Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 12

Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH


Phạm Tiến Duật
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
- Phạm Tiến Duật (1941) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ;
- Ông hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương
mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.
- Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc
sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào
trong thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi
nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người
lính và cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
2. Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác năm 1969, thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra
rất ác liệt trên con đường chiến lược Trường Sơn.
- Xuất xứ: Nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ
báo Văn nghệ 1969 – 1970. Chùm thơ khẳng định giọng thơ riêng của ông. Sau này được
đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970).
- Nội dung: Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo – những chiếc xe không kính,
qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn hiên
ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi.
B. LUYỆN ĐỀ
Đề bài: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu
đội xe không kính”
HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM, LUẬN CỨ, LUẬN CHỨNG
2.1. Luận điểm 1: Vẻ đẹp của phong thái ung dung, tư thế hiên ngang (Khổ 1)
a. Luận cứ 1: Hai câu thơ đầu, với bút pháp hiện thực, Phạm Tiến Duật đã ghi nhận,
giải thích về những chiếc xe không kính thật đơn giản, tự nhiên:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
b. Luận cứ 2: Hai câu thơ sau, tác giả tập trung bút lực của mình khắc hoạ chất thơ của
vẻ đẹp tâm hồn người lính:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”.

Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 1
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

2.2. Luận điểm 2: Vẻ đẹp của tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, lãng mạn (Khổ 2)
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
2.3. Luận điểm 3: Vẻ đẹp của tinh thần lạc quan trước khó khăn gian khổ (Khổ 3+4)
a. Luận cứ 1: Những gian khổ khi phải lái những chiếc xe không kính trong điều kiện
thời tiết khắc nghiệt vào mùa khô (Khổ 3)
- Vì xe không có kính nên người lính ngồi trong xe mà bụi vẫn phun đến lem luốc:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già”
- Vượt lên tất cả, người lính vẫn vô tư, hồn nhiên khi nhìn khó khăn, thử thách:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
b. Luận cứ 2: Những gian khổ khi phải lái những chiếc xe không kính trong điều kiện
thời tiết khắc nghiệt vào mùa mưa (Khổ 4):
- Vì không có kính nên người lính ngồi trên xe mà mưa vẫn xối đến ướt cả áo:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
- Gian khổ là thế vậy mà vượt lên tất cả vẫn là thái độ thản nhiên, bất chấp mọi khó
khăn, thử thách với cái nhìn lạc quan của người lính:
“Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”
2.4. Luận điểm 4: Vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội (Khổ 5+6)
a. Luận cứ 1: Tình cảm thân thiết, cởi mở trong giây phút gặp gỡ, tái ngộ:
- Hai câu thơ đầu là sự lí giải về việc hình thành tiểu đội xe không kính:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã vào đây họp thành tiểu đội
- Hai câu thơ sau gợi không khí ra trận hừng hực, sục sôi và tình cảm cởi mở chân
thành của những người lính:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”.
b. Luận cứ 2: Tình cảm gắn bó, sẻ chia trong giây phút sinh hoạt, nghỉ ngơi:

Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 2
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

- Sau chặng đường vất vả, những người lính dừng chân và quây quần, chan hòa trong
không khí gia đình ấm cúng:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
- Sau những giờ phút nghỉ ngơi, người lính lái xe lại lên đường với niềm tin phơi phới:
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời thêm xanh”.
2.5. Luận điểm 5: Vẻ đẹp của lí tưởng chiến đấu thiêng liêng, cao đẹp vì miền Nam
ruột thịt (khổ cuối)
a. Luận cứ 1: Hai câu thơ đầu gợi lên những gian khổ, thiếu thốn của đời sống chiến
đấu bằng bút pháp tả thực:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
b. Luận cứ 2: Hai câu thơ sau đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe
trên đường Trường Sơn với tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng
miền Nam:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

GỢI Ý TRIỂN KHAI BÀI VIẾT


I. MỞ BÀI
(Viết đoạn văn khoảng 10 dòng: tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận. Lưu ý, nếu đề
yêu cầu phân tích 1 đoạn thơ thì phải trích đoạn thơ. Có thể tham khảo các ý sau)
II. THÂN BÀI
1. Tổng
(Viết đoạn văn khoảng 10 dòng: đề tài người lính, cảm xúc của bài thơ, cảm xúc
của đoạn thơ)
2. Phân
2.1. Luận điểm 1: Vẻ đẹp của phong thái ung dung, tư thế hiên ngang (Khổ 1)
a. Luận cứ 1: Hai câu thơ đầu, với bút pháp hiện thực, Phạm Tiến Duật đã ghi nhận,
giải thích về những chiếc xe không kính thật đơn giản, tự nhiên:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
- Câu thơ đầu như một lời phân bua của người lính lái xe. Câu thơ 10 chữ có tới 3 chữ

Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 3
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

“không”, điệp từ kết hợp với nhịp thơ 3/3/4 tạo nên một chất giọng hệt như lời tranh luận
đậm chất khẩu ngữ với giọng điệu pha chút thản nhiên, ngang tàng đã diễn tả chân thực hình
ảnh những chiếc xe vận tải trên tuyến đường Trường Sơn. Để lý giải cho hiện tượng những
chiếc xe không kính, tác giả đưa ra hình ảnh: “Bom giật bom kính vỡ đi rồi”
- Vậy hoá ra là xe có kính, chỉ tại bom mà thành xe không có kính. Câu thơ với việc sử
dụng những động từ mạnh “giật”, “rung”, “vỡ” kết hợp điệp từ “bom” không chỉ lí giải
nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của những chiếc xe không kính mà còn phản ánh sự khốc
liệt của chiến tranh, gợi lên khung cảnh chiến trường: bom đạn dữ dội, những con đường
gập ghềnh hố bom, những đoàn xe không kính vẫn cứ anh hùng tiến thẳng ra chiến trường.
Nói đến hiện thực của bom đạn mà sao giọng điệu của người lính lái xe lại có thể bình thản
đến vậy.
- Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người đọc
suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ. Mục đích miêu tả
những chiếc xe không kính nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe - con người của trẻ trung,
của tư thế ung dung, coi thường gian khổ với lòng hy sinh cao cả.
 Như vậy, hai câu đầu là lời giải thích vừa bất ngờ, vừa hợp lý, giản dị, dễ hiểu.
Ngôn ngữ thơ rất gần với văn xuôi, giọng thơ ngất ngưởng, ngang tàng rất lính. Hình ảnh
những chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh nhưng phải là người có hồn
thơ nhạy cảm, với nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ thì Phạm Tiến Duật mới nhận ra
được và đưa nó trở thành hình tượng thơ độc đáo như vậy.
b. Luận cứ 2: (Dẫn: Tuy nhiên cái nhìn của Phạm Tiến Duật không nghiêng về phía
miêu tả hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà chủ yếu thể hiện vẻ đẹp của những con người
mang trong mình dòng máu của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm, can trường, giàu
lòng lạc quan thiết tha, yêu đời, yêu tổ quốc trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ ác liệt. Cái
ác liệt của chiến tranh chỉ là phông nền làm nổi bật bức chân dung người lính) Bởi thế ngay
sau hình ảnh những chiếc xe không kính, tác giả tập trung bút lực của mình khắc hoạ
chất thơ của vẻ đẹp tâm hồn người lính:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”
- Sự tài tình của nhà thơ là đặt từ “ung dung” lên đầu câu. Từ láy “ung dung” cùng
nghệ thuật đảo ngữ không chỉ thể hiện tư thế hiên ngang, bình tĩnh, tinh thần bất chấp hiểm
nguy gian khổ mà còn thể hiện được sự tự tin, kiêu hãnh của những con người rất đỗi tự hào
về sứ mệnh vẻ vang của mình.
- Đảo ngữ, điệp từ “nhìn”, hình ảnh không gian “đất, trời, thẳng” tô đậm phong thái
ung dung, tư thế hiên ngang. Cái nhìn tập trung cao độ, vừa khoáng đạt (phóng khoáng) của
người lính trên đường ra trận bởi các anh phải nhìn đất để tránh hố tử thần, nhìn trời để
tránh những loài diều quạ hắc ám bầu trời Tổ quốc, nhìn thẳng để tiến ra tiền tuyến, để khỏi
lạc lối, lầm đường.
- Câu thơ ngắt thành 3 nhịp 2/2/2 chắc nịch giống nhịp thăng bằng của chiếc xe đang
lao nhanh về phía trước, đồng thời gợi ra tâm trạng phơi phới tự tin của người lính.
Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 4
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

