QT46B2 Nhóm 2 Bu I TLDS TH 6

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM

KHOA LUẬT DÂN SỰ

BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU

QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC

Bộ môn: Những quy định chung về Luật dân sự, tài sản, thừa kế.

Giảng viên: Đặng Lê Phương Uyên

Nhóm 2 – Lớp QT46B2

Danh sách sinh viên thực hiện:

Phạm Châu Kim Yến 2153801015295


Trần Thị Ngọc Thúy 2153801015250
Nguyễn Huyền Trâm 2153801015265
Trần Thị Bảo Trâm 2153801015267
Ao Lê Kim Trân 2153801015268
Lê Tường Vy 2153801015287
Triệu Lê Phương Uyên 2153801015276
Nguyễn Thị Phương Thảo 2153801015242
Lê Huỳnh Lam Trà 2153801015261

TPHCM, tháng 03 năm 2022


 Hình thức của di chúc:

Tóm tắt bản án:


* Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh Hiếu.
Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng
Ngày 19/12/2007, ông Nguyễn Này có lập di chúc cho ông Hiếu được toàn quyền thừa kế sử
dụng lô đất đứng tên ông Này, bà Trọng. Ngày 16/11/2008, ông Này qua đời nhưng bà Trọng
không cho ông Hiếu tiếp tục hành nghề mà đuổi khỏi nhà. Ông Hiếu đã khởi kiện, xin nhận 1/2
lô đất, xin nhận nhà và thối lại chênh lệch tài sản cho bà Trọng. Xét thấy, di chúc ông Này là di
chúc viết tay, không được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập
trong lúc ông Này còn minh mẫn, không bị cưỡng ép, lừa dối và có nhiều người làm chứng nên
được coi là di chúc hợp pháp. Bên cạnh đó, di chúc của ông Này giao toàn quyền sử dụng lô
đất thuộc sở hữu của hai vợ chồng nhưng lại không có sự thoả thuận của bà Trọng là không
hợp pháp mà chỉ có giá trị một phần, tức là phần thuộc sở hữu của mình thì ông Này được định
đoạt nhưng ông lại định đoạn cả phần của bà Trọng là trái pháp luật. Toà án quyết định giao
nhà cho bà Trọng và bà Trọng có nghĩa vụ thanh toán cho anh Hiếu 78.795.000đ.

* Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao
Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Quang
Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm
Cụ Đỗ Thị Hựu (mẹ ông Quang) kết hôn với cụ Đỗ Văn Hằng và có 2 người con chung là ông
Đỗ Văn Hồng (ông Hồng hi sinh nằm 1986, có vợ là bà Hoàng Thị Ngâm và có 1 con chung)
và bà Đỗ Thị Lựu. Năm 1950, cụ Hằng chết không có di chúc. Đến 1954, cụ Hựu sống chung
với Lương Văn Sách và có con là ông Quang. Ngoài ra, cụ Hựu còn có 1 người con chung với
cụ Dị. Ngày 05-02-2005, cụ Hựu chết, toàn bộ đất hiện tại do bà Ngâm quản lý, sử dụng và
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo di chúc của bà Hựu. Nay ông Quang khởi
kiện yêu cầu huỷ di chúc do không hợp pháp và yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của cụ Hựu
theo pháp luật.
Xét thấy, đất tranh chấp là tài sản của tổ tiên cụ Đỗ Văn Hằng để lại cho vợ chồng cụ Hằng và
cụ Đỗ Thị Hựu. Sau khi cụ Hựu chết, bà Ngâm đã không làm đúng theo di chúc cụ Hựu mà tự
ý kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bên cạnh đó, ông Đỗ cho
rằng, đất nêu trên là tài sản của dòng họ Đỗ là không đúng do dòng họ Đỗ không kê khai, đăng
ký quyền sử dụng đất này. Di chúc của cụ Hựu không đúng theo quy định về di chúc hợp pháp
của người không biết chữ theo khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 nên di chúc là không có căn cứ.
Toà quyết định huỷ bỏ bản án dân sự phúc thẩm và xét xử lại.

