Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 19

1.

Dựa vào cơ sở nào để khẳng định 1 trường phái triết học duy vật, duy tâm hay nhi nguyên
Dựa vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học
Căn cứ vào việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học, từ trong lịch sử triết học đã
được phân chia thành những trường phái lớn sau đây:
Trường phái 1: Những nhà triết học cho rằng vật chất, giới tự nhiên có trước và giữ vai trò quyết định
được gọi là các nhà duy vật và học thuyết của học hợp thành chủ nghĩa duy vật.
Trường phái 2: Những người cho rằng tinh thần là cái có truớc, quyết định VẬT CHẤT được gọi là
các nhà triết học duy tâm và học thuyết của học được tập hợp thành chủ nghĩa duy tâm.
Trường phái 3: Những nhà triết học cho rằng VẬT CHẤT và Ý THỨC là hai nguyên thể song song
tồn tại không cái nào quyết định cái nào, cả hai cùng là nguồn gốc tạo ra thế giới được gọi là các nhà
nhị nguyên và học thuyết của học hợp thành học thuyết nhị nguyên luận (Decacton)
* Trường phái triết học duy vật có lịch sử hình thành, phát triển thông qua 3 hình thái chủ yếu:
Khi giải quyết mặt thứ nhất (mặt bản thể luận) nếu trả lời VẬT CHẤT có trước, Ý THỨC có sau, Ý
THỨC được sản sinh từ kết cấu VẬT CHẤT nhất định và VẬT CHẤT giữ vai trò quyết định Ý
THỨC thì hợp thành chủ nghĩa duy vật.
- Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ và trong khi thừa nhận tính thứ nhất của
VẬT CHẤT đã đồng nhất VẬT CHẤT với 1 hay 1 số chất cụ thể và nhữnh kết luận của nó chủ yếu
dựa trên quan sát trực tiếp, cảm tính chưa có cơ sở khoa học. Họ cho rằng VẬT CHẤT, thế giới tự
nhiên là cái có trước, Ý THỨC, linh hồn con người là cái có sau cho dù quan điểm còn mộc mạc, giản
đơn nhưng nó chứa đựng những phỏng đoán thiên tài, là cơ sở cho thế giới quan triết học sau này. Họ
đã cố gắng lấy thế giới để giải thích thế giới mang tính trực quan cảm tính, chưa dựa trên cơ sở khoa
học nào. (âm dương ngũ hành ở Trung quốc - Đất, nước, lửa, khí ở ấn độ -Khí ...phương Tây)
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình máy móc ở thế kỷ 17, thế kỷ 18. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điểm thu
thập được những thành tựu rực rỡ nênkhi tiếp tục ptriển quan điểm của CHỦ NGHĨA DUY VẬT thời
cổ đại, CHỦ NGHĨA DUY VẬT thời kỳ này đã chịu tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu
hình, máy móc nó xem xét, quan niệm thế giới như một hệ thống máy móc phức tạp bao gồm nhiều bộ
phận không có liên hệ với nhau, không vận động không phát triển, bất biến, ngưng đọng.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng có đặc điểm nổi bật: là CHỦ NGHĨA DUY VẬT có sự thống nhất, kết
hợp chặt chẽ với phép biện chứng, đồng thời khái quát được thành tựu của các khoa học chuyên
ngành. Đây là hình thức cao nhất do Mác – Eng ghen sáng lập và Lênin phát triển được hình thành
vào n năm 40 của thế kỷ 19, nó khắc phục những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước nó, nó xem xét
thế giới trong tính chỉnh thể, thống nhất trong sự tác động qua lại biện chứng với nhau, nó là cơ sở thế
giới quan, phương pháp luận để nghiên cứu và tìm hiểu thế giới. Ngoài ra trong lịch sử phát triển của
CHỦ NGHĨA DUY VẬT còn có hình thái chủ nghĩa duy vật tầm thường (đồng nhất vật chất với Ý
THỨC và xem nhẹ vai trò của Ý THỨC), và hình thái chủ nghĩa CHỦ NGHĨA DUY VẬT kinh tế
(trong đó xem kinh tế là nhân tố duy nhất quyết định ạư tồn tại và phát triển của xã hội). Điều nay
được Đảng cộng sản VN khẳng định con đường đi lên xây dựng CNXH là không coi kinh tế là quyết
định tất cả.
* Trường phái triết học Duy tâm tồn tại và phát triển dưới hai hình thức sau đây:
Chủ nghia duy tâm xuất hiện ngay từ khi triết học ra đời. Sở dĩ gọi là duy tâm vì nó trả lời Ý THỨC là
cái có trước, VẬT CHẤT, thế giới khách quan là cái có sau, Ý THỨC quyết định VẬT CHẤT.
- CHỦ NGHĨA DUY TÂM khách quan (Pla ton, Heghen) cho rằng có một thực thể tinh thần hay ý
niệm tuyệt đói tồn tại bên ngoài độc lập với con người có trước con người đã sinh ra vạn vật, quyết
định sự tồn tại và phát triển của thế giới và con người.
- CHỦ NGHĨA DUY TÂM chủ quan (Becoli) cho rằng cảm giác và Ý THỨC của con người là cái có
trước và tồn tại sẵncó trong con người, mọi sự vật hay thế giới vật chất chỉ là kết quả của sự phức hợp
của cảm giác mà thôi. Do đó, toàn bộ cái thế giới khách quan bên ngoài chỉ là “phức hợp” của những
cảm giác do cái “Tôi” sinh ra. (ĐH VI của Đảng phân tích sự chủ quan duy ý trí....)
Tóm lại, cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan cho dù có những biến thái, cách giải quyết
khác nhau về mặt thứ nhất song nó giống nhau ở chỗ đều coi Ý THỨC, tinh thần là cái có trước, quyết
định VẬT CHẤT, nó thường là đồng minh của tôn giáo, là vũ khí của giai cấp thống trị trong việc nô
dịch quần chúng nhân dân, nó chống lại khoa học và những tư tưởng tiến bộ.
* Ngoài ra còn có trường phái nhị nguyên luận, họ cho rằng cả VẬT CHẤT và tinh thần đều tồn tại
song song, chúng độc lập với nhau, VẬT CHẤT sinh ra VẬT CHẤT, tinh thần sản sinh ra các hiện
tượng tinh thần. Đại biểu của nó chính là Đề các tơ.
2. Các hình thức chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm và vai trò của nó trong đời sống xã hội
*chủ nghĩa duy vật:
Trong lịch sử, cùng với sự phát triển của thực tiễn và nhận thức khoa học,chủ nghĩa duy vật đã trải
qua ba hình thức cơ bản là: Chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa
duy vật biện chứng.
Chủ nghĩa duy vật chất phác là hình thức sơ khai của chủ nghĩa duy vật. Trong khi thừa nhận tính thứ
nhất của vật chất, chủ nghĩa duy vật chất phác đã lý giải toàn bộ sự sinh thành của thế giới từ một
hoặc một số dạng vật chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản nguyên của thế giới.
Những lý giải đó được thể hiện trong nhiều học thuyết duy vật thời cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ và
Hy Lạp.
Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác về cơ bản là đúng vì nó đã lấy bản thân
vật chất của giới tự nhiên để giải thích về thế giới.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện tiêu biểu trong
lịch sử triết học Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII. Đặc điếm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là
phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức về thế giới.
Tuy chưa phản ánh đúng thế giới trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển nhưng chủ nghĩa duy vật
siêu hình đã góp phần quan trọng trong việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, nhất là giai
đoạn lịch sử chuyển tiếp từ thời Trung cổ sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và phát triển. Với sự kế thừa tinh
hoa của các học thuyết triết học truớc đó và sử dụng triệt để những thành tựu khoa học tự nhiên đương
thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa
duy vật chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại Tây Âu, đạt tới trình độ là
hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên cơ sở phản ánh đúng đắn hiện
thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung
cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở lý giải một
cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế
giới. 
VD:quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit...
chủ nghĩa duy vật đã phát triển khoảng năm 600 TCN với các tác phẩm của Ajita
Kesakambali, Payasi, Kanada 
*chủ nghĩa duy tâm:
Chủ nghĩa duy tâm ra đời từ hai nguồn gốc:
Một là, nguồn gốc nhận thức luận: Đó là sự tuyệt đối hóa, thổi phồng mặt tích cực của nhân tố ý thức
con người, trong nhận thức và thực tiễn. Sai lầm của chủ nghĩa duy tâm triết học biểu hiện ở việc
khẳng định về sự tồn tại trước và có vai trò quyết định của nhân tố ý thức, tinh thần đối với nhân tố
vật chất trước hết bắt nguồn từ chỗ trong cuộc sống con người (cả trong nhận thức và thực tiễn), ý
thức có vai trò rất to lớn, tích cực. Chính xuất phát từ khả năng sáng tạo của ý thức, tư duy con người
với những “mô hình” tồn tại trong đầu, thông qua hoạt động thực tiễn của con người đã cho ra đời cả
một thế giới các sự vật mới, đã làm cho bộ mặt của thế giới vật chất, của xã hội biến đổi sâu sắc.
Tương tự, trong nhận thức cũng vậy, để đi tới sự đánh giá nhất định về sự vật, hiện tượng bên ngoài,
đòi hỏi người ta phải thông qua ý thức, cảm giác, phải dựa vào vốn hiểu biết cũng như năng lực tư duy
nhất định của mình. Từ thực tế đó, các nhà triết học duy tâm đi tới quan điểm cho rằng nhân tố ý thức,
tinh thần có trước sự vật bên ngoài, tồn tại độc lập với sự vật bên ngoài, thậm chí quyết định sự tồn tại
sự vật bên ngoài. Họ không biết rằng hay cố tình không biết, xét cho tới cùng, những hình ảnh trong
đầu, những “mô hình” có sẵn, chỉ có thể có được thông qua sự phản ánh các sự vật hiện tượng bên
ngoài vào đầu óc của con người. Có thể khẳng định, chủ nghĩa duy tâm thể hiện một quan điểm phiến
diện, đối với vai trò nhân tố ý thức, tinh thần. V.I.Lênin cũng từng chỉ rõ: “Theo quan điểm của một
chủ nghĩa duy vật thô lỗ, giản đơn, siêu hình, thì chủ nghĩa duy tâm triết học chỉ là một sự ngu xuẩn.
Trái lại, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự
phát triển (một sự thổi phồng, bơm to) phiến diện, thái quá (...) của một trong những đặc trưng, của
một trong những mặt, của một trong những khía cạnh của nhận thức thành một cái tuyệt đối, tách rời
khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hóa” .
Hai là, nguồn gốc xã hội: Đó là sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay trong các chế độ
xã hội có sự phân chia giai - tầng, đẳng cấp: thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Trong chế độ xã
hội này, sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay được biểu hiện cụ thể bằng địa vị thống
trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay. Tình trạng đó đã dẫn tới quan niệm cho rằng nhân tố
tinh thần, tư tưởng có vai trò quyết định tới sự biến đổi, phát triển của xã hội nói riêng, thế giới nói
chung. Chẳng hạn như Nho giáo quan niệm rằng yếu tố đạo đức đóng vai trò quyết định sự ổn định và
phát triển của xã hội. Quan điểm duy tâm này lại được các giai cấp thống trị đương thời ủng hộ, bảo
vệ để làm cơ sở lý luận cho các quan điểm chính trị - xã hội nhằm duy trì địa vị thống trị của mình.
Chính vì thế mà trong lịch sử triết học, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và của nghĩa duy tâm
thường gắn liền với các cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng chính trị. Chủ nghĩa duy vật thường gắn liền
với tư tưởng chính trị dân chủ, tôn trọng các quyền lợi cơ bản của giới lao động chân tay, bị trị trong
xã hội. Chủ nghĩa duy tâm thường gắn liền với tư tưởng chính trị độc đoán, phi dân chủ, thiếu tôn
trọng, thậm chí không quan tâm tới quyền lợi của người lao động bị trị.
Vai trò của chủ nghĩa duy tâm biểu hiện ở chỗ, nhấn mạnh tới vai trò hết sức to lớn của nhân tố tinh
thần, lý tính đối với sự tồn tại và phát triển xã hội. Mặc dù diễn giải về nhân tố tinh thần, lý tính bằng
một hình thức duy tâm thần bí, mà thực chất là sự tuyệt đối hóa các nhân tố này, tách rời sự tồn tại của
nó ra khỏi hoạt động của con người, song việc chú trọng xem xét, phân tích, đánh giá vai trò của nhân
tố tinh thần của chủ nghĩa duy tâm đã góp phần quan trọng vào sự phát triển tư duy lý luận của nhân
loại, tạo nên một hiện tượng mà V.I.Lênin gọi là “chủ nghĩa duy tâm thông minh”.
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có trớc và quyết định giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ
là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Vd quan niệm của beccoly,Platon, Hêghen.
Một số truyền thống ấn độ giáo và tông phái phật giáo có thể được coi là theo chủ nghĩa duy tâm. Một
số tông phái Phật giáo được gọi là các phái duy thức vì họ chú trọng vào ý thức mà không có một
Thượng đế hay linh hồn.
Câu 3: Định nghĩa vật chất của Lenin khắc phục được thiếu xót nào trong quan niệm về vật chất
của triết học trước Mác? (trang 122 trong sách)
Quan điểm của V.I.Lênin về vật chất: “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Quan niệm của triết học Mác-Lênin về vật chất, mà cụ thể là định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
đã khắc phục được một số hạn chế cơ bản sau của triết học trước Mác về vật chất:
- Thứ nhất, bác bỏ quan niệm của chủ nghĩa duy tâm về vật chất và mối quan hệ giữa vật chất với
ý thức – đó là quan niệm phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn tại” của các sự vật, hiện tượng của thế giới;
và cho rằng, bản chất thế giới và ý thức, ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có
trước và quyết định vật chất.
- Thứ hai, bác bỏ thuyết không thể biết, vì về nguyên tắc, con người có thể nhận thức được thế giới
vật chất. Trong thế giới vật chất không có là gì là không thể biết, chỉ có những cái đã biết, đang biết và
sẽ biết.