 Đánh giá: Khổ thơ đầu với những câu thơ chứa nhiều khởi ngữ, giọng thơ ngang
tàng, thản nhiên, kết hợp điệp từ như điểm nhấn cho câu chữ, tác giả không chỉ gợi về
những chiếc xe không kính mà còn gợi ra tư thế bình tĩnh hiên ngang, đường hoàng, ung
dung của người lính. Khó khăn thiếu thốn của phương tiện, cái ác liệt nơi chiến trường như
bị đẩy lùi không còn là trở ngại với người lính.
2.2. Luận điểm 2: Vẻ đẹp của tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, lãng mạn (Khổ 2)
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
- Bốn câu thơ với nhịp thơ 2/2/2 nhịp nhàng đều đặn khiến cho người đọc liên tưởng
đến nhịp bánh xe lăn đều trên đường ra trận. Tất cả những sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các
chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện một thái độ bình tĩnh thản nhiên
trước nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Sau những
điệp từ “nhìn thấy” là những hình ảnh liệt kê hết sức chân thực cụ thể diễn tả tầm nhìn cũng
như nhấn mạnh những cảm giác ấn tượng dồn dập liên tiếp của các anh khi ngồi trên những
chiếc xe không kính. Vì xe không có kính bảo vệ nên bao nguy hiểm đến với các anh nào là
gió phả làm cho cay mắt, rát mặt, nào là cảm giác rợn ngợp như con đường lao thẳng vào
trái tim mình, rồi đất đá, cành cây hay những cánh chim lạc bất cứ lúc nào cũng có thể
quăng, ném, va đập vào trong buồng lái gây thương tích cho người lính lái xe.
- Thông thường viết về những gian, những hiểm nguy trong chiến tranh nếu không
khéo người ta sẽ dễ bị sa vào những vần thơ bi lụy, làm mất tinh thần chiến đấu, nhưng
Phạm Tiến Duật lại khác. Thực tế gió thổi làm mắt người chiến sĩ bị cay, hứng bao nhiêu
khói bụi của chiến tranh nhưng nhờ động từ “xoa” mà ta có cảm giác mắt người chiến sĩ bớt
bị đắng, bị cay. Động từ rất nhẹ “xoa” khiến cho hiện thực nặng nề bỗng nhẹ tênh, bao gian
khổ hy sinh bỗng biến tan trong khoảnh khắc. Song không chỉ vậy, các anh còn thấy:
“Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”
- Đọc câu thơ ta tưởng như mình đang ngồi trên buồng lái cảm nhận rõ những ấn
tượng, cảm giác của người lính lái xe nhờ điệp từ “nhìn thấy”, điệp cấu trúc “nhìn
thấy…”. Câu thơ xuất phát từ tình huống thật khi người lính cho xe đi trên đoạn đường dốc.
Con đường như chạy lại về phía xe đang lao nhanh. Vượt lên ý nghĩa tả thực, hình ảnh thơ
còn mang ý nghĩa biểu tượng gợi nhiều chiều liên tưởng sâu xa. Con đường Trường Sơn hay
là con đường Cách mạng, con đường giải phóng miền Nam mà các anh theo đuổi và luôn
thao thức trong tim? Bước lên xe, người lính bỏ lại tất cả phía sau tầm mắt, giờ chỉ còn lại
con đường phía trước, trong trái tim các anh chỉ có nhiệm vụ thiêng liêng mà Tổ quốc giao
phó. Cái “thấy” đây vừa là cảm nhận bằng mắt thường vừa được cảm nhận bằng lòng yêu
nước, bằng ý chí chiến đấu, và bằng sứ mệnh của người chiến sĩ. Ngồi trên xe, các anh còn
“Thấy sao trời và đột ngột cánh chim/Như sa như ùa vào buồng lái”.
- Nhà thơ diễn tả chính xác cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái.
Hình ảnh thơ rất thực mà cũng đầy thi vị. Từ láy “đột ngột” được sử dụng rất ấn tượng. Cảm
Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 5
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

