Professional Documents
Culture Documents
Tiểu Luận - Môi trường - 1161 - Nguyễn Hoàng Anh
Tiểu Luận - Môi trường - 1161 - Nguyễn Hoàng Anh
Tiểu Luận - Môi trường - 1161 - Nguyễn Hoàng Anh
TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: MÔI TRƯỜNG
ĐỀ TÀI:
CÁC TÁC ĐỘNG CỦA THẢM HỌA TỰ NHIÊN ĐẾN
MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
LỜI MỞ ĐẦU
Toàn cầu đang đứng trước nguy cơ suy thoái về môi trường, đáng báo động là ô nhiễm
khí, nguồn nước bị ô nhiễm, đất đai sa mạc hoá, chất thải phát thải ngày càng nhiều, các
loài ngày càng khan hiếm, rừng bị xấm lấn nặng nề. Những nguyên nhân trên đã dẫn đến
mất cân bằng hệ sinh thái trên Trái đất, gây ra nhưng biến đổi lớn về khí hậu toàn cầu
theo hướng tiêu cực.
Báo cáo của Liên Hợp Quốc công bố ngày 12/10 cho thấy, biến đổi khí hậu là nguyên
nhân của hơn 7.000 thảm họa thiên nhiên trong vòng 20 năm qua.
Liên Hợp Quốc thông tin, từ năm 2000 tới năm 2019, thế giới đã ghi nhận 7.348 thảm
họa thiên nhiên lớn khiến hơn 1,2 triệu người thiệt mạng và ảnh hưởng tới 4,2 tỷ người.
Báo cáo cũng cho biết các thảm họa thiên nhiên trong vòng 20 năm qua đã gây thiệt hại
kinh tế lên tới gần 3.000 tỷ USD. Bão và lũ lụt chiếm tới 72% các thảm họa thiên nhiên
lớn và số lượng các trận lũ lớn tăng gấp đôi trong vòng 2 thập kỷ qua.
Trước những con số biết nói về thiệt hại do thiên tai gây ra, các tổ chức quốc tế cảnh báo,
nếu thế giới không thực hiện những hành động khẩn cấp để giảm khí thải, nhiệt độ toàn
cầu sẽ tăng thêm ít nhất 0,5oC trong 20 năm tới và tiếp tục tăng 2oC đến 3oC vào cuối thế
kỷ 21. Khí hậu toàn cầu trở nên cực đoan hơn sẽ khiến con người tiếp tục phải trả giá
bằng những thiệt hại nặng nề.
Chỉ từ những số liệu trên, ta hoàn toàn có thể thấy được mức độ nghiêm trọng và nguy
hiểm của thiên tai đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Chương 1: Tổng quan về thảm họa tự nhiên (thiên tai):
I. Khái niệm chung:
Thiên tai là hiện tượng tự nhiên bất thường có thể gây thiệt hại về người, tài sản, môi
trường, điều kiện sống và các hoạt động kinh tế - xã hội. Thiệt hại do thảm hoạ tự nhiên
phụ thuộc vào khả năng chống đỡ và phục hồi của con người với thảm hoạ.
Theo các dạng hiện tượng thiên nhiên gây ra thiên tai liên quan, có nhiều nguyên nhân
dẫn đến thiên tai. Nói chung, thiên tai là gây ra bởi các hiện tượng khí hậu, các quá trình
địa mạo, các yếu tố sinh học hoặc các hiện tượng không gian. Những hiện tượng này
được coi là thảm họa khi chúng đạt đến cực điểm và gây ra các hậu quả xấu.
II. Các loại thảm họa tự nhiên:
1. Các thảm họa tự nhiên do đất di chuyển:
1.1. Tuyết lở:
Tuyết lở, lở tuyết hay tuyết truồi (tiếng Anh là avalanche), là hiện tượng khi một lượng
tuyết lớn, thường trộn với nước và không khí, đột ngột tuôn xuống triền núi. Tuyết lở là
mối đe dọa lớn nhất gây thiệt hại nhân mạng và của cải ở miền núi lạnh.
Tuyết lở có khi đẩy thêm cả đá tảng.