1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý?
- Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý được nêu ở Điều 633 BLDS
2015 quy định về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: “Điều 633. Di chúc bằng
văn bản không có người làm chứng.
Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631
của Bộ luật này”

1.2 Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người đã làm
chứng cho di chúc ông Này có là người làm chứng hợp pháp hay không? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời?
- Xét trong trường hợp của ông Này, thì nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm
chứng thì những người làm chứng cho di chúc của ông Này chỉ em gái, em trai, cha ông Này là
người làm chứng không hợp pháp, vì theo khoản a khoản b Điều 651 BLDS 2015 quy định về
thừa kế theo pháp luật như sau:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người chết.
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em
ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại.”
Theo đó thì những người đã làm chứng cho di chúc của ông Này: em trai, em gái,cha ông Nay
đã vi phạm khoản 1 điều 632, BLDS 2015 Quy đinh về việc làm chứng cho người lập di chúc:
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khan trong
nhận thức, làm chủ hành vi.
1.3 Di chúc này là di chúc do ông Này viết không? Tại sao?
- Mặc dù bản án không nói rõ là ông Này có ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc hay không nhưng:
+ Trong phân nhận thấy có đoạn : “Để tránh tranh chấp về sau nên ông Nay viế tgiấy này để
nhà và đất đai cho cháu Hiếu thừa hưởng sau này của ông Này có mất thì cháu Hiếu có chỗ ở
và thờ cúng cho ông Này”
+ Trong phần xét thấy có đoạn: “Xét thấy ,giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được
chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng đươc xác lập lúc ông Này còn minh
mẫn, sáng suốt...”.
Từ đó, ta có thể kết luận rằng di chúc này là do ông Này tự tay viết

1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án có liên quan đếnhình thức di
chúc di của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
- Căn cứ theo Điều 634 BLDS 2015:
“Điều 634. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng
Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy
hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm
chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm
chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản
di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 631 và
Điều 632 của Bộ luật này”.
Theo điều 633, BLDS 2015, điều kiện về hình thức duy nhất đối với di chúc tự viết tay là người
lập phải tự ký vào văn bản di chúc. Ngoài ra không có quy định nào về việc phải công chứng,
chứng thực hay có người làm chứng.
- Xét thấy trường hợp của ông Này, ông đã tự viết tay di chúc tự ký và được làm chứng bởi 3
người: em trai, em gái, cha ông Này. Việc làm chứng của di chúc ông Này làm tăng tính xác
thực của bản di chúc, không phải là điều kiện để được công nhận là hợp pháp. Do thỏa mãn
những điều kiện mà luật đã quy định ở Điều 633, 634 BLDS 2015 nên việc Tòa án công nhận
di chúc của ông Này là hợp lí.

1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?

Đối với di chức ngày 25-11-1998 của cụ Hựu. Phía bà Ngâm xuất trình, bà Ngâm, bà Đỗ Thị
Lựu và ông Vũ khai di chức do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ
Đỗ Thị Quý (là mẹ ông Vũ) ký tên làm chứng. Ngày 04-01-1999 bà Lựu mang di chúc đến ông
Hoàng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và UBND xã Mai Lâm xác nhận.

1.6. Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của quyết định số 874 cho câu trả lời

Cụ Hựu không biết chữ. Đoạn của Quyết định số 874 cho câu trả lời là: “Ông Quang xác định
cụ Hựu là người không biết chữ.”

1.7. Di chúc của người không biết chữ có thỏa mãn các điều kiện nào để có hình thức phù
hợp với quy định của pháp luật?

Theo khoản 3 Điều 652 BLDS năm 2005 (tương ứng với khoản 3 Điều 630): “Di chúc của
người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”. Với quy định này, khi người để lại di sản
không thể tự mình viết di chúc (do bị khiếm khuyết thể chất hoặc người bị “mù chữ”) thì pháp
luật quy định người này phải lập di chúc bằng văn bản theo thủ tục công chứng, chứng thực,
đồng thời việc lập, công chứng, chứng thực di chúc phải có người làm chứng thì di chúc mới có
hiệu lực.

