Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 26

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II TẠI TP.HCM


********************

BÁO CÁO GIỮA KỲ


Môn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học

PHÂN TÍCH XU HƯỚNG TẤT YẾU VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA
HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA VÀ VẬN DỤNG VÀO
ĐIỀU KIỆN CỦA VIỆT NAM

Sinh viên thực hiện: Lê Nguyễn Phương Nhi 2011116507

Lê Nguyễn Hoàng Nhi 2011116506

Nguyễn Thị Kim Ngân 2011116482

Nguyễn Thanh Ngân 2011116480

Phạm Quỳnh Như 2011116523

Trang Hải Long 2011116446

Đặng Kiên Bình 2011116322

Nguyễn Diệu Linh 2011116434

Giảng viên bộ môn: Th.S. Giang Thị Trúc Mai

Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh quốc tế

Khóa - lớp: K59A Nhóm: 5

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 11 năm 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1

I. Lý luận chung về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.................................2

1. Khái quát chung về hình thái kinh tế - xã hội.....................................................2

1.1. Cấu trúc cơ bản hình thái kinh tế xã hội...........................................................2

1.2. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội................................3

2. Xu hướng tất yếu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.....................4

3. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa...........5

3.1. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH....................................................................5

3.2. Giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa (giai đoạn thấp)...........................................7

3.3. Giai đoạn xã hội cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn cao)........................................8

II. Vận dụng lý thuyết hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa vào điều kiện của

Việt Nam................................................................................................................. 9

1. Bối cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam trong thế kỷ XIX......................................9

2. Sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam trong nỗ lực xây dựng CNXH cho đến nay.......12

2.1. Những đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam...........................12

2.2. Những thành tựu từ thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa (thời kỳ đổi mới) ở

Việt Nam cho đến nay...........................................................................................16

2.3. Những hạn chế trong quá trình xây dựng XHCN của Việt Nam......................19

3. Nhận thức về sứ mệnh quan trọng của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam

cũng như vận dụng vào thực tiễn của sinh viên..................................................20

THAM KHẢO.......................................................................................................... 22
LỜI MỞ ĐẦU
 Lý luận hình thái kinh tế - xã hội do Mác - Ăngghen phát hiện ra vào những năm

40 của thế kỷ 19 được xây dựng nên nhằm mục đích tìm hiểu quy luật chung nhất về
sự vận động và phát triển của loài người. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần
đầu tiên trong lịch sử loài người, C.Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội
tại của sự phát triển xã hội, bản chất của từng chế độ xã hội, nghiên cứu về cấu trúc cơ
bản của xã hội, cho phép phân tích đời sống hết sức phức tạp của xã hội để chỉ ra các
mối quan hệ biện chứng giữa các lĩnh vực cơ bản của nó, chỉ ra quy luật vận động và
phát triển của nó như một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Trong nhiều năm trước đây, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa
Mác không những không được bổ sung, phát triển cho phù hợp với sự phát triển, biến
đổi của thực tiễn mà lại được giải thích một cách máy móc, giáo điều và được áp dụng
một cách dập khuôn máy móc là cho Chủ nghĩa Xã hội hiện thực ở nhiều nước bị biến
dạng, dẫn đến khủng hoảng, tan rã. Họ cho rằng với sự vận động, phát triển ngày một
đổi thay của thế giới, lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, lạc hậu. Điều đó dẫn
đến một nhu cầu cấp thiết về việc cần tìm ra một lý luận mới, hiện đại hơn, mang tính
thực tiễn cao hơn. Chính vì vậy việc làm rõ thực chất lý luận hình thái kinh tế - xã hội,
giá trị khoa học và tính thời đại của nó đang là một đòi hỏi cấp thiết.
Về thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo hướng
chủ nghĩa xã hội tại Đại hội Đảng cộng sản toàn quốc lần thứ XI và góp phần xây
dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do dân làm chủ, nền
kinh tế phát triển cao, xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng là một
nhiệm vụ đang được đề ra hiện nay. Chính vì những lý do trên việc nghiên cứu đề tài:
“Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
” có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.