Tuyết lở xảy ra dưới ba dạng. Trường hợp thứ nhất là khi lượng tuyết vượt quá độ bền cắt
khiến tuyết trườn xuống dốc nhìn từ trên giống như hình giọt nước. Trường hợp hai là khi
cả một nền tuyết đặc ở trên trượt xuống vì lớp tuyết phía dưới không đủ chắc để giữ
nguyên vị trí. Đây là động lực gây ra 90% vụ thương vong vì nền tuyết dày đến vài mét
và bề rộng có thể đến vài trăm mét. Trường hợp thứ ba là khi lớp tuyết thấm nước.
Tỷ lệ tuyết lở thường khá thấp đối với những con dốc dưới 25 độ hoặc hơn 60 độ. Đó là
vì con dốc cao quá thường không tích tụ đủ tuyết và con dốc thấp thì không đủ sức để
làm nền tuyết di chuyển. Sinh hoạt con người thường gây ra nạn tuyết lở ở những con dốc
từ 35 đến 45 độ.
Tuyết lở gần nứi Everest
các đoàn tàu bị mắc kẹt dưới tuyết ttrong vụ lở tuyết Wellington 1910
Độ Richter:
1–2 trên thang Richter: Không nhận biết được
2–4 trên thang Richter: Có thể nhận biết nhưng không gây thiệt hại
4–5 trên thang Richter: Mặt đất rung chuyển, nghe tiếng nổ, thiệt hại không đáng kể
5–6 trên thang Richter: Nhà cửa rung chuyển, một số công trình có hiện tượng bị nứt
6–7 trên thang Richter, 7–8 trên thang Richter: Mạnh, phá hủy hầu hết các công trình xây
dựng thông thường, có vết nứt lớn hoặc hiện tượng sụt lún trên mặt đất.
8–9 trên thang Richter: Rất mạnh, phá hủy gần hết cả thành phố hay đô thị, có vết nứt
lớn, vài tòa nhà bị lún
>9 trên thang Richter: Rất hiếm khi xảy ra
>10 trên thang Richter: Cực hiếm khi xảy ra
1.3. Lahars:
Lahar là một kiểu thảm họa tự nhiên liên quan mật thiết với phun trào núi lửa, là một
dòng bùn hay lở đất núi lửa và liên quan đến một lượng lớn các vật liệu bao gồm bùn, đá,
và tro trượt xuống sườn của núi lửa với tốc độ nhanh. Các dòng này có thể phá hủy toàn
bộ thị trấn trong vài giây và giết chết hàng ngàn người.
Thảm hoạ Tangiwai năm 1953 do lahar gây ra, trong thảm kịch Armero năm 1985 thị
trấn Armero đã bị chôn vùi và ước tính 23,000 người chết. Trong đó sự việc về Omayra
Sánchez đã gây chấn động thế giới.
1.4. Lở đất và các dòng bùn:
Sạt lở được mô tả là một chuyển động dốc ra bên ngoài và xuống dưới của các vật chất
hình thành dốc bao gồm đá, đất hoặc thậm chí là sự kết hợp của những thứ này.
1.5. Phun trào núi lửa:
Một vụ phun trào có thể chính nó đã là một thảm hoạ bởi sức nổ của núi lửa hay do đá rơi
xuống nhưng có nhiều hiệu ứng có thể diễn ra sau một vụ phun trào và thường có nguy
cơ với đời sống con người.
Dung nham: có thể được tạo ra trong vụ phun trào của một vụ núi lửa, nó là một vật liệu
gồm đá siêu nóng. Có nhiều hình thức dung nham khác nhau có thể là dễ vỡ vụn hay dính
như keo. Khi chảy khỏi núi lửa nó phá huỷ bất kỳ công trình, cây cối nào mà nó gặp.
Tro núi lửa – nói chung có nghĩa là tro nguội – có thể hình thành một đám mây, và rơi
dày xuống các khu vực lân cận. Khi trộn với nước nó hình thành một vật liệu kiểu bê
tông. Số lượng tro tích tụ có thể làm sụp mái nhà và thậm chí ở số lượng nhỏ nó cũng có
thể gây hại cho sức khoẻ nếu con người hít phải. Bởi tro có chứa thuỷ tinh nó mài mòn
các thiết bị chuyển động như động cơ.