giác đột ngột là cảm giác thường trực của người lính khi ngồi trên xe không kính. Cái bất
ngờ ấy có thể là nguy hiểm rập rình bất cứ lúc nào, cái bất ngờ ấy còn là những điều hết sức
thi vị mà chiếc xe không kính đem lại.
- Nghệ thuật liệt kê đã làm nổi bật lên không gian bao la, khoáng đạt, thơ mộng, rất
đỗi bình yên – cái khoảnh khắc hiếm hoi giữa những ngày mưa bom bão đạn. Phạm Tiến
Duật cho ta hiểu bom đạn, kẻ thù không thể tận diệt được cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên.
Chỉ có điều, chí có những ai có tâm hồn lãng mạn mới nhận ra được vẻ đẹp đó. Người lính
lái xe như biến thành lữ khách du ngoạn bình thản ung dung trên hành trình khám phá núi
rừng Trường Sơn:
“Xe ta bon bon trên chặng đường
Kìa làng quê ta băng qua núi đèo đồi nương
Xe ta băng qua chiến trường”
 Cách viết của nhà thơ đã tô đậm, làm đẹp hơn vẻ đẹp tinh thần của người lính lái xe
lạc quan, yêu đời, lãng mạn.
- Liên hệ: Người chiến sĩ lái xe đã khám phá ra vẻ đẹp của thiên nhiên và chính trong
khung cảnh thiên nhiên đẹp kì lạ đó tầm vóc của các anh được nâng bông hoàn thiện hơn.
Có thể dễ dàng nhận thấy nhà thơ Phạm Tiến Duật và Chính Hữu có điểm gặp gỡ nhau: họ
đều phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn của người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh chiến đấu
gian khổ ác liệt, tâm hồn các anh vẫn lãng mạn đầy chất thơ. Các anh không chỉ biết cầm
súng với tinh thần hiên ngang, dũng cảm, kiên cường mà các anh còn là những con người
lạc quan yêu đời, gần gũi với thiên nhiên rất lãng mạn, thơ mộng.
 Như vậy, hai khổ đầu với những hình ảnh thơ vừa chân thực vừa lãng mạn cùng các
nghệ thuật điệp từ, liệt kê, tác giả đã diễn tả thành công cảm giác của người lính về những
khó khăn gian khổ mà họ gặp phải trên đường khi lái những chiếc xe không kính, qua đó ta
thấy được vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn lấp lánh ánh lạc quan yêu đời và khí thế sục sôi đầy
nhiệt huyết của những người lính thời kì chống Mĩ. Đoạn thơ cũng cho ta thấy hướng khai
thác hiện thực chiến tranh của tác giả. Rõ ràng, chiến tranh là khốc liệt, nguy hiểm nhưng
qua cái nhìn trẻ trung, lạc quan, Phạm Tiến Duật muốn thể hiện chất thơ của hiện thực ấy.
Hiện thực là phông nền làm nổi bật sự dũng cảm, niềm lạc quan, tâm hồn trẻ trung yêu đời
của những người lính vừa rời ghế nhà trường. Chính tinh thần ấy tạo nên sức mạnh chiến
thắng, và làm nên vẻ đẹp cho thơ.
2.3. Luận điểm 3: Vẻ đẹp của tinh thần lạc quan trước khó khăn gian khổ (Khổ 3+4)
a. Luận cứ 1: Những gian khổ khi phải lái những chiếc xe không kính trong điều kiện
thời tiết khắc nghiệt vào mùa khô (Khổ 3)
- Vì xe không có kính nên người lính ngồi trong xe mà bụi vẫn phun đến lem luốc:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già”
Điệp từ “bụi”, động từ “phun” kết hợp cùng nghệ thuật so sánh không chỉ diễn tả tốc
độ bay nhanh và nhiều bụi, tả thực mái tóc nhuốm bụi đường khiến người lính thêm vẻ
Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 6
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

phong trần. Cách nói trẻ trung mà còn gợi ra tốc độ lao nhanh của chiếc xe. Đâu còn một
Trường Sơn trong cảm hứng bay bổng như trong thơ Tố Hữu: “Trường Sơn mây núi lô xô/
Quân đi sóng lượn nhấp nhô bụi hồng” mà là Trường Sơn hiện thực - một trong những
tuyến đường ác liệt nhất, nguy hiểm nhất những năm tháng chống Mĩ.
- Vượt lên tất cả, người lính vẫn vô tư, hồn nhiên khi nhìn khó khăn, thử thách:
“Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Cử chỉ “phì phèo châm điếu thuốc” vừa diễn tả thái độ ung dung, bình thản, vừa thể
hiện sự ngang tàng, ngạo nghễ của người lính lái xe. Đi cùng cử chỉ rất lính ấy là “nhìn nhau
mặt lấm cười ha ha”. Từ láy tượng thanh “ha ha” gợi vẻ hồn nhiên, vô tư, sảng khoái. Âm
tiết mở khiến tiếng cười vang xa trong không gian, vang vọng trong lòng, vang mãi trong
thơ.
 Cũng là miêu tả tiếng cười, Chính Hữu viết về anh bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến
chống Pháp đã chú ý đến hình ảnh “miệng cười buốt giá”. Còn Lê Minh Khuê - một nhà văn
nữ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ đã diễn tả miêu tả nụ cười của các cô
thanh niên xung phong: “Cười thì hàm răng loá lên, khuôn mặt nhem nhuốc”. Ta nhận ra, ở
các tác giả trên đều có chung một cái nhìn, một cảm hứng, đó là phát hiện ra tinh thần lạc
quan, yêu đời của con người trong những hoàn cảnh gian nan, thử thách, hiểm nguy. Đúng
là càng khó khăn thử thách, người lính càng có cơ hội để thể hiện bản lĩnh kiên cường, tinh
thần dũng cảm của mình. Họ chính là những người anh hùng đóng góp bao mồ hôi xương
máu cho Tổ quốc.
b. Luận cứ 2: Những gian khổ khi phải lái những chiếc xe không kính trong điều kiện
thời tiết khắc nghiệt vào mùa mưa (Khổ 4):
- Vì không có kính nên người lính ngồi trên xe mà mưa vẫn xối đến ướt cả áo:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”
+ Điệp từ “mưa”, động từ mạnh “tuôn”, “xối”, nghệ thuật so sánh “như ngoài trời”
đậm tô cái dữ dội của những trận mưa đại ngàn Trường Sơn – những trận “mưa bạc trắng cả
cây rừng” (Bằng Việt). Những cơn mưa hết đợt này đến đợt khác liên tiếp khiến người lính
ngồi trong ca bin mà như đang ở ngoài trời vậy.
+ Không chỉ ướt áo mà còn bao khó khăn nữa khi lái xe dưới trời mưa. Mưa xối vào
mặt, táp vào mắt, khiến đôi mắt mờ đi, cay xè, thế mà tay lái vẫn vững vàng, tâm thế vẫn
ung dung. Câu thơ một lần nữa nhấn mạnh những khó khăn, gian khổ mà người lính phải
đối mặt khi ngồi trên những chiếc xe không kính.
- Gian khổ là thế vậy mà vượt lên tất cả vẫn là thái độ thản nhiên, bất chấp mọi khó
khăn, thử thách với cái nhìn lạc quan của người lính:
“Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”

Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 7
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

+ Câu thơ làm ngời sáng lên một tinh thần, một ý chí trách nhiệm cao cả. Những cơn
mưa rừng, những bộ quần áo ướt... tất cả đã không thể làm người lính sờn lòng, nhụt chí. Số
từ "trăm” gợi ra cả một quãng đường dài người lính lái xe trong điều kiện khắc nghiệt ấy.
Lời thơ thản nhiên nhưng lại khiến cho người đọc xúc động. Ta nhận ra, lòng yêu nước, sự
nhiệt tình của tuổi trẻ được đo bằng những cung đường cụ thể “trăm cây số nữa”. Từ câu nói
bình dị của người lính, ta thấy sáng lên tinh thần khẩn trương trên con đường ra trận.
+ Dòng thơ có tới 6 trên 7 chữ là thanh bằng, động từ nhẹ “ngừng”, “lùa”, “khô” tạo
âm điệu nhẹ nhõm, giọng thơ nhẹ nhàng. Hiện thực nặng nề bỗng hóa nhẹ tênh khiến lời thơ
như lời tự nhủ của người chiến sĩ lái xe. Người lính tự nhủ với lòng mình để củng cố ý chí,
nghị lực vượt qua khó khăn, gian khổ. Câu thơ giống như lời động viên nhau của người lính,
ấm áp nghĩa tình. Câu thơ góp phần tô đậm vẻ đẹp lạc quan, cảm giác nhẹ nhõm ung dung
thanh thản, sự hóm hỉnh trong người lính. Đó là chứng tích của cái nhìn lạc quan, khỏe
khoắn của những người lính lái xe.
2.4. Luận điểm 4: Vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội (Khổ 5+6)
a. Luận cứ 1: Tình cảm thân thiết, cởi mở trong giây phút gặp gỡ, tái ngộ:
- Hai câu thơ đầu là sự lí giải về việc hình thành tiểu đội xe không kính:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã vào đây họp thành tiểu đội”
Những chiếc xe đã băng qua chặng đường Trường Sơn đầy mưa bom bão đạn, nơi mà
sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc. Giờ đây, họ trở về quây quần bên nhau, tụ
họp thành “tiểu đội” xe không kính trong nghĩa tình đồng đội. Thì ra, những chiếc xe không
kính không phải là hiện tượng cá biệt mà ngược lại, nó rất phổ biến và người ta dễ dàng bắt
gặp trên con đường Trường Sơn.
- Hai câu thơ sau gợi không khí ra trận hừng hực, sục sôi và tình cảm cởi mở chân
thành của những người lính:
“Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
+ “Dọc đường đi tới” hay chính là con đường ra phía trước, đường tới chiến trường,
con đường ấy còn rất nhiều gian khổ. Ở đó, người lính gặp nhau trở thành bạn bè. Lời thơ
của Phạm Tiến Duật gợi ta nhớ đến những vần thơ của Chính Hữu:
“Những buổi vui sao
Cả nước lên đường
Xao xuyến bờ tre
Từng hồi trống giục”
+ Câu thơ cuối đoạn “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” là một hình ảnh thơ hết sức
độc đáo. “Bắt tay” là hình ảnh thực, diễn tả cái nắm tay thân tình của những người lính lái
xe khi tình cờ gặp gỡ trên mọi nẹo đường. “Cửa kính vỡ” cũng là một hình ảnh thực về
chiến tranh, là chứng tích về sức tàn phá dữ dội của bom đạn. Câu thơ ghi lại một cách chân
Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 8
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

