Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT DÂN SỰ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN MÔN:


THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN

HỦY KẾT QUẢ ĐẤU GIÁ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Người thực hiện: Lưu Nguyễn Khánh Linh

MSSV: 1953801013094

Lớp: CLC44E
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................3
NỘI DUNG......................................................................................................................................5
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỦY KẾT QUẢ ĐẤU GIÁ TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ......................................................................................................................................5
1.1.Thi hành án dân sự...........................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm.................................................................................................................5
1.1.2.Các bản án, quyết định được thi hành án dân sự......................................................5
1.2.Bán đấu giá tài sản............................................................................................................6
1.3.Hủy kết quả bán đấu giá tài sản........................................................................................7
1.3.1 Trường hợp hủy kết quả bán đấu giá tài sản.............................................................8
1.3.2 Hậu quả pháp lý khi hủy kết quả bán đấu giá tài sản...............................................9
1.3.3.Thẩm quyền hủy kết quả đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự........................10
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỦY KẾT QUẢ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ..........................................................................................11
2.1.Những kết quả đạt được.................................................................................................11
2.2.Mặt hạn chế, thiếu sót.....................................................................................................12
2.2.1. Quyền yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản.....................................................13
2.2.2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết...........................................................................14
2.3.Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, thiếu sót..................................................................14
CHƯƠNG 3 : ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC.............................................................14
3.1. Một số yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hủy kết quả bán đấu giá tài sản trong thi hành
án dân sự...............................................................................................................................14
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hủy kết quả
bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.........................................................................15
3.3.Về giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản trong thi hành
án dân sự...............................................................................................................................16
KẾT LUẬN...................................................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................18
2
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.

Khi thực hiện hoạt động tố tụng dân sự phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,
giai đoạn xét xử là giai đoạn giải quyết một vụ việc tại Tòa án tuy rất quan trọng nhưng
đây mới chỉ là giai đoạn đầu là quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
tòa án chỉ làm các tình tiết của vụ việc và áp dụng các quy phạm pháp luật quyết định
quyền và nghĩa vụ của các cá nhân. Quyền và nghĩa vụ của các cá nhân trong vụ án được
tòa án, trọng tài, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh quyết định muốn trở thành hiện thực
thì phải thông qua thi hành án.

Thi hành án dân sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng dân sự, bảo đảm
cho bản án, quyết định của tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh
của pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân; đồng thời góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tăng cường hiệu
quả quản lý của bộ máy nhà nước.

Trong đó, biện pháp đấu giá tài sản là một trong những hoạt động có ý nghĩa quan
trọng để “xử lý tài sản thi hành án dân sự”; quá trình thực hiện cho thấy việc bán đấu giá
tài sản thi hành án thực sự là thủ tục phức tạp, khó khăn nhất trong hoạt động thi hành án
dân sự.

Thực tế hiện nay, có không ít trường hợp vì các lý do khác nhau phải hủy kết quả
đấu giá, vậy để giải quyết vấn đề này dựa trên căn cứ pháp luật nào; cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào có quyền ra quyết định hủy kết quả đấu giá.

Thời gian qua, pháp luật về hủy bán đấu giá tài sản vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế,
do hệ thống pháp luật còn chưa thực sự đồng bộ, thống nhất cùng với việc thực hiện của
những người tham gia vào quá trình này còn nhiều khiếm khuyết khiến cho hoạt động
này chưa phát triển và mang lại hiệu quả như mong muốn.

Để khắc phục những hạn chế này, điều quan trọng nhất đó là phải hoàn thiện các
quy định pháp luật trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản để tránh các sai sót, khó khăn trong
việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn.

3
Vì lý do đó, sau đây tôi xin lựa chọn đề tài : “Hủy kết quả đấu giá trong thi hành
án dân sự” để phân tích và làm rõ hơn về vấn đề trên.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .

Hủy kết quả bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là một trong những vấn đề
khá nhạy cảm và phức tạp, vì thế nó được đưa ra làm đề tài nghiên cứu trong các công
trình khoa học như :

Nguyễn Thị Thủy, VKSND tỉnh Bắc Giang với bài viết : “CĂN CỨ ĐỂ HUỶ
KẾT QUẢ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN” đã phân tích
căn cứ để thực hiện việc bán đấu giá tài sản thì phải xác định được giá của tài sản. Việc
định giá tài sản kê biên được quy định tại Điều 98 Luật thi hành án dân sự năm 2008 và
Điều 26 Nghị định 62/NĐ – CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, theo đó giá của tài sản kê
biên do các đương sự thỏa thuận với nhau, khi các đương sự thỏa thuận được với nhau thì
giá đó được lấy làm giá khởi điểm để bán đấu giá, nếu các đương sự không thỏa thuận
được về giá tài sản thì bắt buộc phải có tổ chức thẩm định giá để tiến hành định giá tài
sản; khi có kết quả của tổ chức thẩm định giá có thể tiến hành bán tài sản đã kê biên theo
hình thức đấu giá.

Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Hà Nội
2020, “Bàn về quyền lợi và nghĩa vụ của người trúng đấu giá, người mua được tài sản
đấu giá trong thi hành án dân sự” đã khẳng định đấu giá tài sản thi hành án là một trong
những bước tác nghiệp quan trọng khi xử lý tài sản thi hành án. Trong giai đoạn này,
ngoài chủ thể là đương sự(người được thi hành án, người phải thi hành án) thì một chủ
thể khác rất quan trọng, cần được quan tâm, bảo vệ quyền lợi, đó chính là người trúng
đấu giá, người mua được tài sản thi hành án.