1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?
Các điều kiện đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là di chúc đã được lập thành văn
bản và có người làm chứng. Bởi vì cụ Hựu không biết chữ nên theo Khoản 3 Điều 630 BLDS
2015: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”. Trong trường hợp
này, di chúc là do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu chỉ điểm và được ông Vũ và cụ Đỗ Thị
Quý (mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng.

1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?
Các điều kiện đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là công chứng chứng thực.
Trong phần xét thấy của Quyết định số 874/2011/DS-GĐT của Tòa án dân sự của Tòa án fnhân
dân tối cao, mặc dù đã di chúc đã được đã được ông Hoàng Văn Thưởng (là trưởng thôn) và
UBND xã Mai Lâm xác nhận. Tuy nhiên, ông Thưởng đã không chứng kiến cụ Hựu lập di
chúc, việc UBND xã Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận cũng UBND
xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không xác nhận nội dung của di chúc.
Ngoài ra, giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc cũng không thể hiện được rõ các
đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Vì vậy, điều kiện công chứng chứng thực đã
không thỏa mãn và không được xác thực.
1.10. Theo anh/ chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức không? Vì sao?
Theo Khoản 3 Điều 630 BLDS 2015: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của
người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc
chứng thực”. Mặc dù đã thỏa mãn điều kiện về di chúc đã được lập thành văn bản và có người
làm chứng (ông Vũ và cụ Quý làm chứng). Tuy nhiên, việc công chứng chứng thực vẫn chưa
được thỏa mãn. Như đã nêu phía trên, mặc dù đã di chúc đã được đã được ông Hoàng Văn
Thưởng (là trưởng thôn) và UBND xã Mai Lâm xác nhận nhưng ông Thưởng đã không chứng
kiến cụ Hựu lập di chúc và việc UBND xã Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu mang di chúc đến
xác nhận cũng UBND xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không xác nhận
nội dung của di chúc. Mặc khác, giám định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc cũng không
thể hiện được rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Do đó, chưa đủ căn cứ để
xác định di chúc nêu trên thể hiện cùng ý chí của cụ Hựu và di chúc này cũng không thỏa mãn
điều kiện về hình thức.

1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc
của người không biết chữ.
Căn cứ vào Điều 630 Bộ luật dân sự 2015
- Quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của người không biết chữ vẫn còn sơ
sài, chưa quy định rõ cụ thể. Sở dĩ, người đi công chứng hoặc chứng thực phải là người lập di
chúc hoặc là người thể hiện ý chí của người lập di chúc thành văn bản để đảm bảo sự rõ ràng,
chính xác của di chúc, đảm bảo theo đúng ý muốn và tâm nguyện của người lập di chúc đối với
các tranh chấp xảy ra trên thực tế.

 Tài sản được định đoạt theo di chúc:

Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT


1. Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu Dũng
Ông Nguyễn Hữu Lộc
Cụ Lê Thanh Quý và cụ Nguyễn Văn Hương chung sống từ năm 1955, lập hơn thú năm 1962,
có 12 con chung. Trong thời gian chung sống, cụ quý và cụ Hương có tạo lập được bất động
sản. Ngày 06/04/2009, cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ căn
nhà cho 5 người con, di chúc đã được công chúng. Nay cụ Quý khởi kiện yêu cầu chia tài sản
chung hai vợ chồng nhưng ông Nguyễn Hữu Dũng trình bày căn nhà là tài sản riêng của cha
ông trước khi cưới mẹ ông.
Xét thấy, nhà đất được cấp giấy chứng nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương năm 1994. Về di chúc,
do đã được công chứng và có giấy chứng nhận sức khoẻ của Bệnh viện xác nhận cụ Hương
minh mẫn nên được xem là hợp pháp. Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một
phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý.

Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018


Vụ án "Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng võ hiệu". Giữa nguyên đơn là ông
Trần Văn Y và bị đơn là Phòng công chứng M, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông
Nguyễn Văn D1. Cụ Nguyễn Văn D và cụ Nguyễn Thị C chung sống với nhau nhưng không
đăng ký kết hôn, hai người có thửa đất số 38 là tài sản chung. Vì không có con với cụ C, cụ D
chung sống với cụ N và sinh ra ông D1 và sau đó cụ N cũng mất, Cụ C và cụ D lập di chúc để
lại phần tài sản là bất động sản tại thừa đất số 38 cho ông D1. Tuy nhiên, ông Y cho rằng thửa
đất này ông đã mua từ cụ C từ năm 1978, việc Phòng công chứng M công chứng di chúc của cụ
D, văn bản công bố di chúc của hai cụ đã làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia
đình ông Y nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố các văn bản công chứng trên vô hiệu.
Tuy nhiên, các tài liệu do ông Y xuất trình chi có cụ C chuyển nhượng cho ông Y mà chưa có ý
kiến của cụ D. Ngoài ra, trước khi cụ C và cụ D mất thì thừa đất số 38 đã bị thu hồi theo Quyết
định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010 => Vì các lẽ trên, Tòa án quyết định giao hồ sơ cho
Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định
pháp luật, cụ thể là cần phải xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng đất, bản di
chúc do cụ D và cụ C lập cũng như Văn bản công bố di chúc mới giải quyết triệt để vụ án.

2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời.
Cụ hương đã định đoạt toàn bộ căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, Phường 5, Quận Phú
Nhuận là tài sản chung của vợ chồng cụ Quý cụ Hương
- Đoạn của Quyết định cho câu trả lời:
“Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức,
Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (Vợ ông Nguyễn
Hữu Tri).”

2.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài
sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn của Quyết định cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ
chồng cụ Hương.
“Tuy nhiên,về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của
vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5 người
con trong khi không có sự đồng ý của cụ Quý là không đúng.”

2.3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho câu
trả lời?
Tòa án đã công nhận một phần của di chúc cụ thể là đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà
đất) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
Đoạn của Quyết định số 359 cho câu trả lời là: “Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của
cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương ( ½ nhà đất)
nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã
chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật; còn ½ diện tích đất còn lại được chia cho cụ
Quý; phần giá trị căn nhà theo kết quả định giá của hội đồng định giá thì được chia cho cụ Quý
½ và thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người con được
hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương là có căn cứ.”

2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
- Theo Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định về di sản: “Di sản bao gồm tài sản riêng
của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.”
Trong trường hợp này, tài sản thuộc sở hữu chung của cả cụ Quý và cụ Hương. Trước khi chết,
cụ Hương cũng không có tài sản riêng nên chỉ có phần tài sản của cụ Hương trong tài sản
chung với cụ Quý mới được coi là di sản. Cụ Hương chỉ có quyền định đoạt phần đó. Vì vậy,
việc Tòa xác định chỉ có ½ nhà đất được chia cho 5 người thừa kế là phù hợp với quy định trên
của pháp luật.
Theo Điều 644, Bộ luật dân sự 2015 quy định về Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc:
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa
kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người
lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại Khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy
định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Cụ Quý không thuộc trường hợp tại Điều 620 và Khoản 1, Điều 621 của Bộ luật Dân sự năm
2015. Mặt khác, khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ của cụ Hương cũng không được người lập di
chúc cho di sản.
Vì vậy, việc Tòa án xác định chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế là hoàn toàn phù hợp và đúng
quy định của pháp luật.

2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần di chúc có giá trị pháp lý là một phần tài sản của cụ
Hương trong phần tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý. Khi cụ Quý chết, tài sản sẽ được
chia đều cho cả hai người. Sau đó tài sản của cụ Quý sẽ tiếp tục chia:
+ Nếu cụ Quý có để lại di chúc và không chia thừa kế cho cụ Hương thì cụ Hương vẫn sẽ nhận
được 2/3 suất thừa kế theo quy định tại Điều 644 BLDS 2015:
Điều 644: Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa
kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người
lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động
2. Quy định tại Khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy
định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại
khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.
+ Nếu cụ Quý chết có để lại di chúc và có để lại thừa kế cho cụ Hương thì cụ Hương sẽ nhận
được phần tài sản sau chia đôi cộng thêm phần di sản do cụ Quý để lại cho cụ Hương theo Điều
609 BLDS 2015
Điều 609: Quyền thừa kế
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người
thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.
+ Nếu cụ Quý chết không để lại di chúc thì sau khi nhận được phần tài sản chia đôi, cụ Hương
đã nhận được 1/11 phần di sản khi chia thừa kế theo pháp luật theo Điều 650, Điều 651 BLDS
2015.
Điều 650: Những trường hợp thừa kế theo pháp luật
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:
a) Không có di chúc
b) Di chúc không hợp pháp
c) Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di
chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở
thừa kế;
d) Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di
sản hoặc từ chối nhận di sản.
2. Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
b) Phần di sản có liên quan đến phàn của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
c) Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền
hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào
thời điểm mở thừa kế.
Điều 651: Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi
của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột
của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột
của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột,
dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế
trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận
di sản.

