Professional Documents
Culture Documents
Bài 3 - GDTC
Bài 3 - GDTC
Bài 3 - GDTC
1. Khái niệm
Thể lực chính là mục tiêu cơ bản của môn giáo dục thể chất. Tập luyện và thi
đấu TDTT thể hiện sự khát vọng vươn lên khả năng cao nhất của con người. Vì vậy,
tiềm năng của con người đó đang được khai thác triệt để nhằm đạt thành tích thể
thao cao nhất trong cuộc thi đấu. Các hiểu biết về đạo đức ý chí, kỹ thuật và thể lực
của người tập là những yếu tố quyết định đến hiệu quả tập luyện, thi đấu thể thao.
Trong khả năng hoạt động thể lực, đặc biệt là thể lực chung và chuyên môn giữ vai
trò nền tảng. Giáo dục tố chất thể lực phải căn cứ và yếu tố hiểu biết đạo đức, ý chí,
kỹ thuật và chiến thuật và thể lực chung trong đó thể lực là một trong những nhân tố
quan trong nhất, quyết định hiệu quả hoạt động của con người. Theo quan điểm về
mặt lý luận thì: Tố chất thể lực là những đặc điểm, một phần tương đối riêng biệt
trong thể lực của con người và thường được chia thành 5 loại cơ bản: Sức nhanh,
sức mạnh, sức bền, khả năng phối hợp vận động và độ dẻo [44], [49]. (1)Vì vậy giáo
dục tố chất thể lực trong GDTC là vấn đề được quan tâm đặc biệt của các nhà
khoa học, các chuyên gia, các giáo viên TDTT. Quá trình hình thành và phát triển
các tố chất thể lực luôn có quan hệ chặt chẽ với sự hình thành các kỹ năng, kỹ xảo
vận động và mức độ phát triển các cơ quan và hệ cơ quan của cơ thể [44], [62].
Trong bất kỳ hoạt động thể lực nào, các tố chất thể lực không biểu hiện một
cách đơn độc mà luôn phối hợp hữu cơ với nhau. Các tố chất thể lực có liên quan
chặt chẽ với kỹ năng vận động. Sự hình thành kỹ năng vận động phụ thuộc nhiều
vào mức độ phát triển các tố chất thể lực. Tuy nhiên, trong quá trình hình thành kỹ
năng vận động các tố chất vận động cũng được hoàn thiện [12], [44]. Rèn luyện thể
lực, thông qua việc phát triển các tố chất thể lực là công việc hàng đầu của quá
trình hoàn thiện thể chất cho con người. Do vậy, GDTC phải bắt đầu từ khi còn
nhỏ mới đạt được tới điều mong muốn, quá trình ấy phải gắn bó chặt chẽ và phối
hợp với quá trình phát triển hình thái - chức năng cơ thể của trẻ. Ở lứa tuổi bắt đầu
đi học nên hướng vào việc chính là: phát triển tố chất khéo léo, thực hiện động tác
nhanh và củng cố những nhóm cơ chính có liên quan tới sự phát triển độ dẻo.
Lượng vận động của lứa tuổi này phải thận trọng, phải đặc biệt quan tâm và theo
dõi chặt chẽ sức khoẻ của các em. Cùng với việc phát triển tố chất khéo léo, nhanh
và mềm dẻo cần có bài tập để tăng sức bền, sức mạnh cho trẻ [74].