1
I. Lý luận chung về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
1. Khái quát chung về hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo đó sử
dụng để chỉ xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nào đó, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng của xã hội đó, phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây dựng ở trên quan hệ sản xuất đó. Trong từng giai đoạn phát
triển nhất định thì giai đoạn đó luôn tồn tại những mặt đối lập, lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, lực lượng lao động sinh hoạt sẽ khác nhau và phong tục tập quán của mỗi nước trên
thế giới cũng khác nhau.
1.1. Cấu trúc cơ bản hình thái kinh tế xã hội
Xã hội không phải là tổng hợp của các sự kiện, hiện tượng rời rạc hay những cá nhân
riêng lẻ mà nó chính là một chính thể trọn vẹn mang cấu trúc phức tạp. Trong đó cơ bản nhất
là quan hệ sản xuất, lực lượng lao động và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt lại đóng vai trò
nhất định, tác động lên các mặt khác để tạo nên sự vận động xã hội.
* Lực lượng sản xuất
Trong đời sống thường nhật có một điều tất yếu mà xã hội nào cũng cần phải có dó là
sản xuất vật chất. Công việc sản xuất vật chất nắm giữ vai trò lớn trong cuộc sống con người,
là quá trình mà họ dùng công cụ lao động tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất cho
đời sống xã hội. Quá trình hoạt động này có mục đích để cải biến vật liệu tự nhiên, làm cho
nó thích hợp với nhu cầu con người. Đặc biệt sản xuất vật chất thực hiện trong lao động khiến
mỗi người liên kết với nhau, lực lượng sản xuất sinh ra từ đó.
Bởi lẽ bằng bàn tay và khối óc của con người và sự nhiệt tình ở trong nghiên cứu khoa
học đã sáng tạo nên tư liệu sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ là sự phát
triển của nhiều yếu tố hợp thành nó, trong đó có sự phát triển trình độ văn hóa, kỹ năng của
người lao động. Và suy cho cùng lực lượng sản xuất ảnh hưởng lớn đến toàn bộ bình diện của
nền kinh tế. Loài người cùng xây dựng lực lượng sản xuất cho mình dựa vào các tiền độ do
những thế hiện trước để lại, kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
* Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là các quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Nó
mang tính khách quan vì là quan hệ cơ bản quyết định mọi quan hệ xã hội khác của con
người. Đặc biệt quan hệ sản xuất chính là tiêu chí quan trọng để phần hình thái kinh tế - xã
hội này có liên quan với hình thái kinh tế - xã hội khác, quan hệ xã hội được hình thành, biến
đổi phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong đó quan hệ sản xuất sẽ được biểu hiện
bởi 3 mặt chính: quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý xã hội, quan hệ phân phối sản phẩm.
* Kiến trúc thượng tầng
2
Kiến trúc thượng tầng được hình thành, phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng của thời
đại. Tuy nhiên nó chỉ là công cụ để duy trì, bảo vệ và phát triển phần cơ sở hạ tầng đã sinh ra
nó. Theo Mác - Lênin thì trong xã hội giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai
cấp. Trong đó Nhà nước sở hữu vai trò đặc biệt quan trọng, tiêu biểu cho chế độ chính trị xã
hội nhất định. Nhờ có Nhà nước mà giai cấp thống trị mới có thể thực hiện đầy đủ sự thống trị
của mình ở tất cả mọi mặt trong đời sống.
Theo như chủ nghĩa Mác - Lênin thì trong lịch sử loài người để diễn ra tuần tự 5 hình
thái kinh tế - xã hội chính đặc biệt nhất, được sắp xếp từ thấp đến cao như sau:
- Hình thái KT - XH của công xã nguyên thủy (hay cộng sản nguyên thủy);
- Hình thái KT - XH của chiếm hữu nô lệ (giai đoạn này thì giai cấp chủ nô sẽ mang sứ mệnh
lịch sử chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội của công xã nguyên thủy lên chiếm hữu nô lệ) gồm
nông nô và chủ nô;
- Hình thái KT - XH giai cấp phong kiến gồm nông dân và địa chỉ;
- Hình thái KT - XH giai cấp tư sản gồm tiểu tư sản và tri thức;
- Hình thái KT - XH của cộng sản chủ nghĩa (hay giai cấp công nhân).
1.2. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Trước C.Mác, chủ nghĩa duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Với sự ra
đời lịch sử của chủ nghĩa duy vật cùng với hạt nhân là lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã
cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.
Đầu tiên, lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra rằng, sản xuất vật chất chính là cơ sở
của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và
cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung. Vì
vậy, không thể xuất phát từ ý thức thuần túy, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con người
để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng
phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất
của xã hội mà cốt lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.
Thứ hai, xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá
nhân, mà là một thể sống động. Trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, các phương
diện của đời sống xã hội tồn tại, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai
trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để
phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải
xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện
khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học,...) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn
nhau giữa chúng.

3
Thứ ba, sự vận động, phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá
trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy
muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quá những vấn đề của đời sống xã hội thì
phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội.
Những giá trị khoa học trên đây của lý luận hình thái kinh tế - xã hội là những giá trị về
mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại, lịch sử
các cộng đồng người, nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong các quá
trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội.
2. Xu hướng tất yếu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời kỳ rất dài của lịch sử
trước khi có sự phân chia giai cấp, xã hội loài người không có áp bức, bóc lột, đấu tranh.
Tuy nhiên, từ khi xuất hiện giai cấp, nhà nước xuất hiện, chế độ người áp bức bóc lột
người cũng xuất hiện và từ đó dẫn đến những cuộc đấu tranh phản kháng của những người nô
lệ chống lại giai cấp chủ nô (từ khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên đến khoảng thế kỷ
III sau Công nguyên).
Chế độ chiếm hữu nô lệ tan rã, lịch sử loài người chuyển sang chế độ phong kiến (từ
khoảng thế kỷ thứ III sau Công nguyên đến khoảng thế kỷ XVIII). Mặc dù có nhiều tiến bộ so
với chế độ chiếm hữu nô lệ, nhưng tình trạng áp bức bóc lột không những không mất đi mà
ngày càng sâu sắc.
Cách mạng tư sản Hà Lan năm 1566 nổ ra là dấu hiệu cho sự xuất hiện của giai cấp tư
sản và chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự xuất hiện của giai cấp tư sản là niềm hy vọng lớn của nhân
loại trong sự nghiệp giải phóng con người.
Tuy nhiên, khi chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản với tư cách là giai
cấp thống trị đã thể hiện mọi thủ đoạn của các giai cấp bóc lột đã có trong lịch sử dưới vỏ bọc
và thủ đoạn tinh vi hơn. “Người công nhân ngày càng tạo ra nhiều hàng hóa, anh ta lại trở
thành một hàng hóa càng rẻ mạt. Thế giới vật phẩm càng tăng thêm giá trị thì thế giới con
người càng mất giá trị”. Trong xã hội tư bản, lao động của người công nhân không giúp họ
khẳng định mình mà ngược lại.
Khả năng chinh phục tự nhiên làm giảm dần sự lệ thuộc của con người vào vật, song
lại làm trầm trọng thêm sự lệ thuộc của người vào người, tạo nên quan hệ tha hóa người công
nhân khỏi giới tự nhiên, khỏi bản chất tộc loài - quan hệ tước đoạt và bị tước đoạt đối với kết
quả của lao động.
Khi nói về tính tất yếu ra đời chủ nghĩa xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Đối với
chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải
là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong

4
trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do
những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra”.
Lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản càng phát triển đến trình độ xã hội hóa cao
thì càng làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm
của quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Trong tác phẩm Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhận định: "Từ hàng chục năm nay, lịch
sử công nghiệp và thương nghiệp không phải là cái gì khác hơn là lịch sử cuộc nổi dậy của
lực lượng sản xuất hiện đại chống lại quan hệ sản xuất hiện đại".
Tính mâu thuẫn gay gắt trong lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa tư bản biểu hiện trên lĩnh
vực chính trị - xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với giai cấp tư
sản ngày càng trở nên quyết liệt.
Việc phủ định chế độ áp bức bóc lột trong chủ nghĩa tư bản nói riêng, xã hội loài
người nói chung là quá trình phủ định biện chứng để xã hội loài người quay trở về điểm xuất
phát ban đầu, nhưng ở trình độ cao hơn, theo mô hình: [xã hội cộng sản nguyên thuỷ (không
có áp bức, bóc lột) - xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản (xuất hiện áp bức, bóc lột, tha
hóa) là sự phủ định xã hội không áp bức bóc lột) - xã hội cộng sản chủ nghĩa (không có áp
bức, bóc lột - phủ định của phủ định)].
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ khi chủ
nghĩa tư bản hình thành ngày càng trở nên sâu sắc. Qua thực tiễn cuộc đấu tranh, giai cấp
công nhân đã nhận thức được rằng, muốn giành thắng lợi phải tiếp thu chủ nghĩa xã hội khoa
học, hình thành chính đảng của giai cấp mình. Khi đảng cộng sản ra đời, toàn bộ hoạt động
của nghĩa đều hướng vào lật đổ nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Việc thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động là sự mở đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Triển vọng của chủ nghĩa xã hội không chỉ do chủ nghĩa xã hội hiện thực quy định mà
còn do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản chuẩn bị những tiền đề trên nhiều mặt
của xã hội hiện đại.
Với ý nghĩa đó, “Chủ nghĩa cộng sản là hình thức tất yếu và là nguyên tắc kiên quyết
của tương lai sắp tới”.
3. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
3.1. Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
“Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong
mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội.”
5
* Trên lĩnh vực kinh tế:
Đặc điểm:
- Thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế
quốc dân thống nhất;
- Nó được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản
xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là
những hình thức phân phối khác nhau.
Nội dung:
- Nội dung cơ bản là thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã
hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát
triển cân đối của nền kinh tế.
* Trên lĩnh vực chính trị:
Đặc điểm:
- Kết cấu giai cấp xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng, phức lạp. Thời kỳ này có giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản;
- Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau;
- Trong một giai cấp, tầng lớp cùng có nhiều bộ phận có trình độ, có ý thức khác nhau.
Nội dung:
- Tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch;
- Tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững
mạnh;
- Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân
lao động;
- Xây dựng đảng cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của
mỗi thời kỳ lịch sử.
* Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa:
Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu
nông, V.I.Lênin cho rằng, tính tự phát tiểu tư sản là "kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy
hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại
các yếu tố văn hóa cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau. Vì vậy cần:
- Thực hiện tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công
nhân trong toàn xã hội;
- Xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa
trên thế giới.
* Trong lĩnh vực xã hội:
6
- Thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại;
- Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng.
Thực chất đây là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị
đánh bại, không còn là giai cấp thống trị cả những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai
cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Đồng thời nó mang lịch sử tất yếu, mang
những đặc điểm riêng à giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành các nội dung
đó.
3.2. Giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa (giai đoạn thấp)
- Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội nảy sinh với tư cách là một chế độ xã hội phủ định chế độ tư
bản chủ nghĩa, do vậy cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó phải là nền sản xuất đại công nghiệp có
trình độ cao hơn, phát triển lên từ tiền đề vật chất - kỹ thuật của nền đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa, có trình độ cao hơn;
- Thứ hai, chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ
sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất;
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, giai cấp vô sản phải từng bước đoạt lấy tư liệu sản xuất
từ trong tay giai cấp tư sản, tập trung những tư liệu ấy vào trong tay nhà nước để phục vụ
cho toàn xã hội. Do vậy, chỉ đến xã hội xã hội chủ nghĩa thì quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa mới được xác lập đầy đủ.
Tới thời kỳ này, tư liệu sản xuất còn tồn tại dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể; người lao động làm chủ các tư liệu sản xuất của xã hội, do đó không còn tình
trạng người bóc lột người.
- Thứ ba, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội tạo ra được cách tổ chức lao động và
kỷ luật lao động mới;
Khi đạt tới xã hội xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa, không
còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, do vậy đã tạo điều kiện cho người lao động kết hợp hài
hòa giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội.
Vì là nền đại công nghiệp ở trình độ phát triển cao, do vậy đòi hỏi một kỷ luật lao
động chặt chẽ trong từng khâu, từng lĩnh vực, trong sản xuất của toàn xã hội theo những quy
định chung của luật pháp.
C.Mác Ph.Ăngghen và V.I.Lênin cho rằng:”Lao động được tổ chức có kế hoạch, trên
tinh thần tự giác, tự nguyện là đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên, để có
một kiểu tổ chức lao động kỷ luật và tự giác cao như vậy, một mặt đòi hỏi phải đẩy mạnh
hoạt động tuyên truyền, vận động, mặt khác phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục tư
tưởng, tác phong của người sản xuất nhỏ.”