Siêu núi lửa: Theo lý thuyết thảm hoạ Toba 70 tới 75 nghìn năm trước một sự kiện siêu
núi lửa đã diễn ra tại Hồ Tuba làm giảm dân số xuống còn 10,000 hay thậm chí 1,000 cặp
có thể sinh sản tạo ra một nút cổ chai trong quá trình tiến hoá của loài người. Nó cũng
giết hại ba phần tư mọi dạng thực vật ở bắc bán cầu. Mối nguy hiểm chính từ một siêu
núi lửa là đám mây tro rộng lớn do nó tạo ra có thể gây hiệu ứng thảm hoạ với khí hậu và
nhiệt độ Trái Đất trong nhiều năm.
Các dòng chảy nham tầng gồm một đám mây tro núi lửa nóng được tạo ra trong không
khí bên trên núi lửa, dưới trọng lượng của nó nó sẽ nhanh chóng rơi xuống và tràn đi
nhanh chóng đốt cháy bất kỳ thứ gì trên đường. Mọi người tin rằng Pompeii đã bị phá
huỷ bởi một dòng chảy nham tầng.
-Năm 1984, tại Cameroon, một vụ phun trào limnic tại Hồ Monoun khiến 37 người sống
cạnh đó thiệt mạng.
-Ở gần Hồ Nyos năm 1986 một vụ phun trào lớn hơn nhiều, tình trạng ngạt hơi đã giết
hại từ 1,700 tới 1,800 người
2.3. Sóng thần:
Sóng thần có thể do các trận động đất ngầm dưới đáy biển gây ra như cơn sóng thần tại
Ao Nang, Thái Lan do Trận động đất Ấn Độ Dương năm 2004, hay bởi những vụ lở đất
như cơn sóng thần tại Vịnh Lituya, Alaska.
-Ao Nang, Thái Lan (2004). Trận động đất Ấn Độ Dương năm 2004 tạo ra
Sóng thần ngày tặng quà và thảm hoạ tại địa điểm này.
-Vịnh Lituya, Alaska (1953). Một cơn sóng thần lớn xảy ra ở đây, lớn nhất
từng được ghi nhận.
Sóng thần được liệt vào tiêu chí thảm hoạ do đất di chuyển bởi nó phát sinh với một trận
động đất
Sóng thần do trận động đất ngày 26 tháng 12 năm 2004 gây ra tấn công Ao Nang, Thái Lan
3.2. Bão:
Bão là trạng thái nhiễu động của khí quyển và là một loại hình thời tiết cực đoan.
Bão là một xoáy thuận nhiệt đới được cấu trúc bởi khối khí nóng ẩm với dòng thăng rất
mạnh xung quanh mắt bão, tạo hệ thống mây, mưa xoáy vào vùng trung tâm bão. Vùng
gió xoáy thuận này có đường kính hàng trăm km và hình thành trên vùng biển nhiệt đới
ở bắc bán cầu.
Tùy theo khu vực hình thành mà thuật ngữ bão có những tên gọi khác nhau:
- Bão hình thành trên Đại Tây Dương: hurricanes
- Bão hình thành trên Thái Bình Dương: typhoons
- Bão hình thành trên Ấn Độ Dương: cyclones
Tại Việt Nam, thuật ngữ "bão" dùng để diễn tả những cơn bão nhiệt đới, một loại thời
tiết đặc trưng của các vùng biển nhiệt đới, thường có gió mạnh kèm theo mưa lớn.
