Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 26

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIA ĐỊNH

KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI – NGÔN NGỮ


KHÓA: 13
NĂM HỌC: 2021 – 2022

ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VẤN ĐỀ STRESS CỦA
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIA ĐỊNH.

Giảng viên hướng dẫn: Dương Hoàng Lộc


Môn học: Phương pháp học đại học – nghiên cứu khoa học
Nhóm thực hiện: Nhóm 13 (gồm 3 thành viên):
- Nguyễn Thị Thu Lành - 1911060088
- Nguyễn Thị Xuân Hồng - 1911060115
- Nguyễn Thị Ngọc Thương - 1911060060
Lớp: K13DC - TATM

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 02 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIA ĐỊNH
KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI – NGÔN NGỮ
Năm học: 2021 - 2022

MÔN PHƯƠNG PHÁP HỌC ĐẠI HỌC – NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
NHÓM: 13

THÀNH VIÊN NHÓM:

- Nguyễn Thị Thu Lành – 1911060088


- Nguyễn Thị Xuân Hồng – 1911060115
- Nguyễn Thị Ngọc Thương - 1911060060

LỚP: K13DC - TATM

CHỮ KÝ CÁN BỘ CHỮ KÝ CÁN


ĐIỂM SỐ ĐIỂM CHỮ
CHẤM 1 BỘ CHẤM 2

ĐỀ TÀI:
Thực trạng và giải pháp vấn đề stress của sinh viên trường Đại học
Gia Định.
MỤC LỤC
1. Lí do chọn đề tài:...........................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:..........................................................................2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:....................................................................7
4. Mục tiêu nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:..........................................9
 Mục tiêu nghiên cứu:.................................................................................9
 Nhiệm vụ nghiên cứu:..............................................................................10
 Đối tượng nghiên cứu:.............................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu:..........................................................................13
NỘI DUNG.........................................................................................................13
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:....................................13
1. Khái niệm:.............................................................................................13
1.1. Stress ở độ tuổi sinh viên:...................................................................14
1.2. Nguyên nhân của việc stress:..............................................................14
1.3. Mức độ nghiêm trọng của stress:.......................................................16
2. Vai trò, thực trạng của việc stress trong môi trường học tập và rèn
luyện hiện nay:...........................................................................................17
2.1. Vai trò:.................................................................................................17
2.2. Thực trạng:.........................................................................................17
CHƯƠNG II: STRESS VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NÓ....................18
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG CỦA
SINH VIÊN HIỆN NAY................................................................................18
1. Dấu hiệu nhận biết stress trong môi trường học tập và làm việc của
sinh viên:....................................................................................................18
2. Biện pháp làm giảm stress....................................................................19
6. Nguồn tư liệu:............................................................................................20
7. Bố cục đề tài nghiên cứu:..............................................................................20
8.Nguồn tài liệu tham khảo:.............................................................................21
1. Lí do chọn đề tài:

Lí do nhóm chọn đề tài này là vì trong cuộc sống hiện nay, bất cứ cá nhân
nào cũng có thể đối diện với hiện tượng stress. Stress có thể xảy ra với những
người xung quanh ta, cũng có thể diễn ra với chính bản thân chúng ta trong
những thời điểm mà ta đôi lúc không thể nhận biết được. Ngày nay, stress được
xem là một phần tất yếu của cuộc sống. Cả trẻ em và người lớn đều có thể bị
căng thẳng, trong đó người trẻ tuổi là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất.
Stress ở sinh viên là một tình trạng rất phổ biến. Mặc dù chưa có thống kê về
thực trạng stress trên cộng đồng nhưng đã có không ít nghiên cứu được thực
hiện ở các nhóm đối tượng cụ thể bao gồm nhân viên văn phòng, học sinh và
sinh viên. Áp lực từ việc học là nguyên nhân hàng đầu gây stress ở học sinh và
sinh viên. Thực tế, chương trình học ở nước ta tương đối nặng vì quá chú trọng
đến lý thuyết. Do đó, sinh viên thường mất nhiều thời gian để đọc hiểu và học
thuộc các khái niệm, nguyên lý trước khi thực hành. Tình trạng này khiến cho
sinh viên mất nhiều thời gian cho việc học, không có thời gian để nghỉ ngơi và
trau dồi các kỹ năng cần thiết khác. Đa phần sinh viên đều sống xa gia đình và
phải tự quản lý chi tiêu. Đối với những gia đình không có điều kiện, chi phí học
tập và sinh hoạt tại các thành phố lớn thật sự là “bài toán khó”. Vì vậy ngoài
thời gian học, không ít sinh viên phải làm thêm ngoài giờ để trang trải cuộc
sống. Hơn nữa, một số sinh viên còn phải kiếm tiền để tự trang trải học phí, nơi
ở, chi phí đi lại, ăn uống,…

Stress đã trở thành một phần của cuộc sống học tập của học sinh do những kỳ
vọng bên trong và bên ngoài khác nhau đặt lên vai họ. Thanh thiếu niên đặc biệt
dễ bị tổn thương bởi các vấn đề liên quan đến căng thẳng học tập khi quá trình
chuyển đổi xảy ra ở cấp độ cá nhân và xã hội. Do đó, việc hiểu các nguồn gốc và
tác động của căng thẳng trong học tập trở nên cấp thiết để có được các chiến
lược can thiệp đầy đủ và hiệu quả. Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu định
lượng trong đó những người tham gia được sàng lọc bằng Thang đo căng thẳng

1
trong học tập (Rajendran & Kaliappan), năm 1991 từ bốn luồng cụ thể là thương
mại, quản lý, khoa học nhân văn và khoa học cơ bản. Năm khía cạnh của các
nguồn như bất cập cá nhân, sợ thất bại, liên cá nhân khoa học. hiểu các nguồn
gốc của căng thẳng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các mô-đun và
chiến lược tư vấn hiệu quả bởi các nhà tâm lý học và cố vấn học đường để giúp
học sinh giảm bớt căng thẳng.