Các tố chất vận động là những tiền đề quan trọng để con người có thể đạt
được hiệu quả cao trong hoạt động học tập, lao động sản xuất và chiến đấu. Trong
công tác GDTC nói chung và phát triển thể chất nói riêng, các tố chất vận động là
những yếu tố có ý quyết định để phát triển năng lực thể chất. Phát triển các tố chất
vận động một cách có mục đích, kế hoạch và hệ thống là nhiệm vụ trọng tâm của
công tác GDTC. Các tố chất vận động được phát triển tốt sẽ nâng cao năng lực làm
việc của các hệ thống cơ quan cơ thể, tạo điều kiện thuận lợi để người tập có thể
tiếp thu, hoàn thiện nhanh chóng và hiệu quả các hoạt động vận động. Phát triển
các tố chất vận động là một quá trình tổng hợp, liên quan mật thiết với quá trình
dạy học kỹ thuật thể thao. Các tố chất vận động được phân thành các tố chất thể
lực, năng lực phối hợp vận động và năng lực mềm dẻo. Các tố chất thể lực bao
gồm sức mạnh, sức nhanh và sức bền. Các tố chất này được phát triển nhờ các quá
trình thích ứng về năng lượng. Phát triển các tố chất thể lực xét theo quan điểm này
là quá trình thúc đẩy và hoàn thiện các quá trình chuyển hoá năng lượng (có ôxy và
không có ôxy) trên cơ sở các mục đích đã được xác định. Các tố chất sức mạnh,
sức nhanh và sức bền có quan hệ chặt chẽ với nhau. Phát triển từng tố chất riêng
đều nằm trong mối quan hệ chung và thống nhất.
2. Các tố chất thể lực:
(2)Trong huấn luyện thể thao, ngoài trình độ kỹ chiến thuật, tâm lý, đạo
đức, ý chí thì thể lực là một yếu tố quyết định TTTT. Thể lực của mỗi người phụ
thuộc vào năng lực vận động và tố chất thể lực, gọi chung là năng lực thể lực.
Năng lực thể lực càng cao thì vận động càng hoàn thiện và TTTT càng cao.
a. Sức nhanh
Sức nhanh là tố chất thể lực để tiến hành các hành vi vận động trong thời
gian ngắn nhất trong các điều kiện quy định.
Người ta phân biệt hai hình thức sức nhanh chính:
- Sức nhanh của động tác đơn (sức nhanh động tác);
- Khả năng chuyển động về phía trước với tốc độ cao nhất (phân biệt theo
khả năng tăng tốc và sức nhanh trên cự ly).
Sức nhanh động tác là một trong các cơ sở quyết định thành tích trong
nhiêu môn thể thao không có chu kỳ - thí dụ trong nhiều môn điền kinh (các môn
nhảy, ném đẩy) trong những lần nhảy và ném trong các môn bóng, trong quăng, bê
lên và đẩy trong các môn thể thao thi đấu giữa 2 người và những lần nhảy trong
các môn thể thao kỹ thuật. Trong các môn thể thao có chu kỳ, sức nhanh động tác
cũng đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ hoặc đối với các tình huống từng phần
trong các môn chạy cự ly ngắn, cũng như trong đoạn tăng tốc và xuất phát trong
đua thuyền, đua canô và bơi.
b. Sức mạnh:
Sức mạnh là khả năng khắc phục trọng tải bên ngoài bằng sự căng cơ. Sự
phát triển tố chất sức mạnh có liên quan đến quá trình phát dục, sự phát triển của
hệ thần kinh và mức độ hoàn thiện của bộ máy vận (3)động (các tố chất xương, cơ
và dây chằng), mỗi bộ phận khác nhau của cơ thể sự phát triển tố chất sức mạnh
không giống nhau.
VD: Bóng đá là môn thể thao mang tính đối kháng trực tiếp, thường xuyên
xảy ra các va chạm mạnh. Thành tích của môn thể thao này thể hiện ở năng lực cá
nhân mỗi cầu thủ trong việc sử dụng kỹ chiến thuật, thể lực và sự ổn định về tâm lý
của bản thân mình. Hoạt động thi đấu bóng đá không chỉ đòi hỏi ở cầu thủ trình độ
điêu luyện về kỹ thuật, sử dụng hợp lý và sáng tạo về chiến thuật mà còn yêu cầu
rất cao việc phát huy đầy đủ các tố chất thể lực của cơ thể trong đó có sức mạnh.