Theo tiêu chuẩn quốc tế , người ta phân chia bão dựa vào sức gió (dựa vào Thang sức
gió Beaufort và Thang bão Saffir-Simpson):
- Sức gió dưới 63 km/h gọi là áp thấp nhiệt đới (tropical depression)
- Sức gió trên 63 km/h (cấp 8) gọi là bão nhiệt đới ("tropical cyclone" hoặc "tropical
storm")
- Sức gió trên 118 km/h (cấp 12) gọi là bão to với cuồng phong (typhoon)
- Sức gió trên 241 km/h gọi là bão rất to hay siêu bão (super typhoon)
Mỗi năm trên toàn thế giới phải gánh chịu một mùa mưa bão, trong thời gian này, có từ
40 đến 50 cơn áp thấp nhiệt đới hình thành ở khu vực xung quang đường xích đạo phát
triển mạnh lên thành bão. Ở Bắc Bán Cầu, mùa bão bắt đầu từ 1/6 đến 30/11 trong khi ở
Nam Bán Cầu, mùa bão thường bắt đầu từ tháng giêng đến tháng 3.
Ngày 3/4/1974, sự kết hợp của 147 vòi rồng đã tạo ra một trận lốc xoáy kỷ lục kéo dài
hai ngày, cướp đi sinh mạng của 308 người dân ở 13 bang của Mỹ.
Ngày 3/5/1999, một trận vòi rồng cấp độ F5 đã cướp đi sinh mạng của 40 người và phá
hủy hàng nghìn ngôi nhà, gây thiệt hại hơn 1 tỷ USD khi tấn công thị trấn Moore.
Vòi rồng cao chục mét trên biển Khánh Hòa ngày 10/5
4. Họa hoạn:
Hỏa hoạn là hiểm họa do lửa gây ra. Hỏa hoạn là thuật ngữ để chỉ một đám cháy lớn
thiêu đốt phá hủy tài sản (cháy nhà và công trình xây dựng), đe dọa đến sức khỏe và
cuộc sống của con người, sự sống động vật và thiêu đốt thảm thực vật (cháy rừng). Một
trận hỏa hoạn có thể do tự nhiên gây ra bởi thiên tai (như núi lửa phun, sét đánh gây
cháy rừng; động đất gây chập điện, nổ khí ga), hay do con người vô tình hay cố ý tạo ra
(đốt cháy).
Một trường hợp cháy rừng đáng chú ý là trận cháy rừng Victoria năm 2009 tại
Australia.
Hình ảnh từ vệ tinh MODIS Aqua về đám cháy tại đông Victoria vào buổi trưa 7 tháng 2. Lúc 8 giờ, khói
từ đám cháy đã bay sang tận New Zealand
Các loại bệnh khác lan truyền chậm hơn, nhưng vận bị WHO coi là các nguy cơ sức
khoẻ toàn cầu gồm:
- XDR TB, một dòng bệnh lao có khả năng kháng thuốc rất mạnh
- Sốt rét, giết hại ước tính 1.5 triệu người mỗi năm
- Sốt xuất huyết Ebola, đã làm thiệt mạng hàng trăm người ở châu Phi trong
nhiều lần bùng phát
6. Vũ trụ:
6.1. Lóe bùng tia Gamma:
Trong thiên văn học, chớp tia gamma, vụ nổ tia gamma hay bùng phát tia gamma
(GRB) là những vụ nổ có năng lượng cực lớn được phát hiện xảy ra ở các thiên hà rất
xa. Chúng là các sự kiện phát ra bức xạ điện từ sáng nhất được biết đến trong vũ trụ.
Chớp diễn ra trong khoảng từ vài mili giây cho đến vài giờ.
Chớp tia gamma được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1967 bởi các vệ tinh quân sự
Vela, với mục đích thiết kế nhằm phát hiện các vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân trong bầu
khí quyển. Sau phát hiện này, hàng trăm mô hình lý thuyết được đề xuất nhằm giải thích
các bùng phát này, như sự va chạm của sao chổi và sao neutron.
6.2. Các sự kiện va chạm:
Sự kiện va chạm là sự va chạm giữa các thiên thể gây ra những ảnh hưởng có thể đo
lường được. Sự kiện va chạm có hậu quả vật lý và đã được tìm thấy thường xuyên xảy
ra trong các hệ hành tinh, mặc dù thường xuyên nhất liên quan đến các tiểu hành tinh,
sao chổi hoặc thiên thạch và có tác động rất nhỏ. Khi các vật thể lớn va chạm vào các
hành tinh đất đá như Trái Đất, có thể có những hậu quả vật lý và sinh học quan trọng,
mặc dù bầu khí quyển giảm thiểu nhiều tác động bề mặt thông qua quá trình xâm nhập
vào khí quyển.