Tuy nhiên, căng thẳng kéo dài chính là nguồn cơn của nhiều vấn đề tâm lý,
tâm thần như rối loạn lo âu, trầm cảm, các rối loạn liên quan đến stress và gia
tăng nguy cơ mắc các bệnh lý thể chất. Đối với sinh viên, căng thẳng thần kinh
còn ảnh hưởng đến thành tích học tập và gia tăng tỷ lệ bỏ học, thất nghiệp trong
tương lai. Do đó nhóm chọn đề tài này để tìm hiểu rõ về vấn nạn stress đã gây ra
hậu quả gì đến sinh viên của thành phố Hồ Chí Minh nói chung và sinh viên
trường đại học Gia Định nói riêng.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:

Tổng quan lịch sử nghiên cứu stress:

Trước tiên phải nói về cái stress nói chung trước khi để cập tới sự stress trong
học tập nói riêng. Stress đã là một vấn đề, một hiện tượng hiện hữu ngay từ
những thời xa xưa rồi. Khi con người bắt đầu có mặt trên quả đất này thì chúng
ta đã phải đối chọi rất nhiều với thiên nhiên, hoang dã. Nào là mưa to gió lớn, là
hạn hán, là thú dữ khắp nơi đâu đâu cũng đầy rẫy những nỗi lo những căng
thẳng ập tới.

Vậy đây là cái hiện tượng tâm lý này tuy không được gọi thẳng ra cái tên
“stress" ngay từ xưa nhưng nó luôn tồn tại song song với quá trình hình thành và
phát triển của loài người cho tới tận bây giờ. Nó tồn tại như một thực thế hiển
nhiên trong cuộc sống của nhân loại ở khắp các bộ tộc, các thời đại và khắp các
châu lục. Trên tình trạng đó các nhà nghiên cứu tâm lý học phương Đông,
phương Tây đã nhìn ra sớm được điều này. Và nhiều luận văn cùng công trình
2
nghiên cứu dần dần ra đời. Để cho dễ dàng tiếp cận được vấn để này chúng ta sẽ
chia thành 2 phần nhỏ là “những nghiên cứu của nước ngoài" và “những nghiên
cứu trong nước"

*Những nghiên cứu stress của nước ngoài:

Như đã để cập tới bên trên thì chính những nhà nghiên cứu phương Tây vì nhìn
ra được sớm hiện tượng này nên họ cũng chính là những “người khổng lồ" hay
nói rõ hơn là những nền móng đầu tiên trong quá trình tìm hiểu về “stress".

Vào khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thì dần dần những bác sĩ, những
nghiên cứu sinh đã nhận ra rằng giữa tâm sinh lý và trạng thái của bệnh nhân có
một sự liên hệ mật thiết nào đó.

Vào năm 1910, một vị bác sĩ người Canada là William Osler đã nhắc tới nó, ông
nêu ra rằng nặng nhọc, căng thẳng mà công việc cũng như là trách nhiệm với
mọi việc trong đời sống mang tới bệnh viêm họng và tức ngực cho các bệnh
nhân người Do Thái. Ông diễn tà thế này: “ Họ rất náo nhiệt và sống một cuộc
sống đầy trách nhiệm với mọi người và đặc biệt là gia đình, cũng chính vì lẽ đó
mà dẫn tới họ đã dần tiến vào tình trạng căng thẳng khi năng lượng thần kinh đã
suy giảm ngày một nghiêm trọng"

Cũng từ những mô tả ấy mà người đồng hương của ông là bác sĩ Hans Selye đã
chính thức đặt nền móng đầu tiên cho quá trình nghiên cứu về hiện tượng của
stress. Với những kết quà thử nghiệm trên động vật thì ông đã đưa ra các khẳng
định rằng cơ thể có những hệ thống đáp ứng với việc thích nghi và cân bằng khi
thay đổi môi trường xung quanh. Ông gọi tên các đáp ứng này là GAS(General
Adaptation Syndronme). GAS nắm vai trò chi thị hoạt động của hệ thần kinh
cho phép cơ thể chống lại những kích thích có hại và được chia làm 3 giai đoạn:
báo động, kiệt sức, chống đỡ.

3
Chính thức vào năm 1946 toàn bộ lý thuyết, khái niệm về stress của vị bác sĩ
người Canada được khoa học xác nhận.

Sau bác sĩ Hans dần dần nhiều nhà nghiên cứu đã tham gia vào công cuộc tìm
hiểu về hiện tượng trên. Và các công trình nghiên cứu sau này được chia làm 3
hướng cơ bản.

Hướng nghiên cứu thứ hai là nghiên cứu về stress như một tác động của môi
trường. Nào là Linderman(1944) với các công trình về sự đau buồn tổn thương
tâm lý của các nạn nhân có người than hy sinh vì chiến tranh đã cho thấy rằng:

ngoài cái sự tàn khốc của chiến tranh thì những sự kiện ảnh hưởng sau đó của
chiến tranh cũng có thể gây stress cho cá nhân nào đó. Hướng nghiên cứu trên
đã xem stress như là một sự kiện của môi trường tác động lên chủ thể. Holme và
Rahe (1967) đã nghiên cứu stress theo quan quan điểm môi trường và cũng chi
ra những sự kiện dẫn tới việc stress như: sinh con, ngồi tù, kết hôn, ly hôn, lễ
các thứ...

Từng sự kiện đều đòi hỏi mỗi người, mỗi cơ thể phải thay đổi để thích ứng thất
tốt từ đó gây ra âu lo căng thẳng. Từ danh sách các sự kiện gây stress của Holme
và Rahe thì có nhiều nhà nghiên cứu dung để đánh giá quan hệ của stress và sức
khỏe. Như Rabkin và Struening (1976) nghiên cứu các bệnh nhân đột từ do bệnh
tim cũng một phần là do stress ånh hưởng tới.

Cũng như trên thì thuyết nghiên cứu cho rằng stress như một sự kiện cũng chịu
khá nhiều luồng chỉ trích tới từ các lý thuyết khác. Các lập luận ấy cho rằng: các
sự kiện có thể giống nhau nhưng mức độ hay sự ảnh hưởng sản sinh ra stress ở
mỗi cá nhân là khác nhau. Sức ảnh hưởng của stress là ít hay nhiều là do ý nghĩa
của sự kiện đấy như thế nào và những khả năng có thể đối phó với sự kiện đó
của các cá nhân. Từ đó Nuchol, Cassel và Kaplan (1972) đã đánh giá những hậu
quả của stress và khả năng ứng phó trong thai kỳ đối với các biến chứng sinh đẻ.

