Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 24

CHỮ SỐ VÀ THẾ GIỚI

NGUỒN GỐC BỊ LÃNG QUÊN


Time takes everything but the truth.
ĐỖ MINH TRIẾT

CHỮ SỐ VÀ THẾ GIỚI


NGUỒN GỐC BỊ LÃNG QUÊN

CHỮ SỐ VÀ THẾ GIỚI


Nguồn gốc bị lãng quên
Copyright © 2018 Triet Minh Do
Product of Mathtasy

Không phần nào trong xuất bản phẩm này được phép sao chép hay phát
hành dưới bất cứ hình thức hay phương tiện nào mà không có sự cho phép
của tác giả và đơn vị phát hành. tủ sách Mathtasy
Quyển sách này dành tặng đến cho Thuỳ Giang

cũng như các học trò của thầy Thảo Vy, Trung Thuận, Vân An, Minh Tâm, Thiên Thư,

Tuấn Hưng, Ngọc Hằng, Như Ý, Hoàng Giang

thông tin sách


Mục lục

LỜI NÓI ĐẦU 15

CHƯƠNG I. ĐẾM 21

01. Đếm......................................................................................22

02. Thế nào là một cơ số đếm?......................................................31

03. Quipu: Một loại “chữ số” không cần phải viết ra......................38

CHƯƠNG II. CHỮ SỐ 49

04. Lưỡng Hà: Những chữ số đầu tiên của nhân loại.......................56

05. Ai Cập: Chữ số tượng hình......................................................92

06. Chữ số tại vương quốc Kush..................................................108

07. Minos: Một sự khởi đầu.........................................................112

08. Hittite: Một đế chế, hai hệ ghi số...........................................116

09. Hy Lạp: Ngắn gọn nhưng hạn chế.........................................121

10. Lycia: Mãi là những bí ẩn.....................................................126

11. Nam Ả Rập: Khác biệt nhưng hạn chế...................................127

12. Etrusca: Khởi nguồn của chữ số La Mã...................................128


13. La Mã: Một trong những di sản lớn nhất nhân loại..................130 PHỤ LỤC 419
14. Lược sử bàn tính...................................................................140
33. H'Mong...............................................................................420
15. Chữ cái số: Khi chữ cái được dùng làm chữ số........................160
34. Bamum................................................................................424
16. Trung Đông: Vùng đất của nhiều hệ ghi số tách biệt...............198
35. Kikakui................................................................................426
17. Ba Tư: Lịch sử chữ số gắn chặt với lịch sử văn hoá...................208
36. Một vài chữ số Châu Phi.......................................................427
18. Trung Quốc: Sức ảnh hưởng lớn đến với phương Đông............220
37. Rongorongo.........................................................................433
19. An Nam: Chữ số Hán – Nôm................................................243
38. Nữ Chân..............................................................................436
20. Nhật Bản: Chữ số Hán – Nhật và thuần Nhật.........................247
39. Khiết Đan.............................................................................437
21. Hàn Quốc: Chữ số Hán – Hàn và thuần Hàn..........................249
40. Hungaria cũ.........................................................................439
22. Trung bộ Châu Mỹ: Chữ số đầy huyền bí...............................251
41. Chuvash Cổ đại....................................................................440
23. Chỉ còn là quá khứ...............................................................286
42. Chữ số nổi...........................................................................441

CHƯƠNG III. ẤN ĐỘ & Ả RẬP 293


BẢNG THUẬT NGỮ 447
24. Ấn Độ: Bước đầu đến với sự hoàn hảo...................................296

25. Ả Rập Hồi Giáo: Tinh hoa Khoa học một thời.........................338
DANH MỤC HÌNH ẢNH 455
26. Châu Âu: Chặng đường cuối cho hệ ghi số hoàn thiện............350

27. Sự tiến hoá hình dạng chữ số................................................374


DANH MỤC BẢNG 461
28. Trên cả hoàn nảo.................................................................383

TÀI LIỆU THAM KHẢO 465


CHƯƠNG IV. TRUYỀN TIN 391

29. Semaphore..........................................................................394

30. Mã Morse............................................................................402

31. Bảng chữ cái ngữ âm............................................................410

32. Cờ hiệu................................................................................413
Lời nói đầu

Vũ trụ này có nhiều câu chuyện để kể, như cách mà sử gia Yuval Noah
Harari đã mở đầu ấn tượng trong quyển “Sapiens: Lược sử loài người” năm 2014
của ông như sau:

“Khoảng 13,5 tỉ năm trước, vật chất, năng lượng, thời gian và không
gian được hình thành trong một sự kiện gọi là Big Bang. Câu chuyện về
những đặc tính cơ bản này của vũ trụ được gọi là Vật lí.
Khoảng 300 000 năm sau khi xuất hiện, vật chất và năng lượng bắt
đầu hợp nhất tạo thành các cấu trúc phức tạp, gọi là những nguyên tử, sau
đó chúng lại kết hợp để tạo thành các phân tử. Câu chuyện của các nguyên
tử, phân tử và những tương tác giữa chúng được gọi là Hoá học.
Khoảng 3,8 tỉ năm trước, trên một hành tinh được gọi là Trái Đất, một
số phân tử nhất định đã kết hợp tạo thành những cấu trúc đặc biệt lớn và
phức tạp, được gọi là các sinh vật. Câu chuyện về các sinh vật được gọi là
Sinh học.
Khoảng 70 000 năm trước, các sinh vật thuộc loài Homo Sapiens bắt
đầu hình thành một cấu trúc thậm chí còn tinh vi hơn gọi là văn hoá. Quá
trình phát triển văn hoá này của con người được gọi là Lịch sử.…”

