Dương Vinh Quang MSSV:2053801013136 LỚP: HS45.2: Tiểu Luận Kết Thúc Học Phần

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

DƯƠNG VINH QUANG

MSSV:2053801013136

LỚP: HS45.2

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

MÔN HỌC: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

QUYỀN ƯU ĐÃI VÀ MIỄN TRỪ DÀNH CHO CƠ QUAN LÃNH SỰ

Học kỳ II – Năm học 2020-2021


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CƠ QUAN LÃNH SỰ VÀ QUYỀN
ƯU ĐÃ, MIỄN TRỪ CHO CƠ QUAN LÃNH SỰ

1.1 Quan hệ lãnh sự là gì

Lãnh sự là đại diện chính thức của một Quốc gia được chỉ định đến sống ở
một Quốc gia khác để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và công dân. Quan hệ lãnh sự
giải quyết các quyền và nghĩa vụ của các Quốc gia đối với các đại diện lãnh sự mà
họ cử và nhận. Đây là phương tiện mà các quốc gia bảo vệ lợi ích của công dân của
họ ở nước ngoài, đặc biệt là công dân của họ bị bắt vì vi phạm luật hình sự của các
quốc gia khác. Trong lịch sử, các mối quan hệ như vậy đã được điều chỉnh thông
qua các hiệp ước song phương và các thông lệ giữa các nhà ngoại giao và lãnh sự.

Thể chế lãnh sự đã đánh dấu một bước phát triển đáng kể trong suốt thế kỷ
20 thông qua sự phát triển của thương mại và mở cửa tại nhiều quốc gia trên thế
giới (Trung Quốc, Nhật Bản, v.v.). Vì vậy chức năng chính của họ bây giờ là giám
sát thương mại và điều hướng của quốc gia của họ và bảo vệ lợi ích thương mại của
công dân của họ. Hiện nay, Cơ quan lãnh sự tồn tại ở hầu hết các quốc gia, ban đầu
được tách ra khỏi cơ quan ngoại giao, nhưng cả hai đều nằm dưới sự kiểm soát của
bộ ngoại giao. Do có mối liên hệ chặt chẽ giữa chức năng ngoại giao và lãnh sự, có
thể nói rằng ở tất cả các quốc gia, các cơ quan này đều được kết hợp với mục đích
tạo thành một dịch vụ đối ngoại duy nhất.

1.2 Cơ Quan lãnh sự và tổ chức bộ máy cơ quan lãnh sự.

Cơ quan lãnh sự là một cơ quan quan hệ đối ngoại của một nước đặt ở nước
ngoài nhằm thực hiện các chức năng lãnh sự trong một khu vực lãnh thổ của nước
tiếp nhận trên cơ sở thoả thuận giữa hai quốc gia hữu quan. Căn cứ theo Điều 9
Công ước viên về quan hệ lãnh sự 1963, người đứng đầu các cơ quan lãnh sự được
chia thành bốn hạng, đó là: tổng lãnh sự, phó lãnh sự, phó lãnh sự và đại lý lãnh
sự. Thứ hạng này sẽ được xác định bởi giấy chứng nhận lãnh sự exequatur do nước
tiếp nhận cấp cho nếu như nước này đồng ý với việc bổ nhiệm của nước cử (Điều
12 Công ước viên về quan hệ lãnh sự 1963). Sự tách biệt như vậy cũng tồn tại trong
Luật Đối ngoại của Albania và Luật Đối ngoại của Kosovo. Về chức năng của cơ
quan lãnh sự được quy định tại Điều 5 Công ước viên 1963, theo đó trên cơ sở được
sự cho phép của nước tiếp nhận, mọi chức năng công cộng của cơ quan lãnh sự
đều được hưởng những quyền miễn trừ và đặc quyền nhất định ở cấp quốc gia và
quốc tế, có hiệu lực trong thời gian có thời hạn và không giới hạn, tùy thuộc vào
chức năng được hưởng, và điều quan trọng cần đề cập là quyền ưu đãi và miễn
trừ là quan trọng, là một thể chế luật đặc biệt. Khi thực hiện chức năng lãnh sự,
thông thường cơ quan lãnh sự được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ, đồng thời
thực hiện một số trách nhiệm nhất định tại nước tiếp nhận. Có thể thấy rằng, việc
quy định quyền ưu đãi và miễn trừ cho cơ quan lãnh sự là rất quan trọng nhằm
ngăn quốc gia tiếp nhận can thiệp vào công việc của họ.