2.6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu
tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý không? Vì sao?
- Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng
4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý.
- Về nội dung, toàn bộ phần di chúc đều có giá trị pháp lý về tài sản lúc này thuộc sở hữu của
cụ Hương vào đầu tháng 4/2009 nên cụ có quyền định đoạt theo quy định tại điều 609 của Bộ
luật dân sự 2015 về Quyền thừa kế: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của
mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc
theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.”
- Nếu tài sản là sở hữu chung với cụ Quý thì di chúc chỉ có giá trị pháp lý một phần. Đó là phần
tài sản thuộc sở hữu của cụ Hương.
- Vì vậy, căn cứ vào khoản 1, Điều 630 Bộ luật dân sự 2015: “Di chúc hợp pháp phải có đủ các
điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép.
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức
di chúc không trái quy định của luật.
Vì vậy, di chúc của cụ Hương lúc này hoàn toàn có giá trị pháp lý.

2.7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu
hồi trước khi hai cụ chết?
Căn cứ vào quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Toà án nhân dân cấp cao Hà
Nội, phần nhận định của Toà án có chỉ ra: "Ngày 07-9-2010, cụ C chết. Ngày 21-01-2011, cụ D
chết." "[5] Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ
bản án số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7- 2010 của Uỷ ban
nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn
được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định
đoạt tài sản trên cho ông D1."
Ta có thể thấy rằng ngày 21/7/2010 quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi. Mà cụ C
đã mất vào ngày 7/9/2010 và cụ D mất ngày 21/1/2011. định số 58 cho thấy quyền sử dụng đất
của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết.

2.8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ C
và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa nếu của Tòa
giám đốc thẩm?
Trong Quyết định số 58, đoạn cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ C và cụ D là
quyền sử dụng đất:
"Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13
đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QÐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành
phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm
theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông
DI".
Về hướng xác định vừa nêu trên của Tòa án là hợp lý. Vi:
Thửa đất tại xứ M là tải sản chung của cụ C và cụ D nhưng chi có cụ C chuyển nhượng cho ông
Y mà chưa có ý kiến của cụ D, cụ C tự ý định đoạt tài sản chung của hai cụ thì cần xem xét tính
hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng giữa cụ C và ông Y, vì vậy quyền sử dụng đất vẫn
thuộc về cụ D và cụ C.

2.9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D
được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của
anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D được định
đoạt theo di chúc giá trị quyển sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi:
"Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13
đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QÐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhãn dãn thành
phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vần được pháp luật bảo đảm
theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ Có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông
D1.”
Tòa giám đốc thẩm giải quyết theo hướng vừa nêu là hợp lý, theo cơ sở pháp lý là:
Khoản 3 Điều 643 Bộ luật dân sự 2015: "Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho
người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn
một phần thi phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực."
Khoản 1 điều 630 Bộ luật dân sự 2015: "Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trải đạo đức xã hội; hình thức
di chúc không trái quy định của luật."
=> Di sản cụ D và cụ C để lại là quyền sử dụng đất vẫn còn vào thời điểm mở thừa kế, di chúc
của cụ D, cụ C là hợp pháp nên di chúc vẫn có hiệu lực.