Một trong những sự kiện va chạm lớn nhất thời hiện đại là sự kiện Tunguska tháng 6
năm 1908.
Sự kiện Tunguska là một vụ nổ xảy ra tại tọa độ 60°55′B 101°57′Đ, gần sông
Podkamennaya Tunguska ở vùng tự trị Evenk, Siberi thuộc Nga hiện nay, lúc 7:17 sáng
ngày 30 tháng 6 năm 1908. Thỉnh thoảng sự kiện này được gọi là Vụ nổ lớn Siberi.
Có thể sự kiện đã được gây ra bởi vụ nổ trên không của một tiểu hành tinh hay sao
chổi từ khoảng cách 5 đến 10 kilômét (3–6 dặm) trên bề mặt Trái Đất. Năng lượng của
vụ nổ sau này được ước tính trong khoảng 10 đến 20 triệu tấn TNT, tương đương với
Castle Bravo, Vũ khí hạt nhân mạnh nhất của Hoa Kỳ. Vụ nổ đã làm đổ khoảng 60 triệu
cây trên diện tích 2.150 kilômét vuông (830 dặm vuông).
Cây đổ rạp do thiên thạch Tunguska sau sự kiện Tunguska tháng 6 năm 1908.
- Bão Mặt Trời phá hủy hệ thống điện và mạng điện thoại
Vào tháng 3/1989, bão Mặt trời đã khiến hệ thống điện ở Canada bị lỗi khiến 6 triệu
người phải sống trong bóng tối suốt 9 tiếng. Trận bão Mặt trời này cũng khiến hệ
thống điện thoại đường dài xuyên qua vài bang của nước Mỹ cũng đã bị tàn phá
nặng nề.
- Sự kiện Carringon
Năm 1859, sự kiện Carrington (Carrington Event) là trận bão Mặt Trời được ghi chép
lần đầu tiên trên thế giới và đây cũng là trận bão Mặt Trời được ghi nhận lớn nhất trong
suốt 500 năm.
Cơn bão Mặt Trời này đã gây ra một vài gián đoạn trong liên lạc điện báo toàn cầu và
những màn cực quang rực rỡ kéo dài tới tận những miền xa phía Nam như vùng Caribe.
- Bão Giáng Sinh năm 2006
Một trận bão Mặt Trời cấp X9 đã khiến thiết bị chụp ảnh của vệ tinh GOES 13 bị hư hại
và làm gián đoạn việc liên lạc giữa vệ tinh, mặt đất và tín hiệu GPS trong suốt 10 phút.
Chương 2: Các tác động của thảm họa tự nhiên đến thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng:
I. Tình chung của thế giới:
Trên thế giới, trong những năm gần đây do tác động của biến đổi khí hậu nên thiên tai
cũng vô cùng khắc nghiệt, như đợt mưa tuyết bất thường tại Mỹ, Canada, Nga và nhiều
nước châu Âu trong tháng 02 năm 2021; mức nhiệt trung bình toàn cầu giai đoạn 5 năm
2016-2020 là giai đoạn nóng nhất trong lịch sử; Greenland mất một lượng băng kỷ lục lên
tới 532 tỷ tấn vào năm 2019, tính trung bình mỗi phút có 1 triệu tấn băng tan (tương
đương 400 hồ bơi băng cỡ Olympic); tại Verkhoyansk thuộc vùng Bắc Cực của Siberia,
nhiệt độ quan trắc được đến 380C vào ngày 20 tháng 6 năm 2020, đây là giá trị nhiệt độ
chưa bao giờ có trong lịch sử ở Bắc Cực. Mùa hè năm 2020, mưa, lũ lớn tại Trung Quốc,
Nhật Bản và Hàn Quốc khiến hơn 300 người chết, thiệt hại ước tính trên 10 tỷ USD.