4
Chính vì vậy một lần nữa quan điểm khi xem stress như là một sự ảnh hưởng
chung chung của các sự kiện trong môi trường cũng là chưa hoàn thiện.

Hướng nghiên cứu thứ ba là xem stress như một quá trình tương tác giữa con
người với môi trường và ở đó mỗi cá nhân sẽ nhận thức được sự kiện để có
thểphát huy được tiềm năng của mình cho việc ứng phó với sự kiện đó(Lazarus
và Folkman,1984). Yếu tố nhận thức được hành vi ở đây đã đóng được vai trò
diều hòa giữa các tác nhân kích thích và phản ứng tâm lý của chủ thể. Quan
điểm này nhấn mạnh về mặt nhận thức hành vi trong nghiên cứu stress và có thể
lắp đầy được những lỗ trống của hai quan điểm nghiên cứu trên.

Trọng tâm của quan điểm này đó là nằm ở việc chủ thể có khả năng nhận thức
thức được mức độ của tác động của sự kiện. Nếu sự kiện đó có hại hoặc có thể
ảnh hưởng xấu và họ ít có khả năng đối phó thì sẽ sản sinh ra stress. Ở quan
điểm tâm lý này cũng chứa hạn chế đó là việc bỏ qua bớt một số yếu tố sinh học
của stress và mối liên hệ giữa sinh học với các mặt khác như cảm xúc, hành vi.

Vậy nên những hướng nghiên cứu trên cũng chỉ là để tham khảo rồi từ đó có thể
rút ra được ý nghĩa và khái niệm chung của stress chứ không hướng dẫn cụ thể ở
bất kì một hướng riêng nào vì mỗi hướng trên đều chỉ tập trung vào một phương
diện và loại bỏ các phương diện khác.

*Nghiên cứu trong nước(Việt Nam):

Việt Nam stress cũng được tìm hiều ở những năm 70 trở đi và dần dần tiếp cận
được nhiều hơn ở các hướng khác nhau như sinh lý học, tâm lý hoc, xã hội…
vào những năm 80.Các nhà nghiên cứu nhà khoa học đã cùng nhau nghiên cứu
và đưa ra kết luận về stress:+ Tô Như Khuê là người đầu tiên nghiên cứu stress
ở Việt Nam dướii góc độsinh lý học và y học. Năm 1976 ông đã tiến hành
nghiên cứu vấn “Phòng chống trạng thái căng thẳng (stress) trong đời sống và
lao động”. Là một người lính, Tô Như Khuê hết sức quan tâm đến các yếu tố
tâm lý của việc tuyển dụng, huấn luyện và sức chiến đấu cho bộ đội. Sau chiến
5
tranh ông quan tâm nhiều tới vấn stress trong huấn luyện của bộ đội , các binh
chủng đặc biệt là những công cuộc ra sức bảo vệ tổ quốc. Theo ông stress là
phản ứng của cơ thế đối với các tác nhân bên ngoài, nhằm thích nghi với môi
trường luôn thay đổi.+ Phạm Ngọc Giao và Nguyễn Hữu Nghiêm đã nghiên
cứu stress trong đời sống xã hội và cho xuất ra mắt tác phẩm “Stress trong thời
đại văn minh”.Theo haitác giả trên, stress được hai ông coi như một hiện tượng
tâm-sinh lý hết sức phức tạp ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả công việc và cuộc
sống của con người. Gây nên những khó khăn và trơe ngại trong cuộc sống của
con ngườu. Con người phải có sự thích ứng và tìm ra giải phát ứng phó có hiệu
quả với stress bằng việc điều chỉnh lối sống và luyện tập các phương pháp giải
toả stress [5, tr. 11].Luôn tìm cho bản thân những niềm vui, lạc quan, sống hết
mình để k phải bị stress. + Nguyễn Khắc Viện và Đặng Phương Kiệt là những
người nghiên cứu stress theo hướng tiếp cận Tâm lý lâm sàng.Các nghiên cứu
của họ được thực hiện trên trẻ em vào những năm 1990. Kết quả các công trình
nghiên cứu của hai tác giả trên được tập hợp và xuất bản thành các bài giảng tại
Trung tâm Nghiên cứuTâm lý Trẻ em (NT) và tác phẩm “Tâm lý học và đời
sống’’. + Đặng Phương Kiệt là người có nhiều tâm huyết trong việc nghiên cứu
stress và cách thức ứng phó với stress Việt Nam.Ông đã tìm tòi rất nhiều để có
thể tìm ra phương hướng đúng nhất để giải quyết stress cho con người đặc biệt
là giới trẻ. Kết quả cuối cùng ông và đồng nghiệp đã cho xuất bản bốn ấn phẩm
về stress và cách phòng chống stress. Thứ nhất “Chung sống với stress” (2003);
thứ hai “Stress và đờisống” (2003); thứ ba “Stress và sức khoẻ” (2003); thứ tư
“Phòng chống stress” (2006). Theo ông stress là “Một lực nào đó (vật lý hay tâm
lý) . Như vậy, ông hiểu căng thẳng rất rộng nó liên quan đến toàn bộ hoạt động
và ứng dụng của con người trong cuộc sống. Năm 1997, Hội nghị khoa học về
“Những rối loạn có liên quan đến căng thẳng ở trẻ em và cả ở người lớn”đã
được tổ chức tại Viện Sức khỏe Bệnh viện Bạch Mai. Hội nghị có sự tham gia
của nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau.

6
Các vấn đề tham khảo được mô tả căng thẳng ở trẻ em và thanh thiếu niên, coi
đó là vấn đề hết sức nóng bỏng nhất hiện nay và cần được để cập và giải quyết.
Trong hội thảo này có một tham khảo đề cập đến căng thẳng ở sinh viên học
đường.

