Professional Documents
Culture Documents
ĐỀ CƯƠNG VĂN 8 KÌ II NĂM HỌC 2021 2022
ĐỀ CƯƠNG VĂN 8 KÌ II NĂM HỌC 2021 2022
ĐỀ CƯƠNG VĂN 8 KÌ II NĂM HỌC 2021 2022
1. Quê hương.
2. Khi con tu hú.
3. Chiếu dời đô.
+ Thể thơ
-Câu phân loại theo mục đích nói: Câu cầu khiến, câu nghi vấn, câu cảm thán, câu
trần thuật.
- Cảm thụ bức tranh vào hè qua sáu câu thơ đầu.
Mở đoạn:
Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ “Khi con tu hú”.
Nhà thơ Tố Hữu là một người có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với nền văn học
Việt Nam.
+ “Khi con tu hú” được ông viết trong tù, hoàn cảnh ngục tù ngột ngạt, xiềng xích
nhưng không thể trói buộc tâm hồn lạc quan và khao khát tự do của Tố Hữu.
2. Thân đoạn:
- Giới thiệu sáu câu thơ đầu: Đó là một bức tranh hiện thực được mở ra bằng sự
lắng nghe hiện tại và hồi tưởng quá khứ
- Dấu hiệu thiên nhiên vào hè:
+ Tiếng tu hú gọi bầy là mùa hè đã đến, lùa mùa màng đang tới và trái cây chín
muồi, hoàn toàn theo quy luật của tự nhiên, tiếng chim gọi bầy như đang gọi mùa,
mang đến sự náo nức, xôn xao trong đất trời và cả trong lòng người
- Hồi tưởng của tác giả về mùa hè:
+ Mùa hè hiện lên rất sinh động và tươi đẹp, màu vàng của lúa, màu của trái cây
cùng với âm thanh rộn ràng của tiếng ve ngân lên đón chào mùa hè.
+ Trong chốn tù ngục, nhà thơ nhớ về tiếng ve, hình ảnh sân bắp phơi đầy, thèm
muốn một cuộc sống thường nhật, bình thường như bên ngoài
- Khát vọng tự do của tác giả: mang trong mình tâm hồn yêu thiên nhiên, khao khát
được sống trong thiên nhiên đã giúp cho nhà thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên
mùa hè trong trẻo, tươi mới và đầy màu sắc, âm thanh như thế
3. Kết đoạn:
Ý nghĩa sáu câu thơ đầu bài thơ “Khi con tu hú”: Chỉ với sáu câu thơ đầu bài thơ
“Khi con tu hú”, nhà thơ Tố Hữu đã làm hiện lên một khung cảnh thiên nhiên yên
bình đặc trưng của làng quê Việt Nam. Bức tranh thiên nhiên mùa hè trong tâm
hồn nhà thơ đã phản ánh khát vọng tự do cháy bỏng của tác giả trong chốn lao tù.
+ Về địa lí: trung tâm của đất trời, mở ra 4 phương, vừa có sông vừa có núi, đất
rộng mà bằng phẳng, cao mà thoáng, tránh được lụt lội, chật chội.
-rộng_bằng, cao_thoáng
-dân...tốt tươi
Với tầm nhìn xa rộng, vượt thời đại của một vị vua Đại Việt hơn nghìn năm trước,
ông đã chọn Đại La làm kinh đô để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kì
cho muôn đời sau. Bằng lí lẽ thuyết phuc, nhà vua đã cho thấy Đại La là mảnh đất
hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi về địa lí, văn hóa, đầu mối giao lưu kinh tế và điều
kiện sống của dân cư. Về vị trí địa lí, đây là mảnh đất ở vị trí trung tâm của đất
nước, có thế rồng cuộn hổ ngồi, được coi là thế đất đẹp và sẽ phát triển thịnh
vượng. Địa hình đa dạng có núi có sông, đất đai vừa bằng phẳng thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp, vừa có địa thế cao và khoáng đạt, mở ra bốn hướng nam, bắc,
đông, tây. Thé đất đó rộng rãi, khoáng đạt, tiện cho việc phát triển lâu dài của quốc
gia và cũng tránh được cho dân ta khỏi cảnh lũ lụt tàn phá hàng năm. Bởi vậy, nhà
vua đã khẳng định: Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Tác giả gọi Đại
La là thánh địa của đất Việt bởi lẽ ông đã nhận ra nơi đây là đất tốt, đất lành, có thể
đem nhiều lợi ích, đồng thời ông tiên đoán Đại La sẽ là chốn tụ hội trọng yếu, cũng
là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời. Nhận xét về kinh đô Thăng Long,
sử gia Ngô Sĩ Liên cũng viết: “Núi là vạt áo che, sông là dải đai đắt, sau lưng là
sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiểm, rộng mà dài, có thể là
nơi vua ở hùng trắng, ngôi báu vũng bền, hình thể Việt Nam không nơi nào hơn
được nơi này”. Với những lí lẽ thuyết phục về việc lựa chọn nơi đóng đô mới,
Chiếu dời đô của vua Lí Thái Tổ đã nhân được sự ủng hộ của cả dân tộc, để giờ
đây chúng ta có mảnh đất thủ đô ngàn năm văn hiến và phát triển phồn vinh.