III. Các ảnh hưởng của thảm họa tự nhiên đến môi trường:
Các thảm họa tự nhiên như bão, lũ lụt, song thần, động đất, núi lửa phun trào, cháy
rừng,… đã gây ra rất nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường trên hành tinh của
chúng ta.
- Đất đai bị suy thoái gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của con người và các loài vật
khác
- Sự biến đổi khí hậu, cạn kiệt nguồn năng lượng và hiệu ứng nhà kính đang đe doạ
đến sự sống còn của toàn nhân loại
- Giảm tính đa dạng động thực vật, do bị mất nguồn thức ăn và môi trường sống khiến
một số loài có nguy cơ tuyệt chủng
- Băng tan làm diện tích mặt biển và đại dương sẽ tăng quá mức
- Không khí, nước, đất,… bị ô nhiễm nặng nề do các hoạt động tự nhiên của động đât,
núi lửa, sóng thần,… gây ảnh hưởng trầm trọng đến sức khỏe và cuộc sống của con
người và các sinh vật khác trên Trái Đất
-Lỗ thủng tầng ozon ngày càng rộng ra ở vùng cực làm cường độ bức xạ tử ngoại
tăng, gây ung thư da và các bệnh khác
Ảnh hưởng của thảm họa tự nhiên đến môi trường ở Trái Đất
IV. Số lượng thảm họa thiên nhiên tăng gấp 5 lần trong 50 năm qua:
Kết luận trên vừa được Cơ quan Khí tượng Thế giới (WMO) của Liên Hợp Quốc nêu ra
trong bản báo cáo mới nhất.
Lũ lụt xảy ra thường xuyên ở nhiều nơi trên thế giới, gây thiệt hại lớn về người và tài sản.
Khoảng 11.000 thảm họa tự nhiên đã được ghi nhận trong thời gian từ năm 1970 đến năm
2019, gây tổn thất 3,6 nghìn tỷ USD và cướp đi sinh mạng của khoảng 2 triệu người.
Trong số 77 thảm họa thời tiết được ghi nhận từ 2015-2017, có tới 62 sự kiện cho thấy có
ảnh hưởng lớn của con người.
Tổng thư ký WMO Petteri Taalas cảnh báo, khi thế giới tiếp tục ấm lên, số lượng thảm
họa sẽ tăng lên theo. “Điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ phải hứng chịu thêm nhiều đợt
nắng nóng, hạn hán và cháy rừng như những gì chúng ta đã từng thấy ở châu Âu và Bắc
Mỹ trong thời gian gần đây”, ông giải thích. “Chúng ta có nhiều hơi nước hơn trong khí
quyển, khiến những trận mưa lũ chết chóc trở nên trầm trọng hơn”.
Báo cáo được WMO đưa ra trong bối cảnh đang có rất nhiều báo động về tình trạng biến
đổi khí hậu. Thời tiết khắc nghiệt đã tác động mạnh đến các cộng đồng từ Tây Bắc Thái
Bình Dương đến Siberia và Trung Quốc. Báo cáo do cơ quan khí hậu của Liên Hợp Quốc
công bố hồi tháng 8 cho thấy, hiện tượng ấm lên trên toàn cầu đang tăng nhanh và các
hoạt động của con người là nguyên nhân lớn nhất gây ra điều này.
Cuộc khủng hoảng thực sự
Hôm 6/9, hơn 200 tạp chí y tế và sức khỏe trên thế giới đã đưa ra một tuyên bố chung
chưa từng có, trong đó cho rằng cuộc khủng hoảng y tế lớn nhất mà nhân loại phải đối
mặt chính là biến đổi khí hậu chứ không phải đại dịch. Hai thảm họa thời tiết khắc nghiệt
chết chóc nhất là vụ hạn hán ở Ethiopia năm 1983 và trận lốc xoáy năm 1970 ở
Bangladesh. Mỗi sự kiện đã khiến 300.000 người thiệt mạng.
