Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

b) Đoàn thuyền ra khơi

Ngược lại với thiên nhiên bắt đầu trạng thái nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu lao động với
phong thai vô cùng hào hứng: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát căng buồm cùng gió khơi” Sự đối lập về hình ảnh và nhạc điệu
trong hai câu thơ nói lên khí thế và nhiệt tình của con người lao động

• Câu thơ khiến ta hình dung ra cả một đoàn thuyền, chứ không còn là một con thuyền đơn độc
ra khơi như trong bài Tràng Giang của Huy Cận trước CMT8: “Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp
điệp Con thuyền khua mái nước song song” Điều này gợi lên một bầu không khí hào hứng, phấn
chấn trong không

khí xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta lúc bấy giờ.

• Đoàn thuyền “lại” ra khơi, phụ từ “lại” gợi tư thế chủ động của con người và cho biết công việc
ra khơi đánh bắt cá vẫn diễn ra thường xuyên, quen thuộc với người dân chài, cứ hoàng hôn bắt
đầu buông xuống thì họ lại ra khơi. Dù việc đi đánh cá lặp đi lặp lại như vậy nhưng họ vẫn toát
lên khí thế hăm hở, náo nức và cất lên thành khúc hát.

• Tác giả đã tạo ra một hình ảnh khỏe, lạ, lãng mạn mà rất thật từ sự gắn kết của ba sự vật, hiện
tượng: cánh buồm, gió khơi và câu hát.

• Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm”, dường như tâm tư người lao động
đã gửi gắm vào trong lời hát: phấn khởi, say mê với công việc. Tất cả nói lên khí thế phơi phới,
háo hức, mạnh mẽ của đoàn thuyền và niềm vui, sức mạnh của người lao động làm chủ biển
khơi, làm chủ cuộc đời.

• Câu hát ở đây còn là biểu hiện của niềm vui, là sự phấn chấn của con người lao động như đang
có một sức mạnh vật chất nào đó cùng với gió khơi, đã thổi cánh buồm đấy con thuyèn lướt
nhanh ra biển lớn. Đoàn thuyền không chỉ đi với sức mạnh bình thường mà còn có một sức
mạnh vật chất, sức mạnh ấy lại được thổi bùng bằng những câu hát, đẩy con thuyền lướt sóng ra
khơi. Đó cũng chính là tiếng hát của con người trong tâm thế đi chinh phục thiên nhiên. Từ con
cá bạc báo biển lặng, biển hiện lên trong đêm như một khung cửi lớn và đẹp. Cá thu từng đoàn
rẽ nước toả sáng, di chuyển như những con thoi. Sự liên tưởng từ khung cửi dệt đến khung cửa
biển là sự liên tưởng độc đáo, là kết qủa của sự quan sát thực tế. Qua sự liên tưởng ấy, trong
cảm xúc vũ trụ của tác giả, biển không còn xa lạ mà trở nên gần gũi. Đó chính là chất lãng mạn
của hồn thơ Huy Cận.

c) Lời ca của người lao động có “muôn luồng sáng” giữa biển đêm (Khổ 2):

• “Hát rằng” toát lên niềm vui của người dân chài, hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu.

• Thủ pháp liệt kê(cá bạc, cá thu) và so sánh (“như đoàn thoi”) mang đến âm hưởng ngợi ca, tự
hào trong câu hát về sự phong phú, giàu có của biển cả. Hẳn nhiên, qua lời hát của người dân,
biển thật giàu có.