thực vì xe không kính nên trên những chặng đường xuôi ngược chiến tranh, xe đỗ sát xe,
người lính có thể ngồi trong buồng lái mà châm cho nhau điếu thuốc, mà bắt tay nhau qua ô
cửa vỡ rồi. Câu thơ còn gợi sự hóm hỉnh, trẻ trung, gợi tình đồng chí, đồng đội, trở thành
sức mạnh, giúp người lính vượt khỏi gian khổ, thử thách. Bom đạn kẻ thù có thể tàn phá
những giá trị vật chất nhưng không thể hủy diệt được những giá trị tinh thần.
b. Luận cứ 2: Tình cảm gắn bó, sẻ chia trong giây phút sinh hoạt, nghỉ ngơi:
- Sau chặng đường vất vả, những người lính dừng chân và quây quần, chan hòa
trong không khí gia đình ấm cúng:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
+ Phạm Tiến Duật đã đưa vào trong thơ những chi tiết rất thực của đời sống chiến
tranh để dựng lên khung cảnh dã chiến. Trong số rất nhiều những chi tiết của hiện thực gian
khổ, ông đã chọn hình ảnh “bếp hoàng cầm” hẳn là có dụng ý. Lúc đầu, câu thơ vốn là “Bếp
lửa rừng ta dựng giữa trời”. Về sau, ông đổi cụm từ “bếp lửa rừng” thành “bếp Hoàng
Cầm”. Nói đến “bếp Hoàng Cầm”, ta nghĩ ngay đến sản phẩm sáng tạo của anh hùng nuôi
quân tên là Hoàng Cầm, loại bếp dã chiến khi đun khói đi vào lòng đất tránh được cặp mắt
diều hâu cú vọ của kẻ thù.
+ Phải chăng bếp lửa là một tín hiệu vui gợi sự ấm áp quây quần. Bên bếp lửa ấy,
những người lính đến “từ trong bom rơi” đã chia sẻ với nhau bữa cơm dã chiến. Trong bữa
cơm vội vàng, những người lính xa lạ bỗng chốc trở thành thành ruột thịt của nhau. Trong
không khí gia đình ấm cúng, họ cùng chung nhau bát đũa, chung nhau bữa cơm.
 Có thể nói hai câu thơ là một định nghĩa hết sức giản dị về gia đình. Khái niệm ấy
được đo bằng sự trải nghiệm của những lần vào sinh ra tử, của biết bao lần cận kề cái chết.
Chính tình cảm này đã giúp cho người lính lái xe thêm chắc tay lái vì miền Nam thân yêu.
- Sau những giờ phút nghỉ ngơi, người lính lái xe lại lên đường với niềm tin phơi
phới:
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời thêm xanh”
+ Dù trong hoàn cảnh nào, những anh lính Cụ Hồ vẫn mơ mộng, lạc quan, vẫn sáng
lên vẻ đẹp tình đồng chí đồng đội thắm thiết. Câu thơ tái hiện một cách tinh tế gian khổ mà
những người lính lái xe Trường Sơn phải trải qua. Đó là cuộc sống gian khổ, phải ăn, phải
ngủ những giấc ngủ ngắn ngày trên xe giữa những làn mưa bom của giặc đang ngày đêm
trút xuống nhằm huỷ diệt sự sống. “Chông chênh” là một từ láy giàu giá trị gợi tả, gợi cảm.
Nó gợi tả tư thế không thăng bằng, không chắc chắn, không vững chãi. “Chông chênh” gợi
nhịp võng lắc trên chiếc xe, gợi đến con đường Trường Sơn gập ghềnh, khó khăn, nguy
hiểm, giúp ta hình dung về những giây phút nghỉ ngơi không bình yên của người lính lái xe
khi họ thay nhau làm nhiệm vụ. Đây là một nét vẽ hiện thực mà Phạm Tiến Duật tái hiện lại
cuộc đời gian khổ của người lính lái xe Trường Sơn. Song từ “chông chênh” còn gợi tả
phong thái hiên ngang của người lính. Bom đạn của kẻ thù tưởng như có thể dùng sức mạnh

Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 9
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

