Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

Kiểm soát áp suất thẩm thấu của dịch ngoại bào và

nồng độ ion Na+


Sự điều hòa áp suất thẩm thấu trong dịch ngoại bào và nồng độ ion Na + có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
bởi vì nồng độ ion Na+ chiếm phần lớn trong dịch ngoại bào. Nồng độ ion Na + huyết tương thường được
điều hòa dao động trong một khoảng giới hạn từ 140 đến 145 mEq/L, trung bình là 142 mEq/L. Áp suất
thẩm thấu dịch ngoại bào trung bình khoảng 300 mOsm/L (khoảng 282 mOsm/L khi đã cân bằng điện
tích) và ít khi thay đổi quá ± 2 hay 3 %. Các thông số này được kiểm soát chính xác bởi vì sẽ quyết định
sự phân bố dịch giữa gian nội bào và gian ngoại bào.

Ước lượng áp suất thẩm thấu huyết tương (plasma osmolarity) từ nồng độ ion Na+ huyết tương:

Áp suất thẩm thấu huyết tương có thể được tính toán, do nồng độ ion Na + và những ion âm kết hợp với
Na+ chiếm khoảng 94 % các chất tan trong dịch ngoại bào, nên áp suất thẩm thấu huyết tương (plasma
osmolarity: Posm) xấp xỉ gần bằng:

Posm = 2,1 x (nồng độ ion Na+ huyết tương)

Ví dụ, nồng độ ion Na+ huyết tương là 142 mEq/L thì áp suất thẩm thấu huyết tương có thể được ước
lượng theo công thức trên khoảng 298 mOsm/L. Để chính xác hơn, đặc biệt là trong trường hợp có bệnh
lý thận kèm theo, vai trò của hai chất hòa tan khác: glucose và urê, cần được tính thêm vào. Việc ước
lượng này thường chỉ sai lệch vài phần trăm so với giá trị đo đạc trực tiếp.

Thông thường, ion Na+ và các ion âm liên kết (chủ yếu là bicarbonate và Clo) đại diện cho khoảng 94 %
nồng độ các chất hòa tan trong dịch ngoại bào, và khoảng 3 – 5 % còn lại là do glucose và urê. Tuy nhiên,
vì urê dễ dàng thấm qua màng tế bào, nên nó ít có ảnh hưởng đến áp suất thẩm thấu trong điều kiện ổn
định. Vì vậy, ion Na+ trong dịch ngoại bào và các ion âm liên kết với ion Na + mới là nhân tố chính quyết
định sự di chuyển dịch qua lại giữa hai bên màng tế bào. Do đó, khảo sát sự kiểm soát áp suất thẩm thấu
tương tự với sự kiểm soát nồng độ ion Na+.

Mặc dù thận có nhiều cơ chế kiểm soát nồng độ ion Na + và sự bài tiết nước bởi thận, hai hệ thống tham
gia chủ yếu trong điều hòa nồng độ ion Na+ và áp suất thẩm thấu của dịch ngoại bào là:

1) hệ thống thụ thể áp suất thẩm thấu – ADH và

(2) cơ chế khát.

Hệ thống điều hòa ngược (feedback) thụ thể áp suất – ADH


Sơ đồ 28-8 cho thấy những yếu tố cơ bản của hệ thống điều hòa ngược thụ thể áp suất thẩm thấu-ADH
nhằm để kiểm soát nồng độ ion Na+ dịch ngoại bào và áp suất thẩm thấu. Khi áp suất thẩm thấu tăng
(nồng độ ion Na+ huyết tương tăng) do thiếu nước, thì cơ chế này sẽ hoạt động như sau:

1. Sự tăng áp suất thẩm thấu dịch ngoại bào (tương đương với việc tăng nồng độ ion Na + huyết
tương trên lâm sàng) làm cho tế bào thần kinh (còn gọi là tế bào thụ thể áp suất thẩm thấu)
nằm ở vùng hạ đồi trước (anterior hypothalamus) gần nhân trên thị (supraoptic nuclei) bị co
lại.
2. Sự co lại của tế bào thụ thể áp suất làm cho chúng bắt đầu phát tín hiệu, tới các tế bào thần
kinh ở nhân trên thị, sau đó truyền tiếp các tín hiệu qua các tế bào này xuống cuống tuyến yên
để đến vùng hậu yên.