7
- Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động, coi đó là nguyên tắc cơ bản nhất;
Mỗi người lao động sẽ nhận được từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng có giá trị
tương đương với số lượng, chất lượng, hiệu quả lao động mà họ đã tạo ra cho xã hội.
Ngoài ra, người lao động còn được phân phối theo phúc lợi xã hội. Bằng thu thuế,
những đóng góp khác của xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa xây dựng trường học, bệnh viện,
công viên, đường giao thông.
- Thứ năm, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà ở đó nhà nước mang bản chất giai cấp
công nhân, có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc;
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là cơ quan quyền lực tập trung của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động
Giai cấp công nhân là người đại diện chân chính cho dân tộc, có những lợi ích cơ bản
thống nhất với lợi ích của dân tộc. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải đoàn kết được các dân tộc,
tạo nên sự bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc cả trên cơ sở pháp lý và trong thực tiễn
cuộc sống, đấu tranh bảo vệ những lợi ích chân chính của dân tộc, không ngừng phát huy
những giá trị của dân tộc, nâng chúng lên ngang tầng với yêu cầu của thời đại.
- Thứ sáu, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con người
khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển
toàn diện.
Tuy nhiên, do giới hạn phát triển của những điều kiện khách quan, sự bình đẳng trong
chủ nghĩa xã hội vẫn chưa đạt tới mức hoàn thiện như trong giai đoạn cao của xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
3.3. Giai đoạn xã hội cộng sản chủ nghĩa (giai đoạn cao)
Trên cơ sở nghiên cứu quá trình phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài người,
C.Mác đã có những dự báo về sự xuất hiện giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa (giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản).
* Về mặt kinh tế: Lực lượng sản xuất phát triển vô cùng mạnh mẽ của cải xã hội đã trở nên
dồi dào, ý thức con người được nâng lên, khoa học phát triển, lao động của con người được
giảm nhẹ, lúc đó nhân loại mới có thể thực hiện được nguyên tắc "làm theo năng lực, hưởng
theo nhu cầu"
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã dự báo: "Khi mà lao động trở
thành không những là một phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc
nhất của đời sống; khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản xuất của
họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào – chỉ khi
8
đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội
mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
* Về mặt xã hội: Trình độ xã hội ngày càng phát triển, con người có điều kiện phát triển năng
lực của mình, tri thức con người được nâng cao, không còn có sự khác biệt giữa thành thị và
nông thôn.
Theo V.I.Lênin. "khi bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn có giai cấp nữa (nghĩa
là giữa các thanh viên trong xã hội không còn có sự phân biệt nào nữa về những quan hệ của
họ đối với những tư liệu sản xuất xã hội), chỉ lúc đó "nhà nước mới không còn nữa và mới có
thế nói đến tự do". Chỉ lúc đó, một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự không hạn chế, mới
có thể có được và được thực hiện. Chỉ lúc đó, chế độ dân chủ mới bắt đầu tiêu vong vì lý do
đơn giản là một khi thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa, thoát khỏi những sự khủng
khiếp, những sự dã man... thì người ta sẽ dần dần quen với việc tôn trọng các quy tắc sơ thiểu
của đời sống chung trong xã hội".
* Đến giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhà nước trở thành không cần thiết,
nó tự tiêu vong. Sự tiêu vong của nhà nước là một quá trình.
Theo V.I.Lênin: "Chúng ta chỉ có quyền nói rằng nhà nước tất nhiên sẽ tiêu vong,
đồng thời nhấn mạnh vào tính chất lâu dài của quá trình ấy, sự phụ thuộc của quá trình ấy
vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản": rằng "không một người xã
hội chủ nghĩa nào lại đi "hứa" rằng giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản sẽ đến"' mà chỉ
"dự kiến giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản sẽ đến, thì việc đó giá định rằng năng suất lao
động lúc đó sẽ khác năng suất lao động ngày nay và sẽ không còn con người tầm thường
ngày nay nữa". Tới khi đó không còn tình trạng con người suy bì "khéo không lại làm nhiều
hơn anh bạn bên cạnh ta nửa giờ, khéo không lại lĩnh lương ít hơn anh ta".
Như vậy, tới giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, con
người sẽ được giải phóng hoàn toàn và được phát triển một cách thực sự toàn diện. Khi đó,
nhân loại có thể chuyển từ "vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do", có điều kiện
phát triển toàn diện năng lực, mang hết tài năng và trí tuệ cống hiến cho xã hội.
Để có giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, đòi hỏi giai cấp công nhân và nhân dân
lao động phải nỗ lực phấn đấu, phải không ngừng nâng cao năng suật lao động, phát triển lực
lượng sản xuất, cải tạo quan hệ sản xuất lao động, phát triển xã hội, không ngừng nâng cao ý
thức của con người, phải kiểm soát nghiêm ngặt mức độ lao động và tiêu dùng. Có thực hiện
như vậy mới từng bước xây dựng được kỷ luật tự giác trong xã hội, từng bước xây dựng đuợc
thói quen tự nguyện tuân thủ những quy định trong dân cư.
II. Vận dụng lý thuyết hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa vào điều kiện của Việt
Nam
9
1. Bối cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam trong thế kỷ XIX
* Vào thời Nguyễn, tình hình xã hội và tình hình kinh tế gặp rất nhiều bất ổn
- Tình hình kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp
Ở thời kỳ này, cuộc sống của nông dân và các tầng lớp lao động khác vẫn nghèo đói
khốn khó. Nền kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa vượt ra khỏi phương thức sản xuất
cổ truyền với các nông cụ thô sơ, sức kéo đơn giản lại thiếu thốn. Hầu hết ruộng đất tư đều tập
trung chủ yếu vào tay giai cấp địa chủ Sau này, tuy vua Minh Mệnh đã cho phép các làng xã
được tuỳ theo tục lệ chia đều cho dân, nhưng vẫn ưu tiên cho bọn quan lại, quân lính, nên
người nông dân chẳng còn được bao nhiêu. Hơn nữa, nạn vỡ đê liên tục xảy ra cũng gây nên
mất mùa, đói kém liên miên.
Mặc dù thủ công nghiệp và thương nghiệp trong nhân dân khá phát triển, nhưng vì
thiếu những chính sách khuyến khích và chủ trương "trọng nông, ức thương" của nhà nước đã
làm ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển tự do của thương nghiệp. Chính sách thuế khoá và thể
lệ kiểm soát nghiêm ngặt và phức tạp càng làm cản trở sự phát triển của nội, ngoại thương.
- Tình hình chính trị:
Nhà Nguyễn thực hiện chính sách cai trị chuyên chế: đàn áp nhân dân, cấm đạo Thiên
chúa. Quan lại tham nhũng, cường hào ức hiếp nhân dân
- Tình hình xã hội:
Mâu thuẫn giữa nông dân với Triều đình nhà Nguyễn ngày càng sâu sắc, chỉ trong nửa
đầu thế kỷ XIX, đã có 500 cuộc khởi nghĩa của nông dân diễn ra như khởi nghĩa do Phan Bá
Vành lãnh đạo nổ ra vào năm 1821 ờ Sơn Nam hạ mở rộng hoạt động ra các trấn Hải Dương,
An Quảng. Nông dân tham gia đông đảo. Các cuộc khởi nghĩa khác tuy đều phát triển hơn
những lần trước nhưng cuối cùng đều bị đàn áp. Có thể nói, lúc đó xã hội triều Nguyễn là một
xã hội đang lên “cơn sốt trầm trọng”
Nhà Nguyễn còn chịu trách nhiệm trong việc mất nước vì triều đình chọn con đường
thủ cựu, tăng nguy cơ bị xâm lược và mất nước.
* Vào thời Pháp thuộc:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị
ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
- Tình hình chính trị: Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực
đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến Nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ:
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp
câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với Nhân dân Việt Nam.

