứ hai, nhận thức và vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam còn có độ vênh đáng kể giữa lý luận và thực tiễn.

Chương 4
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG NHỮNG
ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN
VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG XÂY DỰNG
NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG
VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
4.1.1. Vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam phải trên cơ sở nhận thức đúng và vận dụng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất
biện chứng với lý luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, theo tinh thần khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, việc nhận thức các tư tưởng, quan điểm về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải trong tổng thể, trong hoàn cảnh cụ thể,
trong quá trình phát triển biện chứng và khi vận dụng nhất thiết phải tùy theo hoàn
cảnh lịch sử.
20
Thứ ba, giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ
được tạo nên bởi sự đúng đắn, sâu sắc từ nội dung các quan điểm, tư tưởng mà
quan trọng hơn là giá trị về phương pháp luận toát lên từ những tư tưởng và quan
điểm đó.
4.1.2. Vận dụng những điểm tương đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải gắn với việc chủ động đấu
tranh chống quan điểm, hành động sai trái, thù địch
Một là, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội
chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Hai là, kết hợp tuyên truyền, phổ biến thông tin lý luận, thực tiễn về dân chủ,
nhân quyền với đấu tranh lý luận về dân chủ, nhân quyền một cách công khai,
rộng rãi trên các phương tiện thông tin khoa học chuyên ngành, thông tin đại
chúng, nhất là trên mạng thông tin toàn cầu.
Ba là, đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu
tranh tư tưởng, lý luận xung quanh vấn đề về dân chủ, nhân quyền.
Bốn là, phải đặc biệt coi trọng việc hiện thực hóa tư tưởng, lý luận về dân chủ
xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.1.3. Vận dụng những điểm tương đồng giữa dân chủ tư sản và dân chủ
xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
phải gắn với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế vận động khách quan
của thời đại
Cần nhận thức rõ:
Thứ nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một
cuộc biến đổi to lớn, khó khăn và sâu sắc chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta.
Thứ hai, nước ta thực hiện đổi mới, xây dựng phát triển nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện chủ nghĩa xã hội hiện thực và phong trào cộng sản, công
21
nhân quốc tế có những bước hồi phục nhưng còn phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thử thách.
Thứ ba, tính quá độ là một đặc điểm khách quan nổi bật của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Đến nay, có mặt đã ở trình độ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
có khía cạnh đang là định hướng xã hội chủ nghĩa, có khía cạnh còn ở trình độ
thấp hơn nữa. Công cuộc xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta phải làm rất nhiều công việc phức tạp mang tính quá độ.
4.2. GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC VẬN DỤNG NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG
ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA DÂN CHỦ TƯ SẢN VÀ DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ những nội dung
cần vận dụng từ những kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ của các quốc gia
trên thế giới
Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa; kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ của các
quốc gia trên thế giới nhằm vận dụng đúng đắn, đầy đủ hơn vào công cuộc xây
dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.2.2. Xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng dân chủ xã hội
chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba trụ cột cơ bản
của thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay (cùng với nhà nước pháp
quyền và các tổ chức xã hội tự nguyện, hợp pháp của nhân dân).
4.2.3. Xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực
sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện tốt chức năng lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước; Bảo đảm để Hiến pháp và pháp luật xã hội chủ nghĩa giữ
22
vai trò tối thượng; Trong tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước trước hết phải
bảo đảm thực hiện nguyên tắc phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm
soát có hiệu quả giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; Xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất tốt, tận tuỵ phục vụ nhân dân, có
tính chuyên nghiệp cao; Giáo dục, tuyên truyền pháp luật để hình thành ý thức
pháp luật, tự giác chấp hành pháp luật, hình thành văn hoá pháp luật cho nhân dân
là một việc rất quan trọng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
4.2.4. Củng cố, phát triển cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
và nâng cao năng lực thực hành dân chủ của người dân
Cần thống nhất nhận thức cơ sở xã hội đó là các tổ chức xã hội tự nguyện,
hợp pháp của nhân dân. Hình thức tồn tại của tổ chức này là các hội, hiệp hội,
câu lạc bộ, nhóm xã hội. Yêu cầu các tổ chức này không trái với các quy định
pháp luật, thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Chức năng các tổ chức này vừa
đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, vừa tham gia các hoạt
động cộng đồng.
Trình độ phát triển của một chế độ dân chủ không chỉ phụ thuộc vào việc trao
quyền lực cho nhân dân như thế nào, mà quan trọng hơn là người dân có đủ năng
lực, điều kiện và trình độ để sử dụng và thực hiện các quyền đó hay không.
4.2.5. Tiếp tục nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng,
chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hành dân chủ trong Đảng nhằm
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta vận động, phát triển như thế nào
trước hết là do Đảng quyết định. Do đó, đòi hỏi Đảng phải thường xuyên đổi mới,
chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, nhất là phải ra sức thực
hành dân chủ trong nội bộ tổ chức của mình. Đây là giải pháp cơ bản có ý nghĩa
tiên quyết đối với những bước tiến của lý luận, thực tiễn dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta trong chặng đường phát triển tiếp theo.
23
KẾT LUẬN