1
3. Những dẫn truyền điện thế này đến vùng hậu yên kích thích sự phóng thích ADH, vốn được
dự trữ tại các túi bài tiết ở đầu tận thần kinh.
4. ADH vào máu và đến thận, tại đó nó làm tăng tính thấm đối với nước của ống thận xa, ống
góp vỏ, ống góp tủy.
5. Sự tăng tính thấm đối với nước của phần xa nephron làm tăng sự tái hấp thu nước và làm giảm
thể tích nước tiểu.

Sơ đồ 28-8: cơ chế ức chế ngược osmoreceptor – ADH


trong điều hòa áp suất thẩm thấu dịch ngoại bào đáp
ứng với tình trạng thiếu nước

Do đó, nước được giữ lại trong cơ thể trong khi ion Na+ và các chất
tan khác tiếp tục được thải ra qua nước tiểu. Việc này làm pha
loãng đi nồng độ các chất tan trong dịch ngoại bào, theo cách đó sẽ
điều chỉnh lại sự dư thừa nồng độ của các chất trong dịch ngoại
bào.

Một tiến trình ngược lại sẽ xảy ra khi dịch ngoại bào bị pha loãng
quá mức. Ví dụ như uống nước quá nhiều gây sụt giảm áp suất
thẩm thấu dịch ngoại bào, ít ADH được hình thành, ống thận giảm
tính thấm với nước và một lượng lớn nước tiểu sẽ được hình thành.
Trong trường hợp này, có sự cô đặc các chất hòa tan trong dịch cơ
thể và đưa áp suất thẩm thấu của huyết tương trở về bình thường.

Tổng hợp ADH trong nhân trên thị và nhân cận não thất của vùng dưới đồi và sự bài tiết ADH từ
vùng hậu yên

Sơ đồ 28-9 cho thấy cấu trúc giải phẫu của vùng dưới đồi và tuyến yên, nơi ADH được tổng hợp và bài
tiết. Vùng dưới đồi có hai loại neuron lớn (magnocellular neuron), có nhiệm vụ tổng hợp ADH ở nhân
trên thị và nhân cạnh não thất của vùng dưới đồi, khoảng 5/6 ở nhân trên thị và 1/6 ở nhân cạnh não thất.
Cả hai nhân này những nhánh trục nối với vùng hậu
yên. Khi ADH được hình thành, nó được vận chuyển
theo các sợi trục của neuron đến đầu tận, các đầu tận
này đều nằm ở vùng hậu yên. Khi nhân trên thị và nhân
cạnh não thất bị kích thích bởi sự tăng áp suất thẩm
thấu hay những yếu tố khác, các xung thần kinh di
chuyển xuống đầu tận, làm thay đổi tính thấm của
màng và tăng sự thấm nhập ion calci vào các tế bào
này. ADH được dự trữ trong những túi bài tiết tại đầu
tận của neuron sẽ được phóng thích như là một đáp ứng
với việc gia tăng ion calci vào nội bào. ADH được
phóng thích vào mao mạch của vùng hậu yên và đi vào
hệ tuần hoàn.

Sơ đồ 28-9: giải phẫu thần kinh vùng dưới đồi, nơi


ADH được tổng hợp, và hậu yên nơi ADH được
phóng thích.
2
Bài tiết ADH để đáp ứng với kích thích từ việc thay đổi áp suất thẩm thấu diễn ra nhanh chóng, do đó
nồng độ ADH huyết tương có thể tăng lên vài lần trong vài phút, bằng cách đó tạo ra một phản xạ nhanh
chóng để làm thay đổi sự bài tiết nước của thận.

Vùng thần kinh thứ hai có vai trò quan trọng trong kiểm soát áp suất thẩm thấu và bài tiết ADH nằm dọc
vùng AV3V (anteroventral region of third ventricle: vùng bụng trước của não thất ba). Phần trên của vùng
này là một cấu trúc, tên là subfornical organ, và phần dưới là một cấu trúc khác, gọi là organum
vasculosum of the lamina terminalis (lá tận cùng). Giữa hai cấu trúc này là median preoptic nucleus
(preoptic: trước giao thị), vùng này có nhiều liên kết thần kinh với hai cấu trúc trên cũng như là với nhân
trước thị và trung tâm điều hòa huyết áp tại hành não. Những tổn thương tại vùng AV3V gây ra những
suy giảm trong kiểm soát bài tiết ADH, khát, thèm muối, và huyết áp. Những kích thích bằng điện hay sự
kích thích bởi angiotensin II cũng có thể thay đổi bài tiết ADH, khát và thèm muối.