- Thứ ba, khắc phục được những khiếm khuyết trong các quan điểm duy vật chất phác thời cổ đại
và duy vật siêu hình thời cận đại về vật chất. Không có một dạng cụ thể cảm tính nào của vật chất hay
một tập hợp nào đó các thuộc tính của vật chất lại có thể đồng nhất hoàn toàn với bản thân vật chất.
Vật chất với tính cách là phạm trù triết học là sản phẩm của sự trừu tượng hoá, khái quát hoá nên
không có các thuộc tính cụ thể như độ dài, ngắn, cao, thấp mà chúng ta có thể cảm nhận trực tiếp bằng
giác quan. Như vậy, vật chất phải được hiểu là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất
kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
- Thứ tư, quan niệm vật chất của triết học Mác-Lênin cho phép xác định cái gì là vật chất trong
lĩnh vực xã hội. Đây là điều mà các nhà duy vật trước C.Mác cũng chưa đạt tới. Nó giúp cho các nhà
khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân thuộc về sự vận động của phương thức sản
xuất; trên cơ sở đó, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát
triển.
Câu 4: Phân tích hình thức tồn tại vật chất (Vận động không gian và thời gian)
(trang 21 trong sách + sưu tầm thêm :***)
- Vận động : là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất.
- Vận động không gian và thời gian là một hình thức tồn tại của vật chất.
- Quan điểm duy vật biện chứng cho rằng mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí
nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong
các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái…) với
những dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy gọi là không gian. Mặt khác sự
tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển
hoá… những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian.
- Ăng-ghen cho rằng: “Các hình thức cơ bản của mọi sự tồn tại là không gian và thời
gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian”. Do đó có
thể hiểu không có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian và thời gian, cũng như không có
không gian và thời gian nào tổn tại bên ngoài vật chất.
- Không gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất đó là tính
khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn. Không gian có thuộc tính 3 chiều
(chiều dài, chiều rộng, chiều cao) còn thời gian chỉ có 1 chiều (từ quá khứ đến tương
lai).Tính 3 chiều của không gian và tính 1 chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn
tại về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.

Câu 5 . Chứng minh ý thức của con người góp phần sáng tạo ra thế giới?

- “Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo ra thế giới”.
- a) Chứng minh bằng lý luận: 

- *Dựa vào bản chất ý thức: Ý thức là sự phản ánh nhưng là sự phản ánh có sáng tạo. Ý thức bao
gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…. Trong đó, tri thức (yếu tố cốt
lõi) và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức và tình cảm thống nhất, chuyển hoá lẫn nhau;
sự thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người,
góp phần làm cho con người trở thành chủ thể sáng tạo ra lịch sử. 
- Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức, do vậy lý luận về bản chất của ý thức có
thể dùng để chứng minh luận điểm trên. Ý thức là sự phản ánh nhưng là sự phản ánh sáng tạo. 
Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, dựa trên những gì đã được phản ánh, theo
quy luật của sự phản ánh từ đó tạo ra những hình tượng, những tư tưởng, những hiểu biết mang
lại tri thức cho con người. Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có
nghĩa là ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới. Thật vậy, thế giới vật chất không
bao giờ bộc lộ hết bản chất của nó, do nhu cầu khám phá và chinh phục giới tự nhiên để phục
vụ nhu cầu cuộc sống, trên cơ sở những cái đã được phản ánh con người đã đề xuất các mô
hình, các giả  thuyết, các đề án, các tiên đoán, dự báo tương lai…về sự vật, hiện tượng trong thế
giới vật chất và  dùng thực tiễn để buộc sự vật, hiện tượng bộc lộ bản chất nhằm kiểm chứng
các mô hình, các giả  thuyết như một cách khẳng định chân lý. Đồng thời thông qua hoạt động
thực tiễn, ý thức con người thâm nhập vào lực lượng vật chất để hiện thực hoá -biến những mô
hình, những đề án, chương trình, kế hoạch đi vào cuộc sống từ đó góp phần cải tạo thế giới mà
trước hết là đời sống  xã hội của loài người. 
- * Dựa vào vai trò của ý thức. 
- - Ý thức tỏ rõ sức sáng tạo khi ý thức xâm nhập vào hiện thực cuộc sống và phản ánh được hiện
thực cuộc sống: 
- + Ý thức xâm nhập càng sâu thì tạo ra sức mạnh càng lớn, từ đó tạo ra sức sáng tạo càng lớn.
Thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người xâm nhập
vào hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức mạnh này,
ý thức tác động đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Cả giới tự nhiên thứ hai hay
đời sống xã hội của con người là sự thể hiện vai trò tác dụng của các nhân tố ý thức. Ý thức con
người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới theo nhu cầu thực
tiễn xã hội. 
- + Sức tác dụng của ý thức phụ thuộc vào mức độ xâm nhập của các nhân tố ý thức vào lực
lượng vật chất. Nếu các nhân tố ý thức không xâm nhập được vào lực lượng vật chất thì chúng
không có tác dụng gì cả. Ý thức có vai trò sáng tạo khi và chỉ khi xâm nhập vào hiện thực
cuộc sống, được vật chất hóa, quần chúng hóa. Nếu chúng xâm nhập càng sâu rộng vào các lực
lượng vật chất thì sức mạnh càng lớn, phản ánh càng đúng quy luật, do đó sức sáng tạo, sức tác
dụng của  chúng đến hiện thực vật chất càng cao.  
- - Ý thức là một bộ phận của thế giới góp phần tạo ra thế giới tự nhiên thứ 2 gọi là xã hội loài
người: 
- Bộ phận thế giới mà ý thức góp phần tạo ra gọi là đời sống xã hội con người. Con người là chủ
thể sáng tạo ra đời sống xã hội. Con người có ý thức và thông qua hiện tượng vật chất, ý thức
xâm nhập vào hoạt động thực tiễn. Bộ phận thế giới con người góp phần sáng tạo ra gọi là xã
hội loài người. Trật tự xã hội, chế độ xã hội là giới tự nhiên thứ hai với những công trình,
những thành tựu khoa học công nghệ, những thành tựu trong các lĩnh vực văn hóa xã hội..., hay
đời sống xã hội của con người là sự thể hiện vai trò tác dụng của các nhân tố ý thức. Vì vậy, ý
thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới nữa. 
- b) Bằng thực tiễn chúng ta thấy rằng: 
- - Chủ nghĩa cộng sản là sự sáng tạo ra của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng
sản: Chủ nghĩa cộng sản là kết quả sự sáng tạo của đông đảo quần chúng nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản được trang bị bằng lý luận của CN Mác-Lênin. Cách
mạng là đổi mới, là sáng tạo. Cách mạng đã thực sự làm đổi thay cơ bản cơ cấu xã hội Việt
Nam vốn đã tồn tại từ lâu, đưa đến một sự thay đổi lớn cho dân tộc và quần chúng dân nhân.