Đồng thời phải duy trì được sức mạnh đó trong suốt thời gian dài của quá trình thi
đấu, không chỉ trong từng trận đấu mà trong suốt thời gian diễn biến của giải.
c. Sức bền:
Là năng lực duy trì khả năng vận động trong thời gian dài nhất mà cơ thể
chịu đựng được. Do khả năng duy trì vận động của con người bao giờ cũng có giới
hạn và ở giới hạn cuối cùng thường xuất hiện mệt mỏi. Bởi vậy, sức bền còn được
hiểu là khả năng của cơ thể chống lại mệt mỏi trong một hoạt động nào đó.
Trong sinh lý TDTT, sức bền thường đặc trưng cho khả năng thực hiện các
hoạt động thể lực kéo dài từ 2 – 3 phút trở lên, với sự tham gia một khối lượng cơ
bắp lớn (từ ½ toàn bộ lượng cơ bắp của cơ thể), nhờ sự hấp thụ oxy để cung cấp
năng lượng cho cơ chủ yếu hoặc hoàn toàn bằng con đường ưa khí.
Sức bền trong thể thao là khả năng thực hiện lâu dài hoạt động cơ bắp toàn
thân hoàn toàn hoặc mang tính ưa khí.
Năng lực phối hợp vận động là tiền đề cơ sở của VĐV để tiến hành có hiệu
quả những hoạt động thể thao nhất định, được xác định thông qua quá trình điều
khiển và có quan hệ chặt chẽ với các phẩm chất cá nhân khác. Nó được hình thành
và phát triển trong tập luyện. Năng lực phối hợp vận động được thể hiện ở khả
năng tiếp thu nhanh chóng và hiệu quả, cũng như việc sử dụng các kỹ xảo thể thao
để thực hiện một nhiệm vụ nào đó.
e. Tố chất Dẻo:
Độ mềm dẻo là khả năng thực hiện động tác với biên độ lớn, biên độ tối đa
của động tác là thước đo của độ mềm dẻo. Mềm dẻo phụ thuộc vào đàn tính của cơ
bắp và dây chằng.
d. Tố chất Khéo léo
Khéo léo: Là một loại tố chất của cơ thể, các nhà khoa học cho rằng sự khéo
léo có nhiều thiên hướng của hệ thần kinh hơn các tố chất vận động khác. Sự khéo
léo còn có một đặc trưng nữa là: Trong khi các tố chất nhanh, mạnh, bền, và các
sức bật đều có thể đo, đánh giá một cách tương đối chính xác, thì sự khéo léo chỉ
có thể nhận định ở mức độ chủ quan, cảm tính nhiều hơn. Tuy nhiên qua tập luyện,
kiểm tra một cách chính xác, có khoa học thì chúng ta vẫn có thể đánh giá đúng
khả năng khéo léo của từng VĐV.
Sức mạnh là khả năng khắc phục lực cản bên trong hoặc bên ngoài bằng sự
nỗ lực cơ bắp và hệ vận động.
Sức mạnh bền là sự kết hợp giữa sức mạnh và sức bền, là khả năng thực hiện
động tác nhiều lần và khắc phục lực cản (trọng lượng phụ) cho trước trong thời
gian dài.Trong các môn thể thao khác nhau đòi hỏi VĐV phải có sức mạnh bền
trong thời gian dài hoặc ngắn khác nhau.
Sức mạnh phụ thuộc vào các điều kiện sau:
+ Tiết diện ngang của cơ bắp.
+ Tính linh hoạt của hoạt động thần kinh
+ Tốc độ phản ứng của hóa học trong tế bào cơ
+ Tốc độ kỹ thuật của người tập.
Phân loại sức mạnh:
- Điều kiện phân loại sức mạnh:
+ Trị số lực sinh ra trong các động tác chậm (đẳng trường).
+ Trong chế độ nhượng bộ, khả năng sinh lực của cơ là lớn nhất và nó gấp
hai lần phát huy trong điều kiện tĩnh.
+ Trong các động tác nhanh, trị số lực giảm dần theo chiều tăng tốc độ.
+ Khả năng sinh lực trong các động tác nhanh tuyệt đối (tốc độ) và khả năng
sinh lực trong các động tác tĩnh tối đa (sức mạnh tĩnh) không có tương quan với
nhau.