• Hình ảnh nhân hóa “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”:

o Cho thấy không khí lao động hăng say không kể ngày đêm của người lao động o Gợi hình ảnh
những đoàn cá đang dệt những tấm lưới giữa biển đêm
o Gợi những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng

• Tiếng gọi: Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi! → Nhân hóa: Tình cảm con người gắn liền với thiên
nhiên biển cá

→ Cảnh ra khơi huy hoàng, khí thế và đầy hứa hẹn

2. Đoàn thuyền đánh cá giữa khung cảnh trời biển ban đêm

a) Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, tìm luồng cá

• Qua bút pháp phóng đại, khoa truong, ta thấy cánh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, tìm luồng
cá, bủa lưới vây giăng toát lên một vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa thơ mộng: “Thuyền ta lái gió với
buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng” → Con thuyền được vây bọc trong thiên nhiên có
gió làm bánh lái, trăng là cánh buồm. Như vậy con thuyền nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở
thành con thuyền kì vĩ, kiêu hãnh, khổng lồ, chủ động hòa nhập với kích thước rộng lớn của
thiên nhiên vũ trụ. Thuyền có lái, có buồm nhưng lái bằng gió, buồm là buồm trăng. Đoàn thuyền
lướt đi trong dêm không phải bằng sức mạnh của con người mà bằng sức mạnh của câu hát
hoà cùng sức mạnh của gió, cộng hưởng sức mạnh của trăng. Bởi thế mà thuyền như lướt đi,
như bay lên. Con thuyền đánh cá còn nhỏ bé qua cảm hứng vũ trụ đã trở nên kì vĩ, khổng lồ,
sánh ngang tầm với vũ trụ. Nghệ thuật ẩn dụ “lái gió với buồm trăng” khiến ta hình dung thiên
nhiên, vũ trụ ấy như đang hòa hợp, cùng con người lao động. → Các biện pháp nghệ thuật trên
đã làm nổi bật tầm vóc to lớn của con người và đoàn thuyền trên biển.