10
- Tình hình kinh tế: Thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập
đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường
giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
- Tình hình văn hóa: Pháp thực hiện chính sách ngu dân cho đến cách mạng tháng Tám
khiến 90% nhân dân mù chữ. Trong thời kỳ này xuất bản phẩm cũng được kiểm duyệt vô
cùng gắt gao, nội dung chủ yếu mang tính phản động, cấm lưu hành lưu trữ các tài liệu của
Mác- xít.
Trong hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, trong đó có 45 năm đầu thế kỷ XX, kinh
tế Việt Nam chìm đắm trong nghèo nàn và lạc hậu, nhân dân ta phải sống trong cảnh nô lệ và
đói nghèo cả về vật chất và tinh thần, 90% dân số mù chữ. Các ngành sản xuất vật chất là
nông nghiệp và công nghiệp chịu tác động nặng nề của chế độ thực dân kiểu cũ nên rất lạc
hậu. Trong nông nghiệp, thực dân Pháp tiếp tục duy trì kiểu bóc lột phong kiến bằng tô tức,
sưu cao thuế nặng. Người nông dân phải chịu cảnh một cổ hai tròng là thực dân và phong
kiến. Phần lớn ruộng đất tập trung vào tay bọn địa chủ và chủ đồn điền người Pháp. Dưới chế
độ thực dân nửa phong kiến, nền nông nghiệp nước ta hết sức nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc
hậu về kỹ thuật và hoàn toàn dựa vào lao động thủ công và phụ thuộc vào thiên nhiên. Hơn
nữa, về chính trị và xã hội, đa số người Việt thiếu trưởng thành về mặt chính trị do bị loại ra
khỏi đời sống chính trị quốc gia cùng chính sách ngu dân của người Pháp. Nhà vua mất vai
trò là người quyết định và giám sát tối cao mọi hoạt động nhà nước còn người Pháp không có
những biện pháp hữu hiệu chống tệ quan liêu, tham nhũng, cường hào ác bá.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân,
xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân
Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này
có sự phân hóa. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia
đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Giai cấp nông dân là lực
lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng
nề.
Ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa Nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và
phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời
sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể Nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu:
Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho Nhân
dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho Nhân dân, chủ yếu là ruộng
đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

11
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của Nhân dân ta
chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả.

* Tính tất yếu đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội:

Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, khi có nhiều cuộc phong trào cách mạng đứng lên
nhưng đều thất bại; từ phong trào yêu nước theo lập trường phong kiến, đến phong trào cứu
nước theo lập trường tư sản, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường
cứu nước. Trong hành trình đó, với những tìm tòi, trải nghiệm, đặc biệt là sự soi sáng của
cuộc cách mạng tháng Mười Nga, Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc - đó là
con đường cách mạng vô sản. Chỉ đến khi người truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam mới chấm dứt sự bế tắc về
đường lối cách mạng. Từ đó, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là việc xác định cách
mạng giải phóng dân tộc được đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản; là một bộ phận khăng
khít của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trước hết phải thực hiện được cách
mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Đây là
hai giai đoạn khác nhau của cách mạng, nhưng có quan hệ biện chứng thống nhất với nhau.
Bởi vì độc lập dân tộc là cơ sở để xây dựng chủ nghĩa xã hội; còn đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc, để thực hiện mục tiêu xây
dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam toàn dân tộc Việt Nam đã đứng lên
làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
bỏ qua chủ nghĩa tư bản, dựa trên 2 căn cứ:
- Một là, chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức, bóc lột bất
công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân;
- Hai là, thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại mới,
tạo khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH.
Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của XHCN,
không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong điều kiện cụ
thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN.
Con đường CNXH cho phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo
hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát triển xã hội theo
chiều hướng tiến bộ, tránh cho xã hội và nhân dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của xã

12
hội tư bản: chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với người. Xã hội mà
nhân dân ta quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân, có một nền kinh tế phát
triển dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
2. Sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam trong nỗ lực xây dựng CNXH cho đến nay
2.1. Những đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Mục tiêu và lý tưởng của Đảng và nhân dân Việt Nam là Chủ nghĩa xã hội, một hệ
thống mở chứ không đóng, động chứ không tĩnh. Vậy nên, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội từ ngày lập nước đến nay của Đảng và nhân dân ta là quá trình liên tục của việc tổng kết
thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hiện thực, vừa hoàn thiện
những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa về mặt lý luận của Đảng qua mười một kỳ đại hội.
Vậy nên, qua nhiều năm, nhiều kỳ đại hội, những đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam luôn thay đổi, bổ sung và phát triển mới để phù hợp với thời đại.
Trong thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1986, chúng ta chưa xác định được mô hình và
những đặc trưng cụ thể của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đến Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm,
nguyên nhân của hạn chế, yếu kém trong nhận thức về xã hội xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên
trong lịch sử, nhân dân ta đã xây dựng được mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa được Đảng ta
chỉ ra trong Cương lĩnh năm 1991, xác định xã hội xã hội chủ nghĩa gồm 6 đặc trưng như sau:
do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Có thể nói, những đặc
trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương lĩnh năm 1991 là những đặc trưng bản chất
để nhận biết về chủ nghĩa xã hội.
Đến Đại hội X, tổng kết hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã có nhận thức mới sâu sắc hơn
về bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định 8 đặc trưng cơ bản sau: dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự

13
lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế
giới.
Gần đây nhất, tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã nêu rõ các đặc trưng cơ bản của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như
sau:“Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Cụ thể về các đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay như sau:
* Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đây là đặc trưng bao quát nhất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam do nhân dân ta xây dựng
được, thể hiện được những giá trị xã hội cao cả nhất, và cũng chính là mục tiêu phấn đấu của
chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng này giúp phân biệt Chủ nghĩa xã hội so với các chế độ xã hội
trước đó. Tuy nhiên, việc xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” là quá trình vô cùng khó khăn, gian khổ và lâu dài. Để đạt được đặc trưng này, chỉ có
cách là toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực sáng tạo, chiếm lĩnh các đỉnh cao của xã hội.
* Do nhân dân làm chủ
Nhân dân làm chủ xã hội là đặc trưng quan trọng và quyết định nhất trong những đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng này không thể tách rời những yêu cầu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Có thể nói, nhờ vào vai trò của nhân dân đối với
nhà nước - dân là chủ, nên mới đạt được “dân giàu, nước mạnh”. “Dân chủ” trong đặc trưng
nêu trên chính là nền dân chủ của xã hội - xã hội vận hành theo chế độ và nguyên tắc dân chủ.
Với bản chất nêu trên, nó vừa là mục tiêu, lại vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
* Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp
Bởi vì kinh tế là lực lượng vật chất, nguồn sức mạnh nội tại của xã hội, nên một nền
kinh tế phát triển quyết định sự vững vàng và phát triển của xã hội, giúp xã hội giàu mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Đối với Việt Nam, nền kinh tế đó chỉ có thể phát triển dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại. Đảng ta đã tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, mà trước mắt là hoàn thiện thể chế của nó; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, nhằm xây dựng một lực lượng sản xuất hiện đại để
14
có một nền kinh tế phát triển cao - điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững xã hội xã hội
chủ nghĩa.
* Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Văn hóa là nguồn lực tinh thần bên trong của phát triển xã hội. Văn hóa là tinh hoa con
người và dân tộc, tinh hoa xã hội và thời đại. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
chúng ta cần kế thừa và phát huy những tinh hoa văn hóa tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa thời đại. Như vậy, văn hóa Việt Nam mới trở thành
nền văn hóa vừa tiên tiến, vừa đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã
hội, thúc đẩy xã hội phát triển.
* Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
Nhìn chung, mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội đều hướng đến con người. Con
người phải được tự do - tự do không chỉ bó hẹp trong nghĩa được giải phóng khỏi áp bức bóc
lột, nô dịch, kìm hãm về mặt xã hội mà được thăng hoa tiềm năng trí tuệ, tình cảm và năng
lực vốn có để có được sự phát triển toàn diện. Đặc trưng người nhất của khát vọng con người
là hạnh phúc. Phấn đấu đạt tới một xã hội bảo đảm hạnh phúc cho con người, đó là một xã hội
văn hóa cao.
* Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển
Đặc trưng này đòi hỏi những yếu tố thiết yếu cho sự tồn tại bền vững của xã hội lành
mạnh. “Bình đẳng” là một phẩm chất và giá trị nhân quyền thể hiện trình độ phát triển và chất
nhân văn cao của xã hội. “Đoàn kết” là sức mạnh - đó là một chân lý. Tôn trọng và giúp nhau
không chỉ là tình thương, lòng nhân đạo, mà thực sự là đòi hỏi, yêu cầu, trách nhiệm và điều
kiện thiết yếu cho sự phát triển của từng cá nhân, cộng đồng, dân tộc, giúp xã hội phát triển.
Đoàn kết toàn dân, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc là những nét đặc sắc của giá trị
xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
* Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý và điều hành đất nước và xã
hội bằng pháp luật thể hiện quyền lợi và ý chí của nhân dân; vì vậy, là nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Nhằm thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cần thiết có sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản vì đảng mang bản chất, lý tưởng, nội dung xã hội chủ nghĩa, là đảng thực
hiện mục tiêu và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
*Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới

15
Quan hệ hữu nghị và hợp tác chính là thể hiện bản chất hòa hảo, thiện chí và tạo điều
kiện cho các quốc gia hội nhập, tiếp thu những thành quả phát triển của nhau, tích lũy kinh
nghiệm và rút ngắn quá trình phát triển của mỗi nước. Đặc trưng này thể hiện bản chất cao
đẹp nhất của xã hội xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện được đặc trưng trên, Đảng ta vạch ra
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
2.2. Những thành tựu từ thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa (thời kỳ đổi mới) ở Việt Nam
cho đến nay
Qua nhiều năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đất nước
bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang
phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng
bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường.
Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay
đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng.
* Kinh tế
- Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở thành nước
đang phát triển có thu nhập trung bình
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng. Nếu
như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm
chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; các
giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân
6,8%. Mặc dù năm 2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc
độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới
với mức tăng trưởng dương. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống nhân dân
cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới
đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên tục được
cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Năm 2020, trong
bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà đầu tư với
tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng
điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước; phát triển các khu kinh tế,