Và câu chuyện mà quyển sách này kể được gọi là Toán học, với nhân vật
chính mang tên Chữ số.
Việc sử dụng mười chữ số hiện nay 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 cứ như là một
khả năng bẩm sinh của con người, nó hiển nhiên đến nỗi như biết đi đứng, biết
nói năng, giao tiếp. Chúng ta hãy thử suy xét về các chữ số hiện nay. Chỉ với một
tập hợp gồm mười chữ số, mọi con số bất kể lớn nhỏ như thế nào, đều được biểu hệ thống số. Nhân loại đã phải mất hàng ngàn năm để thống nhất được hai yếu
diễn một cách vô cùng đơn giản. Tại sao chỉ với một lượng hữu hạn ký tự lại có thể tố này trong một hệ ghi số. Thường thì khi ghép hình, mảnh ghép cuối cùng hoàn
biểu diễn được một lượng vô hạn các con số? Đó chính là nhờ quy tắc vị trí định toàn không cần thiết cho sự hình dung bức tranh toàn cảnh. Nhưng cái khác biệt
lượng. Vị trí định lượng có nghĩa là cùng một chữ số, ở những vị trí khác nhau thì ở đây là không như trò chơi ghép hình thông thường, mảnh ghép vị trí định lượng
nó sẽ mang những giá trị khác nhau. Chẳng hạn với con số 777, chữ số 7 ở vị trí cùng mảnh ghép số không lớn hơn rất nhiều so với tất cả các mảnh ghép còn lại,
cuối cùng mang giá trị bảy đơn vị, trong khi ở vị trí kế cuối, nó là bảy mươi, và chiếm phần lớn diện tích của bức tranh toàn cảnh.
trước đó nữa là bảy trăm. Quy tắc vị trí định lượng thôi là chưa đủ, còn phải có Với tư cách là một người thầy, bản thân tác giả đã từng được học trò của
thêm một yếu tố khác nữa, chính là chữ số 0, con số có giá trị bằng không nhưng mình hỏi rằng: “Thưa thầy! Vì sao hình dạng chữ số nó lại thành ra như thế?”,
lại vô giá hơn bất cứ chữ số nào khác. “Ngày xưa mình có viết số giống vậy không?”, “Tại sao lại có chữ số La Mã trông
Như vậy, khi suy xét kỹ thì chữ số hiện nay hoàn toàn không phải một điều thì đẹp nhưng viết lại rắc rối vậy?”,... Đó cũng chính là những câu hỏi mà tôi tự
quá hiển nhiên nằm trong bản năng của con người. Rõ ràng nó là một cái gì đó vấn và nhận ra rằng sự thiếu hiểu biết của mình to lớn đến dường nào. Vấn đề
mang tính phát minh, nhân tạo. Chữ số La Mã với cách viết số vô cùng khác biệt lịch sử khoa học đã không được coi trọng trong giáo dục phổ thông, thậm chí cả
là một minh chứng rõ ràng. Kể từ khi có tư duy, tức là lúc nổ ra cuộc Cách mạng giáo dục đại học. Tôi theo chuyên ngành Toán Sư phạm nhưng không hề có học
nhận thức, tổ tiên chúng ta đã bắt đầu học đếm, hình thành ý niệm sơ khai về số, phần lịch sử toán học trong chương trình. Tôi đã tìm đến các quyển sách nổi tiếng
để rồi từ đó phát minh các hệ ghi số. Nền văn minh đầu tiên của nhân loại xuất về chữ số, như quyển “Chữ số hay lịch sử một phát minh vĩ đại” của Georges
hiện cách nay đã hơn sáu ngàn năm nhưng chữ số hiện nay có tuổi đời chưa đến Ifrah, “Numerical Notation: The Comparative History” của Stephen Chrisomalis,
năm thế kỉ. Câu chuyện hình thành chữ số vì vậy mà rất dài, liên quan đến đủ “A History of Mathematical Notations” của Florian Cajori cũng như các nguồn
mọi khía cạnh: tôn giáo, chính trị, ngôn ngữ, chữ viết,... Sẽ rất là thiếu sót nếu tư liệu khác giữa đại dương thông tin Internet. Tất cả chúng đều là lịch sử chữ số,
như bỏ qua những khía cạnh này. Mỗi nền văn minh có một chữ số riêng, cách mà đã là lịch sử của bất kỳ vấn đề nào, nó sẽ gắn chặt với lịch sử văn minh nhân
viết số riêng nhưng vì nhiều lý do, hầu như mọi nền văn minh đều đi đến kết cục loại. Càng tìm hiểu, càng đọc, từ những gì không phổ biến như chữ viết hình nêm
suy tàn, và mang đi theo ít nhiều kỹ thuật đó, cũng như nền tảng khoa học và văn cổ đại, kỹ thuật thắt nút quipu, bảng chữ cái Phoenicia, các dân tộc Turk cho đến
hóa của nó cũng biến mất theo. Một vài nền văn minh trong số đó đã đạt đến những gì rất phổ biến như Hy Lạp, Ai Cập, Babylon, Ấn Độ, kỷ nguyên vàng của
trình độ tuyệt đỉnh trong thiên văn, toán học, kiến trúc nếu tính vào thời điểm lúc Hồi giáo, Đêm trường Trung cổ ở Châu Âu, các Đế quốc hùng mạnh nổi tiếng như
bấy giờ. Thật đáng tiếc, tất cả đều thất truyền. Những gì cón sót lại chỉ là các tàn Assyria, Byzantine, Ottoman, mã Morse; quả thực, tôi không biết một chút gì về
tích, hóa thạch, xương xẩu, bia đá, nhiều tài liệu và bản thảo không còn nguyên chúng cả. Thật lạ là tất cả chúng đều hội tụ quanh nhân vật Chữ Số ẩn mình, tôi
vẹn. Nhưng điều đó không cản bước chúng ta trong quá trình khôi phục bởi công cứ ngỡ rằng một khái niệm Toán học sẽ chẳng chút dính dáng gì đến những điều
nghệ ngày càng phát triển, khoa học ngày một tiến bộ. Những gì còn sót lại có lẽ như vậy nhưng sự thật thì hoàn toàn trái ngược. Tôn giáo, Chính trị, Văn hóa, Kinh
sẽ đủ cho chúng ta hiểu được quá khứ. tế, Chiến tranh, Quyền lực là những vị thần chi phối mọi điều, không một yếu tố
Rất khó kể về lịch sử chữ số theo trình tự thời gian tuyến tính trước sau của mang tính con người nào lọt khỏi sự kiểm soát của các thế lực này.
các sự kiện, bởi nó sẽ vướng phải tính hợp lý logic của các khái niệm trong Toán Lý do cho quyển sách này ra đời là vì tác giả muốn có một tựa sách Toán
học. Sở dĩ mọi thứ rối tung lên như một vòng luẩn quẩn trong quá trình kiến tạo học dành cho phần đông độc giả phổ thông. Hơn nữa, nó cần phải nói rõ hơn về
chữ số và cách ghi số là bởi nhận thức của con người về số không và quy tắc vị trí bối cảnh lịch sử, điều mà các tựa sách trên chưa giải quyết triệt để nhưng lại đi
định lượng là không đầy đủ. Vì đây chính là hai yếu tố quan trọng nhất của một quá sâu về toán chuyên ngành. Ngoài ra, chưa có một tựa sách Việt nào viết về
Hình I.
lịch sử chữ số. Vì những lẽ đó, tôi đã dốc sức cho quyển sách mà bạn đang cầm Bảng I.

trên tay, mong muốn đóng góp phần công sức nhỏ bé nhưng hết mình cho câu
chuyện chữ số. Quyển sách này, vì vậy mà nó sẽ vừa là sách toán nhưng đồng
thời cũng là sách sử, thậm chí nó thiên về sử hơn là toán, về cả hệ chữ viết, về địa
lý và cả ngôn ngữ. Bạn sẽ bắt gặp rất nhiều hệ thống chữ viết, chữ số rất lạ chưa
từng biết đến, tưởng chừng như chúng đã bị lãng quên không bao giờ được tìm
Chương I.

Đếm
thấy, tìm và gõ những ký tự vô cùng đặc biệt đó không hề dễ dàng.
Quyển sách này ra đời còn là để giải đáp chính những câu hỏi đầy ngây
thơ nhưng lại hết sức tinh tế của những cái đầu đầy tò mò của lứa tuổi học sinh,
nó cũng là một động lực lớn khiến tôi cố gắng hoàn thành tựa sách. Bản tính tò mò
về thế giới xung quanh ngày càng phai nhạt khi chúng ta lớn lên, nhưng chúng
được duy trì và tiếp nối qua thế hệ con cháu, qua những câu hỏi sâu sắc tưởng
chừng như ngây ngô. Không có những câu hỏi “vì sao”, văn minh nhân loại đã
không tiến xa được như bây giờ. Trong trường hợp này, tôi lại học được nhiều từ
những học trò của mình, đó là hãy luôn duy trì trí tưởng tượng và tính tò mò như
những tâm hồn trẻ thơ.
Sai sót là điều không thể tránh khỏi, rất mong bạn đọc bỏ qua và liên hệ
trực tiếp đến hòm thư toanhockithu@gmail.com.
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