 Di chúc chung của vợ chồng:

Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017:


- Nguyên đơn: bà Hoàng Thị H.
- Bị đơn: anh Hoàng Tuyết H
- Nội dung: Ngày 10/8/2015, bà Hoàng Thị H và chồng là ông Hoàng Minh X cùng nhau lập di
chúc chung của vợ chồng do ông X viết với nội dung khi hai người chết sẽ giao lại quyền quản
lý sử dụng tài sản chung cho con trai là Hoàng Hồng H1, tuy nhiên bản di chúc không được
chứng thực. Ngày 12/01/2016 ông X chết, bà H họp gia đình để công bố di chúc, thì anh H cho
rằng không phải chữ viết của ông X nên không coi là di chúc hợp pháp và yêu cầu được hưởng
kỷ phần của ông X bằng quyền sử dụng đất. Anh Hoàng Quốc H2 (con trai) không chấp nhận
đó là di chúc hợp pháp của ông X, bà H và yêu cầu được chia di sản thừa kế; anh Hoàng Quốc
H3 (con trai) cũng không công nhận đó là di chúc hợp pháp của ông X, bà H và yêu cầu toàn
bộ tài sản trên phải được để lại làm nơi thờ cúng; anh Hoàng Hồng H1 công nhận bản di chúc
đó là hợp pháp và đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của mẹ anh và không có yêu cầu gì
về khối tài sản trên. Cuối cùng, sau khi giám định chữ viết của ông Hoàng Minh X và áp dụng
Điều 627, 630 Bộ luật Dân sự 2015, Tòa án quyết định công nhận di chúc chung của ông
Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp, không chấp nhận yêu cầu
của anh Hoàng Tuyết H và anh Hoàng Quốc H2 đòi chia di sản của ông Hoàng Minh X.

3.1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng?
- “Quan hệ pháp luật: Ông Hoàng Minh X và bà Hoàng Thị H là vợ chồng. Trong thời kỳ hôn
nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm định ngày 21/8/2017. Tháng
01/2016 ông X chết và có để lại một bản di chúc chung của vợ chồng viết ngày 10/8/2015.”

3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
- Theo tòa án di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015. Cụ thể ở
điều 630 có quy định di chúc hợp pháp
- Trích bản án:
+ Phần nhận định của tòa án: “Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại Điều 630 BLDS 2015.”
+ Phần quyết định của tòa án: 1. Xử: Công nhận di chúc chung của ông Hoàng Minh X và bà
Hoàng Thị H viết ngày 10/8/2015 là hợp pháp.”

3.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ
chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
- Hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với
BLDS 2015 là hợp lý.
+ Về nội dung: di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp
với quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 630 BLDS 2015.
+ Về hình thức: di chúc này là do ông X tự viết và được vợ chồng ông cùng tự ký tên vào. Khi
lập di chúc, ông X còn minh mẫn, sáng suốt, không bị ai cưỡng ép phù hợp với Điểm a Khoản
1 Điều 630 BLDS 2015. Tuy bản di chúc không có người làm chứng và không có chứng nhận
của UBND Thị trấn S, huyện C nhưng theo kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017
thì đây chính là chữ viết tay của ông X. Căn cứ theo điều 633 về “Di chúc bằng văn bản không
có người làm chứng” thì việc công nhận di chúc của ông X, bà H là hợp lý.

 Di sản dùng vào việc thờ cúng:

Tóm tắt bản án 211/ 2009/DSST về tranh chấp di sản thừa kế:
Nguyên đơn là anh Phan Văn Được, bị đơn là anh Phan Văn Tân và chị Phan Thị Hương.
Nguyên đơn và bị đơn là anh chị em cùng cha mẹ. Cha mẹ để lại 1 căn nhà cấp 4 gạch bông,
vách tường xây, lợp tole trên diện tích khoảng 100m2 đất tại khu Kim Sơn- Thị trấn Long
Thành do mẹ họ tạo dựng năm 1991. Ngày 8/7/2004 bà Lùng lập di chúc để lại nhà đất cho 07
anh chị em, hiện tại anh Được đang quản lý nhà đất, năm 2005 anh chị em hợp lại chia di sản
nhưng bị đơn không đồng ý. Theo yêu cầu nguyên đơn căn nhà trên sẽ được chia di sản thừa kế
cho 7 anh chị em, anh được sở hữu sử dụng nhà đất và chia bằng tiền cho 6 anh chị em giá trị
tương ứng với phần di sản được hưởng. Anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa đồng ý với
yêu cầu chia di sản thừa kế của anh Được và anh chị để phần di sản cho anh Được được quyền
sở hữu, sử dụng. Theo nội dung tờ di chúc của bà Lùng, bà để lại nhà đất cho 7 người con đồng
thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ. Tòa chấp nhận yêu cầu chia di sản của anh Được, theo đó anh
Được được sở hữu phần của anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa với quyền sở hữu di sản
nhà đất và thanh toán 37.424.000 đ cho mỗi người là anh Tân và chị Hương.