• Những chủ nhân của đoàn thuyền – những người đánh cá cũng trong tư thế làm chủ, sánh
ngang với trời đất. → Thuyền và người hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên.
→ Qua đó ta khẳng định được rằng, cảm hứng sáng tác, cảm hứng nghệ thuật của Huy
Cận đã thoát li hoàn toàn nỗi buồn, sự lẻ loi, đơn độc trước đó.
• Con người không chỉ hòa nhập mà còn nổi bật ở vị trí trung tâm vũ trụ.
o Động từ “lướt” cho thấy những con thuyền băng băng lướt sóng, thể hiện khí thế của
người lao động khẩn trương, mạnh mẽ.
o Những con người lao động, ra tận khơi xa dò bụng biển tìm luồng cá với thế trận bủa vây
điệp trùng: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
- Không khí lao động ngày một hứng khởi, mặc đêm tối, mặc gió khơi, người dân chài vẫn
ra khơi dò lồng cá trong lòng biển.
- Ẩn dụ “Dàn đan thế trận” cho thấy cuộc sống đánh cá của người dân nghề biển như một
trận chiến đấu ác liệt. → Những người ngư dân làm việc với tâm hồn phơi phới, tấm lòng
hăng say và trí tuệ nghề nghiệp, thể hiện tư thế vững vàng của con người lao động đi chinh
phục thiên nhiên.
→ Qua đoạn thơ trên, ta thấy được sự kết hợp giữa hiện thực (đoàn thuyền) với chất lãng
mạn (thuyền lái gió, trăng treo trên cánh buồm) tạo nên những vần thơ sâu sắc và tuyệt
đẹp.
• Bằng những hình ảnh vừa thực vừa ảo, lung linh và qua thủ pháp liệt kê tên các loài cá, ta
thấy vùng biển Quảng Ninh không chỉ giàu mà còn toát lên vẻ đẹp như một bức tranh sơn
mài lộng lẫy điểm tô cho bức tranh lao động rực rỡ, phấn khởi: “Cá nhụ, cá chim...nước Hạ
Long” o Biển không chỉ giàu mà còn đẹp. Vẻ đpẹ đó hòa cùng với màu sắc của muôn loài
cá trên biển. Tác giả sử dụng một loạt các tình từ chỉ màu sắc: lấp lánh, đen hồng, vàng
chóe,... tất cả tạo nên một bức tranh sơn mài nên thơ và đầy chất lãng mạn. Phải chăng
trong ngòi bút của thi sĩ đã được chấm phá bằng nét mực của họa sĩ.
o Những con cá song giống như ngọn đuốc đen hồng đang lao đi trong luồng nước dưới
ánh sáng lấp lánh quả là một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Câu thơ tả thực loài cá song thân dài,
trên vảy có những chấm nhỏ màu đen hồng. Nhưng qua đó, câu thơ còn gợi lên hình ảnh
đoàn cá song như một cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm, tạo nên một cảnh tượng thật
lộng lẫy và kì vĩ biết bao!
o Đi kèm với đó là hình ảnh “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”, hai chi tiết này đã đem
đến máu sắc đẹp nhất cho bài thơ. Ngoài hình ảnh tả thực miêu tả động tác quẫy đuôi của
một chú cá dưới ánh trăng vàng chiếu rọi xuống mặt biển, ta còn hình dung được rằng, khi
ánh trăng in xuống mặt nước, đàn cá quẫy đuôi như quẫy cho ánh trăng tan ra, đem sắc
vàng hòa cùng với sóng nước và lan tỏa trên mặt biển. Đặc biệt, nhà thơ gọi cá bằng em.
Một cách gọi trìu mến, cá không còn là dối tượng đánh bắt mà trở nên thân gần đáng mến
. o Câu thơ “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” là một hình ảnh nhân hóa tuyệt đẹp. Đêm vẫn
thư giãn và thủy triều lên xuống tạo ra hơi thở của đêm. Những đốm sao bạt ngàn in trên
mật nước, trôi dạt trên đầu những ngọn sóng chiều đập vào bãi cát được ví như: lùa nước
Hạ Long. Sao với nước cũng xuất hiện và tồn tại trong nhịp thở của đêm. Nối những miền
không gian lại với nhau, thiên nhiên như bức tranh sơn mài tráng lệ và kì ảo. Câu thơ trên
gợi lên nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về, biển như mang trong mình linh hồn của con
người, như một sinh thể cuộn trào sức sống. Đêm được miêu tả như một sinh vật đại
dương. Tiếng thở của đêm chính là ánh sao lùa sóng nước. Đây là một sáng tạo tạo nghệ
thuật của nhà thơ Huy Cận tạo nên một bức tranh mà ở đó đã có sự hòa nhịp kì diệu giữa
thiên nhiên và son người lao động.
b) Người dân chài làm việc giữa lao la biển trời và những câu hát mang đầy niềm vui, niềm
phấn khởi
• Với cách viết nhân hóa tinh tế, lời thơ dõng dạc, nhịp thơ, tất cả các khổ thơ như một
khúc hát say mê, thiên nhiên cũng góp nhạc với con người, thiên nhiên vũ trụ như góp sức
giúp con người lao động: “Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”
o Tiếng hát của người dân chài có khả năng gọi cá vào lưới một cách kì diệu. Những câu
hát toát lên niềm vui, sự phấn chấn, tình yêu lao động. o Trăng soi bóng nước, sóng xô
bóng trăng trong nước gõ vào mạn thuyền, tạo nên nhịp trăng nhẹ nhàng bay bổng để lùa
cá vào lưới. Thiên nhiên và con người tưởng chừng như đang cùng một nhịp lao động. →
Công việc đánh bắt cá nặng nhọc qua ngòi bút tài hoa của một hồn thơ đang yêu đời đã trở
thành bài ca đầy niềm vui, vừa hùng tráng vừa đầy chất thơ.
→ Bút pháp lãng mạn khi miêu tả giúp công việc đánh cá đêm trở nên đầy thơ mộng.
• Nghệ thuật so sánh cho ta thấy, dù những người dân chài lưới luôn khát vọng chinh phục
biển cả rộng lớn nhưng từ trong thâm tâm của mình, con người luôn chan chứa lòng biết
sơn sâu sắc tới mẹ thiên nhiên, gợi sự ưu ái giao thoa của con người với biển cả quê
hương: “Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào” Nhà thơ Huy Cận đã thật
tài tình khi so sánh lòng biển với lòng mẹ. Lòng biển mênh mông, rộng rãi đầy cá như tấm
lòng mẹ bao dung, độ lượng. Chính lòng biển là lòng mẹ đã nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Câu thơ là khúc tâm tình thiết tha với biển thân yêu, là lời cảm ơn biển, biển vừa bao la mà
lại trĩu nặng yêu thương.
c) Suốt dọc cả bài thơ là tiếng hát, sau những tiếng hát ca ngợi, những tiếng hát lao động
hăng say là tiếng hát niềm vui đón thành quả. Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc kéo lưới kịp trời
sáng Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa lãng mạn. Công việc trở nên
khẩn trương với hi vọng đón chờ thành quả, mang về đất liền những chùm cá nặng, tươi
ngon nhất: “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp
buồm lên đón nắng hồng”