Ở vùng phụ cận của vùng AV3V và nhân trên thị là những neuron bị kích thích bởi những thay đổi nhỏ
của áp suất thẩm thấu dịch ngoại bào (những neuron này được gọi là osmoreceptor). Những tế bào này
gởi tín hiệu thần kinh đến nhân trên thị để kiểm soát sự đào thải và bài tiết ADH. Chúng cũng gây ra hiện
tượng khát để đáp ứng sự tăng áp suất thẩm thấu dịch ngoại bào.

Cả hai cấu trúc subfornical organ và arganum vasculosum of the lamina terminalis đều không có sự hiện
của hàng rào máu não điển hình để ngăn cản sự khuyếch tán của phần lớn các ion trong máu vào mô não.
Việc này làm cho các ion và các chất hòa tan có thể di chuyển qua lại giữa máu và dịch gian bào ở vùng
này. Kết quả là những thụ thể áp suất nhanh chóng đáp ứng với tình trạng thay đổi của áp suất thẩm thấu
dịch ngoại bào, thể hiện sự kiểm soát mạnh mẽ dựa vào sự bài tiết ADH và hiện tượng khát.

Sự bài tiết ADH gây ra phản xạ kích thích tim mạch bằng cách giảm huyết áp động mạch và/hoặc
giảm thể tích máu

Sự bài tiết ADH còn được kiểm soát bởi các phản xạ tim mạch đáp ứng với các hiện tượng làm giảm
huyết áp và/hoặc thể tích máu, bao gồm (1) phản xạ áp thụ quan và (2) phản xạ tim phổi, cả hai đều được
đề cập ở chương 18. Những phản xạ này bắt nguồn từ những vùng có huyết áp cao trong hệ tuần hoàn,
như là cung động mạch chủ và xoang cảnh, và những vùng có huyết áp thấp, chủ yếu là tâm nhĩ. Các
kích thích hướng tâm đi theo dây thần kinh phế vị và dây thần kinh thiệt hầu và tận cùng ở nhân bó đơn
độc. Những xung thần kinh từ các nhân này chuyển đến nhân vùng dưới đồi kiểm soát sự tổng hợp và bài
tiết ADH.

Do vậy, để tăng áp suất thẩm thấu, hai kích thích khác nhau
sẽ làm tăng bài tiết ADH: (1) giảm áp suất động mạch; (2)
giảm thể tích máu. Một khi huyết áp và thể tích tuần hoàn
giảm, ví dụ như trường hợp chảy máu, việc tăng tiết ADH
sẽ làm tăng tái hấp thu dịch tại thận, nhằm đưa huyết áp và
thể tích tuần hoàn hướng về giá trị bình thường.

Sơ đồ 28 – 10: ảnh hưởng của tăng áp lực thẩm


thấu và giảm thể tích huyết tương trên nồng độ
ADH (vasopressin)

Vai trò của các phản xạ tim mạch và áp suất thẩm thấu
trong kích thích bài tiết ADH

3
Sơ đồ 28-10, việc giảm thể tích máu hữu dụng và tăng áp suất dịch ngoại bào đều kích thích bài tiết ADH.
Tuy nhiên, ADH được cho là nhạy cảm với những thay đổi của áp suất thẩm thấu hơn là sự thay đổi thể
tích máu. Ví dụ, một sự thay đổi áp suất thẩm thấu huyết tương 1 % cũng đủ làm tăng tiết ADH. Vậy mà
ngược lại sau khi mất máu, nồng độ ADH không tăng đáng kể cho đến khi mất 10 % thể tích máu. Khi
lượng máu mất càng nhiều thì ADH được bài tiết càng nhanh chóng. Do vậy, khi mất một lượng máu lớn
thì phản xạ tim mạch có vai trò chính trong việc kích thích bài tiết ADH. Còn thông thường thì việc điều
hòa bài tiết ADH dài ngày khi bị mất nước đơn thuần, áp suất thẩm thấu máu đóng vai trò chủ đạo. Giảm
thể tích máu cũng làm tăng đáp ứng bài tiết ADH để tăng áp suất thẩm thấu.