hay nhiều hơn thế? Bạn tặc lưỡi, cần phải đếm mới được. Tất cả chúng
ta đều như vậy, khi số lượng quá bốn, tâm trí chúng ta rối lên và cái nhìn
01. ĐẾM tổng quan nắm bắt ngay tức khắc không còn giúp ích được nữa. Điều này
còn thể hiện rất rõ trong cách ghi số La Mã: các số một, hai, ba đều được
Đếm là hoạt động tư duy Toán học đầu tiên của con người. Không
thể hiện bằng các gạch đứng, số bốn vẫn có thể dùng bốn gạch để miêu
biết rằng con người đã biết đếm từ khi nào nhưng chắc chắn một điều,
tả nhưng có vẻ hơi hoa mắt chút xíu, năm trở đi mà dùng cách viết gạch
kể từ một thời điểm nào đó trở về trước, con người không hề biết đếm.
đứng thế này thì quả choáng váng, chúng ta không thể nào thấy ngay
Trong khoảng thời gian đó, các con số đối với tổ tiên chúng ta chỉ được
được mà buộc phải đếm mới biết. Nếu viết số kiểu như vậy thì quả thực
cảm nhận và tới số lượng hai là cùng, với số lượng lớn hơn, họ chỉ biết
vô dụng, chúng ta muốn biết ngay con số khi nhìn vào chứ đâu phải đếm
rằng đó là nhiều. Từ đâu mà chúng ta có thể khẳng định được điều như
rồi mới biết. Chính vì thế, số năm được gán cho ký tự V riêng biệt, số
thế? Đó là nhờ nghiên cứu, tìm hiểu những bộ tộc ít người nơi rừng núi
mười là ký tự X, năm mươi là L, một trăm là C, năm trăm là D và một
hoang dã xa xôi. Họ chưa từng được tiếp xúc với thế giới văn minh tráng
ngàn là M. Những con số khác được viết theo những luật ghi số đảm bảo
lệ bên ngoài và lối sống của họ cũng không khác biệt gì nhiều so với người
sao cho không phải đếm để biết con số được viết là mấy.
tiền sử xa xưa. Chẳng hạn như tộc người Zulu, Pygmy ở Châu Phi hay
Arrernte, Kamilaroi ở Châu Úc,... Sự phát triển của việc đếm cũng như
cảm nhận con số còn được thấy qua quá trình phát triển của trẻ em. Từ Như vậy, một điều rõ ràng rằng
sáu đến mười hai tháng, một đứa trẻ ít nhiều đánh giá được không gian Khả năng cảm nhận, tri giác trực tiếp về số của con người
bị chiếm lĩnh bởi những vật thể, con người xung quanh: khi thiếu vắng không thể nào vượt quá bốn.
một thứ trong một nhóm các vật thể quen thuộc, các em có thể sẽ nhận
Điều kết luận trên đây là đối với khả năng đếm số lượng, chứ không
ra. Mười hai đến mười chín tháng, em bé dần dần tự học cách phân biệt
phải về các đại lượng đo như độ dài hay cân nặng. Một khoảng cách hay
được giữa một, hai và nhiều hơn, quá trình này diễn ra trong tiềm thức.
khối lượng lớn hơn bốn đơn vị đo chúng ta vẫn có thể ước lượng nó, đây
Hai đến ba tuổi, em biết nói và gọi được tên các con số đầu tiên, một,
là cách tư duy dựa trên hình ảnh trực quan, hoàn toàn khác với số lượng.
hai, ba, bốn nhưng đôi khi quên số ba thì lại thành ra một, hai, bốn, điều
Chẳng hạn, bạn ước lượng cân nặng của một người dựa trên số đo và
đó chứng tỏ ba vẫn là một con số mà em chưa nắm bắt được hoàn toàn.
hình ảnh của chính bản thân hay một người nào đó bạn đã biết. “Mình
Thế còn sự cảm nhận các con số đối với chúng ta, tức những người hiện
65 kg, còn họ trông ốm thế này thì chắc khoảng 40kg” là một ví dụ.
đại trưởng thành thì sao? Sự tri giác trực tiếp con số vẫn còn tồn tại,
nhưng với số lượng không vượt quá bốn. Muốn biết số lượng nhiều hơn,
bắt buộc chúng ta phải đếm. Thật vậy, bạn hãy tưởng tượng khi phải Khả năng cảm nhận, tri giác trực tiếp con số tác động không nhỏ
thoáng nhìn nhanh một nhóm vật thể hay đối tượng, chẳng hạn vài chiếc vào cách thức tư duy, suy nghĩ, diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ của con người.
xe chạy ngang trước mặt, lác đác vài quyển sách trên kệ, một ít ly tách Bạn đã bao giờ nghe hay đọc một câu kiểu thế này: “có một nhóm gồm 13
chén dĩa trên bàn ăn: Một? Bạn biết ngay tức khắc. Hai? Không cần suy người bước vào”? Thực tế, gần như chẳng ai có cách mô tả như vậy. Con
nghĩ nhiều. Ba? Chẳng phải đếm. Bốn? Cũng không quá khó khăn. Năm số 13 không phải nhỏ để chúng ta tri giác được ngay và đủ để không một

20 21
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

ai chịu khó đếm ra bởi điều đó là không cần thiết. Họ chỉ đơn giản nói: sau, vào cuối mỗi ngày, bạn lặp lại hành động tương tự nhưng không còn
“có một nhóm khá nhiều người bước vào”, chính xác lắm thì cũng chỉ là phải khắc nữa: mỗi một con cừu vào bãi là tương ứng với một vạch khắc,
“có một nhóm khoảng mười mấy người bước vào”. Số thứ tự trong tiếng con cuối cùng sẽ cho biết tình trạng của lượng cừu, nếu vẫn còn dư vạch
Anh cũng phản ánh việc không thể tri giác trực tiếp số lượng quá bốn: khắc thì ngày hôm đó bạn đã bất cẩn để lạc vài con, nếu không còn vạch
ba thứ tự đầu được gọi một cách riêng biệt là first, second, third, còn từ nào nữa thì bạn đã hoàn thành tốt công việc chăn cừu của mình. Ở đây
bốn đến chín chỉ cần thêm th vào cuối (trừ số năm có chút biến đổi). Các chúng ta giả sử rằng trong lúc khắc vạch, bạn đã thao tác chính xác đầy
tháng trong một năm La Mã nguyên thủy (304 ngày) cũng thế, bốn tháng đủ một con cừu–một vạch khắc không thừa không thiếu nên không tính
đầu được gán cho một tên riêng hẳn hoi: Martius, Aprilis, Maius, Junius đến trường hợp có cừu vào bãi mà không tương ứng với vạch khắc nào.
trong khi những tháng còn lại thì dùng số thứ tự để gọi chúng: Quintilis, Nếu có thêm vài chú cừu được sinh ra hay bạn cần phải mua thêm cừu
Sextilis, September, October, November, December. Điều đó có nghĩa là thì chỉ cần khắc thêm bấy nhiêu vạch tiếp theo trên cây gậy cũ. Trường
kể từ bốn hoặc năm trở đi, các số thứ tự được gọi một cách có quy luật. hợp bạn đã để lạc mất vài con thì chỉ cần chặt bỏ phần khắc vạch thừa
hay làm một dấu hiệu nhắc nhở nào đó. Ngoài cách khắc vạch, người
chăn cừu cũng còn có thể dùng các hòn đá, hòn sỏi để kiểm cừu: một
Nếu như câu chuyện chỉ có thế, tư duy con người dừng tại việc cảm
đống sỏi sẽ được đặt trước mặt người chăn cừu trước khi kiểm, cứ mỗi
nhận con số không vượt quá bốn thì nội dung quyển sách này chỉ gồm có
một con cừu vào bãi thì một hòn sỏi được bỏ qua một bên. Tuy thế, cách
hai trang đến đây mà thôi. Khả năng của con người luôn được mở rộng
thức này có vẻ rườm rà và phải mang nặng hơn so với cây gậy khắc thô
không phải vì sức mạnh cơ bắp tầm thường, mà bởi sự tư duy học hỏi,
sơ đơn giản. Như bạn sẽ thấy ở chương sau, chỉ từ hành động khắc vạch
rút kinh nghiệm. Câu chuyện vì thế vẫn còn được tiếp tục và cái chúng ta
kiểm tra vô cùng đơn giản như vậy, con người đã khám phá thêm được
cần tìm hiểu đó là con người đã tìm cách đếm và học đếm như thế nào?
một hệ quả rất to lớn khác.