CHƯƠNG 2: QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ NỘI DUNG QUYỀN ƯU ĐÃI, MIỄN


TRỪ CHO CƠ QUAN LÃNH SỰ

2.1 Cơ sở pháp lý

Lịch sử của chức năng lãnh sự chủ yếu gắn liền với sự phát triển của thương
mại quốc tế và lợi ích kinh tế của các quốc gia. Trong thế kỷ 19 và 20, sự thay đổi
nhanh chóng của các hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội kéo theo sự gia tăng của
các cơ quan lãnh sự. Vì vậy, để bảo vệ công dân và bảo vệ lợi ích của họ, cần phải
có khung pháp lý chi tiết về dịch vụ lãnh sự và địa vị pháp lý của cơ quan lãnh sự.
Trong đó, Quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao là một trong những quy định xuất
hiện sớm nhất của luật quốc tế. Ngay từ khi các quốc gia độc lập hình thành, một số
tập quán đã phát triển quy định cách thức đối xử của một quốc gia với sứ thần của
nước khác1. Bất cứ khi nào nói về quyền miễn trừ và đặc quyền của các cơ quan
lãnh sự, cần phải nhớ rằng thể chế này có tầm quan trọng đặc biệt trong luật quốc tế,
đặc biệt là trong luật lãnh sự.

Những nỗ lực sơ bộ đầu tiên nhằm xây dựng một bộ luật chính thức về luật
lãnh sự quốc tế chỉ dẫn đến việc thông qua các hiệp định khu vực. Bất chấp sự nhấn
mạnh của Hội Quốc Liên2 về sự cần thiết phải có một công cụ quốc tế về quy định
lãnh sự, vấn đề này đã bị bỏ mặc trong khoảng 20 năm. Việc luật hóa lãnh sự và
quyền miễn trừ lần đầu tiên được Ủy ban Luật pháp Quốc tế của Liên hợp quốc xem
xét vào năm 1949. Sau đó, tại kỳ họp thứ bảy năm 1955, việc xem xét, soạn thảo và
các cuộc tranh luận về vấn đề này đã bắt đầu vào năm 1958 và mãi cho đến năm
1961 mới có bản dự thảo chính thức3. Hội nghị Liên hợp quốc về quan hệ Lãnh sự
và các quyền miễn trừ ngoại giao được tổ chức tại Vienna, Áo vào năm 1963 để
thông qua và ký công ước về chủ đề này, chính thức có hiệu lực vào năm 1967.

Quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự đối với các cơ quan lãnh sự do viên chức
lãnh sự danh dự đứng đầu và đối với các viên chức danh dự được quy định riêng
trong Chương lII Công ước Viên năm 1963. Tất nhiên, những quyền ưu đãi và miễn
trừ trong công ước nãy chỉ là cơ bản, tối thiểu nhất, các quốc gia có thể tự do ký kết
thỏa thuận để mỡ rộng thêm về các quyền này, cụ thể là trong các hiệp định song
phương, luật pháp quốc gia hay thông lệ của nhà nước4