Những kích thích bài tiết ADH khác

Sự bài tiết ADH cũng có thể tăng hay giảm bởi những yếu tố khác tác động lên hệ thần kinh trung ương
cũng như một vài loại thuốc hay hormone (bảng 28-2). Ví dụ: buồn nôn là một kích thích dẫn đến tăng
tiết ADH, sau khi nôn ói, ADH có thể tăng đến 100 lần so với bình thường. Các thuốc như nicotine hay
morphine làm tăng tiết ADH trong khi một số chất khác như rượu ức chế bài tiết ADH. Việc tăng thể tích
nước tiểu đáng kể sau khi uống rượu bia là biểu hiện của việc ức chế bài tiết ADH.

Vai trò của hiện tượng khát trong việc kiểm soát áp suất thẩm thấu ngoại bào và
nồng độ Na+
Thận làm giảm thiểu sự mất nước bằng hệ thống ức chế ngược Thụ thể áp suất thẩm thấu-ADH. Lượng
nước nhập đầy đủ cân bằng với lượng nước mất đi do bài tiết mồ hôi, hô hấp và lượng nước mất qua
đường tiêu hóa. Nhu cầu nước được điều hòa bởi cơ chế khát, và cùng với cơ chế Thụ thể áp suất-ADH,
chúng duy trì sự kiểm soát áp suất thẩm thấu dịch ngoại bào và nồng độ Na+.

Có rất nhiều yếu tố kích thích tăng tiết ADH cũng gây ra hiện tượng khát, thể hiện qua nhu cầu uống
nước.

Những trung tâm khát của hệ thần kinh trung ương

Theo bảng 28-9, một vùng tương tự với vùng bụng trước của não thất ba, vừa làm tăng tiết ADH, vừa
kích thích hiện tượng khát. Nằm ở trước bên của nhân trước thị là một vùng nhỏ khác, khi kích thích vùng
này bằng điện sẽ tạo ra việc uống kéo dài cho đến khi kích thích mất đi. Tất cả những vùng này được gọi
là trung tâm khát.

4
Những tế bào thần kinh của trung tâm khát đáp ứng với việc tiêm dung dịch muối ưu trương bằng cách
kích thích hành động uống nước. Những tế bào này có chức năng giống như các thụ thể áp suất thẩm thấu
để kích thích cơ chế khát, cũng tương tự như các thụ thể áp suất thẩm thấu kích thích bài tiết ADH

Tăng áp suất thẩm thấu dịch não tủy ở não thất ba cũng làm tăng việc uống nước. Dường như cơ quan
organum vasculossum of the lamina terminalis, nằm ngay dưới bề mặt thành của não thất phía dưới cùng
của vùng AV3V, đóng vai trò trung gian trong phản xạ này.

Các kích thích cảm giác khát

Bảng 28-3 cho thấy cơ chế kích thích của cảm giác khát. Một cơ chế quan trọng nhất trong số đó là tăng
áp suất thẩm thấu ngoại bào, làm mất nước nội bào của trung tâm khát, bằng cách đó tạo ra cảm giác khát.
Đáp ứng như sau: giúp pha loãng dịch ngoại bào và đưa áp suất thẩm thấu về bình thường.

Giảm thể tích dịch ngoại bào và áp suất máu động mạch cũng gây ra cảm giác khát bằng một cơ chế độc
lập với cơ chế gây ra hiện tượng này do tăng áp suất thẩm thấu huyết tương. Do đó, mất máu do chảy máu
gây ra cảm giác khát ngay cả khi không có thay đổi áp suất thẩm thấu máu. Việc này xảy ra do các cơ
quan thụ cảm của hệ tim phổi cũng như áp thụ quan trong hệ tuần hoàn.