16
khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng
chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với chế biến công nghiệp.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế từng bước được đẩy mạnh; phát huy lợi thế
ngành và lãnh thổ
Qua 35 năm, từ không đủ lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước
xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản, như
cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... luôn duy trì ở mức cao. Các mặt
hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề
bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim
ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so
với năm 2019; xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm
2016. Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về quy
mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mô thương mại quốc tế.
- Chuyển nền kinh tế từ thế bị bao vây, cấm vận, khép kín sang nền kinh tế mở và hội
nhập quốc tế
Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công
nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế giới; thiết lập
quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng hoạt động đối ngoại của các đoàn
thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới.
Tính đến thời điểm hiện nay, đã có 71 quốc gia công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền
kinh tế thị trường. 13 Hiệp định thương mại tự do (FTA) khu vực và song phương đã có hiệu
lực; 2 FTA chưa phê chuẩn, sắp có hiệu lực và 2 FTA đang đàm phán. Việc tham gia ký kết
và đàm phán tham gia các FTA có tác động tích cực tới phát triển kinh tế, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm, thúc đẩy tham gia vào các chuỗi giá trị toàn
cầu.
* Chính trị - xã hội
- Thể chế, hệ thống chính trị từng bước hoàn thiện và có bước phát triển
Thành tựu quan trọng của 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, là bộ máy quản lý Nhà
nước đã và đang được điều chỉnh theo hướng tinh giản, chức năng quản lý Nhà nước về kinh
tế cũng được đổi mới cả trong nhận thức và thực hiện phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Vai
trò của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp trong nền kinh tế không ngừng được nâng cao và phát
huy. Cùng với đó, việc phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và công bằng xã hội,
đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường luôn đi song hành với nhau và cơ
bản gắn kết hài hòa với tăng trưởng kinh tế.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy
17
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã tạo
những điều kiện và cơ hội quan trọng để người dân tham gia vào quá trình chính trị, các công
việc nhà nước, thể hiện cả quyền, năng lực, trách nhiệm của mình trong xây dựng và thực thi
dân chủ. Các cấp ủy đảng, chính quyền lắng nghe, tăng cường đối thoại với nhân dân, tôn
trọng các ý kiến khác nhau. Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở rộng.
Tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan Đảng,
Nhà nước được coi trọng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực
hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
ngày càng có hiệu quả hơn.
- Hệ thống chính sách xã hội được xây dựng và ngày càng hoàn thiện
Từ năm 1986 đến nay, thực hiện công cuộc đổi mới, lĩnh vực xã hội có những thành tựu
quan trọng. Nhà nước đã ban hành Bộ luật lao động và hàng loạt các chính sách về giải quyết
việc làm, dạy nghề, xuất khẩu lao động, phát triển nguồn nhân lực, phát huy nội lực sức lao
động, phát triển thị trường lao động theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tiền lương,
đổi mới chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hộ lao động, v.v., góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới.
Đặc biệt những năm gần đây (2016 - 2020), việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của
Đảng, hệ thống chính sách xã hội đã nhanh chóng được bổ sung, sửa đổi theo hướng bảo đảm
các quyền cơ bản của con người phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và với các tiêu
chuẩn tiến bộ về quyền con người được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Đẩy mạnh hỗ trợ nhà ở
cho người có công, người nghèo ở nông thôn và các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lũ;
phát triển nhà ở xã hội. Bình đẳng giới được thực hiện có hiệu quả; công tác bảo vệ trẻ em
được quan tâm.
* Y tế
- Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được tăng cường
Từ năm 1986 đến nay, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đạt nhiều thành tựu quan
trọng. Công tác y tế có sự đổi mới theo hướng đa dạng hóa các hình thức tổ chức khám, chữa
bệnh cho người dân; từng bước thực hiện công bằng trong khám, chữa bệnh cho người dân.
Các chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, giáo dục, bảo vệ và chăm sóc trẻ em được
triển khai tích cực. Công tác dự phòng, phát hiện sớm, quản lý các bệnh không lây nhiễm
được chú trọng; năng lực giám sát, dự báo, phát hiện và khống chế dịch bệnh được nâng lên.
- Những thành tựu y học nổi bật
Tất cả bệnh truyền nhiễm mới nổi đến nay, Việt Nam đều có khả năng xét nghiệm và
phát hiện bệnh như MERS-CoV, Ebola, cúm A/H7N9 hay COVID-19, v.v... Hệ thống giám
sát bệnh truyền nhiễm hoạt động hiệu quả từ giám sát cộng đồng, giám sát tại cửa khẩu, tại

18
phòng xét nghiệm; giám sát tại vùng bất thường liên quan đến yếu tố dịch tễ đều được báo
cáo, sàng lọc.
Việt Nam là một trong 4 quốc gia đầu tiên giải trình tự gene virus gây dịch Covid-19 và
là nước thứ 5 trên thế giới sản xuất được sinh phẩm chẩn đoán kháng thể. Bên cạnh đó, Đảng
và Chính phủ đang nỗ lực đàm phán để có nguồn cung ứng vaccine phòng Covid-19 từ các
nước trên thế giới và phát triển vaccine “made in Việt Nam” và tìm kiếm hợp tác chuyển giao
công nghệ sản xuất vaccine từ nước ngoài để nhanh chóng có vaccine phòng chống dịch bệnh
chủ động cho nhân dân.
* Quốc phòng - an ninh
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi
ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa
Đây là thành tựu lớn nhất trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, chúng ta đã giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định và an ninh cho sự phát triển đất
nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng
vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
- Hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh đạt nhiều kết quả
Đối ngoại quốc phòng, an ninh tiếp tục khẳng định là kênh quan trọng, cùng với đối
ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ
bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, góp phần trực tiếp xây dựng lòng
tin chiến lược, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam đã có quan hệ,
hợp tác về quốc phòng, an ninh với các đối tác chủ chốt, phù hợp với các quan hệ song
phương theo các khuôn khổ của đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác hợp
tác toàn diện tập trung vào những lĩnh vực phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm. Đến năm 2019,
chúng ta đã thiết lập quan hệ quốc phòng với hơn 80 quốc gia và tổ chức quốc tế; có 50 nước
đặt tùy viên quân sự tại Việt Nam, trong đó 28 nước thường trú và 22 nước kiêm nhiệm.
Các thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong
những năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên CNXH là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Cội nguồn của các thành tựu đó là do Ðảng ta có
đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, được nhân
dân tích cực ủng hộ, thực hiện, được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ. Ðảng đã nhận
thức, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa,
phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm
quốc tế phù hợp với Việt Nam, từ đó giữ bản lĩnh chính trị, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra các chủ trương, quyết
19
sách phù hợp từng giai đoạn cách mạng, phù hợp tình hình thế giới và trong nước. Ðó là cơ sở
để năm 2021 với phương châm vì tính mạng con người, không để ai bị bỏ lại phía sau, toàn
Ðảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực vượt qua đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả bão lụt ở
các tỉnh miền trung, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống.
2.3. Những hạn chế trong quá trình xây dựng XHCN của Việt Nam
Trong 35 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt Nam cũng còn
nhiều hạn chế, yếu kém.
Thứ nhất, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một
số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học
hoạch định đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý luận về CNXH và
con đường đi lên CNXH còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.
Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát triển vẫn
chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt trong hai năm
2020-2021 khi đại dịch COVID-19 đang khiến cho tình hình kinh tế rơi vào trạng thái đình
trệ. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia của nền kinh tế
còn thấp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hoàn thiện, hệ
thống thị trường hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều
hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang cản trở sự phát triển; việc tạo nền tảng
để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn chậm và gặp nhiều khó khăn.
Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, còn
nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Đạo đức xã hội có một số mặt xuống
cấp; văn hóa phẩm độc hại tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội; tài nguyên bị
khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng tác
động đến Việt Nam gây hậu quả nặng nề; trên một số mặt, một số lĩnh vực, người dân chưa
được thực hưởng đầy đủ, công bằng thành quả đổi mới.
Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ
với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách. Hệ thống chính trị
còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Biên
chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất lượng công vụ thấp.
Việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có nhiều tiến bộ
song cũng còn nhiều hạn chế. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước còn nhiều bất cập. Số
văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao, việc phát huy dân chủ chưa đi
liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước còn
nhiều hạn chế, cải cách hành chính còn chậm trễ, cải cách tư pháp còn lúng túng.