Điều tra chuyện này không khó. Như đã nói, chúng ta sẽ tìm đến
Ví dụ khắc vạch kiểm cừu này minh họa cho kỹ thuật gán tương
các bộ tộc ít người nơi hoang dã cũng như quá trình phát triển của trẻ
ứng một–một, hay còn gọi là ghép đôi, tức một con cừu–một vạch khắc.
em. Giai đoạn đầu của việc tìm cách đếm là kiểm tra sự dư thừa, thiếu
Cách thức kiểm tra này vẫn còn được sử dụng đến ngày nay. Trong một
vắng. Bạn hãy thử đặt bản thân vào người chăn cừu của một vùng hẻo
buổi tiệc, để biết lượng khách còn thiếu hay vượt quá số lượng đã mời
lánh chẳng hạn, không có chữ số, không có chữ viết và quan trọng nhất là
khi có nhiều người đi cùng với khách mời chính, chỉ cần kiểm tra lượng
không biết đếm. Làm sao trong mỗi cuối ngày, bạn biết được đàn cừu của
ghế chưa có ai ngồi hay lượng khách đang phải đứng chờ bồi bàn mang
mình có lạc mất đi con nào hay không? Rất đơn giản, một trong những
thêm ghế tới. Đọc kinh lần hạt Mân Côi trong các buổi kinh nguyện của
cách thức thực hiện đó là trong ngày đầu, bạn tìm một khúc gỗ tương
đạo Công giáo cũng vậy. Không cần thiết phải đếm mỗi khi qua một kinh
đối dài, khi lùa đàn cừu về bãi, lần lượt cho từng con vào chuồng, cứ mỗi
mới, người chủ kinh đơn giản chỉ cần cầm tràng hạt Mân Côi trên tay,
lần một con vào thì khắc một vạch trên khúc gỗ. Khi đến con cừu cuối
xong mỗi một kinh là tay lần qua một hạt mới, cứ như thế cho đến khi
cùng đi vào, bạn đã có được trong tay khúc gỗ với chi chít vạch khắc,
bạn không rõ là bao nhiêu vạch nhưng điều đó chẳng hề gì. Từ nay về

22 23
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

nào hết một chuỗi hạt.


Bạn hãy luôn nhớ rằng, họ chưa hề biết con số là gì. Họ chỉ biết
kiểm tra lượng dư thừa, thiếu vắng xem có đủ hay không. Họ cũng cố
gắng cảm nhận thế nào là nhiều, thế nào là nhiều hơn cũng như thế nào
là ít và ít hơn. Họ chỉ biết có đến đó, ít nhất là tại thời điểm này. Bạn
có thể sẽ lúng túng trước lối suy nghĩ của họ, bởi với chúng ta, đếm là
một điều quá sức hiển nhiên, nó hoạt động tốt đến nỗi bộ não không kịp
nhận thức được quá trình đó. Chính vì vậy, hành động “đếm” của họ
Hình I.1. Chuỗi tràng hạt.
chưa thực sự theo đúng nghĩa của từ này, chúng ta chỉ đang lạm dụng từ
“Đếm” bằng mười ngón tay là một kĩ thuật ghép đôi điển hình mà ngữ để dễ bề miêu tả.
con người ở mọi nền văn minh, mọi dân tộc, mọi thời đại đều sử dụng. Vậy thì, những bộ tộc ít người này, cũng như những con người tiền
Bên cạnh đếm bằng mười ngón tay, bộ tộc ít người Oksapmin tại sử, họ nói với nhau về những “con số” như thế nào? Rất thú vị, lấy ví dụ
New Guinea còn có cách “đếm” bằng kĩ thuật ghép đôi với 27 bộ phận với người Oksapmin: “chúng tôi có khoảng từ vai-phải đến con-mắt-trái
cơ thể sau người tham gia đi săn”, tức là khoảng từ 10 đến 15 người; hay “gia đình
tôi có khoảng bắp-tay người”, tức là 9 người. Người nói thì vừa nói vừa
phải chỉ từng bộ phận cơ thể theo thứ tự đã định, trong khi người nghe
thì vừa nghe vừa dán mắt xem từng cử chỉ của người nói. Bởi không có
con số nên họ không thể đưa lên chín ngón tay để thể hiện con số 9 như
cách chúng ta làm. Điều này có nghĩa là nếu nói một bộ phận cơ thể trên
người, họ không thể nào biết được số lượng mà nó thể hiện, cần phải đi
kèm theo loạt cử chỉ tương ứng, tức là chỉ từng bộ phận một.

Đấy là chúng ta đang nói đến những bộ tộc ít người với đời sống
chậm phát triển ngày nay. Còn những người tiền sử thực sự thì sao? Họ
có đếm bằng cách khắc vạch trên một thứ nào đó không? Câu trả lời là
Hình I.2. Cách đếm của người Oksapmin. có, bằng chứng khảo cổ được xem như một chứng minh. Hàng loạt khúc
xương chi chít những vạch khắc được giới khảo cổ tìm thấy, với niên đại
vô cùng lâu dài từ 35000 đến 2000 TCN, thuật ngữ chuyên môn gọi là
Mười ngón tay theo cách đếm thông thường là không đủ, nhiều bộ
aurignacian. Không khó hiểu vì sao lại là xương chứ không phải gỗ, bởi
tộc ít người khác cũng “đếm” theo cách tương tự, theo các bộ phận của
vào thời điểm ấy, xương luôn sẵn có sau mỗi bữa ăn, xương được lóc khỏi
cơ thể mà họ chỉ định: 17, 29, 33 hoặc hơn thế.
thịt, dễ có hơn thay vì phải đẽo gọt gỗ để được gậy như người chăn cừu.

24 25
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

Hình I.3. Một khúc xương thời kì Đồ đá cũ(19000 – 12000 TCN)


được tìm thấy tại hang Pekarna, Czech với những vạch khắc trên đó.