để huỷ diệt sự sống con người nhưng không! Hình ảnh những chiếc võng mắc “chông
chênh” trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa ấy đã chứng minh điều ngược lại, sự sống
không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang, tư thế của người
chiến thắng.
+ Nhưng vượt lên trên tất cả, họ luôn có tư thế tiến về phía trước. Câu thơ như tiếng
hát nâng bước chân người ra trận. Điệp từ “lại đi” cùng nhịp thơ nhanh phơi phới lãng mạn
(2/2/3) tái hiện vòng bánh xe lăn tiến lên phía trước, rộng hơn là đoàn xe vận tải lao nhanh
ra mặt trận, bỏ lại đằng sau tất cả đạn bom u ám để đến với bầu trời xanh phía trước. Hình
ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” kết thúc đoạn thơ như vẽ ra một tương lai tươi sáng với cuộc
sống thanh bình đang chờ đón người lính. Với hình ảnh này, ta thấy được niềm lạc quan,
niềm tin bất diệt của người lính vào chiến thắng. Phải chăng đó là sức mạnh lớn lao để đoàn
xe lăn bánh tới đích?
2.5. Luận điểm 5: Vẻ đẹp của lí tưởng chiến đấu thiêng liêng, cao đẹp vì miền Nam
ruột thịt (khổ cuối)
a. Luận cứ 1: Hai câu thơ đầu gợi lên những gian khổ, thiếu thốn của đời sống chiến
đấu bằng bút pháp tả thực:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
- Với biện pháp liệt kê, điệp ngữ “không có” được nhắc lại ba lần, hai câu thơ nhấn
mạnh sự thiếu thốn đến biến dạng của những chiếc xe. Không những không có kính mà xe
còn không có đèn, không có mui xe và thùng xe thì bị xước. Đằng sau sự biến dạng ấy của
đoàn xe là sự khốc liệt của chiến tranh, mức độ ác liệt của chiến trường. Hai câu thơ như lời
kể, lời phân bua của người lính. Vậy là trải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe ban đầu
đã không có kính, bị bom Mỹ làm cho biến dạng đến trần bụi
- Mỗi dòng thơ ngắt nhịp 4/4 như những chặng đường gập ghềnh, khúc khuỷu đầy
chông gai, bom đạn... Nhưng điều kỳ lạ là không gì có thể cản trở được sự chuyển động kỳ
diệu của những chiếc xe trơ trụi ấy. Chúng như những chiến sĩ kiên cường vượt lên trên
bom đạn, hăm hở lao băng ra chiến trường với một tình cảm thiêng liêng.
b. Luận cứ 2: Hai câu thơ sau đã khắc đậm hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ lái xe
trên đường Trường Sơn với tinh thần dũng cảm, ý chí quyết tâm chiến đấu giải phóng
miền Nam:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
- Đoàn xe dù đã bị bom đạn chiến tranh phá hủy nặng nề, mất đi cả những hệ số an
toàn, tưởng như không thể lăn bánh nhưng vẫn chạy trong bom rơi đạn lửa bởi phía trước là
miền Nam đang vẫy gọi. Nghệ thuật nhân hóa “xe vẫn chạy” khiến cho những chiếc xe trở
nên có hồn, đoàn xe đã chiến thắng, dũng cảm vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước,
hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng vì Miền Nam, vì cuộc chiến đấu giành
độc lập thống nhất đất nước. Câu thơ ca ngợi chiếc xe, cũng là ca ngợi những người lính lái

Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 10
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

xe trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại. Họ đã sống và chiến đấu cho một lý tưởng
cao đẹp: giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước. “Miền Nam” là chiến trường, là tiền
tuyến; là một nửa nước thương yêu đang chìm trong máu lửa; là đồng bào ruột thịt, chung
dòng máu lạc hồng. “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông
có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí Minh).
- Sức mạnh làm nên điều kì diệu ấy của đoàn xe đã được tác giả lí giải bất ngờ: “Chỉ
cần trong xe có một trái tim”. Tác giả đặt dấu hai chấm trước khi chuyển sang dòng thơ
cuối. Câu thơ như lời lý giải cho những ý thơ ở những câu trước, kết tinh ý tình cả bài, nâng
cao và khắc sâu hơn ý nghĩa bài thơ. Mọi thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần
vẹn nguyên trái tim người lính, trái tim vì miền Nam - thì xe vẫn chạy, “tất cả cho tiền
tuyến”. Đối lập với tất cả những cái “không có” ở trên là một cái “có”. Đó là trái tim - sức
mạnh của người lính. Sức mạnh con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù. Trái tim ấy thay
thế cho tất cả những thiếu thốn không kính, không đèn, không mui, hợp nhất với người
chiến sĩ lái xe thành một cơ thể sống không gì tàn phá, ngăn trở được. Xe chạy bằng tim,
bằng xương máu của người chiến sĩ. Những chiếc xe càng thêm độc đáo vì đó là những
chiếc xe trái tim cầm lái. Hình ảnh trái tim kết thúc bài thơ là hình ảnh hoán dụ độc đáo gợi
ra biết bao ý nghĩa: Trái tim trước hết là những người lính lái xe, chính họ đã làm nên điều
kỳ diệu, phi thường trên. Sâu sắc hơn, rung động hơn trái tim ấy còn là biểu tượng cho
phẩm chất và tâm hồn tuyệt đẹp của người lính: sự kiên cường dũng cảm, là lòng yêu nước,
căm thù giặc, là ý chí chiến đấu, khát vọng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là ý
thức trách nhiệm của thế hệ trẻ trước vận mệnh của dân tộc. Trái tim mang tinh thần lạc
quan và một niềm tin mãnh liệt vào ngày thống nhất Bắc Nam. Ẩn sau ý nghĩa trái tim cầm
lái, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh
quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ tối tân hiện đại... mà là con người –
con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường dũng cảm, niềm lạc quan
và một niềm tin vững chắc. Đến đây ta có thể hiểu vì sao một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam
lại có thể chiến thắng liên tiếp hai đế quốc hùng mạnh như vậy. Có thể nói, hay nhất là câu
thơ cuối cùng này. Nó là nhãn tự, là con mắt của bài thơ, bật sáng chủ đề, tỏa sáng về, đẹp
của hình tượng nhân vật trong thơ. Trái tim người lính tỏa sáng rực rỡ mãi đến muôn thế hệ
mai sau khiến ta không quên một thế hệ thanh niên thời kỳ chống Mĩ oanh liệt của dân tộc.
Như Tố Hữu đã từng ca ngợi:
“Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo”
 Khổ thơ có kết cấu đối lập bất ngờ sâu sắc giữa hai câu đầu và hai câu cuối: Nếu
hai câu đầu tác giả sử dụng kết cấu câu phủ định để làm nổi bật hình ảnh những chiếc xe
méo mó, biến dạng thì hai câu sau tác giả sử dụng kết cấu khẳng định nhấn mạnh ý chí
quyết tâm của những chiến sĩ lái xe vượt lên trên bom đạn thử thách.
3. Hợp

Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 11
Bài thơ về tiểu đội xe không kính Phạm Tiến Duật

(Viết thành một đoạn văn khoảng 10 dòng. Có thể tham khảo các ý sau)
- Nghệ thuật
+ Thể thơ kết hợp linh hoạt giữa thể 7 chữ với thể 8 chữ, có chỗ 6 hay 10 chữ tạo cho
bài thơ một điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động, góp phần tạo nên chất thơ mới,
giọng điệu mới của thơ ca chống Mỹ.
+ Ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Phạm Tiến
Duật, góp phần khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe: giọng điệu bài thơ ngang tàng có cả
chất tinh nghịch phù hợp với đối tượng miêu tả - những chàng trai lái xe trên những chiếc xe
không kính. Ngôn ngữ bài thơ giản dị, ngồn ngộn chất sống, đời sống chiến trường, vừa làm
giàu thêm chất điệu thơ ca vừa thể hiện chân thực hình ảnh người lính lái xe. Lời thơ gần
với lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường nhưng vẫn giàu chất thơ. Chất thơ toát lên từ
những hình ảnh độc đáo, từ vẻ hiên ngang, sôi nổi, trẻ trung của người lính, từ những ấn
tượng cảm giác cụ thể của họ khi ngồi trên những chiếc xe không kính.
+ Sáng tạo hình ảnh thơ độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình
tượng trung tâm của bài thơ.
- Nội dung: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ một
hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc hoạ nổi bật hình ảnh
những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mỹ, với tư thế hiên ngang, tinh thần
lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
III. KẾT BÀI
(Viết thành một đoạn văn khoảng 10 dòng. Có thể tham khảo các ý sau)
- Bài thơ cho ta thấy một biểu tượng đẹp về người lính Trường Sơn, từ đó giúp ta hiểu
hơn về thời kỳ lịch sử gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc, hiểu hơn về nhà thơ Phạm Tiến
Duật. Ông cũng là một người lính từng trực tiếp tham gia chiến đấu trên tuyến đường mòn
Hồ Chí Minh huyền thoại, có lẽ vì vậy mà tiếng nói của nhà thơ về mình và về đồng đội
mình hết sức chân thực và sống động.
- Cùng với một số bài thơ khác của tác giả: “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”, “Lửa
đèn”, “Gửi em cô thanh niên xung phong”, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” góp phần
khẳng định Phạm Tiến Duật là một gương mặt xuất sắc nhất thời kì chống Mỹ.
- Bài thơ gợi trong người đọc sự khâm phục, trân trọng và xúc động trước những tình
cảm cao đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt, giúp ta hiểu sâu sắc
về cuộc sống kháng chiến đầy gian khổ của quân đội ta, biết ơn công lao của các thế hệ cha
anh đi trước đã chiến đấu bền bỉ, gian khổ đem lại độc lập tự do cho dân tộc.
- "Tiếng nói của văn nghệ", Nguyễn Đình Thi viết: "Tác phẩm nghệ thuật nào cũng
xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Những nghệ sĩ không những ghi lại cái đã
có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn
nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh".

Trần Bình Gia Linh, 9A1, 2021 – 2022, THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm 12

You might also like