- Nguyễn Thu Hà và đồng nghiệp (Viện Y học Lao động và Vệ sinh môi
trường trường) đã Nghiên cứu tài nguyên “Điều tra căng thẳng nghề
nghiệp ở nhânviên y tế” (2006). Tác giả đi điều tra trên 527 nhân viên y tế
của bệnh viện Bạch Mai Bệnh viện Phụ Sản và Bệnh viện Hữu Nghị bằng
các công cụ như: đánh giá mức độ căng thẳng theo điểm (dành cho người
châu Á), trắc nghiệm lo âu của Zung , trắc nghiệm trầm cảm của Beck và
điều tra bằng bảng số liệu 8,4% bị stressở mức cao; 33% bị stress ở mức
trung bình và 58,6% ở mức thấp. Theo kết quả nghiên cứu một số yếu tố
môi trường làm việc gây căng thẳng cho công việc là: công việc quá tải,
cường độ làm việc lớn, thời gian làm việc kéo dài, đặc trách công việc
cao, sự căng thẳng khi tiếp tục xúc với bệnh nhân và nhà của họ.

- Lại Thế Luyện (2006) là Nghiên cứu tài nguyên “Biểu hiện căng thẳng
củasinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP Hồ Chí Minh” với
khách hàng là 500 sinh viên hệ thống học chính của trường. Phương pháp
nghiên cứu được ứng dụng là: Điều tra bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: có10,8% sinh viên rất căng thẳng (mức 1),
49,8% sinh viên khá căng thẳng (mức 2), 33,8% sinh viên rất căng thẳng
(mức 3) và 5,6% không bị căng thẳng.Nhìn chung thì các công trình
nghiên cứu của Việt Nam cũng chưa đi sâu vào phân tích nguyên nhân và
biên pháp đối phó với stress. Đặc biệt ở đối tượng học sinh, sinh viên với
nhiều biểu hiện tâm lý phức tạp khi chịu ảnh hưởng của cácáp lực như:
học tập, thi cử,bạn bè, thầy cô, cha mẹ…Vì vậy nghiên cứu về stress ở đối
tượng này rất cần được đi sâu hơn để có thể giảm thiểu được những ảnh

7
hưởng tiêu cực của stress đối với đời sống học tập của học sinh, sinh viên
nói riêng cũng như người Việt Nam nói chung.

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:

 Ý nghĩa khoa học:

Trong thời gian dài nhất, mọi người cho rằng học sinh ít bị ảnh hưởng nhất
bởi bất kỳ loại căng thẳng hoặc vấn đề nào. Căng thẳng hiện được hiểu là một
cuộc khủng hoảng lối sống ảnh hưởng đến bất kỳ cá nhân nào bất kể giai đoạn
phát triển của họ. Nhiệm vụ duy nhất mà sinh viên phải thực hiện là học tập và
việc học tập không bao giờ được coi là căng thẳng. Điều được chứng minh là
căng thẳng là những kỳ vọng mà cha mẹ dành cho con cái của họ, từ đó trở
thành gánh nặng lớn hơn mà những đứa trẻ này không thể gánh được nữa. Theo
thống kê do Cục Hồ sơ Tội phạm Quốc gia công bố, cứ mỗi giờ lại có một học
sinh tự tử (Saha, 2017). Cơ quan đã ghi nhận 1,8% sinh viên tự tử do thi trượt và
tỷ lệ tự tử tăng 80% trong khung thời gian một năm.

- Để hiểu mức độ căng thẳng học tập mà sinh viên phải đối mặt và các nguồn
khác nhau đã gây ra điều này. Sự khác biệt về giới tính và những khác biệt khôn
ngoan về tổng thể căng thẳng trong học tập.

- Mặc dù mức độ căng thẳng nhất định thúc đẩy học sinh đạt được hiệu suất tối
ưu, khi nó không được quản lý một cách hiệu quả do không đủ nguồn lực để đối
phó với căng thẳng, nó có thể gây ra những hậu quả tồi tệ cho học sinh cũng như
cơ sở giáo dục.

 Ý nghĩa thực tiễn:

Tìm hiểu thực trạng về mức độ hiểu biết về hiện tượng stress, nguyên nhân,
biểu hiện, hậu quả và cách ứng phó khi bị stress đối với sinh viên hiện nay và
đặc biệt là sinh viên trường Đại học Gia Định nhằm xác định mức độ hiểu biểu

8
về stress và cách thích ứng của sinh viên khi gặp vấn đề stress trong đời sống và
học tập.

Với tình trạng học online do đại dịch covid – 19 cũng đã gây ảnh hưởng rất
nhiều dẫn đến stress cho các sinh viên, sang chấn tâm lý nặng nề và dai dẳng,
gây ra hậu quả nghiêm trọng về tâm lý với rất nhiều người đặc biệt là đối với
sinh viên trường đại học Gia Định. Tình trạng kinh tế suy sụp kéo dài trong hơn
hai năm qua, đặc biệt nhiều ngành nghề gần như không hoạt động gì, dẫn đến
nạn thất nghiệp làm nhiều sinh viên năm cuối ko thể thực tập và kiếm việc làm
thuận lợi được. Sinh viên học online nhiều, thời gian tiếp xúc với mạng internet,
điện thoại, máy tính nhiều, thiếu những mối quan hệ giao tiếp ngoài xã hội. Bố
mẹ cũng có những xáo trộn trong cuộc sống, lo mua sắm trang thiết bị để đảm
bảo việc học online… sinh viên tiếp xúc nhiều với các thiết bị điện tử dễ dẫn
đến tình trạng nghiện điện tử.

Trên thực tế, stress không hẳn lúc nào cũng gây ra tác động tiêu cực. Tuy
nhiên, căng thẳng kéo dài chính là nguồn cơn của nhiều vấn đề tâm lý, tâm thần
như rối loạn lo âu, trầm cảm, các rối loạn liên quan đến stress và gia tăng nguy
cơ mắc các bệnh lý thể chất. Đối với sinh viên, căng thẳng thần kinh còn ảnh
hưởng đến thành tích học tập và gia tăng tỷ lệ bỏ học, thất nghiệp trong tương
lai. Vì thế khi nghiên cứu về đề tài này, sẽ làm thực trạng nguyên nhân stress
của sinh viên hiện nay và đặc biệt là sinh viên trường Đại học Gia Định.