Ban đầu, không ai thực sự biết mục đích của những khúc xương này
là gì? Khi số lượng tìm được tăng lên quá nhiều thì buộc các nhà khảo
cổ phải xem xét kĩ lưỡng vấn đề. Thứ nhất, không có một loài động vật
nào mà cấu trúc tự nhiên của xương có những vạch khắc. Kế đó, các
vạch khắc được tạo nên một cách chủ ý, được phân nhóm rất rõ ràng,
phân đều theo từng nhóm năm (||||| ||||| ||||| |||||...), nhóm mười cũng như
vài nhóm số khác, hiển nhiên là không phải để cho đẹp hay để dễ cầm
nắm chúng cho khỏi tuột tay, mà là để dễ quan sát, tránh nhầm lẫn khi
phải rà soát lại từ đầu. Cuối cùng, những khúc xương như trên được tìm
thấy khắp các châu lục và niên đại của chúng chỉ trong khoảng thời kì
tiền sử. Tóm lại, kết luận cuối cùng rằng đây chính là những chứng cứ
còn sót lại của việc “đếm” – hoạt động thực hành số học đầu tiên của
nhân loại.
Hình I.4. Khúc xương Ishango, được tìm thấy bởinhà địa chất học người Bỉ Jean
Đó là “đếm” vạch khắc, còn “đếm” bộ phận cơ thể thì sao? Rõ ràng,
Braucourt và đặt tên theo nơi nó được tìm ra vào năm 1960 tại Ishango, Congo.
làm gì có thể có bằng chứng cho chuyện này. Người tiền sử phân chia cơ
Khúc xương được gắn một mảnh thạch anh phía
thể ra sao, chỉ chỏ trên người cụ thể thế nào thì muôn đời chúng ta không
trên thuộc thời kì Đồ đá cũ có niên đại hơn
thể nào biết chính xác được. Chẳng có ghi chép, chẳng có hoá thạch gì
20 000 năm này vốn thuộc về loài khỉ đầu chó,
cho các hành động thoáng chốc ấy. Chúng ta chỉ phán đoán dựa trên các
được xem như bằng chứng lâu đời nhất mà loài
bộ tộc ít người. Dẫu sao, chắc chắn một điều là họ đã phân chia các bộ
người có những thực hành số học, bởi nhiều vết
phận cơ thể rồi “đếm” theo đó. Khi con người quen coi các bộ phận cơ
khắc trên xương được tập hợp một cách có tổ
thể với một thứ tự nhất định thì dãy liên tiếp này, do sức nhớ và thói
chức, phân chia thành các nhóm ba vạch. Hiện
quen thực hành liên tục, sớm muộn cũng sẽ trở thành số và trở nên trừu
khúc xương Ishango được trưng bày tại Viện
tượng. Vì thế, kĩ thuật “đếm” theo các bộ phận cơ thể có tầm quan trọng
Khoa học Tự nhiên Hoàng gia Bỉ.

26 27
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

to lớn trong lịch sử thế giới số học. Chính nó đã làm cho tổ tiên lâu đời số lượng ra đời từ kĩ thuật ghép đôi (vạch khắc) trong khi khái niệm số
hàng chục ngàn năm của chúng ta ý thức được khái niệm thứ tự, đóng thứ tự hình thành từ cả kĩ thuật ghép đôi lẫn dãy liên tiếp (chỉ lần lượt
vai trò cơ bản trong Toán học – nền tảng của toàn bộ Khoa học. Từ đó, từng bộ phận cơ thể). Hai khái niệm này chúng ta ít khi để ý phân biệt
chúng đã cho phép họ dần dần đạt được khả năng biết đếm thực sự và rạch ròi. Tháng Năm có 31 ngày thì con số 31 là chỉ số lượng, trong khi
mở ra con đường đi đến sự hiểu biết về số. Chừng nào con người còn tồn nói ngày 31 tháng Năm thì con 31 là số thứ tự, tức là ngày thứ 31 của
tại, thì vào giai đoạn thơ ấu của cuộc đời, chúng ta sẽ còn tập đếm qua tháng Năm. Chính nhờ biết phân biệt giữa số lượng và số thứ tự mà Toán
các ngón tay, thậm chí ngón chân nếu cần thiết như một hình thức nhắc học mới tiến bộ.
nhở nguồn gốc của chúng ta, sự biến chuyển trong nhận thức cũng như Đó mới chỉ là một bước khó đầu tiên mà con người vượt qua được.
tiến hoá trong tâm lí của nhân loại. Vấn đề nan giải tiếp theo là khi số lượng cần phải đếm nhiều đáng kể,
Nói chung, kĩ thuật ghép đôi như khắc vạch, dùng hòn sỏi hay chỉ không thể nào mãi khắc vạch, không thể nào bổ sung mãi các hòn sỏi,
lần lượt từng bộ phận cơ thể đã ngầm ẩn chứa hai khái niệm rất quan que đếm, chuỗi hạt, chỉ chỏ mọi bộ phận cơ thể cũng chỉ làm mọi thứ
trọng là sự liên tiếp hay còn gọi là thứ tự và xa hơn nữa là khái niệm trở nên phức tạp. Làm sao để chỉ rõ con số lớn một cách đơn giản, với
cơ số. Một khi đã ý thức được điều này, việc biết đếm đúng nghĩa là lượng đối tượng được thể hiện ít nhất có thể? Thế là khái niệm cơ số
không còn xa vời. được sinh ra.
Nói về thứ tự, vào thời khắc sơ khai này, một tổ hợp mang tính thứ
tự cao dễ ghi nhớ chỉ có thể là những vần thơ, theo từng câu một, từng 02. CƠ SỐ
chữ một, không thể hoán đổi, không thể đảo ngược, có chăng cũng chỉ là
vài từ đồng nghĩa, đồng âm. Tính thứ tự mỗi từ của thơ ca vì thế khá Để hiểu được khái niệm gây khá nhiều bối rối này, chúng ta bàn
cao và bền vững. Những người chăn cừu, cậu bé chăn bò có thể không một chút về cách đếm hiện nay. Với chúng ta, mỗi khi đếm, cứ đủ mười
cần đến gậy khắc hay đống đá để kiểm kê lượng gia súc mà đơn giản thì được một chục, tiếp tục đếm đủ mười nữa, thì ta được hai chục,...
hơn, là một bài thơ. “Đến câu thứ 10, từ thứ 3, cậu bé an tâm rằng đàn và khi đủ mười chục thì được một trăm, mười trăm thì bằng một ngàn,
bò của mình vẫn còn nguyên vẹn”. Cảnh tượng mục tử cùng đàn gia súc mười ngàn thì là một vạn, mười vạn chính bằng một ức,... Chúng ta sẽ
của mình vừa đi vừa hát thật quen thuộc một cách yên bình. Tính thứ cứ thực hiện như vậy cho đến khi nào đếm xong. Kiểu đếm này bất cứ ai
tự còn còn được thể hiện qua việc ghi nhớ danh sách tên của một nhóm cũng đã được học ngay từ khi còn nhỏ, mười chính bằng số các ngón tay
các đối tượng, chẳng hạn khi bạn muốn biết ai đã vắng mặt trong một nên trẻ em sẽ thực hiện thao tác đếm dễ dàng mà không cần phải dùng
buổi họp, bạn hiếm khi nào đếm mà lần lượt nhẩm tên từng người một, đến dụng cụ nào cả. Thế nhưng, con người ở một số nền văn minh cổ đại
đồng thời liếc nhanh để kiểm tra sự hiện diện. Công việc này được gọi là xa xưa cũng như vài tộc người ngày nay lại có kiểu đếm khác. “Chục”
điểm danh. Điểm danh giúp chúng ta hoàn thành ba việc cùng lúc, kiểm của họ không hẳn là mười, chẳng hạn với “chục” là tám thì
tra sự đầy đủ, biết được số người vắng và tên người vắng. ◦ tám là một “chục”
Như vậy, sự khác biệt giữa số lượng và số thứ tự đã được định hình ◦ mười sáu bằng hai lần tám nghĩa là hai “chục”
trong tâm thức của con người nhờ hai kĩ thuật “đếm” sơ khai. Khái niệm ◦ hai mươi tư là ba “chục”