• Con người lao động đang bền bỉ dẻo dai với sức lực dồi dào “kéo xoăn tay”:

o Họ là trung tâm của cảnh lao động được khắc họa với những nét tạo hình gân guốc, chắc
khỏe nhất, cho hình dung thấy những cánh tay săn chắc, cuồn cuộn, tư thế hiên ngang, làn da
nhuộm nắng gió, nhuộm cả vị mặn mòi của biển cả.

o Vẻ đẹp của con người lao động vạm vỡ, khỏe khoắn bên thành quả lao động, toát lên niềm
vui hạnh phúc.

o Họ kéo chùm cá nặng những mẻ cá trĩu nặng những con cá bạc, cá vàng tươi ngon. Các từu
“bạc”, “vàng” gợi lên một màu sắc đẹp, cho thấy sự quý giá, giàu có của biển ban tặng con
người cần cù, dũng cảm.

• Câu thơ vừa thực mà vừa có nghĩa ẩn dụ. Không chỉ tả màu của vẩy, sắc của đuôi cá trong
sớm mai mà còn gợi nghĩ đến bạc, vàng

- những tài sản quý giá lấy lên từ biển cả. Bởi không chỉ nhận ánh sáng phản chiếu từ tràng
sao. Vẩy bạc đuôi vàng tự phát sáng lóe rạng đông tạo nên ngày mới,làm cuộc sống đổi thay.
Đó cũng chính là mục đích của người lao động, là hướng đi của nhân dân ta trong những năm
đó.

• Màu hồng của bình minh làm ấm bức tranh lao động.