Trên cơ sở đó người ta phân loại sức mạnh làm hai loại:
+ Sức mạnh đơn thuần (khả năng sinh lực trong các động tác chậm)
+ Sức mạnh tốc độ (khả năng sinh lực trong các động tác nhanh).
Ngoài các khái niệm trên ta còn có khái niệm “Sức mạnh bột phát” trong các
tài liệu khoa học hoặc trong thực tiễn.
Sức mạnh bột phát là khả năng con người phát huy một lực cản trong
khoảng thời gian ngắn nhất. Để đánh giá sức mạnh bột phát người ta dùng chỉ số
sức mạnh tốc độ:
Fmax
I=
tmax
+ Sức mạnh tuyệt đối: Là trọng lượng tối đa mà VĐV khắc phục được.
Để phát triển sức mạnh tương đối nên dùng các phương pháp phát triển
sức mạnh tuyệt đối mà không tăng trọng lượng cơ thể, không nên dùng cách giảm
trọng lượng để nâng cao sức mạnh tương đối.
Trong quá trình nghiên cứu sự hình thành và phát triển các tố chất sức
mạnh, chúng ta nhận thấy: Tố chất sức mạnh không chỉ chịu ảnh hưởng của môi
trường mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của yếu tố di truyền. Hiện nay, theo nghiên
cứu đã chứng minh được yếu tố di truyền có vai trò quan trọng đối với việc phát
triển của sức mạnh.
+ Bài tập chủ động là phương pháp tăng độ linh hoạt các khớp thông qua sự
co rút của các cơ có liên quan tới một khớp nào đó…
+ Bài tập bị động là phương pháp tăng tính linh hoạt của khớp nhờ vào tác
dụng của ngoại lực, chủ yếu là tăng biên độ động tác, kéo dài cơ và dây chằng.
+ Bài tập chủ động động lực: như các bài tập thực hiện các động tác thể dục
quay vòng tròn, có trọng lượng phụ hoặc tay không. Các bài tập ép hông, ép vai,
kéo vai, lăng chân…
+ Bài tập chủ động tĩnh lực: thực hiện các bài tập như đứng dẻo gập thân,
nghiêng lườn sang trái; phải. Các bài tập cúi người về trước ôm gối.
+ Các bài tập bị động được bạn tập giúp đỡ hoặc lợi dụng các dụng cụ tập
luyện.
Mềm dẻo là điều kiện cơ bản để tiến hành động tác với số lượng và chất
lượng tốt.Trong các hoạt động thể thao, khả năng mềm dẻo có ý nghĩa rất lớn đối
với việc nâng cao thành tích. Nếu không huấn luyện mềm dẻo ở các khớp đầy đủ
thì việc học tập và hoàn thiện kỹ xảo động tác sẽ rất hạn chế. Do đó mềm dẻo có
ảnh hưởng rất tốt tới các tố chất khác và đó là điều kiện phát huy các tố chất đó.
Ngoài ra nhờ có mềm dẻo người tập có thể hạn chế chấn thương xảy ra trong quá
trình vận động.
Tuy nhiên khác với các tố chất thể lực khác, sự phát triển luôn tỷ lệ thuận
với thành tích, tố chất mềm dẻo mang tính đặc thù ở một số môn thể thao như: kéo
co, bơi lội, thể dục…và nó nằm ở một giới hạn nhất định. Vì thế mềm dẻo rất quan
trọng trong thể thao nên cơ thể cần có sự mềm dẻo để thực hiện động tác dễ dàng
và lâu hơn… cần phải huấn luyện tố chất mềm dẻo một cách có hệ thống và có kế
hoạch, áp dụng các bài tập mở rộng toàn diện các biên độ động tác, các cơ, khớp
dây chằng cần được uốn nắn, kéo dãn hợp lý [18, tr 11].
Khả năng
Sức mạnh Sức bền Tốc độ phối hợp Mềm dẻo
vận động
Khả năng
vận động
Sức mạnh