28 29
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

◦ ... cứ như thế... từ việc đếm, lại phụ thuộc vào cấu trúc sinh học cơ thể, cấu trúc này
Giả sử như nếu đếm năm mươi chín con gà theo kiểu này thì sẽ lại hình thành từ hàng loạt quá trình ngẫu nhiên và tiến hoá. Sinh học
được bảy “chục” và ba con, vì năm mươi chín bằng bảy lần tám, rồi cộng đã tác động đến Toán học theo cách không thể ngờ. Toán học ra đời từ
ba. Ở đây, từ “chục” chỉ là cách lạm dụng từ ngữ nhằm để dễ hiểu. Một chính bàn tay của chúng ta theo đúng nghĩa đen như vậy. Quả thực, khi
số kiểu đếm phổ biến khác sẽ được gọi với cái tên riêng, chẳng hạn đếm ngẫm nghĩ về điều này, chúng ta không khỏi có một cảm giác kì lạ và bối
theo mười hai thì là “tá” (một tá bằng mười hai), đếm theo mười ngàn rối. Trong Khoa học, khi truy nguyên tận cùng gốc rễ vấn đề thì câu trả
thì là “vạn” (một vạn bằng mười ngàn). lời nhận được sẽ như một chiếc búa tạ đập thẳng vào tâm thức khiến ta
phải choáng váng.
Như vậy, có thể hiểu rằng
Bên cạnh đó, một số tộc người dùng thêm một cơ số phụ thêm vào
Hệ cơ số n là một kiểu đếm mà mỗi “chục” bằng n.
khác, nhưng vẫn dựa vào cấu trúc của bàn tay. Đó là cơ số năm. Năm
Cơ số mười là vô cùng phổ biến. Nó còn được thể hiện qua đơn vị ngón tay trái dùng để đếm, năm ngón tay phải dùng để đánh dấu mỗi
đo lường quốc tế về khoảng cách và khối lượng: hệ mét và kilogam. Cứ lần đếm xong năm đơn vị, cứ mỗi lần đếm hết năm ngón tay trái thì một
đủ mười đơn vị sẽ cho ra một cho đơn vị lớn hơn ngay trước đó. Tại sao ngón tay phải được đưa ra, lần lượt từ ngón cái đến ngón út. Đếm theo
cơ số mười lại được con người chúng ta ưu ái đến thế? Hầu như mọi dân cơ số năm thế này sẽ đạt được đến hai mươi lăm.
tộc, hầu hết mọi người đều đếm theo cơ số mười từ nhỏ. Tại sao không
Có vẻ như không đủ, vài dân tộc khác đếm theo cơ số lên đến hai
phải là một cơ số nào đó khác? Có phải vì bàn tay chúng ta có mười ngón
mươi, tính thêm cả các ngón chân, nổi bật nhất trong số đó là văn minh
nên cơ số này hỗ trợ tốt cho việc đếm? Hay vì mười là cơ số có lợi cho
Aztec và Maya cổ đại mà chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn ở chương sau.
việc thực hiện phép tính, nhất là khi nhân với mười hay một luỹ thừa của
Phổ biến nhiều sau cơ số mười là cơ số mười hai. Mười hai bằng
mười? Những câu hỏi như thế này thường ít khi được nêu ra vì đếm theo
một tá, kiểu đếm này vẫn còn được dùng, điển hình là số lượng trứng
mười là một điều quá hiển nhiên, không có gì phải thắc mắc.
và vài trường hợp ở các nước Anh, Mỹ. Trong quá khứ, nó còn phổ biến
Sự thực thì cơ số mười không tốt cho việc tính toán hơn so với
hơn cả cơ số mười. Thời cổ đại, người Sumer chia một ngày làm mười hai
những cơ số khác, chẳng hạn như cơ số mười hai. Mười chỉ chia hết cho
danna, một danna tương ứng hai giờ đồng hồ hiện nay; họ cũng chia một
hai và năm, trong khi mười hai thì chia hết cho hai, ba, bốn và sáu. Vì
đường tròn làm mười hai phần bằng nhau, mỗi cung có số đo 30o. Thời
thế, đếm và tính theo cơ số mười hai vượt trội hơn rất nhiều so với cơ
Cận đại, thời điểm gần Cách mạng Pháp, Châu Âu chia đơn vị khoảng
số mười, nhất là trong việc phân chia: phân nửa, một phần ba, phần tư,
cách theo cơ số mười hai:
thậm chí cả phần sáu. Thế thì mười là cơ số có lợi cho việc tính toán
không phải là câu trả lời thoả đáng. Vậy thì chắc là do bàn tay con người 1 pied = 12 pouce, 1 pouce = 12 linge, 1 linge = 12 point
có mười ngón. Trong trường hợp chỉ có tám ngón thôi thì liệu chúng ta
Vì sao lại là con số mười hai? Cũng như cơ số mười, nguồn gốc của
có đếm theo cơ số tám? Hay vẫn cứ luôn là cơ số mười? Thật khó lòng
nó cũng có thể tạm giải thích theo chính bàn tay con người. Bốn ngón
mà biết được, nhưng khả năng cao sẽ là cơ số tám. Nếu quả đúng vậy
gồm ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út và ngón út, mỗi ngón được chia làm
thì thật lạ, tư duy Toán học của chúng ta, như bạn đã biết, hình thành
ba đốt, tổng cộng mười hai đốt, riêng ngón cái có chức năng chỉ lần lượt

30 31
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

mỗi mười hai đốt này khi đếm. Đếm theo kiểu này rất thuận tiện vì chỉ
cần một tay, tay còn lại có thể ghi chép lại số liệu. Bàn tay người vẫn chỉ
là một giả thuyết cho việc sử dụng cơ số mười hai, một lời giải thích đơn
giản hơn có thể là bởi sự thuận tiện trong tính toán của cơ số mười hai.
Có thể ví bàn tay như một chiếc “máy đếm”. Nó có thể đã khiến
chúng ta đếm theo cơ số mười, cùng với đó
là một cơ số khác tuỳ khu vực. Nhiều cách
thức đếm bằng bàn tay được hình thành
khắp mọi nơi, mọi dân tộc trên thế giới. Có
vẻ như câu hỏi “Làm sao để chỉ rõ con số
lớn một cách đơn giản, với lượng đối tượng
thể hiện ít nhất có thể?” đã được giải quyết
một cách tương đối. Chỉ với hai bàn tay với
mười ngón, các con số lớn đã được thể hiện
bằng những quy ước nhất định, chúng ta
không cần mười hai, hai mươi lăm,... ngón
Hình I.5. Đếm theo 12 đốt
tay để có thể đếm tới đó. Thậm chí, người
ngón tay.
Trung Quốc còn có kĩ thuật đếm bằng tay
đến tận mười tỉ. Một vài dân tộc khác thì phát triển kĩ thuật làm tính
nhân với tay.
Với những khúc xương tiền sử, việc khắc theo mỗi nhóm năm,
nhóm mười hay bất kì nhóm số nào khác cũng là một cách thể hiện cơ
số. Đương nhiên không phải tất cả mọi khúc xương đều được khắc phân
nhóm, chắc chắn vào lúc đầu, người tiền sử khắc liên tiếp.
Sau đây là một vài hình ảnh những khúc xương động vật, ngà voi
mammoth (ma-mút) được khắc vạch mà giới khảo cổ tìm thấy tại hang
động Rochefort, Pháp.