2.2 Nội dung quyền ưu đãi, miễn trừ cho cơ quan lãnh sự

2.2.1 Quyền bất khả xâm phạm về trụ sở

Căn cứ theo khoản 1 Điều 31 của Công ước Viên 1963, Tòa nhà lãnh sự là
bất khả xâm phạm. Các cơ quan có thẩm quyền của nước tiếp nhận không được
vào phần cơ quan lãnh sự chỉ dành cho mục đích công việc của cơ quan lãnh sự,
1
MN Shaw, International Law, 6ht ed. (Cambridge University Press 2008), Tr 750-751.
2
Tổ chức liên chính phủ, là tiền thân của Liên Hợp Quốc sau này
3
https://legal.un.org/ilc/texts/instruments/english/commentaries/9_2_1961.pdf
4
Марковски (2016), Tr 250-251
trừ khi được sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan lãnh sự hoặc người được
người đó chỉ định hoặc người người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao của
nước cử. Tuy nhiên, khác với quyền bất khả xâm phạm tuyệt đối của cơ quan
ngoại giao, với khoản 2 Điều Điều 31 Công ước viên 1963 đã ngầm định sự đồng
ý này của người đứng đầu cơ quan lãnh sự trong trường hợp hỏa hoạn hoặc thảm
họa khác cần sự can thiệp nhanh chóng. Do đó, quốc gia tiếp nhận có nghĩa vụ đặc
biệt phải thực hiện tất cả các bước thích hợp để bảo vệ cơ sở lãnh sự trước bất kỳ sự
xâm nhập hoặc thiệt hại nào và ngăn chặn bất kỳ sự xáo trộn nào đối với sự bình
yên của cơ quan lãnh sự hoặc làm suy giảm danh dự của cơ quan lãnh sự. Ngoài ra,
cơ sở lãnh sự, đồ đạc, tài sản của cơ quan lãnh sự và phương tiện vận chuyển của
cơ quan lãnh sự sẽ không bị trưng dụng dưới bất kỳ hình thức trưng dụng nào
cho mục đích quốc phòng hoặc công ích. Nếu việc trưng thu là cần thiết cho
những mục đích như vậy, thì phải thực hiện tất cả các bước có thể để tránh cản
trở việc thực hiện các chức năng lãnh sự và bồi thường nhanh chóng, đầy đủ và
hiệu quả cho quốc gia cử đi (Khoản 4 Điều 31 Công ước Viên 1963).

Khác với Công ước Viên về quan hệ lãnh sự 1963, trong một số trường hợp
ở một vài quốc gia, quyền bất khả xâm phạm của trụ sở lãnh sự được hưởng quyền
miễn trừ tuyệt đối, nhưng quyền này lại không được dự kiến trước trong luật5. Do
thiếu quyền miễn trừ tuyệt đối của cơ sở lãnh sự, nó cũng gây tranh cãi về ý nghĩa
và tầm quan trọng của cái gọi là “quyền miễn trừ tại trụ sở lãnh sự”, cụ thể là các
quốc gia này thiếu nguyên tắc pháp lý liên quan đến quyền bất khả xâm phạm lãnh
sự hay nói cách khác là quyền miễn trừ của các lãnh sự có thể bị hạn chế khi khía
cạnh cá nhân của nớc tiếp nhận bị xâm phạm.

2.2.2 Quyền bất khả xâm phạm về hồ sơ lưu trữ và tài liệu

Một trong những quy tắc chung được chấp nhận liên quan đến quyền miễn
trừ và đặc quyền của các lãnh sự là quyền bất khả xâm phạm đối với các hồ sơ lưu

5
Марковски (2016), P. 251. 
trữ và tài liệu lãnh sự (Điều 33 Công ước viên 1963). Điều này ngụ ý rằng sự bất
khả xâm phạm của tất cả các tài liệu bất kể thời gian và địa điểm mà chúng xuất
hiện. Các loại tài liệu, hồ sơ này có thể là sổ lãnh sự, sổ đăng ký công dân, tài liệu,
giấy chứng nhận cũng như thư từ ngoại giao, bao gồm các tài liệu được mã hóa và
số tại kho lưu trữ lãnh sự. Do đó, các kho lưu trữ lãnh sự và tài liệu của cơ quan
lãnh sự do một viên chức lãnh sự danh dự đứng đầu sẽ là bất khả xâm phạm mọi
lúc, mọi nơi, với điều kiện chúng phải được giữ riêng biệt với các giấy tờ, tài liệu
khác đặc biệt là với thư từ riêng của người đứng đầu cơ quan lãnh sự và từ bất kỳ
người nào làm việc với anh ta.6