Cách mạng tư tưởng góp phần không nhỏ đưa dân tộc ta thoát khỏi ách áp bức bóc lột, xây
dựng cuộc sống ấm nó, hạnh phúc, xây dựng chủ nghĩa công sản. Trong công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, Đảng vẫn đóng vai trò quyết định sự đi lên, phát triển
của đất nước thông qua sự lãnh đạo  bằng các đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng tạo. Trong
bối cảnh tình hình đã có nhiều sự biến chuyển, khi đất nước đã có sự phát triển mạnh mẽ về
kinh tế, xã hội, mặt bằng dân trí được nâng  cao, mọi mặt đời sống đã hội nhập sâu với thế giới,
xu thế toàn cầu hoá đóng vai trò chủ đạo, thì các đường lối, chủ trương, chính sách đã chứng
minh được điều chỉnh phù hợp và nhận được sự đồng thuận cao của toàn dân trong các vấn đề
trọng đại của đất nước. Đó là kết quả của tri thức và tri thức là khoa học, thể hiện sự không
ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành
niềm tin và ý chí thì tự nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. 
- - Sản phẩm làm ra có một phần chất xám chính là ý thức con người tham gia vào quá trình tạo
nên sản phẩm: 
- Ngày nay loài người có sức sáng tạo to lớn, đạt được những thành công, tạo ra các phát minh
vượt trội là do con người phát huy được tối đa sức mạnh của tinh thần, đó chính là nền kinh tế
tri thức. Sản phẩm làm ra có một phần chất xám. Mỗi sản phẩm tạo ra là sự đúc kết của tri
thức của con người, tri thức tham gia cấu thành và tạo nên sản phẩm. Tác động của ý thức, mà
chủ yếu là tri thức đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho
hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác
động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ
thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học, văn hoá và tư
tưỏng. 
- - Tư tưởng hướng dẫn quần chúng nhân dân xóa bỏ chế độ cũ tạo ra chế độ mới: 
- Sự thay đổi trong mô hình xã hội cũng là một minh chứng thực tiễn của luận điểm trên.
Các cuộc CM bao giờ cũng được hướng dẫn bởi tư tưởng CM, lấy tư tưởng CM làm kim chỉ
nam cho hành động. Tư tưởng CM xâm nhập vào quần chúng, được quần chúng ủng hộ thì sẽ
tạo ra động  lực thúc đẩy quần chúng xóa bỏ XH cũ, xây dựng XH mới. Điều này có thể được
thấy rất rõ ràng trong cuộc CM của CN tư bản, tư tưởng tư sản đã hướng dẫn quần chúng nhân
dân xóa bỏ XH phong kiến, sáng tạo và xây dựng nên CN tư bản. 
Câu 6. Cơ sở triết học, lý luận của nguyên tắc khách quan ( mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức )
Câu 7. Vì sao nói triết học Mac ra đời là bước ngoặt cách mạng?
- Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời triết học Mác Triết học Mác không phải là một sản phẩm có
tính chất chủ quan, đồng thời nó cũng không phải từ trên trời rơi xuống. Triết học đó là sản
phẩm tất yếu của lịch sử. - Triết học Mác đã kế thừa có phê phán toàn bộ triết học trước đó nhất
là triết học duy vật và phép biện chứng. Đó là những tiền đề lý luận không thể thiếu được của
triết học Mác. - Triết học Mác ra đời còn gắn liền với những điều kiện khách quan của sự phát
triển kinh tế - xã hội và sự phát triển của khoa học đương thời. Trong khoa học tự nhiên thế kỷ
XIX đã có ba phát minh lớn: định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng; học thuyết tế bào;
học thuyết tiến hoá. Đồng thời về mặt xã hội thế kỷ XIX cũng là thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã bộc
lộ những mâu thuẫn xã hội sâu sắc. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Mâu thuẫn ấy được biểu hiện thông qua các cuộc đấu tranh giai cấp hết sức sôi động và quyết
liệt ở châu Âu. Trước tình hình trên, cần phải có một sự kiến giải mới về sự phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Và tất yếu xuất hiện một học thuyết mới đó là học thuyết triết học khoa
học, do Mác và Ăngghen đề xướng, sau này được Lênin phát triển.
- Sự ra đời của triết học Mác - Lênin là một bước ngoặt cách mạng trong triết học Cơ sở của chủ
nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với cơ sở này, lần đầu
tiên giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã có một vũ khí tinh thần để đấu tranh giải phóng giai
cấp mình và cả xã hội ra khỏi sự áp bức bóc lột. Như vậy, triết học Mác là vũ khí tinh thần của
giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là lực lượng "vật chất" của triết học Mác. Sự thống nhất chặt
chẽ giữa triết học Mác với giai cấp vô sản, làm cho triết học Mác thực sự thể hiện tính cách
mạng của mình và giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử là lật đổ xã hội cũ, từng
bước xây dựng một xã hội mới. - Khác với tất cả các hệ thống triết học trước đó, triết học Mác
đã chỉ ra vai trò quyết định của hoạt động thực tiễn trong sự tồn tại, phát triển của xã hội và
trong nhận thức. Nếu không hiểu đúng vai trò của thực tiễn, nhất là thực tiễn sản xuất xã hội, thì
tất yếu dẫn đến chủ nghĩa duy tâm. Trong nhận thức, thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức, là nơi mà lý luận hướng đến để giải thích và cải tạo thế giới. Mác đã cho rằng: "Các
nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải
tạo thế giới". Tất nhiên, khi nhấn mạnh đến vai trò của hoạt động thực tiễn, Mác và Ăngghen
không coi nhẹ vai trò của lý luận. Các ông cho rằng, lý luận khi đã thâm nhập vào quần chúng,
sẽ trở thành lực lượng vật chất vô cùng to lớn. - Bước ngoặt cách mạng vĩ đại nhất mà chủ nghĩa
Mác thực hiện là đã đưa ra quan điểm duy vật về lịch sử. Trước Mác, các nhà triết học hiểu sự
phát triển của xã hội một cách duy tâm - coi động lực phát triển của xã hội là ở trong ý thức, tinh
thần của con người. Đối lập với quan điểm trên, Mác, Ăngghen đã giải quyết đúng đắn vấn đề cơ
bản của triết học trong đời sống xã hội; không phải ý thức xã hội quyết định tồn tại xã hội, mà
ngược lại tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào nguyên
nhân vật chất, chứ không phụ thuộc vào ý thức của con người; sự phát triển của xã hội mang tính
quy luật, là quá trình lịch sử tự nhiên. Do sự tác động của các quy luật vốn có của xã hội, các
hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau một cách khách quan độc lập với ý chí và ý thức của con
người; trong sự phát triển ấy, quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sáng tạo ra lịch sử...
Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã biến đổi căn
bản tính chất của triết học, đối tượng nghiên cứu và mối liên hệ của nó với các khoa học khác.
Triết học Mác đóng vai trò là thế giới quan và phương pháp luận. Các tri thức của các khoa học
cụ thể là cơ sở để cụ thể hoá và phát triển triết học Mác. Lênin đã bảo vệ và tiếp tục phát triển
triết học Mác trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Ông cho
rằng, đây là thời kỳ cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, và ông đã trực
tiếp lãnh đạo, thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Lúc này, khoa học có nhiều phát
minh lớn, nhất là trong vật lý học, Lênin đã khái quát những thành tựu của khoa học, phát triển
hơn nữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Câu 8: Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử-cụ thể?
-Cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử-cụ thể là nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến: phép biện chứng duy vật khẳng định mọi sự vật, hiện tượng luôn nằm trong các mối liên hệ đa
dạng, phổ biến
-Khái niệm mối liên hệ. Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối rành buộc tương
hỗ, quy định ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một đối tượng hoặc giữa các đối
tượng với nhau.
