Professional Documents
Culture Documents
KTCT - Nguyễn Quỳnh Mai - 2073240619 - Buổi 6
KTCT - Nguyễn Quỳnh Mai - 2073240619 - Buổi 6
KTCT - Nguyễn Quỳnh Mai - 2073240619 - Buổi 6
Ý
nghĩa thực tiễn?
Giả sử thời gian lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ là thơi gian lao động cần
thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư khi đó trình độ bóc lột của
nhà tư bản là 100%. Giá trị ngày lao động kéo dài thêm 2 giờ trong khi
thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư
tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ
bóc lột tăng lên đạt 200%(m’=200%).
Các nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp
bóc lột này đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ
nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng nó
tồn tại trong cơ thể sống con người vì vậy mà người công nhân cần có
thời gian để ăn ngủ nghỉ ngơi giải trí để phục hồi sức khoẻ nhằm tái sản
xuất sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá đặc biệt vì vậy
ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi phải có thời gian cho nhu
cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Như vậy, về mặt
kinh tế, ngày lao động phải dài hạn thời gian lao động tất yếu , nhưng
không thể vượt qua giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Vì thời gian lao động quá dài , do vậy mà đã dẫn đến phong trào giai cấp
vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn thời gian lao động trong
ngày. Chính vì vậy mà giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp
bóc lột mới tinh vi hơn , đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương
đối.
Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và
4 giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột 100%. Giả thiết rằng
công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng giá trị
sức lao động của mình. Do đó mà tỷ lệ phân chia ngày lao động thành
thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động giá trị thặng dư trong
trường hợp đó cũng không thay đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là
2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản
lúc này là 300%(m’=300%).
Như vậy để có thể giảm thời gian lao động cần thiết để từ đó gia tăng
tương ứng phần thời gian lao động thặng dư thì các nhà tư bản cần tìm
mọi biện pháp để tăng năng suất lao động trong những nghành sản xuất tư
liệu sinh hoạt. Đồng thời nâng cao năng suất lao động xã hội trong những
nghành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống
người công nhân.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn sau khi mà kỹ thuật phát triển,
sản xuất giá trị thặng dư tương đối đã chiếm ưu thế. Hai phương pháp
trên đã được các nhà tư bản sư dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình
độ bóc lột công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản
Ý nghĩa của việc nghiên cứu 2 phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư:
Việc nghiên cứu 2 phương pháp nói trên, khi gạt bỏ mục đích và tính chất
của chủ nghĩa tư bản thì các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, nhất
là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư
siêu ngạch có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta nhằm kích
thích sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kỹ thuật mới, cải
tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất.
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên
cứu sản xuất giá trị thặng dư gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách
phương thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều
kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp, để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, cần tận dụng triệt để các nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh
doanh. Về cơ bản lâu dài, cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động
xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân
là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
Câu 2: Phân tích bản chất của tích luỹ tư bản? Nêu những nhân
tố ảnh hưởng tới quy mô tích luỹ tư bản?
Sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích
lũy tư bản.
Như vậy nguồn gốc của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư – là lao động
của công nhân bị nhà tư bản chiếm không. Nói cách khác, toàn bộ của cải
của giai cấp tư sản đều do lao động của giai cấp công nhân tạo ra.
Nếu tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng đã được xác định, thì quy mô tích lũy
tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Có bốn nhân tố ảnh
hưởng đến khối lượng giá trị thặng dư:
Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều yếu tố phụ thêm
cho tích lũy nhờ việc sử dụng vật liệu mới và tạo ra công dụng mới của
vật liệu hiện có như những phế thải trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng
cá nhân của xã hội, những vật vốn không có giá trị. Cuối cùng, năng suất
lao động tăng sẽ làm cho giá trị của tư bản cũ tái hiện dưới hình thái hữu
dụng mới càng nhanh.
Đại lượng tư bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng được mở
rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu.
Tóm lại, để nâng cao quy mô tích lũy, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao
động xã hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để năng lực sản xuất
của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.