Từ đó mỗi bạn sinh viên của trường Đại học Gia Định sẽ biết rõ hơn về
stress, có thể tìm hiểu sâu hơn về stress và giúp cho bản thân không bị stress.

4. Mục tiêu nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu:


 Mục tiêu nghiên cứu:
+ Thực trạng stress của sinh viên Gia Định hiện nay:

9
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về mức độ hiểu biết về hiện tượng stress.
Nguyên nhân, biểu hiện, hậu quả và cách thức ứng phó khi bị stress trong
đời sống ở sinh viên nhằm tìm ra các biện pháp hữu ích giúp nâng cao
hiểu biết cho sinh viên về hiện tượng stress từ đó sinh viên sẽ biết cách
ứng phó, hạn chế được những hậu quả đáng tiếc khi bị stress trong đời
sống.

- Nghiên cứu có mục đích tìm hiểu thực trạng ứng phó với các nguồn gây
stress trong học tập ở sinh viên, nhằm làm giảm tình trạng stress trong học
tập, và tăng cường khả năng ứng phó ở sinh viên.

+ Nguyên nhân và giải pháp khắc phục tình trạng stress ở sinh viên:

- Nguyên nhân:

 Do sự thay đổi môi trường sống

 Do áp lực từ việc học hành

 Do vấn đề về tài chính

 Thói quen ăn uống thiếu khoa học

 Khó hòa hợp trong các mối quan hệ

- Giải pháp khắc phục:

 Hoạt động thể dục thể thao

 Sắp xếp thời gian biểu hợp lý

 Trò chuyện và kết bạn với những người bạn mới

 Chăm sóc cho bản thân

10
 Cân đối chi tiêu một cách hợp lý

 Tâm lí trị liệu

 Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Tìm hiểu thực trạng về mức độ hiểu biết về hiện tượng stress, nguyên
nhân, biểu hiện, hậu quả và cách ứng phó khi bị stress trong đời sống của
sinh viên nhằm xác định mức độ hiểu biết về hiện tượng stress, nguyên
nhân, biểu hiện, hậu quả và cách thức ứng của sinh viên Trường Đại học
Gia Định khi bị stress trong đời sống.

- Đọc và phân tích một số quan điểm, công trình nghiên cứu của các nhà
tâm lý học trong và ngoài nước nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho để tài.

- Đưa ra các khái niệm cho đề tài.

- Làm rõ các đặc điểm tâm lý của sinh viên và đặc điểm hoạt động học tập
của sinh viên Đại học Gia Định.

- Nghiên cứu có các nhiệm vụ cụ thể đó là:

(1) Xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài: bao gồm trình bày mô hình lý thuyết
nền tảng; giới thiệu các khái niệm nguồn gây stress, ứng phó với stress trong học
tập, và động lực học tập; và tổng quan về nghiên cứu.

(2) Khảo sát các nguồn gây stress trong học tập ở sinh viên.

(3) Đo lường các chiến lược ứng phó với stress trong học tập ở sinh viên,
mức độ stress, kết quả học tập, động lực học tập, và các biến số khác.

(4) Phân tích quan hệ giữa các biến số nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu.

Câu hỏi nghiên cứu:

11
1. Sinh viên có những biểu hiện stress như thế nào?

2. Đâu là những nguyên nhân dẫn đến stress và giải pháp?

Giả thuyết nghiên cứu:

1. Sinh viên có những biểu hiện stress:

 Tâm trạng nhạy cảm và không ổn định. Khi bị stress, tính tình thường trở
nên khó chịu, dễ cáu gắt, bực dọc, lo âu, thiếu kiên nhẫn,…

 Mất phương hướng, giảm khả năng tập trung, suy giảm trí nhớ,..

 Có cái nhìn tiêu cực, bi quan.

 Ăn nhiều hơn hoặc ít hơn, ngủ quá nhiều hoặc quá ít.

 Một số sinh viên sử dụng rượu bia, thuốc lá để giải tỏa căng thẳng.

2. Nguyên nhân dẫn đến stress và giải pháp:

 Nguyên nhân: Cuộc sống của một sinh viên có thể là một cuộc sống căng
thẳng. Các yếu tố như bài tập về nhà (quá nhiều bài tập về nhà có thể dẫn
đến kiệt sức, học tập kém tích cực hơn, sinh viên cảm thấy quá tải), đời
sống xã hội, áp lực của cha mẹ, và khối lượng công việc không ngừng
nghỉ đều tạo ra căng thẳng,..

 Giải pháp:

 Tích cực tham gia các hoạt động ngoài trời để giảm căng thẳng.

 Suy nghĩ tích cực

 Học cách thư giãn

 Nghe nhạc, xem phim


12
 Đảm bảo dinh dưỡng

 Sinh hoạt điều độ

 Kết nối những mối quan hệ mới

 Trong các nhóm đối tượng, sinh viên là một nhóm đối tượng được đánh
giá có nguy cơ gặp các vấn đề căng thẳng tâm lý ở mức cao do áp lực học
tập, thi cử, các mối quan hệ tình yêu, bạn bè, điều kiện kinh tế... Tại Việt
Nam, theo báo cáo kết quả điều tra quốc gia về vị thành niên lần thứ hai
năm 2009 (SAVY II) có tới 73,1% thanh niên (tuổi từ 14 – 25) từng có
cảm giác buồn chán do căng thẳng tâm lý. Nếu stress mức độ binh thường
sẽ là động lực giúp sinh viên đạt kết quả cao hơn trong học tập cũng như
trưởng thành hơn trong cuộc sống thì stress ở mức độ nặng sẽ là nguyên
nhân dẫn đến kết quả học tập suy yếu cũng như các bệnh lý về tinh thần
và thể chất. Vì vậy, nhằm từng bước nâng cao sức khỏe, kết quả học tập
của cộng đồng nói chung và của sinh viên nói riêng, chúng em tiến hành
nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp vấn đề stress sinh viên trường
đại học Gia Định."

 Đối tượng nghiên cứu:

+ Hiện tượng stress trong đời sống của sinh viên.