Cơ chế quan trọng thứ ba gây ra cảm giác khát là do angiotensin II. Các nghiên cứu trên động vật cho
thấy angiotensin II tác động trên subfornical organ và organum vasculossum of the lamina terminalis.
Những vùng này nằm ngoài hàng rào máu não và những peptide như angiotensin II có thể thấm vào mô.
Sự tiết angiotensin II được kích thích bởi những yếu tố có liên quan với tình trạng giảm thể tích máu hay
huyết áp thấp, những tác dụng của chúng gây ra cảm giác khát nhằm phục hồi thể tích tuần hoàn và huyết
áp, cùng lúc với những tác dụng của angiotensin II trên thận để giảm bài tiết nước.

Sự khô ở miệng cũng như ở màng nhầy của thực quản cũng có thể gây ra cảm giác khát. Do đó, người
khát nước có thể cảm thấy cơn khát dịu đi gần như lập tức sau khi uống nước, ngay cả khi nước chưa
được hệ tiêu hóa hấp thụ cũng như là chưa có làm thay đổi áp suất thẩm thấu máu.

Các kích thích của dạ dày ruột và vùng hầu cũng gây ra khát. Ví dụ như những con vật bị mở thực quản ra
ngoài thì không có nước được hấp thu vào máu, cơn khát được dịu đi một phần sau khi uống nước, mặc
dù chỉ là tạm thời. Ngoài ra, sự căng dạ dày-ruột cũng làm dịu đi cơn khát một phần, ví dụ như bơm
phồng một bong bóng trong dạ dày có thể làm dịu đi cơn khát. Tuy nhiên, việc xoa dịu này chỉ diễn ra
trong thời gian ngắn, nhu cầu uống nước chỉ hoàn toàn thỏa mãn khi áp suất thẩm thấu máu hay thể tích
tuần hoàn trở lại bình thường.

Khả năng “đo lường” lượng nước hấp thu ở người và động vật là rất quan trọng vì nó chống lại sự dư thừa
nước. Sau khi uống nước, cần 30 đến 60 phút để nước được tái hấp thu và phân phối toàn cơ thể. Nếu cơn

5
khát không được dịu đi thì người ta sẽ tiếp tục uống, cho đến khi dư thừa nước và pha loãng toàn bộ dịch
cơ thể. Những thực nghiệm trên động vật cho thấy các loài chỉ uống vừa đủ lượng nước cần thiết.

Ngưỡng kích thích sự uống nước của áp suất thẩm thấu.

Thận chắc chắn sẽ liên tục bài tiết một lượng dịch tối thiểu, ngay cả ở người mất nước, để tống khứ các
chất, được tạo ra do ăn vào hay do chuyển hóa, ra khỏi cơ thể. Nước còn bị mất đi do bay hơi từ phổi và
đường tiêu hóa, bay hơi và đổ mồ hôi từ da. Do đó, luôn có một khuynh hướng làm mất nước, kết quả là
tăng nồng độ Na+ và áp suất thầm thấu huyết tương. Khi nồng độ Na+ tăng lên khoảng 2 mEq/L thì sẽ kích
hoạt cơ chế khát và tạo ra nhu cầu uống nước. Đây được gọi là ngưỡng khát. Do đó, thậm chí một sự thay
đổi nhỏ áp suất thẩm thấu máu cũng làm tăng nhu cầu nước. Bằng cách này mà áp suất thẩm thấu dịch
ngoại bào và nồng độ Na+ được kiểm soát chặt chẽ.

Những đáp ứng kết hợp của hệ thống Thụ thể áp suất thẩm thấu-ADH và cơ chế khát trong việc
kiểm soát áp suất thẩm thấu dịch ngoại bào và nồng độ Na+

Ở người khỏe mạnh, hai cơ chế này hoạt động song song để điều hòa chính xác áp suất thẩm thấu dịch
ngoại bào và nồng độ Na+, cho dù luôn có sự mất nước xảy ra. Thậm chí có thêm các yếu tố làm mất nước
khác như ăn nhiều muối thì các cơ chế này cũng có khả năng giữ áp suất thẩm thấu và nồng độ Na + chính
xác. Sơ đồ 28-11 cho thấy việc ăn muối nhiều hơn 6 lần bình thường chỉ có một ảnh hưởng nhỏ trên nồng
độ Na+ huyết tương nếu cả hai cơ chế ADH và khát hoạt động bình thường.