-Khái niệm mối liên hệ phổ biến: là phạm trù triết học dùng để chỉ các mối liên hệ xảy ra một cách
phổ biến ở tất cả mọi sự vật, hiện tượng, ở mọi lĩnh vực của thế giới: tự nhiên, xã hội và tư duy con
người.
-Tính chất của mối liên hệ phổ biến:
+ Tính khách quan: các mối liên hệ phổ biến xuất hiện một cách khách quan trong sự tồn tại, phát
triển của thế giới.
+ Tính phổ biến: các mối liên hệ phổ biến tồn tại trong mọi lĩnh vực của thế giới
+ Tính đa dạng, phong phú: các mối liên hệ xuất hiện và tồn tại một cách đa dạng và phong phú trong
từng lĩnh vực, từng sự vật, hiện tượng.
-Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Cần tuân thủ các nguyên tắc toàn diện:
+Thứ nhất, khi nghiên cứu, xem xét đối tượng cụ thể, cần đặt nó trong chỉnh thể thống nhất của tất cả
các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tinh, các mối liên hệ chỉnh thể đó.
+Thứ hai, chủ thể phát rút ra được các mặt, các mối liên hệ tất yếu của đối tượng đó và nhận thức
chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại.
+Thứ ba, cần xem xét đối tượng này trong mối liên hệ với đối tượng khác và với môi trường xung
quanh.
+Thứ tư, tránh rới vào quan điểm phiến diện, một chiều, hoặc xem xét dàn trải, dễ rơi vào thuật ngụy
biện và chủ nghĩa chiết trung.
Ví dụ của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
1.Ví dụ, khi bạn muốn trồng một cái cây. Bạn phải có hạt giống và đất. Bạn phải tưới nước cho nó mỗi
ngày. Đồng thời phải cho nó quang hợp, tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Chỉ có như vậy thì hạt mới
nảy mầm. Nếu như không có những điều kiện kết, hạt giống sẽ không bao giờ nảy mầm. Có thể thấy
rằng giữa hạt giống và môi trường xung quanh có mối liên hệ nhất định.
2.Giữa tri thức cũng có mối liên hệ phổ biến. Khi chúng ta làm đề kiểm tra toán, lý, hóa, chúng ta
phải vận dụng kiến thức văn học để đánh giá đề thi. Khi giải đề lý, hóa, chúng ta phải vận dụng công
thức toán học để tính toán. Khi học các kiến thức về môn xã hội, chúng ta phải vận dụng phương thức
tư duy lô gíc của các môn tự nhiên.
3. Thực vật, nước và không khí có mối liên hệ phổ biến. Nước và không khí là điều kiện sinh tồn của
thực vật. Thực vật có tác dụng làm sạch đối với nước và không khí.
Câu 9: Cơ sở lí luận của quan điểm phát triển?
-Cơ sở lí luận của quan điểm phát triển là nguyên lý về sự phát triển: phép biện chứng duy vật khẳng
định mọi sự vật, hiện tượng luôn nằm trong xu hướng vận động, phát triển không ngừng.
-Khái niệm phát triển: là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, từ
chất cũ đến chất mới ở trinh độ cao hơn.
-Hai khai niệm tiến hóa và tiến bộ.
+Tiến hóa là một dạng phát triển, diễn ra một cách từ diên, và thường là sự biến đổi hình thức của tồn
tại xã hội từ đơn giản đến phức tạp
+Tiến bộ là đề cập đến sự phát triển có giá trị tích cực. Tiến bộ là một quá trinh biến đổi hướng tới cải
thiện thực trạng xã hội từ chỗ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn sơ với thời điểm ban đầu.
-Lưu ý:
+Sự phát triển là sự vận động đi lên, thông qua bước nhảy
+Nguồn gốc bên trong của sự vận động, phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật,
hiện tượng.
+Đặc điểm chung của sự phát triển là tinh tiến lên theo con đường xoay ốc, có kế thừa, có sự dường
như lặp lại của sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, làm cho sự phát triển mang tinh quanh
co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự tiến lên.
-Tính chất của sự phát triển:
+ Tính khách quan
+ Tính phổ biến
+ Tính kế thừa
+ Tính đa dạng, phong phú
-Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển:
Cần tuân thủ nguyên tắc phát triển:
+Thứ nhất, cần đặt đối tượng vào sự vận động, phát hiện xu hướng biến đổi của nó để không chỉ nhận
thức nó ở trạng thái hiện tại, mà còn dự báo được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
+Thứ hai, phát triển là quá trinh trải qua nhiều giai đoạn với đặc điểm, tinh chất, hình thức khác nhau
nên cần tìm hình thức, phương pháp tác động phù hợp.
+Thứ ba, phải sớm phát hiện và ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho nó phát triển; chống lại
quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến.
+Thứ tư, trong quá trinh thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa các yếu tố tích cực từ cái cũ và
sự phát triển sang tạo chúng trong điều kiện mới.
Ví dụ về nguyên lý về sự phát triển:
1. Phát triển mang tính phổ biến. Ví dụ phát triển diễn ra cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy, diễn
ra ở mọi lúc, mọi nơi. Ví dụ trong tư duy: không biết – biết it – biết nhiều. Trong tự nhiên: quá trình
phát triển của con người. Trong xã hội: Quá trinh phát triển trong nông nghiệp; quá trinh phát triển
trong công nghiệp.
2. Phát triển mang tính đa dạng phong phú:
+ Mỗi sự vật hiện tượng có quá trinh phát triển không hoan toàn giống nhau.Ví dụ: Ngày nay trẻ em
phát triển nhanh hơn cả về thể chất lẫn trí tuệ so với trẻ em thế hệ trước.
+Do tồn tại khác nhau ở thời gian, không gian, sự vật phát triển khác nhau.Ví dụ: Hạt giống được gieo
trồng ở không gian, thời gian khác nahu sẽ có sự phát triển khác nhau
3. Sự phát triển mang tinh kế thừa, dường như lặp lại nhưng trên cơ sở cao hơn.Ví dụ: Công sản
nguyên thủy – Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến – Tư bản chủ nghĩa – Xã hội chủ nghĩa.
Câu 10 : Trong cuộc sống phải biết tuân theo những quy luật nhưng phải biết nắm bắt cơ hội .
“ Trong cuộc sống phải biết tuân theo những quy luật nhưng phải biết nắm bắt cơ hội ” dựa trên cặp
phạm trù tất nhiên & ngẫu nhiên của phép biện chứng duy vật .
- Khái niệm :
+ Tất nhiên là phạm trù chi mối liên hệ bản chất , do nguyên nhân cơ bản bên trong sự vật , hiện tượng
quy định và trong điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như thế chứ không thể khác .
+ Ngẫu nhiên là phạm trù chi mối liên hệ không bản chất , do nguyên nhân , hoàn cảnh bên ngoài quy
định nên có thể xuất hiện , có thể không xuất hiện , có thể xuất hiện thế này hoặc có thể xuất hiện thế
khác .
- Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên :
+ Tất nhiên luôn bộc lộ thông qua vô số ngẫu nhiên , còn ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của tất
nhiên , bổ sung cho tất nhiên .