+ Đối tượng mà bài nghiên cứu của chúng em hướng đến là tất cả sinh viên của
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay nói chung và sinh viên trường đại học Gia
Định nói riêng, bài nghiên cứu không chú trọng vào một đối tượng cụ thể vì tất
cả stress là một vấn đề mà gần như tất cả mọi người đều gặp phải, không phải
chỉ là vấn đề liên quan về mặt cảm xúc mà còn là một phần trong phản ứng thần
kinh tự nhiên của con người.

- Khách thể nghiên cứu: Toàn thể sinh viên trường đại học Gia Định.

13
5. Phương pháp nghiên cứu:

Áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau để thu nhập thông tin phù hợp cho đề
tài nghiên cứu:

+ Phương pháp định lượng: Thu nhập các số liệu, phỏng vấn và quan sát, số liệu
có các tính chất thống kê để có được những thông tin cơ bản, tổng quát về đối
tượng nghiên cứu nhằm phục vụ mục đích thống kê, phân tích, Các thông tin, dữ
liệu thường được thu nhập thông tin qua khảo sát diện rộng.

Phương pháp định tính: là hướng tiếp cận nhằm thăm dò về vấn đề stress, mô tả
và giải thích dựa vào các phương tiện khảo sát kinh nghiệm, nhận thức, động cơ
thúc đẩy, dự định, hành vi, thái độ. Chúng có thể hướng chúng ta đến việc xây
dựng giả thuyết và các giải thích.

+ Phương pháp phỏng vấn sâu, giúp tìm hiểu sâu hơn nhận thức về nguyên
nhân stress, nhu cầu và mong muốn và cách thức ứng phó của sinh viên đối với
các tác nhân gây stress học tập. Bằng cách sử dụng phỏng vấn sâu có thể biết
được các ý kiến, sự đánh giá của giảng viên, các nhà quản lý về stress trong học
tập và nguyên nhân stress trong học tập của sinh viên hiện nay.

+ Phương pháp trắc nghiệm, được sử dụng để nghiên cứu mức độ stress trong
học tập của sinh viên ĐH Gia Định.

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:

1. Khái niệm:

Stress là một trạng thái thần kinh căng thẳng, bao gồm nhiều yếu tố như vật lý,
hóa học và phản ứng của một cá thể đang cố gắng thích nghi với một sự thay đổi
hay áp lực từ bên ngoài hoặc bên trong. Khi gặp tác nhân gây stress sẽ làm cho

14
cơ thể tiết ra hormone giúp cung cấp năng lượng mạnh mẽ cho các cơ, nhịp thở
nhanh hơn, nhịp tim tăng lên. trạng thái thần kinh bị căng thẳng do nhiều nguyên
nhân gây ra như áp lực công việc, học tập, thi cử,...

1.1. Stress ở độ tuổi sinh viên:


Stress ở sinh viên là tình trạng rất phổ biến. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO), khoảng 25% dân số gặp phải tình trạng này. Mặc dù chưa có thống
kê về thực trạng stress trên cộng đồng nhưng đã có không ít nghiên cứu được
thực hiện ở các nhóm đối tượng cụ thể bao gồm nhân viên văn phòng, học sinh
và sinh viên.

Trên thực tế, stress không hẳn lúc nào cũng gây ra tác động tiêu cực. Tuy nhiên,
căng thẳng kéo dài chính là nguồn cơn của nhiều vấn đề tâm lý, tâm thần như rối
loạn lo âu, trầm cảm, các rối loạn liên quan đến stress và gia tăng nguy cơ mắc
các bệnh lý thể chất. Đối với sinh viên, căng thẳng thần kinh còn ảnh hưởng đến
thành tích học tập và gia tăng tỷ lệ bỏ học, thất nghiệp trong tương lai.

1.2. Nguyên nhân của việc stress:


Stress ở sinh viên có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng thường
có liên quan đến việc học, các mối quan hệ và vấn đề tài chính. Ngoài ra, tính
cách nhút nhát, tự ti, thiếu kỹ năng giao tiếp và kinh nghiệm sống cũng là những
yếu tố gia tăng căng thẳng thần kinh.

Các nguyên nhân sau:

+ Áp lực từ việc học


Áp lực từ việc học là nguyên nhân hàng đầu gây stress ở học sinh và sinh viên.
Thực tế, chương trình học ở nước ta tương đối nặng vì quá chú trọng đến lý
thuyết. Do đó, sinh viên thường mất nhiều thời gian để đọc hiểu và học thuộc
các khái niệm, nguyên lý trước khi thực hành. Tình trạng này khiến cho sinh
viên mất nhiều thời gian cho việc học, không có thời gian để nghỉ ngơi và trau
dồi các kỹ năng cần thiết khác.

15
+ Do vấn đề tài chính
Đa phần sinh viên đều sống xa gia đình và phải tự quản lý chi tiêu. Đối với
những gia đình không có điều kiện, chi phí học tập và sinh hoạt tại các thành
phố lớn thật sự là “bài toán khó”. Vì vậy ngoài thời gian học, không ít sinh viên
phải làm thêm ngoài giờ để trang trải cuộc sống. Hơn nữa, một số sinh viên còn
phải kiếm tiền để tự trang trải học phí, nơi ở, chi phí đi lại, ăn uống,…

+ Do khó thích nghi với môi trường mới


So với cấp 3, môi trường đại học có khá nhiều điểm khác biệt. Vì vậy, sinh viên
năm nhất thường mất nhiều thời gian để thích nghi và hòa nhập. Thực tế, những
người có tính cách hoạt bát, năng nổ và kỹ năng giao tiếp tốt chỉ mất một thời
gian ngắn để hòa nhập với mọi người.

Trong khi đó, người có tính cách nhút nhát, hướng nội, thiếu kinh nghiệm sống
và kỹ năng giao tiếp kém có thể gặp khó khăn trong việc hòa nhập. Ở môi
trường đại học, sinh viên cần phải chủ động cập nhật thông tin để nắm rõ lịch
16
học, các chương trình của khoa và đoàn hội. Vì vậy, tình trạng khó thích nghi và
ít các mối quan hệ có thể khiến sinh viên gặp phải nhiều phiền toái trong thời
gian đầu.