4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở pháp
lý khi trả lời. 
Theo Khoản 2 Điều 670 BLDS 2005 và Khoản 2 Điều 645 BLDS 2015: “Trong trường hợp
toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó, thì không
được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”

Như vậy có thể hiểu di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý khi người lập di chúc để
lại một phần di sản vào việc thờ cúng và toàn bộ di sản của người chết dư khả năng thanh toán
nghĩa vụ tài sản của người đó.

4.2 Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ
cúng? 
Đoạn về nội dung của phần xét thấy của bản án số 211/2009/DSST ngày 16/9/2009: “Tại tờ di
chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để
thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh
Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận.” cho thấy
di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ cúng.

4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được thỏa mãn
trong vụ việc đang nghiên cứu không? 
Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp bao gồm việc người lập di
chúc có để và yêu cầu di sản cho việc thờ cúng và di sản còn dư sau khi thanh toán các nghĩa
vụ tài sản của người đó. Theo nội dung bản án có thể thấy bà Lùng có đề cập trong tờ di chúc là
bà để lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ và các nghĩa vụ tài sản
của bà cũng đã được thanh toán và không có tranh chấp gì về nghĩa vụ tài sản của bà cho đến
thời điểm ngày 16/9/2009.

4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ tranh chấp
này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Trong vụ tranh chấp này, có 5/7 người con (tức người thừa kế theo di chúc của bà Lùng để
lại) đồng ý chia di sản. Cụ thể là: anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh Được. Còn 2
người không đồng ý chia di sản là anh Tân và chị Hương.Đoạn trong bản án cho câu trả lời là:
“ Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc để lại cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý
đất, năm 2005 năm anh chị hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không
đồng ý.”

4.5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
- Cuối cùng Tóa án có chấp nhận chia tài sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng.
Đoạn trong bản án cho câu trả lời là: “Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan
Văn Được đối với anh Phan Văn Tân, chị Phan Thị Hương và người có quyền lợi nghĩa vụ lien
quan anh Phan Văn Thảo, anh Phan Văn Xuân, anh Phan Văn Nhành, chị Phan Thị Hoa về việc
“Tranh chấp di sản thừa kế”.
Anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương mỗi
người số tiền là 37.424.000đ (bằng chữ: ba mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi bốn ngàn đồng).

4.6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS và giải
pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
- Theo BLDS 2005, căn cứ vào Điều 670 thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng không được
chia thừa kế mà được giao cho một người quản lý để thực hiện việc thờ cúng.
- Trong thực tiễn xét xử tại Tòa thì Tòa án lại chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được giao
cho anh Được quyền sở hữu căn nhà và anh phải có nghĩa vụ thanh toán giá trị di sản thừa kế
cho anh Tân và chị Hương. Như vậy, xét về lý thì cách xử củaTòa có phần không đúng với quy
định của BLDS. Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì cách
xử của Tòa vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà đất
được chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa không nhận di
sản mà cho lại anh Được; căn nhà vẫn được giữ nguyên và anh Được là người quản lý căn nhà
và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất hợp lý ở đây đó là, di sản để thờ cúng nếu theo
di chúc thì ta xác định là sở hữu chung của những người thừa kế, vậy thì không được định đoạt,
chia lẻ chỉ được quản lý.
Tuy nhiên Tòa án lại xử chia di sản và anh Được phải thanh toán giá trị di sản phần thừa kế cho
hai người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản ra,đánh mất bản chất chỉ quản lý để thờ cúng mà
không định đoạt.

You might also like