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò nhất định trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng ,
trong đó , tất nhiên đóng vai trò quyết định sự phát triển , còn ngẫu nhiên có thể chi phối , làm cho sự
phát triển ấy diễn ra nhanh hay chậm .
+ Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là tương đối , biểu hiện , thậm chí , giữa chúng có chuyển
hóa cho nhau .
- Ý nghĩa phương pháp luận :
+ Thứ nhất , cần dựa vào tất nhiên chứ không thể dựa vào ngẫu nhiên .
+ Thứ hai , chỉ có thể tìm ra được tất nhiên bằng cách nghiên cứu những ngẫu nhiên .
+ Thứ ba , không nên bỏ qua ngẫu nhiên mà phải có những phương án dự phòng trường hợp sự cố
ngẫu nhiên xuất hiện bất ngờ
+ Thứ tư , trong thực tiễn , cần tạo ra điều kiện thuận lợi để cái ngẫu nhiên phù hợp với thực tiễn
thành tất nhiên và tất nhiên không phù hợp thực tiễn thành ngẫu nhiên . các ngờ .

Câu 11 : Cách thức vận động và phát triển của các sự vật hiện tượng trên thế giới.
Mọi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng.
1. Cặp phạm trù chất và lượng
– Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất
hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
Từ quan niệm trên chúng ta không nên đồng nhất khái niệm chất với khái niệm thuộc tính.
+ Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính. Nhưng những thuộc tính này không tham gia vào việc
quy định chất như nhau, mà chỉ có những thuộc tính cơ bản mới quy định chất của sự vật. Vì thế, chỉ
khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới thay đổi. Khi các thuộc tính không cơ bản
có thể thay đổi, nhưng không làm cho chất của sự vật thay đổi.
+ Mặt khác, các thuộc tính cũng như chất của sự vật chỉ bộc lộ qua những mối liên hệ cụ thể. Do đó,
việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc tính cũng chỉ là tương đối. Và như
vậy, mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có nhiều chất tuỳ theo những mối quan hệ cụ
thể của nó với những cái khác.
+ Chất biểu hiện tính ổn định tương đối của sự vật, là cái vốn có và không tách rời sự vật. Do đó,
không thể có chất tồn tại “thuần tuý” hoặc là phụ thuộc vào cảm giác chủ quan của con người như các
nhà triết học duy tâm chủ quan quan niệm.
Ví dụ:
Thuộc tính của đường là ngọt
Thuộc tính của muối là mặn
– Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính, các yếu tố… cấu thành sự
vật.
+ Đặc trưng của lượng được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích thước dài hay ngắn, quy
mô to hay nhỏ, tổng số nhiều hay ít, trình độ cao hay thấp, tốc độ nhanh hay chậm v.v.. Nhưng đối với
các sự vật phức tạp, không thể chỉ diễn tả bằng những con số chính xác, mà còn phải được nhận thức
bằng khả năng trừu tượng hoá.
+ Cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có bên trong của sự vật.
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là, có cái ở trong quan này là chất, nhưng
trong quan hệ khác là lượng và ngược lại. Do đó, cần chống quan điểm siêu hình tuyệt đối hoá ranh
giới giữa chất và lượng.
Ví dụ:
Tòa nhà có 70 tầng, cao 80m
Diện tích tòa nhà: 8000m2.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
– Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định, còn lượng thường xuyên biến đổi. Song,
hai mặt đó không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất
và lượng ở trong một độ nhất định, khi sự vật đang tồn tại.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn, mà
trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Điểm giới hạn mà khi
lượng đạt tới sẽ làm thay đổi về chất của sự vật thì gọi là điểm nút.
Điểm nút: Sự thay đổi về chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Đó là bước ngoặt căn bản kết thúc
một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình biến đổi liên tục của các sự
vật. Do vậy có thể nói phát triển là sự “đứt đoạn” trong liên tục, là trạng thái liên hợp của các điểm
nút.
– Khi sự vật mới ra đời với chất mới lại có một lượng mới phù hợp, tạo nên sự thống nhất mới giữa
chất và lượng. Sự tác động của chất mới đối với lượng mới được biểu hiện ở quy mô, nhịp điệu phát
triển mới của lượng.
- Ví dụ: quy định nên trạng thái thể lỏng của nước chính là lượng nhiệt độ của nó (chứ không
phải là số lượng nguyên tử hiđrô và ôxi); do vậy, khi lượng nhiệt độ này biến thiên thì tất yếu có
khả năng dẫn tới sự biến đổi về trạng thái của nước sang thể rắn hay lỏng
- Ví dụ: tương ứng với cấu tạo H – 0 – H (cấu tạo liên kết nguyên tử hiđro và 1 nguyên tử oxi) thì
1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của
nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axit,…
3.. Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại giúp
chúng ta nhận thức được phương thức vận động và phát triển của sự vật. Điều này có ý nghĩa quan
trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
1. Để có tri thức đầy đủ về sự vật, ta phải nhận thức cả mặt lượng và mặt chất của nó.
Những nhận thức ban đầu về chất của các sự vật chỉ trở nên đúng đắn và sâu sắc hơn khi đạt tới tri
thức về sự thống nhất giữa chất và lượng của sự vật đó.
Để nhận thức được sự vật, ta phải nhận thức trong mối quan hệ tác động qua lại giữa sự vật đó với
những sự vật khác, cũng như giữa các mặt, thuộc tính của sự vật đó. Vì chỉ khi đó, mặt lượng và mặt
chất của sự vật mới bộc lộ ra.
2. Ta phải tổ chức hoạt động thực tiễn dựa trên sự hiểu biết đúng đắn vị trí, vai trò và ý nghĩa của sự
thay đổi về lượng cũng như sự thay đổi về chất trong sự phát triển xã hội.
Ta phải biết kịp thời chuyển từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất, từ những thay
đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
Để xây dựng chiến lược và sách lược cách mạng, ta phải xem xét tiến hóa và cách mạng trong mối
quan hệ biện chứng của chúng. Hiểu đúng đắn mối quan hệ này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn nghiêm
khắc với chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa tả khuynh.
3. Ta phải kiên trì đổi mới trên từng lĩnh vực để tiến tới đổi mới toàn diện đời sống xã hội.
Nắm được quy luật lượng – chất sẽ giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan, toàn diện và xác định đúng
phương pháp, lộ trình thực hiện công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam
hiện nay.
Theo tính chất, ý nghĩa và phạm vi bao quát của nó, đổi mới là một quá trình mang tính cách mạng. Ta
cần phải thực hiện đổi mới thành công trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội để tạo ra bước nhảy về
chất ở đó. Với sự thành công trên nhiều lĩnh vực, ta có cơ sở thực tế để đổi mới thành công toàn diện
đất nước Việt Nam. Đó là khi ta tạo được bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung.
Những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay chỉ có thể là kết quả của qúa trình thay đổi về
lượng thích hợp. Do đó, bất kỳ sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra những tổn thất
lớn cho đất nước.
Câu 12 : Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập. Hãy phân tích nguồn gốc, động lực
của sự phát triển ?
TL : Quy luật thống nhất và đấu tranh các mặt đối lập vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động
và phát triển.