◦ Phác hoạ: Stéphan Hinguant.


◦ Ảnh chụp: Pierre–Elie Moullé, Rozenn Colleter, H. Paitier.
◦ Đồ hoạ vi tính: Rozenn Colleter. Hình I.6. .

32 33
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

Hình I.7. . Hình I.8. .

34 35
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

Suốt cả vài ngàn năm, khi chữ số ngày nay cùng các kĩ thuật tính
toán hiện đại chưa ra đời, con người vẫn khắc phục được những khó
khăn, vẫn trao đổi sự hiểu biết với nhau nhờ khả năng đa dạng của các
ngón tay cùng đầu óc tư duy, trí tưởng tượng, khả năng ghi nhớ của
mình. Nhưng lúc này, đó chỉ là một cách hiểu nhanh ý niệm về số. Bàn
tay, bộ phận cơ thể chỉ là phương tiện để thể hiện con số, vì chỉ có tác
dụng phút chốc tại thời điểm trao đổi, thông thể truy vấn lại nó sau này,
nghĩa là buộc phải “đếm” lại từ đầu để tìm lại con số đó. Không có chữ
số, chữ viết, con người giờ đây lại có thêm một vấn đề mới cần giải quyết:
Làm sao để lưu giữ lại con số đã được thông qua?.
Thật không tưởng là con người vẫn có thể giải quyết được vấn đề
nan giải này mà không cần đến chữ số, chữ viết. Đó là nền văn minh Inca
với kĩ thuật quipu.

03. QUIPU

Văn minh Inca (1438 – 1533) nằm ở vùng lãnh thổ mà ngày nay
thuộc các nước Peru, Bolivia, Colombia, Ecuador và Chile. Người Inca
không hề biết đến bánh xe, không sử dụng sức kéo từ thú vật, đặc biệt
không hề có chữ viết nhưng trình độ văn hoá, tổ chức xã hội của họ đạt
tới tuyệt đỉnh cùng mức sống thịnh vượng của người dân. Thoạt tiên
điều này thật khó hiểu, bởi chữ viết là yếu tố ắt phải có của một nền văn
minh bậc cao. Sự thành công của văn minh Inca có thể được giải thích
phần nào qua kĩ thuật quipu, phát âm của từ này trong tiếng Inca nghĩa
là “nút”. Quipu là một cách thức lưu giữ thông tin về con số, được biểu
thị qua các nút thắt dây. Quipu được cấu tạo từ nhiều sợi dây con mà
một đầu của chúng được buộc vào một sợi dây chính nằm ngang, mỗi sợi
dây con được thắt các nút với quy ước biểu thị thông tin đã được quy
định.
Mỗi một con số được biểu thị trên một sợi dây con với các nút thắt
Hình I.9. Bản đồ toàn bộ khu vực nền văn minh Incatừng ngự trị
trên đó. Người Inca có cách thức biểu diễn con số gần y như chúng ta
qua những vùng lãnh thổ quốc gia hiện nay.

36 37
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

ngày nay: nút dưới cùng thể hiện hàng đơn vị, nút tiếp theo bên trên thể Quipu được giữ gìn cẩn thận để lưu giữ lại con số đã kiểm, là dụng
hiện hàng chục, cứ thế lên trên để đến hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn,... cụ thống kê hữu hiệu trong mọi mặt của đời sống văn minh Inca: kiểm
tra dân số, quân dịch, tài nguyên; ước lượng mùa vụ, số thú vật săn được;
tính lượng nguyên liệu phân phối cho tàu bè; bảng kê hàng hoá; thiết lập
dự trữ ngân sách; xác định mức thuế;...
Chính bởi cách tổ chức, quản lí xã hội một cách khoa học với sự
hỗ trợ của quipu mà văn minh Inca đạt đỉnh cao trong các thành tựu
của họ. Tầng lớp chuyên tạo và diễn giải ý nghĩa của quipu được gọi là
quipucamayoc, họ là những người cung cấp thông tin cần thiết cho đế
chế. Mỗi năm, họ sẽ kiểm kê số lượng về đủ mọi thứ rồi ghi kết quả lại,
tức là thắt các nút trên quipu, sau đó chuyển số quipu này về trung ương
để lưu trữ con số thống kê, trong trường hợp cần thiết, những quipu này
sẽ được đưa ra so sánh số liệu, đối chứng. Một mô hình vô cùng tân tiến.

Chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn về cách “thắt số” trong quipu. Nó


không đơn giản theo cách mà bạn nhìn thoáng qua, cũng không dễ dàng
như ví dụ minh hoạ con số 3643 như

Hình I.10. Minh hoạ một quipu. trên. Lí do chính là vì con số không.
Ở những chương sau, bạn có thể thấy
một điều, người Inca cũng như rất
nhiều dân tộc thuộc nền văn minh
khác không có ý niệm về số không.
Nói đúng hơn, họ đã không phân biệt
được giữa “giá trị không” và “không
có gì”. Hai khái niệm này là khác
biệt, không thể đánh đồng. Chúng ta
xét vài trường hợp giả định thực tế để
thấy rõ sự khác biệt này. Giá trị
không, tức số không, là một đại lượng
Hình I.11. Một minh hoạ đơn giản cho sự thể hiệncủa chín số đếm đầu tiên hoàn toàn xác định, có giá trị bằng Hình I.12. Hình ảnh một
trong quipu và ví dụ thể hiện con số 3643. không, một con số không âm không quipucamayoc.