+ Do ngành học không phù hợp


Thực tế, rất nhiều sinh viên chọn ngành theo mong muốn của gia đình hoặc chọn
tùy ý theo năng lực mà không biết thực sự mình thích gì. Ngoài ra, cũng có
không ít sinh viên nhận ra ngành học thực tế không như mong đợi. Những
trường hợp này rất dễ bị stress do không tìm được sự hào hứng trong việc học và
luôn cảm thấy mệt mỏi, chán nản.

5. Mâu thuẫn trong các mối quan hệ:

So với học sinh, đời sống sinh viên phức tạp hơn do phải sống chung với bạn bè
thay vì với gia đình. Hơn nữa, khoảng thời gian đại học cũng là giai đoạn lý
tưởng để yêu đương. Tuy nhiên ở giai đoạn này, cả hai đều chưa ổn định về tài
chính và chưa có đủ kinh nghiệm sống nên rất dễ phát sinh mâu thuẫn.

1.3. Mức độ nghiêm trọng của stress:


Stress không hoàn toàn xấu, nó giúp cho cơ thể tập trung tốt hơn và làm việc
hiệu quả hơn. Tuy nhiên nếu rơi vào trạng thái stress thường xuyên và kéo dài
lại ảnh hưởng không nhỏ cho cơ thể. Những tác hại stress kéo dài gây ra bao
gồm:

Teo não, suy giảm trí nhớ:

Khi stress các tế bào não bộ bị thiếu oxy và hoạt động sẽ kém hiệu quả, thậm chí
có thể bị chết dần. Theo một số nghiên cứu, stress kéo dài chất xám có nguy cơ
bị giảm, não sẽ teo lại dẫn tới suy giảm trí nhớ, khó tập trung hơn trong học tập,
công việc, khả năng ghi nhớ và tư duy kém hơn.

Đau dạ dày, rối loạn tiêu hóa:

Đường ruột được coi như bộ não thứ hai của cơ thể. Stress kéo dài dẫn truyền
thần kinh thông qua dây thần kinh phế vị và tác động lên hoạt động của dạ dày.

17
Dẫn tới trào ngược dạ dày thực quản, viêm loét dạ dày,... Ngoài ra, làm mất cân
bằng hệ vi sinh trong đường ruột dẫn tới một số bệnh như viêm ruột, hội chứng
kích thích ruột, đau bụng, ỉa chảy, táo bón, khó tiêu,...

Nguy cơ mắc bệnh tim mạch:

Stress thường gây ra những rối loạn về nhịp thở, nhịp tim tăng lên, đồng thời
làm giảm lượng máu chảy đến tim và dẫn tới những bất thường trong hoạt động
tim mạch. Khi stress kéo dài sẽ làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch ví
dụ như: tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim,...

Nguy cơ đột quỵ:

Stress kéo dài có thể làm gia tăng nguy cơ bị đột quỵ. Đột quỵ thường dễ xảy ra
khi những người bệnh có những cảm xúc quá độ, đặc biệt trong trường hợp đã
có sẵn bệnh tâm lý trong người. Theo một vài nghiên cứu cho thấy, những người
bị căng thẳng stress kéo dài có nguy cơ bị đột quỵ cao hơn so với người bình
thường. Nếu tình trạng stress kéo dài không xử lý kịp thời thì đột quỵ là có thể
gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.

2. Vai trò, thực trạng của việc stress trong môi trường học tập và rèn luyện
hiện nay:
2.1. Vai trò:
Stress ở mức độ nhất định sẽ tạo ra sự có lợi cho tư duy, trí nhớ, tư tưởng làm
cho quá trình nhận thức hiệu quả hơn. Stress sẽ làm tích cực khả năng tư duy, đó
là sự suy ngẫm hoàn chỉnh toàn bộ thông tin mà chủ thể có thể có.

2.2. Thực trạng:

Stress là trạng thái tâm lý xảy ra khi cơ thể phải đối mặt với áp lực, vấn đề khó
khăn hoặc những sự kiện gây tổn thương tâm lý. Ngày nay, stress được xem là
một phần tất yếu của cuộc sống. Cả trẻ em và người lớn đều có thể bị căng
thẳng, trong đó người trẻ tuổi là nhóm đối tượng có nguy cơ cao nhất.

18
CHƯƠNG II: STRESS VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NÓ
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG CỦA
SINH VIÊN HIỆN NAY.
1. Dấu hiệu nhận biết stress trong môi trường học tập và làm việc của
sinh viên:
Stress học đường sẽ bao gồm rất nhiều các triệu chứng thực thể, kèm theo đó là
những cảm giác khó chịu, mệt mỏi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả học
tập, sinh hoạt đời sống hàng ngày của các học sinh, sinh viên. Dưới đây là một
số dấu hiệu giúp có thể sớm nhận biết được tình trạng stress trong học đường:

- Luôn cảm thấy buồn bực vô cớ


Khi học sinh, sinh viên bị stress sẽ thường cảm thấy lo lắng, bất an về những
việc xảy ra xung quanh, thậm chí là những chuyện bình thường cũng khiến cho
các em phải suy nghĩ và buồn phiền rất nhiều. Điều này cũng khiến cho các cảm
tự tách biệt với xã hội xung quanh, có xu hướng tự thu mình lại.

- Mất dần hứng thú với mọi người


Đây được xem là một trong các biểu hiện thường gặp nhất đối với các trường
hợp bị stress học đường. Các em học sinh sẽ dần không còn hứng thú đối với
những hoạt động vui chơi, giải trí xung quanh, thậm chí đó là những điều mà trẻ
đã từng rất yêu thích. Trong thực tế có rất nhiều trường hợp trẻ bị ám ảnh quá
mức đối với việc học tập liên tục, các áp lực đến từ gia đình, nhà trường khiến
trẻ gặp phải vấn đề tâm sinh lý và dần mất đi những sở thích, đam mê của bản
thân.