Nội dung của quy luật:
 Khái niệm mặt đối lập và mâu thuẫn biện chứng
+ Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính những khuynh hướng biến đổi
trái ngược nhau tồn tại trong cùng sự vật, hiện tượng
+ Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập
 Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển
+ Mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa chúng
tạo ra sự phù hợp, cân bằng, liên hệ, phụ thuộc và ràng buộc lẫn nhau
+ Đấu tranh của các mặt đối lập là các mặt đối lập tác động qua lại với nhau theo xu hướng bài trừ
phủ định lẫn nhau
 Phân loại mâu thuẫn
- Bên trong và bên ngoài; Cơ bản và không cơ bản.
- Chủ yếu và thứ yếu; Đối kháng và không đối kháng
Theo ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật của Mac-Lenin, quy luật phủ định của phủ định
vạch ra khuynh hướng của sự vận động và phát triển theo đó sự phát triển của sự vật, hiện tượng có xu
hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn, phát triển theo hình xoắn trôn
ốc.
Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng chung, là tất yếu của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng
nhưng quanh co phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng
ta tránh được cách nhìn phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là
các hiện tượng xã hội, và do vậy cần phải kiên trì đổi mới, khắc phục khuynh hướng bi quan, chán
nản, dao động trước những khó khăn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái mới, vì cái mới là cái ra đời
phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. Mặc dù khi mới ra đời, cái mới có thể còn non yếu, song nó
là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn, cần có nhận thức đúng về cái mới và có thái độ đúng đối với cái mới đồng thời
chủ động phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
Phải có cái nhìn biện chứng trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố
hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư vô chủ nghĩa”, “phủ định sạch trơn”.
Câu 13 : Phân biệt phủ định biện chứng với phủ định siêu hình. Vận dụng tư tưởng phủ định
biện chứng vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam.
 Phủ định biện chứng : phủ định biện chứng dùng để chỉ sự phủ định tạo ra những điều kiện, tiền
đề phát triển của sự vật.
Phủ định biện chứng giữ vai trò tạo ra những điều kiện, tiền đề phát triển của sự vật bởi vì: phủ định
biện chứng là sự tự thân phủ định – xuất phát từ nhu cầu tất yếu của sự phát triển. Đồng thời quá trình
phủ định đó, một mặt kế thừa được những yếu tố của sự vật cũ, cần thiết cho sự phát triển của nó, tạo
ra khả năng phát huy mới của các nhân tố cũ; mặt khác lại khắc phục, lọc bỏ, vượt qua được những
hạn chế của sự vật cũ, nhờ đó sự vật phát trển ở trình độ cao hơn.
Phủ định biện chứng là sự “tự thân phủ định”, tức là sự phủ định xuất phát từ nhu cầu tồn tại, phát
triển của sự vật: sự vật chỉ có thể tồn tại, phát triển một khi nó tất yếu phải vượt qua hình thái cũ và
tồn tại dưới hình thái mới. Tính chất đó của sự phủ định cũng còn gọi là tính khách quan của sự phủ
định. Mặt khác, quá trình phủ định biện chứng cũng là quá trình bao hàm trong đó tính chất kế thừa –
kế thừa các yếu tố nội dung cũ trong hình thái mới, nhờ đó chẳng những nội dung cũ được bảo tồn mà
còn có thể phát huy vai trò tích cực của nó cho quá trình phát triển của sự vật.
 Phủ định siêu hình cũng là sự phủ định xóa bỏ sự tồn tại của sự vật, hiện tượng nào đó. Nhưng
khác với phủ định biện chứng thì phủ định siêu hình cản trở xóa bỏ sạch trơn , tận gốc sự tồn tại
của sự vật hiện tượng 
Trong quá trình xây dựng nền văn hóa việt nam Trên cơ sở vận dụng và phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và những điều kiện thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này được Đảng ta thể hiện rất
rõ tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986), Đảng ta khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất yếu khách quan. Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhưng
nhìn vào thành tựu to lớn sau 30 năm đổi mới, chúng ta thấy được sự đúng đắn, hợp lý trong việc lựa
chọn con đường phát triển của Đảng ta. Như vậy, khi nhìn nhận và đánh giá về sự phát triển thì chúng
ta không chỉ thấy sự phát triển theo đường thẳng, đi lên theo bậc thang từ thấp đến cao, mà còn phải
thấy được những bước rút ngắn, bỏ qua khi có điều kiện thích hợp.
Qua hàng ngàn năm lịch sử cùng với sự thay đổi và phát triển của các phương thức sản xuất nền văn
hóa của chúng ta cũng có nhiều sự chuyển biến dựa trên cái cốt là bản sắc và gìn giữ bản sắc đó. Mặc
dù trải qua bao thăng trầm, sóng gió cùng sự đô hộ xâm lược của ngoại xâm, nền văn hóa Việt Nam
vẫn duy trỳ được những đặc điểm riêng, con người Việt Nam vẫn mạnh cái hồn riêng của mình. Và
đất nước ta cũng giữ gìn những đúac tính tốt đẹp của ông cha – thủy chung, thật thà, dũng cảm,cần cù
chịu khó,..
Câu 14 : Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý
Nhận định của V.I. Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý:
Theo V.I. Lênin, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan là:
từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Theo sự nhận định nói trên, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý (tức sự phản ánh đúng
đắn đối với hiện thực khách quan) là một quá trình. Đó là quá trình bắt đầu từ “trực quan sinh động”
(còn gọi là nhận thức cảm tính) tiến đến “tư duy trừu tượng” (còn gọi là nhận thức lý tính). Nhưng tư
duy trừu tượng không phải là điểm cuối cùng của một chu kỳ nhận thức mà nhận thức phải tiếp tục
tiến tới thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng minh tính đúng đắn
của nó và tiếp tục vòng khâu tiếp theo của quá trình nhận thức. Đây cũng chính là quy luật chung của
quá trình con người nhận thức về hiện thực khách quan.
+ Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính:
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn nhận thức mà con
người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tiến hành phản ánh các sự vật khách quan,
mang tính chất cụ thể, cảm tính với những biểu hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan
sát của con người, ở giai đoạn này, nhận thức mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, cái biểu hiện bên
ngoài của sự vật cụ thể, cảm tính trong hiện thực khách quan mà chưa phản ánh được cái bản chất,
quy luật, nguyên nhân của những hiện tượng quan sát được. Do đó, đây chính là giai đoạn thấp của
quá trình nhận thức. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: cảm
giác, tri giác và biểu tượng.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián tiếp, trừu
tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật khách quan. Đây là giai
đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy
luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là:
khái niệm, phán đoán và suy lý (suy luận).
+ Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn:
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực
tế chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức, xong chúng có những chức
năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của
khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại
có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, giúp cho nhận
thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức về đối
tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con người vẫn chưa thể biết
được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những tri thức đó có chân thực hay không.
Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn,
làm thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi
nhận thức, suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
+ Quy luật chung của quá trình phát triển nhận thức:
Từ việc phân tích trên đây có thể thấy: quy luật chung của quá trình phát triển nhận thức là: …từ thực
tiễn đến nhận thức – từ nhận thức (đã có) lại trở về với thực tiễn (mới) – từ thực tiễn này lại tiếp tục
quá trình phát triển của nhận thức (mới), ...