Sơ đồ 28-11: ảnh hưởng của sự thay đổi lớn


trong lượng Na nhập lên nồng độ Na dịch ngoại
bào ở chó trong điều kiện bình thường (đường
đỏ) (đương ngang) và sau khi hệ thống ADH –
khát bị khóa (đường xanh) (đường dốc). Chú ý
kiểm soát nồng độ Na dịch ngoại bào kém khi
thiếu các cơ chế ức chế ngược.

Tuy nhiên, khi một trong hai cơ chế này không hoạt động thì một cơ chế còn lại vẫn có thể điều hòa
tương đối hiệu quả nếu cung cấp đầy đủ nước để cân bằng với lượng nước mất đi hằng ngày. Tuy nhiên,
nếu cả hai cơ chế này ngưng hoạt động cùng lúc, khi đó sự điều hòa nồng độ Na và áp suất thẩm thấu máu
rất kém, nên khi tăng thu nhập Na+ sẽ làm thay đổi áp suất thẩm thấu cũng như nồng độ Na+ một cách rõ
rệt. Khi không có hai cơ chế này thì không có những cơ chế nào khác có đủ khả năng để điều hòa nồng độ
Na+ huyết tương và áp suất thẩm thấu.

Vai trò của angiotensin II và aldosterone trong kiểm soát áp suất thẩm thấu và nồng độ Na+

Cả angiotensin II và aldosterone đều đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa tái hấp thu Na + ở ống
thận. Khi lượng Na ăn vào giảm thì có sự gia tăng nồng độ các hormone có vai trò kích thích sự tái hấp
6
thu Na bởi thận, do đó chống lại sự thất thoát một lượng lớn Na +, ngay cả khi lượng Na nhập giảm thấp
hơn 10 % so với bình thường. Ngược lại, khi lượng Na + nhập tăng, các hormone này ít được tiết ra làm
cho thận thải ra một lượng lớn Na+.

Vì tầm quan trọng của angiotensin II và aldosterone trong điều hòa bài tiết Na+ ở thận, mọi người có thể
hiểu lầm rằng chúng có vai trò quan trọng trong việc điều hòa nồng độ Na + dịch ngoại bào. Mặc dù những
hormone này làm tăng nồng độ Na + trong dịch ngoại bào, những hormone này cũng có thể làm tăng thể
tích dịch ngoại bào bằng cách tăng tái hấp thu nước cùng với Na+. Chính vì vậy mà những hormone này ít
có ảnh hưởng đến nồng độ Na+, trừ những trường hợp đặc biệt.

Hình 28-12 cho thấy sự ảnh hưởng yếu của aldosterone trên nồng độ Na + dịch ngoại bào. Thí nghiệm này
biểu diễn sự thay đổi nồng độ Na+ huyết tương khi ăn muối nhiều hơn 6 lần bình thường trong hai điều
kiện: (1) điều kiện bình thường (2) khi loại bỏ tác dụng của aldosterone bằng cách cắt bỏ tuyến thượng
thận và truyền một lượng aldosterone cố định bằng với lượng aldosterone trong máu (lượng aldosterone
không thay đổi trong máu). Ghi nhận rằng sau khi ăn muối nhiều gấp 6 lần thì nồng độ Na + huyết tương
thay đổi khoảng 1-2 %. Điều này cho thấy ngay cả khi không có chức năng của aldosterone thì nồng độ
Na+ huyết tương vẫn được điều hòa tốt. Một thí nghiệm tương tự với angiotensin II cũng cho kết quả
tương tự.

Sơ đồ 28-12: ảnh hưởng của sự thay


đổi lớn trong lượng Na nhập lên nồng
độ Na dịch ngoại bào ở chó trong điều
kiện bình thường (đường đỏ) và sau
khi hệ thống Aldosterone bị khóa
(đường xanh). Chú ý nồng độ Na duy
trì tương đối ổn định so với sự thay
đổi lớn lượng Na nhập dù có hay
không có kiểm soát ngược
Aldosterone.

Có hai lý do chính giải thích cho việc này. Thứ nhất, như đã nói ở trên, angiotensin II và aldosterone làm
tăng tái hấp thu muối lẫn nước ở ống thận, dẫn đến sự gia tăng thể tích dịch ngoại bào và lượng Na nhưng
nồng độ Na thay đổi rất ít. Thứ hai, nhờ có các cơ chế ADH – khát, mọi khuynh hướng tăng nồng độ Na +
huyết tương đều được bù trừ bởi việc uống thêm nước hay tăng tiết ADH. Chính cơ chế ADH và cơ chế
khát đã lấn át hoàn toàn cơ chế angiotensin II và aldosterone trong điều hòa Na + huyết tương. Ngay cả đối
với bệnh nhân cường Aldosterone nguyên phát với nồng độ aldosterone máu rất cao thì nồng độ Na+ huyết
tương cũng chỉ tăng khoảng 3 – 5 mEq/L.