• Chữ “lóe” gợi sự nhảy nhót của cá mắc trong lưới vừa gợi ánh bình minh lên. → Bút pháp
lãng mạn được sử dụng làm nổi bật vẻ thơ mộng khi đã kết thúc công việc đnahs cá sau một
đêm dài. → Công việc kéo cá nhịp nhàng với sự vận hành của vũ trụ. ⟹ Một đêm đánh cá của
người dân chài ngoài khơi vùng đất mỏ Quảng Ninh đã được Huy Cận miêu tả một cách chân
thực, cụ thể, bằng những hình ảnh hiện lên sống động, nhịp điệu nhanh, khẩn trương. Qua đó,
ta thấy được tình yêu tha thiết với biển khơi, niềm tự hào vô bờ bến của tác giả với những
người dân chài vùng biển.
3. Đoàn thuyền đánh cá trở về trong cảnh bình minh toát lên như một khúc ca khải
hoàn rực rỡ, hoành tráng
Thống nhất với cảm hứng và bút pháp lãng mạn, khổ cuối của bài thơ là bức tranh
hoành tráng với âm thanh, hình ảnh tràn đầy sức mạnh của con người, đoàn thuyền và
ngập tràn ánh sáng: “Câu hát căng buồm với gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt
trời”
• Nghệ thuật đầu cuối tương ứng: Câu đầu khổ cuối lặp lại câu cuối khổ đầu như một
điệp khúc của một bài ca. Như vậy, câu hát đã theo suốt cuộc hành trình lao động của
người dân chài với tràn ắp niềm lạc quan tin tưởng và đầy vui sướng. Gió thổi đưa câu
hát của người dân chài bay cao, bay xa mãi theo ra ngoài khơi xa. Câu hát cùng gió
khơi đưa thuyền đi, nay vẫn câu hát ấy căng buồm đưa thuyền về. Nhưng giờ đâykhông
chỉ còn là sức mạnh của gió mà sức mạnh niềm vui con người như được nhân lên vì
thuyền đầy cá. Nếu như ở khổ thơ đầu, sau khi màn đêm bao trùm trên biển thì con
người mở cửa đêm ra khơi đánh cá thì giờ đây họ - những người dân chài đang chạy
đua cùng mặt trời. Không còn là sự nối tiếp của nhịp sống thiên nhiên, con người mà
quan hệ của thiên nhiên, con người là quan hệ song song, đua tranh. Chạy đua với mặt
trời cũng là chạy đua với thời gian. Con người đang giữ lấy từng giây, từng phút, đang
vượt lên trên cả thời gian để tạo của cải cho cuộc sống mới, để xây dựng và cống hiến.
Những con người lao động đã về đến bến khi bình minh vừa ló dạng: Mặt trời đội biển
nhô màu mới. Câu hát lúc trở về say sưa hơn bao giờ hết, vì một đêm lao động vất vả đã
được đền đáp một cách xứng đáng. Điều này một lần nữa nhấn mạnh niềm vui lao động
làm giàu đẹp quê hương của người dân chài trong thời kì miền Bắc xây dựng xã hội chủ
nghĩa.
• Hình ảnh đoàn thuyền trở về trong câu hát phấn khởi với những khoang thuyền đầy
ắp cá với tư thế hào hùng, khẩn trương như đang “chạy đua cùng mặt trời” là một hình
ảnh nhân hóa, nói quá, giành lấy sự chủ động, tận dụng thời gian để lao động. Đoàn
thuyền ở đây sánh ngang cùng vũ trụ, là hình ảnh hoán dụ để chỉ người ngư dân trong
tư thế sóng ngang cùng vũ trụ, nâng tầm vóc con người sánh với thiên nhiên.
• Trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng. Khi “mặt trời đội biển nhô màu
mới” thì đoàn thuyền đã trở về đến bến: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
• “Mặt trời đội biển” là hình ảnh nhân hóa vẻ đẹp ngày mới như một huyền thoại như
một huyền thoại rực rỡ. Ở đây ta bắt gặp hình ảnh một mặt trời khác, không phải mặt
trời của thiên nhiên mà là của muôn ngàn mắt cá lấp lánh trong buổi bình minh. Hình
ảnh này vừa tả thực thời gian bình minh, vừa ẩn dụ ánh sáng của đất nước đang đi lên,
là ánh sáng huy hoàng của niềm vui, niềm tin vào một tương lai tốt đẹp. Ý thơ phảng
phất không thần thoại, bản hùng ca lao động.
• Câu kết đã diễn tả ánh mặt trời như điểm tô cho thành quả lao động thêm phần rực
rỡ, muôn mắt cá như muôn mặt trời tỏa sáng huy hoàng, góp phần làm đẹp thêm trời
biển quê hương. Đó là niềm vui chiến thắng, niềm vui đủ đầy khi được mùa tôm cá,
niềm vinh quang bình dị của con người lao động. Thiên nhiên và con người đã hòa hợp
để tạo nên một vẻ đẹp thực sự tráng lệ.

You might also like