Quá trình này lặp đi lặp lại, không có điểm dừng cuối cùng, trong đó, trình độ của nhận thức và thực
tiễn ở chu kỳ sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những tri
thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thực tại khách quan.
Đây cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con người trong quá trình phản ánh
hiện thực khách quan, tiến dần tới chân lý ngày càng đầy đủ hơn.
CÂU 15: VÌ SAO NÓI CHÂN LÝ TUYỆT ĐỐI BẰNG TỔNG SỐ VÔ HẠN CỦA CHÂN LÝ
TƯƠNG ĐỐI
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý là nói: Mỗi chân lý chỉ tuyệt đối đúng Trong một giới hạn
nhất định, còn ngoài giới hạn đó thì nó có thể không đúng. Mặt khác, mỗi chân lý trong điều kiện xác
định nó mới chỉ phản ánh được một phần thực tai khách quan
Ví dụ trong giới hạn phẳng (có độ cong bằng 0) thì tổng các góc trong của tam giác tuyệt đối bằng 2
vuông ( tính tuyệt đối), nhưng nếu điều kiện đó thay đổi đi (có độ cong khác 0 ) thì định lý đó không
cần đúng nửa( tính tương đối), nó cần phải được bổ sung bằng định lý mới.
Chân lý tương đối là chân lý chưa phản ánh được đầy đủ đối với thực tại khách quan, còn chân lý
tuyệt đối là chân lý phản ánh được đầy đủ đôi với thực tại khách quan. Theo nghĩa đó, chân lý tuyệt
đối chính là tổng số của chân lý tương đối xét trong quá trình phát triển của nhận thức nhân loại.
Ví dụ, 2 khẳng định sau đây đều là chân lý nhưng chỉ là chân lý tương đối: (1) Bản chất của ánh sáng
có đặc tính sóng, (2) Bản chất của ánh sáng có đặc tính hạt. Trên cơ sở hai chân lý đó có thể tiến tới
một khẳng định đầy đủ hơn ánh sáng mang bản chất lưỡng tính là sóng và hạt .
Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn và đầy đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức
với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt đến tính tuyệt đối của chân lý (chân lý
tuyệt đối). Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật, hiện tượng nào mà con người
hoàn toàn không thể nhận thức được. Khả năng đó trong quá trình phát triển là vô hạn. Song khả
năng đó lại bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau và bởi điều kiện xác định
về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó chân lý lại có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của
những tri thức với hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể
được phản ánh chỉ mới phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó trong
những điều kiện nhất định.
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống nhất biện
chứng với nhau. Một mặt, tính tuyệt đối của chân lý là tổng số các tính tương đối. Mặt khác, trong mỗi
chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. V.I.Lênin viết:
"Chân lý tuyệt đối được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương
đối là những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại; những phản
ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù là có tính tương đối, vẫn chứa đựng
một yếu tố của chân lý tuyệt đối".Chân lý tuyệt đối là sự tổng hợp vô tận những chân lý tương đối.
Không một tri thức cụ thể nào của con người có thể xem là chân lý tuyệt đối mà chỉ là một phần rất
nhỏ của chân lý tuyệt đối.chân lý tuyệt đối chỉ phát hiện dần dần từng bước một tùy theo sự tiến triển
của nhận thức của con người. “ bản tính của tư duy con người là có thể đem lại và thực sự đem lại cho
chúng ta chân lý tuyệt đối ; nhưng trong mỗi nguyên lý khoa học, giới hạn của sinh lý đều là tương đối
nó tùy theo với sự tiến triển của khoa học là khi thì mở rộng, khi thì thu hẹp”
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân
lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận
thức và trong hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ
rơi vào quan điểm siêu hình, chủ nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa
tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối của nó sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ
đó dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và không thể biết.
Tính tương đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý đúng nhưng chưa hoàn toàn đầy
đủ, nó mới phản ánh đúng một mặt một bộ phận nào đó của hiện thực khách quan trong những điều
kiện giới hạn xác định. Tương đối ở đây là do điều kiện lịch sử chế ước chứ không phải là phản ánh
sai. Tính tuyệt đối của chân lý thể hiện ở chỗ những tri thức của chân lý phản ánh đầy đủ toàn diện
hiện thực khách quan ở một giai đoạn lích sử cụ thể xác định. Con người ngày càng tiến gần đến chân
lý tuyệt đối chứ không thể đạt chân lý tuyệt đối một cách chọn vẹn, toàn diện theo nghĩa đen của từ .
Sự phân biệt giữa tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý cũng chỉ là tương đối. Đường ranh giới
này có thể vượt qua được . Trong hoạt động thực tiễn cần chống cả hai khuynh hướng: hoặc cường
điệu tuyệt đối hóa tính tuyệt đối phủ nhận tính tương đối của chân lý và ngược lại
16) Phân tích hình thức tồn tại vật chất

- Vận động: là phương thức tồn tại của vật chất là thuộc tính cố hữu của vật chất.
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, có nghĩa, vật chất tồn tại bằng cách vận động.
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, có nghĩa, vận động là một thuộc tính bên trong của vật
chất và sự vận động của vật chất là sự tự vận động, được tạo nên do sự tác động qua lại lẫn nhau của
chính cách mặt, các yếu tố trong cấu trúc của vật chất.
+ Vận động bao gồm nhiều hình thức khác nhau như: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa
học, vận động sinh học, vận động xã hội. Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể có nhiều hình
thức vận động khác nhau nhưng bản thân sự tồn tại của sự vật đó bao giờ cũng rất đặc trưng bằng một
hình thức vận động cơ bản.
+ Vận động và đứng im: quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất bao hàm trong nó hiện
tượng đứng im tương đối. Đứng im là khái niệm triết học phản ánh trạng thái ổn định về chất của sự
vật, hiện tượng trong những mối quan hệ và điều kiện cụ thể, là hình thức biểu hiện sự tồn tại thực sự
của các sự vật, hiện tượng và là điều kiện cho sự vận động chuyển hóa của vật chất.
- Không gian và thời gian: là các hình thức tồn tại của vật chất; nghĩa là, vật chất luôn tồn tại trong
không gian và thời gian. Không có vật chất nào tồn tại bên ngoài không gian và thời gian, cũng như
không có không gian, thời gian nào tồn tại một bên ngoài vật chất.
Câu 17: Trong các yếu tố cấu thành ý thức, tri thức giữ vai trò quan trọng nhất
- Theo các yếu tố hợp thành ý thức bao gồm các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau như tri thức,
tình cảm, niềm tin, ý chí, lý trí,… trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi và quan trọng nhất. Tri
thức là phương thức tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
-
- Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con ngưừi, là kết quả quá trình nhận thức của con người
về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và
diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác
- Tri thức có nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con người, có nhiều
cấp độ như tri thức thông thường, tri thức khoa học, tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri
thức cảm tính và tri thức lý tính,…
- Ngày nay, tri thức là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Loài người đang
bước vào nền kinh tế tri thức, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốn cho sự tăng trưởng
kinh tế dài hạn
- Vậy nên tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố
định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác

You might also like