38 39
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

dương, trong khi không có gì mang hàm ý không tồn tại, trống rỗng và Suy cho cùng, chính bởi vì tổ tiên chúng ta cho rằng “giá trị không”
không có giá trị. Một người mở trương mục tiết kiệm trong ngân hàng và “không có gì” là không khác biệt. Chính bởi không có ý niệm về số
nhưng tài khoản của anh ta hiện đang có không đồng khác hẳn với một không, con người đã vô cùng vất vả khi tìm đủ mọi cách xây dựng một hệ
người hoàn toàn không có trương mục tiết kiệm. Cũng vậy, giữa một kế ghi số hoàn chỉnh. Hầu hết đều thất bại, họ dừng chân tại một hệ ghi số
toán viên nhập liệu giá trị không vào bảng tính Excel và một người cũ kĩ lạc hậu mang lại cách thức thực hiện phép tính vô cùng phức tạp,
không nhập gì cả, bạn có thể cho rằng hai việc này là như nhau được điều mà chỉ lĩnh hội được bởi những tầng lớp trí thức ưu tú. Mãi về sau,
không? Rõ ràng là không thể, một đằng máy tính sẽ tiếp tục xử lí số liệu tất cả mọi thứ được giải quyết bởi một nền văn minh khác.
trong khi máy tính của người kia thì không có gì để xử lí cả. Hay như khi Quay trở lại với quipu, việc thể hiện số không bằng cách không
bạn nói với người bạn đời của mình “tình yêu mà anh dành cho em thắt nút gì cả sẽ gây hiểu lầm lớn, nhất là với những số có tận cùng là
không có giới hạn” thì kết quả nhận được không chỉ khác biệt mà còn số không. Chẳng hạn, làm sao để phân biệt số 3 643 với 36 430, thậm chí
đối lập so với khi nói “tình yêu của anh đối với em có giới hạn bằng 364 300,...? Nhận thức được điều này, người Inca có giải pháp của họ,
không”. Trong Toán học hiện đại, phân môn Giải tích cũng phân biệt đó là đưa ra ba kiểu nút thắt khác nhau cho mỗi trường hợp nhất định:
rạch ròi giữa không tồn tại giới hạn và một giới hạn bằng không.
Ngay cả trong hiện đại, phần đông chúng ta cũng đôi khi không
phân biệt được sự khác biệt giữa “giá trị không” và “không có gì” chứ
đừng nói gì đến người xưa. Với họ, hai khái niệm này là như nhau, số
không đơn giản như một sự trống rỗng; vì vậy mà nó không được đại diện
bởi bất cứ một điều gì và không có một kí hiệu nào nói rõ rằng: đây là
một con số không. Bạn hãy tưởng tượng đi, nếu không có kí hiệu cho số
không, tức là khi bắt gặp con số này, bạn sẽ phải bỏ trống không viết gì
cả. Khi đó, vô vàn phiền toái hiểu nhầm xảy ra. Làm sao để phân biệt
giữa sáu và sáu mươi? Làm sao để biết con số này là ba mươi ba hay
Nút đơn Nút hình số tám Nút dài
ba trăm lẻ ba? Tổng quát hơn, dấu hiệu nào cho thấy con số được ghi
ra có số không tận cùng? Khoảng trắng ư? Nếu vậy thì làm sao để biết Hình I.13. Các kiểu thắt nút quipu vàhình dạng của chúng sau khi siết.
giữa khoảng trắng số không và khoảng trắng giữa các từ? Chưa kể phải
cách ra như thế nào nếu con số có nhiều số không tận cùng? Không còn Quy ước thắt số như sau:
cách nào khác, chúng ta buộc phải gán kí hiệu cho số không, tức là cho ◦ Ở hàng đơn vị, nếu là 1 thì thắt nút hình số tám; nếu là những số
số không một chữ số. Một điều quá ư là hiển nhiên như thế mà biết bao khác thì thắt nút dài, bao nhiêu đơn vị thì bấy nhiêu vòng.
nhiêu thế hệ đã không hề nghĩ ra được. Lịch sử văn minh nhân loại đã ◦ Hàng chục trở lên thì thắt nút đơn, con số bao nhiêu thì bấy nhiêu
hơn sáu ngàn năm nhưng hệ ghi số hoàn chỉnh mà chúng ta đang sử dụng nút đơn. Nếu tại những hàng này là số không thì không thắt gì cả,
ngày nay có tuổi đời chưa đến năm thế kỉ. tức là bỏ trống và như thế thì khoảng cách giữa các nút số sẽ dài

40 41
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

hơn ít nhất là gấp đôi.


Hai quy ước này sẽ loại bỏ mọi hiểu nhầm trong việc đọc số Inca.
Ví dụ với số 62: nút dài hai vòng được thắt ở cuối dây, sáu nút đơn được
thắt ở bên trên nó; trong khi với số 620 thì vị trí cuối sẽ bỏ trống, bên
trên là hai nút đơn được thắt, trên nữa sẽ thắt sáu nút đơn (vì nút thắt
cuối là nút đơn nên điều này báo hiệu có con số không tận cùng, phần
dây thừa dài hơn so với con số 62 cũng báo hiệu điều này; số 6200 cũng
tương tự như 620 nhưng phần dây thừa sẽ dài hơn nữa); còn với số 602,
nó sẽ được thắt như số 62 nhưng khoảng trống giữa nút 6 và nút 2 sẽ dài
hơn so với số 62.
Chưa hết, trong một số trường hợp, để thuận tiện cho thống kê, một
sợi dây sẽ bằng tổng của những sợi dây trước đó, có thể nhận thấy sợi
dây này qua một trong hai đặc điểm: một đầu được luồn qua những sợi
dây cùng loại đó (luồn cùng sợi dây chính) hoặc buộc chung nút với sợi
dây cuối dãy. Ngoài ra, đối với sợi dây tổng, mọi nút thắt đều là nút dài,
(Hình I.14b/). Đôi khi, người Inca còn trích những sợi dây tổng để tính
tổng (tổng của tổng, hình I.14a/).

a/ b/
38 + 273 + 258 + 89 = 658 132 + 417 + 3 = 552 Hình I.14. Một quipu điển
hìnhhiện đang được trưng
bày tại viện bảo tàng Anh.
42 43
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

Hình I.15. thăm” Trái Đất. Chưa biết họ sẽ tấn công hay không, nhưng bỏ chạy là
điều mà chúng ta sẽ nghĩ đến trước tiên.
Sự nhầm lẫn khi đọc số nhờ thế sẽ dễ nhận ra khi kiểm lại, bởi khi
Đế chế văn minh Inca thế là sụp đổ cùng với kĩ thuật quipu của nó.
đó phép cộng sẽ không còn đúng nữa. Sợi dây tổng này giống như tổng
Sẽ còn cần đến một khoảng thời gian khá dài để chúng ta có thể hiểu hết
số tiền phải trả của một hoá đơn vậy, bạn sẽ chú ý nó trước tiên và nếu
về kĩ thuật độc đáo này.
có gì bất thường, bạn mới kiểm tra lại giá tiền của mỗi mục. Chẳng riêng
gì hoá đơn, bất cứ một danh mục kinh tế, số lượng nào cũng đều có ô
tổng của nó.
Ngoài cấu trúc thông thường như trên của một quipu với chức năng
lưu giữ con số thống kê thì nhiều quipu khác còn có những điểm khác
biệt, đó là các sợi dây mang đủ thứ màu sắc khác nhau, vị trí tương ứng
của các nút không như thông thường, khoảng cách giữa các dây con, độ
dài dây con. Dù rằng chúng vẫn thể hiện số nhưng các con số này không
mang tính thống kê, mà mang một ý nghĩa nào đó khác, giống như cách
mà ngày nay chúng ta sử dụng số, ngoài mục đích thống kê, nó còn được
dùng cho địa chỉ nhà, chứng minh thư, số điện thoại, các đời vua chúa
hay giáo hoàng,... Nhưng bởi vì thiếu đi thông tin về ngữ cảnh, các quipu
với những đặc điểm riêng sẽ rất khó khăn trong việc giải mã ý nghĩa của
chúng. Đó cũng chính là điều trăn trở của các nhà nghiên cứu hiện nay.
Tháng Tư năm 1532, Đế quốc Tây Ban Nha đổ bộ vào Inca, dưới
sự chỉ huy tàn bạo của Francisco Pizarro. Oan nghiệt thay, Pizarro đến
ngay vào lúc nền văn minh Inca đang chao đảo bởi nội chiến hoàng gia.
Đã vậy, người Inca còn bị sốc tâm lí khi người Tây Ban Nha tiến hành
cuộc tấn công, họ thấy những gì họ chưa từng được thấy, ngay cả trong
những giấc mơ điên cuồng nhất của mình. Người Tây Ban Nha xuất hiện
với khuôn mặt đầy lông lá, khoác trên mình bộ trang phục kì khôi, tay
cầm những vũ khí sắc nhọn dài ngoằng đáng sợ, cưỡi trên lưng những
con vật to lớn kì quái chạy nhanh như gió. Chính bởi cảnh tượng hãi
hùng như thế, người Inca cố gắng trốn chạy chứ không dám có bất kì
một kháng cự nào. Để hiểu rõ tình thế và nhận thức của người Inca khi
đó, bạn cứ tưởng tượng một binh đoàn người ngoài hành tinh đến “ghé

44 45
Đỗ Minh Triết Chữ số và thế giới

Hình II.
Bảng II.

Chương II.

Chữ số

46 47

You might also like