- Muốn được ở một mình


Khi những áp lực, khó khăn xung quanh càng nhiều thì trẻ càng muốn thu
mình lại và chỉ muốn ở một mình. Hầu hết mọi người khi cảm thấy căng thẳng,
stress thì luôn muốn có một khoảng không gian riêng tư để tự suy ngẫm về
chính mình và cũng giúp cho tâm lý được ổn định tốt hơn. Tuy nhiên, nếu tình
trạng này cứ thường xuyên lặp đi lặp lại thì sẽ thành một thói quen tiêu cực.

- Luôn suy nghĩ tiêu cực

19
Khi hệ thần kinh bị căng thẳng quá mức sẽ khiến cho con người liên tục cảm
thấy tiêu cực và suy nghĩ về những tổn thương, mất mát. Trong thực tế đã có rất
nhiều trường hợp tự sát xảy ra khi các em rơi vào trạng thái stress học đường.
Trong độ tuổi nhạy cảm này, học sinh phải chịu rất nhiều áp lực đến từ nhà
trường, bạn bè, thầy cô và gia đình.

- Luôn cảm thấy vô dụng thất bại


Muốn thể hiện bản thân là một tâm lý điển hình thường gặp ở hầu hết các bạn
ở lứa tuổi học đường. Lúc này các em luôn cố gắng để thể hiện các điểm mạnh
của bản thân và luôn muốn nhận được nhiều sự tán thưởng, khen ngợi từ mọi
người xung quanh. Tuy nhiên, nếu bất chợt các em xuất hiện các cảm xúc tiêu
cực, cho rằng bản thân luôn là người thất bại, vô dụng thì đây có thể là dấu hiệu
nhận biết về tình trạng stress học đường.

2. Biện pháp làm giảm stress.

Để khắc phục và giải quyết tốt tình trạng stress của sinh viên phải cần đến sự nổ
lực của chính bản thân cùng với sự tác động, hỗ trợ của phía gia đình và nhà
trường.

Biện pháp làm giảm stress đối với sinh viên:

- Đừng đặt mục tiêu quá cao: Trong thực tế thì ai cũng muốn bản thân đạt
được những thành tích đáng ngưỡng mộ. Đặc biệt là lứa tuổi học sinh,
sinh viên càng muốn được cha mẹ công nhận về khả năng của mình. Tuy
nhiên, cần phải biết được thế mạnh và năng lực của bản thân ở đâu để
đưa ra mục tiêu phù hợp nhất. Hãy cố gắng hết sức và luôn nỗ lực phấn
đấu cho dù kết quả có như thế nào.
- Tâm sự, chia sẻ nhiều hơn: Nếu cảm thấy khó khăn trong việc giao tiếp và
trò chuyện với cha mẹ thì bạn có thể tìm gặp bạn bè hoặc những thầy cô
mà mình tin tưởng để tâm sự, bày tỏ về những khúc mắc đang gặp phải.
Đừng cố gắng che giấu và tự chịu đựng một mình.

20
- Chú ý đến giấc ngủ: Đối với lứa tuổi học đường thì giấc ngủ đóng vai trò
rất quan trọng. Giai đoạn này đang phát triển về cả thể chất lẫn tinh thần.
Do đó, cần phải ngủ đủ giấc, chú ý nâng cao giấc ngủ để bảo vệ sức khỏe
và phòng tránh tốt tình trạng stress học đường.

Học cách sắp xếp thời gian biểu hợp lý để đảm bảo sao cho bản thân có thời
gian giải quyết khối lượng bài tập

Củng cố niềm tin và tự tin vào bản thân mình

Tổ chức các buổi học nhóm, nhằm giải quyết định vấn đề lớn và rất lớn.

6. Nguồn tư liệu:

*TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG - SỐ


6(35).2009

*Đắc nhân tâm – Dale Carnegie

*Giết con chim nhại – Harper Lee

*R. Beiter, R. Nash, M. McCrady và các cộng sự (2015), "The prevalence and
correlates of depression, anxiety, and stress in a sample of college students", J
Affect Disord.

7. Bố cục đề tài nghiên cứu:

Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn:

1. Khái niệm:

1.1 Stress ở độ tuổi sinh viên

1.2 Nguyên nhân của việc stress

1.3 Mức độ nghiêm trọng của stress

21
2. Vai trò, thực trạng của việc stress trong môi trường học tập và làm việc hiện
nay

Chương II: Stress và tầm quan trọng của nó:

1.1 Tác hại của stress mang lại

1.2 Mặt tốt và xấu của stress

Chương III: Những giải pháp khắc phục tình trạng stress của sinh viên hiện nay

1. Dấu hiệu nhận biết stress trong môi trường học tập và làm việc của sinh
viên

2. Biện pháp làm giảm stress

8.Nguồn tài liệu tham khảo:

1. Đặng Phương Kiệt (2004), "Chung sống với stress", Nhà xuất bản Thanh
Niên.

2. Đặng Phương Kiệt (2004), "Stress và sức khỏe", Nhà xuất bản Thanh
niên Hà Nội.

3. Nguyễn Văn Nhận (2005), "Stress và vấn đề vệ sinh tâm lý", Tâm lý học
đại cương, Nhà xuất bản Y học.

4. Phạm Thanh Hương (2006), "Stress và sức khỏe", Tạp chí tâm lý học.
4(85), tr. 4.

5. Pastsy Westcott (1998), "Vượt qua stress trong cuộc sống ", Nhà xuất
bản trẻ.

22
6. R. Beiter, R. Nash, M. McCrady và các cộng sự (2015), "The prevalence
and correlates of depression, anxiety, and stress in a sample of college
students", J Affect Disord. 173, tr. 90-6.

7. N. Bayram và N. Bilgel (2008), "The prevalence and socio-demographic


correlations of depression, anxiety and stress among a group of university
students", Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol. 43(8), tr. 667-72.

8. Bộ Y tế (2004), "Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt
Nam- SAVY II, Hà Nội".

9. Nguyễn Hữu Thụ (2009), "Nguyên nhân stress của sinh viên Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2009", Tạp chí tâm lý học 3(120), tr. 1-5.

10. Trần Viết Nghị "Stress, sự đối phó và các rối loạn sự thích nghi", Tài
liệu giảng dạy sau đại học, Nhà xuất bản Y học.

23

You might also like