Mỹ là nước phải gánh chịu thiệt hại kinh tế lớn nhất do các thảm họa thời tiết. Năm vụ
việc gây tổn thất lớn nhất toàn cầu đều nằm trong danh sách những cơn bão đổ bộ vào
Mỹ trong hai thập niên qua. Đứng đầu là siêu bão Katrina năm 2005, gây thiệt hại 164 tỷ
USD và làm hơn 1.800 người tử vong. Các trận bão đứng ở vị trí thứ 2, 3, 4 đều xảy ra
vào năm 2017, lần lượt là Harvey, Maria và Irma.
Tần suất xảy ra các thảm họa tự nhiên ngày càng dày và mức độ ảnh hưởng của chúng
ngày một nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, điều may mắn là số người thiệt mạng do tác nhân
này gây ra đã giảm đi gần 3 lần trong 5 thập niên qua. Điều đó có được là nhờ những tiến
bộ lớn mà các nước đã đạt được trong hệ thống cảnh báo sớm và quản lý thiên tai.
Số thảm họa tự nhiên được ghi nhận từ năm 1900 đến 2019, bao gồm hạn hán, lũ lụt, thời tiết cực đoan, lở
đất, cháy rừng, hoạt động của núi lửa và động đất… Biểu đồ: Our World in Data
Theo báo cáo, trong thập niên 1970, trung bình mỗi năm có 50.000 người thiệt mạng vì
các thảm họa liên quan đến thời tiết. Đến thập niên 2010, con số này ở mức dưới 20.000.
Dẫu vậy, vẫn còn rất nhiều chỗ trống cần phải cải thiện. Hàng chục quốc gia trong thế
giới đang phát triển vẫn chưa có các hệ thống cảnh báo sớm, trong khi mạng lưới thu thập
dữ liệu trên khắp châu Phi, Mỹ Latin và vùng Caribe vẫn tồn tại vô số lỗ hổng lớn. Thực
trạng này khiến cho việc chuẩn bị phòng chống thảm họa trong tương lai thêm khó khăn
và khiến nguy cơ thương vong tăng lên.
Thiệt hại ngoài sức tưởng tượng
Biến đổi khí hậu có nguy cơ khiến cho một số khu vực trên thế giới trở thành nơi không
thể sinh sống. Theo Mami Mizutori, một quan chức của Liên Hợp Quốc phụ trách Văn
phòng Giảm thiểu Rủi ro Thiên tai, dù thế giới hiện nay được trang bị tốt hơn để ngăn
ngừa tử vong, song sự gia tăng dân số cùng với tần suất ngày càng nhiều của các hiện
tượng thời tiết cực đoan đã làm bùng nổ cuộc khủng hoảng di dời.
"Cần phải hợp tác quốc tế nhiều hơn nữa thì mới giải quyết được vấn đề kinh niên về số
lượng lớn người phải di dời mỗi năm do bão lụt và hạn hán. Chúng ta cần đầu tư nhiều
hơn vào quản lý rủi ro thiên tai toàn diện, để đảm bảo việc thích ứng với biến đổi khí hậu
được tích hợp trong các chiến lược giảm nhẹ rủi ro thiên tai của quốc gia và địa phương",
bà Mami Mizutori kêu gọi.
Năm ngoái, Viện Kinh tế và Hòa bình (ở Sydney, Australia) ước tính 1,2 tỷ người có
nguy cơ phải di dời do biến đổi khí hậu vào năm 2050.
Thời điểm WMO tung ra báo cáo trùng với thời điểm các hiện tượng thời tiết cực đoan
đang chiếm sóng các bản tin thời sự trên khắp toàn cầu. Tại Mỹ, bão ‘quái vật’ Ida đang
gây ra những thiệt hại khủng khiếp. Cơn bão đã cướp đi mạng sống của hơn 60 người. Ở
miền tây nước Mỹ, những vụ cháy rừng xảy ra thường xuyên, và phần lớn khu vực đang
phải vật lộn với tình trạng hạn hán.
Còn tại Australia, khu vực Nam Âu, phía Bắc lục địa Á-Âu, một phần của châu Mỹ và
các khu rừng nhiệt đới ở châu Phi, cảnh nắng nóng, hạn hán và cháy rừng diễn ra đồng
thời đang ngày càng phổ biến hơn.
Khung cảnh hồ Nhật Nguyệt ở đảo Đài Loan khi bị hạn hán