Trong những trường hợp bị mất đi sự bài tiết aldosteron do cắt bỏ tuyến thượng thận, hay bệnh Addison
(thiếu hụt hoàn toàn hay 1 phần aldosterone), có một sự thất thoát lớn Na + và gây ra giảm nồng độ Na+
huyết tương. Một trong những nguyên nhân của sự thất thoát này là khi mất quá nhiều Na + sẽ làm giảm
thể tích tuần hoàn nặng và giảm huyết áp, điều này làm kích hoạt cơ chế khát thông qua các phản xạ tim
mạch. Việc này làm giảm thêm nồng độ Na + cho dù tăng uống nước giúp giảm bớt sự sụt giảm thể tích
tuần hoàn trong những trường này.

7
Do đó, có một vài trường hợp mà nồng độ Na + vẫn thay đổi lớn dù hệ ADH và cơ chế khát vẫn hoạt động
bình thường. Tuy nhiên, hai cơ chế ADH và cơ chế khát vẫn đóng vai trò chính trong sự kiểm soát điều
hòa áp suất thẩm thấu và nồng độ Na+ máu.

Cơ chế ăn muối trong kiểm soát nồng độ Na dịch ngoại bào và thể tích.
Duy trì thể tích dịch ngoại bào và nồng độ Na máu lúc đói hỏi sự cân bằng giữa lượng nhập và thải Na.
Trong cuộc sống hiện đại, lượng Na ăn vào hầu như luôn lớn hơn so với nhu cầu của cơ thể. Trong thực
tế, lượng Na ăn vào của mỗi người ở những nước phát triển trong thức ăn chế biến sẵn thường dao động
trong khoảng từ 100 – 200 mEq/ngày, mặc dù nhu cầu chỉ ở mức 10 – 20 mEq/ngày. Vì vậy, hầu hết mọi
người thường ăn hơn so với nhu cầu cơ thể, đó cũng là một yếu tố có thể góp phần dẫn đến những rối loạn
bệnh lý tim mạch như tăng huyết áp.

Cả con người và động vật đều thích muối, bất kể là trong cơ thể có thiếu hay không. Cơ thể có cơ chế
điều hòa sự thèm muối thông qua tăng lượng muối ăn vào khi thiếu hụt muối trong cơ thể. Cơ chế này cực
kỳ quan trọng ở những loài động vật, khi mà khẩu phần ăn của chúng có lượng Na rất thấp, nhưng sự
thèm muối cũng rất quan trọng đối với những người thiếu hụt nghiêm trọng Na trong cơ thể, ví dụ bệnh
Addison. Trong trường hợp này, có sự khiếm khuyết sự bài tiết aldosterone, gây mất một lượng lớn Na
trong nước tiểu, dẫn đến giảm thể tích dịch ngoại bào và nồng độ Na máu; tất cả những thay đổi đó làm
tăng sự thích muối.

Một cách tổng quát, hai kích thích cơ bản gây tăng sự thích muối:

(1) giảm nồng độ Na dịch ngoại bào và

(2) giảm thể tích hoặc huyết áp, liên quan tới suy tuần hoàn. Các kích thích này cũng gây khát.

Cơ chế thần kinh của sự thèm muối cũng tương tự với cơ chế khát. Một vài trung tâm ở vùng AV3V của
não cũng có những vùng liên quan tới sự thèm muối, bởi vì khi tổn thương những vùng đó đều gây ra tình
trạng khát và thèm muối cùng lúc ở động vật. Vì vậy, phản xạ tuần hoàn gây ra bởi tình trạng giảm huyết
áp hay giảm thể tích máu ảnh hưởng lên tình trạng khát và thèm muối cùng lúc.

Tài liệu
1. Textbook of Medical Physiology, Guyton and Hall, Elsevier Saunders, 2016.

You might also like