20
3. Nhận thức về sứ mệnh quan trọng của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam cũng như
vận dụng vào thực tiễn của sinh viên
Sau nghiên cứu và tiếp thu những nội dung về học thuyết hình thái kinh tế, đặc biệt đi
sâu vào tìm hiểu học thuyết hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa và ứng dụng của học
thuyết vào điều kiện của Việt Nam từ sau năm 1945 cho đến nay, nhóm em nhận thấy sự thiết
thực và tầm quan trọng của việc có một sự nhận thức đúng đắn về sứ mệnh của con đường đi
lên CNXH ở Việt Nam ở mỗi cá nhân. Thiết nghĩ rằng, quan trọng hơn cả, những sinh viên
đang ngồi trên ghế trường đại học càng phải có nhận thức đầy đủ về tính tất yếu đi lên CNXH
của đất nước và cập nhật kịp thời những đường lối, chủ trương của nước ta hiện nay.
Cụ thể, mỗi cá nhân phải nhận thức được về tính tất yếu sự thay thế hình thái kinh tế- xã
hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa, rằng đó là một quá
trình thuận theo lịch sử, tự nhiên. Câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh ‘’Không có lý luận thì
lúng túng như nhắm mắt mà đi’’ đã thể hiện được tầm quan trọng của việc học hỏi và tiếp thu
những tinh hoa và quan điểm đúng đắn của triết học chủ nghĩa Mác-LêNin. Nhưng cần thiết
hơn, đó là khả năng vận dụng những kiến thức và nghiên cứu của bậc đi trước mà tiếp tục mở
rộng, sáng tạo chân lý đó sao cho phù hợp với thời đại, với từng giai đoạn khác nhau trên
dòng chảy vô tận của thời gian. Nhìn lại tiến trình lịch sử, ta có thể thấy những tấm gương vĩ
đại đó. Như vị lãnh tụ vĩ đại của nước Nga, V.I.Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo quan
điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen về vũ trang toàn dân để xây dựng học thuyết bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện Đảng Cộng sản cầm quyền, góp phần rất quan trọng vào bảo
vệ thành quả cách mạng của nhân dân Xô viết. Để hơn 20 năm sau đó, với phương pháp tiếp
cận khoa học, sáng tạo, bám sát thực tiễn của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng
sáng tạo các nguyên lý của Mác và Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người đã bổ
sung nhiều luận điểm góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác- Lê-nin.
Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện.
Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực
tiễn phát triển của khoa học. Trách nhiệm của chúng ta là cần tiếp thu, bổ sung một cách có
chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa
học để chủ nghĩa, để học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm
sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc
sống.
Đặc biệt hơn, xét đến bối cảnh hiện nay, khi mà đất nước đang trong công cuộc hội nhập
toàn cầu, có lẽ điều mà chúng ta cần hội nhập đầu tiên và mạnh mẽ nhất, đó là hội nhập về tri
thức. Thực tiễn cho thấy, muốn có một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam thịnh vượng
21
và văn minh, thì phải có những con người Việt Nam mới, những con người được nuôi dưỡng
tâm hồn, được khai sáng trí tuệ và rèn luyện thể chất tốt.
Tựu trung lại, là những chủ nhân tương lai của đất nước, ngoài tích cực rèn luyện, học
tập, và trau dồi kỹ năng sinh viên nên chủ động vận dụng những tri thức đã học vào phân tích
những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Chỉ bằng cách không ngừng nghiên cứu, phát triển lý luận mới có thể làm cho chủ nghĩa Mác-
Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho
mọi hành động cách mạng. Đồng thời, trong quá trình đó, xây dựng niềm tin và trách nhiệm
với chế độ xã hội chủ nghĩa, tin tưởng vào đường lối, chủ trương và chính sách dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hơn thế nữa, tin tưởng
vào một viễn cảnh tốt đẹp, một xã hội công bằng, bác ái, một nơi không có sự lầm than, nghèo
khổ, sự bại hoại về đạo đức của con người, một nơi mà cả xã hội sẽ đều hướng về một mục
đích chung, đó là làm sao để thế giới trở nên tốt đẹp hơn.

THAM KHẢO
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb. CTQG, H.,1995, tr.128.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb.CTQG, H.,1995, tr.51.
[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 42, Nxb.CTQG, H., 2000, tr.183.
[4] Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – sự thật Hà Nội, 2015
[5] Bộ giáo dục và đào tạo Hội đồng trung ương: Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, 2007
[6] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị Quốc gia, 1999
[7] Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội, Nxb Sự thật Hà
Nội, 1991.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử
dụng tại Đại hội Đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương), tháng 4/2020, tr.84, 85.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng (Tài liệu sử
dụng tại Đại hội đảng bộ cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương), tháng 4/2020, tr.84.
[10] GS.TS Nguyễn Văn Huyên - Học viện CT-HCQG Hồ Chí Minh. Đặc trưng cơ bản của
xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội XI của Đảng. Báo tư liệu Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2015
<https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/
dac-trung-co-ban-cua-xa-hoi-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-theo-tinh-than-dai-hoi-xi-cua-
dang-gs-ts-nguyen-864>
22
[12] Đặc trưng mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, 2021
<https://minhtungland.com/dac-trung-cua-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay/>
[13] BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG, Những thành tựu nổi bật 75 năm nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, 2020
<https://tuyengiao.vn/tu-lieu/nhung-thanh-tuu-noi-bat-75-nam-nuoc-cong-hoa-xhcn-viet-nam-
129371>
[14] GS. TS. Vũ Văn Hiền. Ðánh giá tổng quát và bài học kinh nghiệm qua 35 năm đổi mới,
2021
<https://tuyengiao.vn/dua-nghi-quyet-cua-dang-vao-cuoc-song/danh-gia-tong-quat-va-bai-
hoc-kinh-nghiem-qua-35-nam-doi-moi-131519>

23

You might also like