2.2.3 Quyền tự do thông tin liên lạc

Một trong những nhiệm vụ chính của cơ quan lãnh sự là thông báo cho nhà
nước của họ về đời sống kinh tế, văn hóa, thương mại và khoa học của nước tiếp
nhận. Việc hoàn thành các nhiệm vụ này được thực hiện thông qua liên lạc thường
xuyên của lãnh sự với chính phủ của mình cũng như với cơ quan đại diện ngoại giao
khác của quốc gia cử lãnh sự, thông qua trao đổi thông tin, báo cáo và hướng dẫn
liên quan đến các vấn đề trong vòng công tác của họ. Về mặt này, tự do giao tiếp
nghĩa là quyền của cơ quan lãnh sự được sử dụng tất cả các cách thức giao tiếp
thích hợp, chẳng hạn như: sử dụng giao thông viên ngoại giao hoặc lãnh sự, túi
ngoại giao hoặc túi lãnh sự, liệu thư từ ngoại giao, tài mật mã... (Khoản 1 Điều 35
Công ước viên 1963). Mặt khác, quốc gia tiếp nhận có nghĩa vụ cung cấp miễn phí
dịch vụ di chuyển hành lý lãnh sự tương ứng, miễn phí vận chuyển của người giao
thông lãnh sự.

2.2.4 Quyền được treo quốc kỳ, quốc huy

Căn cứ theo Điều 29 Công ước Viên 1963, quốc gia cử có quyền sử dụng
quốc kỳ và quốc huy của quốc gia đó tại quốc gia tiếp nhận. Theo đó, Người đứng
đầu cơ quan lãnh sự có quyền treo quốc kỳ, quốc huy trên tòa nhà trụ sở do cơ
quan lãnh sự chiếm giữ và ở cửa ra vào, nơi ở của người đứng đầu cơ quan lãnh
6
Jazbec, M. (2008). Bazat e Diplomacisë, Prishtina, tr 202,213
sự và trên phương tiện của người đó. vận chuyển khi sử dụng vào công việc
chính thức. Cụ thể, việc thực hiện quyền được xem xét đến luật, quy định và tập
quán của quốc gia tiếp nhận.7

2.2.5 Quyền được miễn các thứ thuế và lệ phí

Trụ sở lãnh sự và nơi cư trú của người đứng đầu cơ quan lãnh sự, được miễn
tất cả các loại thuế và thuế hải quan bất kể tính chất, tiểu bang, khu vực và thành
phố. Tuy nhiên, các khoản miễn trừ này không được áp dụng trong trường hợp bồi
thường cho các dịch vụ đặc biệt như: thanh toán cho việc sử dụng internet, cho dịch
vụ truyền hình, vệ sinh, v.v ... (Điều 32 Công ước Viên 1963).

Quyền ưu đãi và miễn trừ của cơ quan lãnh sự có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, giúp cho các cơ quan lãnh sự có thể hoàn thành tốt chức năng thông báo và
hỗ trợ cho các tổ chức cá nhân trong nước của mình, góp phân thúc đẩy mối quan
hệ hữu nghị giữa các quốc gia. Tuy nhiên, Quyền ưu đãi và miễn trừ của cơ quan
lãnh sự không được hưởng các quyền tuyệt đối như phía các nhà ngoại giao vì hầu
như vấn đề miễn trừ lãnh sự ngày nay thường được quy định trong các hiệp định
song phương và luật pháp của từng quốc gia và đôi lúc khó tranh khỏi việc mẫu
thuẫn với Công ước. Hy vong trong tương lai việc thưc thi Công ước sẽ được các
quốc gia chú trọng nhiều hon và có những biện pháp thích đáng để khắc phục những
hành vi vi phạm Công ước.

7
Dembinski, L. (2017). Ligji Diplomatik dhe konsullor. Tirana, Tr 45 -46

You might also like