1. Trên cơ sở tổng quan các tài liệu, các công trình nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa,
dân chủ tư sản, luận án đã luận giải về thuật ngữ "dân chủ", quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mặt
khác, luận án cũng đã phân tích hai khái niệm cơ bản là khái niệm "tương đồng"
và khái niệm "khác biệt", so sánh cặp khái niệm này trong mối quan hệ với cặp
phạm trù "cái chung" và "cái riêng" để thấy tính biện chứng của sự "tương đồng"
và "khác biệt"; từ đó rút ra khẳng định rằng: giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội
chủ nghĩa có những điểm tương đồng và những điểm khác biệt. Sự tương đồng và
khác biệt giữa chúng có khi là bản chất, có lúc chỉ mang tính tương đồng, chuyển
hóa lẫn nhau, trong tương đồng có khác biệt và ngược lại.
Từ đó, luận án đã nêu lên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn chủ yếu để phân
tích, đánh giá thực chất những nội dung tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, luận giải những vấn đề đặt ra trong nhận thức và
vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai nền dân chủ này trong xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2. Nghiên cứu thực chất những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội về
sự tương đồng và khác biệt giữa dân chủ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa cho thấy: giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có những điểm
tương đồng vì chúng đều phản ánh khía cạnh, nội dung của chế độ chính trị, những
phạm trù của đời sống xã hội; giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa có
những điểm khác biệt căn bản trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ra đời sau, kế thừa các giá trị tích cực của các nền dân chủ trước đó, trong đó có
dân chủ tư sản.
Việt Nam đã vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy
nhiên, những hạn chế cũng còn tồn tại rất lớn mà nguyên nhân chính được chỉ ra là
do Việt Nam thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ một xã hội tiền tư bản;
thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước chưa đạt hiệu quả cao nên ảnh
hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội; trình độ dân trí chưa cao, các điều kiện
để thực hành dân chủ còn rất thiếu và yếu, chưa có ý thức pháp luật cũng có ảnh
hưởng quan trọng đến thực hành dân chủ.
24
Yêu cầu đặt ra đối với việc vận dụng những điểm tương đồng và khác biệt giữa
dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay là cần vận dụng trên cơ sở nhận thức đúng, phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; hai là phải gắn
với việc chủ động đấu tranh chống quan điểm, hành động sai trái, thù địch; ba là
phải gắn với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế khách quan của thời đại.
3. Dân chủ là một giá trị phổ biến của toàn nhân loại. Lịch sử phát triển của
các nước trên thế giới cho thấy, quốc gia nào cũng cố gắng hướng tới thực hiện
dân chủ theo quan niệm, cách thức, phương pháp của mình trên cơ sở phù hợp với
điều kiện lịch sử cụ thể. Không có mô hình chung về dân chủ cho tất cả các nước.
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng việc thực hành dân chủ ở mỗi nước đều có
những điểm hợp lý cũng như những hạn chế nhất định.
Nghiên cứu những điểm tương đồng và khác biệt giữa dân chủ tư sản và dân
chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó có những đánh giá khách quan thành tựu dân chủ tư
sản, tính chất, trình độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là cơ sở khoa học để tiếp thu có chọn lọc các giá trị dân chủ của
nhân loại được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản. Có thể khẳng định rằng đó là sự phát
triển trình độ dân chủ của văn minh nhân loại được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản
chứ không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Việt Nam không tiếp thu
bản chất giai cấp của dân chủ tư sản, nhưng tiếp thu, học tập các hình thức thực
hiện để đảm bảo quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Chỉ khi nhận thức
dân chủ trong thời kỳ quá độ khác với dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa, mới
cho phép học tập, vận dụng, thực hiện đa dạng các hình thức dân chủ khác nhau.
Đó cũng là sự phù hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ.
Trong khi chưa tìm ra những hình thức đặc thù để thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa, cần mạnh dạn nghiên cứu, áp dụng những hình thức dân chủ mà nhân
loại đã trải qua, được thực tiễn kiểm nghiệm là hiệu quả để vận dụng, ví như: nhân
dân trực tiếp thể hiện ý kiến của mình trước các vấn đề lớn của đất nước thông qua
trưng cầu dân ý; cơ chế cụ thể để nhân dân bãi miễn đại biểu của mình khi không
còn phù hợp, hoặc trực tiếp lựa chọn người lãnh đạo của mình thông qua bầu cử...
4. Trong điều kiện mới, để tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhận thức lý
luận về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam cần tập trung giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn đặt ra trên cơ sở tuân thủ
những nhóm giải pháp cơ bản với giải pháp cụ thể.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Đỗ Thị Thạch, Lê Thị Thu Mai (2014), Nền dân chủ ở Cộng hòa Ấn Độ và
tham chiếu ở Việt Nam, tại trang http://cis.org.vn, ngày 12/8.

2. Lê Thị Thu Mai (2017), "Tư tưởng của V.I. Lênin về chuyên chính vô
sản và sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay", Tạp chí Giáo dục và xã hội, (139) , tr.54-58.

3. Lê Thị Thu Mai (2017), "Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ", Tạp chí Dạy và học ngày nay, (9), tr.13-14.

You might also like