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

Những vấn đề lý luận pháp lý về việc hủy kết quả đấu giá tài sản và thực tiễn áp dụng
trong thi hành án dân sự tại Việt Nam

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


4.1 Cơ sở lý luận

4
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận căn cứ pháp luật về hủy kết quả đấu giá tài
sản.

4.2 Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng các phương pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp logic và phương pháp so sánh, đánh giá; phương pháp
nghiên cứu tài liệu.

4.3 Kết cấu của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương.

Chương 1 : Lý luận chung về hủy kết quả đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Chương 2 : Thực trạng pháp luật về hủy kết quả đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự.

Chương 3 : Đề xuất giải pháp khắc phục.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỦY KẾT QUẢ ĐẤU GIÁ TRONG


THI HÀNH ÁN DÂN SỰ.

1.1 Thi hành án dân sự


1.1.1 Khái niệm.

Theo quy định tại Điều 1 và 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi bổ sung
năm 2014), thi hành án dân sự là hoạt động của nhiều tổ chức và cá nhân, bao gồm cả cơ
quan thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại.

1.1.2 Các bản án, quyết định được thi hành án dân sự.

Các bản án, quyết định được thi hành án dân sự bao gồm:

- Bản án, quyết định về dân sự;

5
- Hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật
chứng, tài sản;
- Án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự;
- Phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa
án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành;
- Phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại hoặc những bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành án ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng
nghị.

Hoạt động thi hành án dân sự được thực hiện theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục
theo quy định của Luật thi hành án dân sự, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan.

1.2 Bán đấu giá tài sản.

Đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá
theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục được quy định tại Luật này (Luật đấu giá 2016). Đây
là một hình thức xử lý đối với một số loại tài sản đặc biệt theo quy định của pháp luật.

“Điều 101. Bán tài sản đã kê biên

1. Tài sản đã kê biên được bán theo các hình thức sau đây:

a) Bán đấu giá;

b) Bán không qua thủ tục đấu giá.

2. Việc bán đấu giá đối với tài sản kê biên là động sản có giá trị từ trên 10.000.000 đồng
và bất động sản do tổ chức bán đấu giá thực hiện.

Đương sự có quyền thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày
làm việc, kể từ ngày định giá. Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản
với tổ chức bán đấu giá do đương sự thỏa thuận. Trường hợp đương sự không thỏa thuận
được thì Chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu
giá tài sản.

6
Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 10 ngày, kể
từ ngày định giá.

Việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với
bất động sản là 45 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng.

3. Chấp hành viên bán đấu giá tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây:

a) Tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá
hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản;

b) Động sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với
bất động sản là 45 ngày, kể từ ngày định giá hoặc từ ngày nhận được văn bản của tổ
chức bán đấu giá từ chối bán đấu giá.

4. Chấp hành viên bán không qua thủ tục bán đấu giá đối với tài sản có giá trị dưới
2.000.000 đồng hoặc tài sản tươi sống, mau hỏng.

Việc bán tài sản phải được thực hiện trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ
ngày kê biên.

5. Trước khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, người phải thi hành án có quyền
nhận lại tài sản nếu nộp đủ tiền thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã
phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá.

Người phải thi hành án có trách nhiệm hoàn trả phí tổn thực tế, hợp lý cho người đăng
ký mua tài sản. Mức phí tổn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu
cầu Tòa án giải quyết.”

1.3 Hủy kết quả bán đấu giá tài sản.

Trong hoạt động bán đấu giá tài sản, kết quả đấu giá tài sản là căn cứ để các bên ký
kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá hoặc là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
kết quả bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp kết quả đấu giá
đều được công nhận, mà ngược lại trong một số trường hợp luật định, kết quả bán đấu giá
tài sản sẽ bị hủy

7
1.3.1 Trường hợp hủy kết quả bán đấu giá tài sản

Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 48 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá
tài sản kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy trong các trường hợp sau đây:

Một là do “thỏa thuận giữa người có tài sản bán đấu giá, người mua được tài sản
bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
đối với tài sản thi hành án, thì còn phải có thỏa thuận của người phải thi hành án”.

Việc các bên thỏa thuận với nhau là quyền dân sự của công dân được pháp luật
thừa nhận và bảo vệ trong giao lưu dân sự. Theo đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định
nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự và Luật Thi hành
án dân sự, cũng ghi nhận về quyền này của các đương sự trong quá trình thi hành án.
Việc thỏa thuận không chỉ đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự mà còn là biện
pháp thi hành án hiệu quả, tiết kiệm được thời gian và chi phí cho các bên. Vì vậy, pháp
luật tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên trong thi hành án dân sự.

Vậy, khi đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự, người có tài sản đấu giá, tổ chức
đấu giá tài sản, người trúng đấu giá và người thi hành án có thể thỏa thuận với nhau về về
việc hủy kết quả đấu giá tài sản, hủy giao kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, hủy bỏ
hợp đồng mua bán tài sản đấu giá, trừ trường hợp gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.

Hai là hợp đồng bán đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá bị Tòa
án tuyên bố vô hiệu hoặc bị hủy theo quy định của pháp luật dân sự;

Hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản, hợp đồng mua bán tài sản đấu giá bị Tòa án
tuyên bố vô hiệu theo quy định của pháp luật khi người trúng đấu giá có hành vi vi phạm
điểm b khoản 5 Điều 9 Luật Đấu giá tài sản 2016 như sau: “Thông đồng, móc nối với đấu
giá viên, tổ chức đấu giá tài sản, người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá khác,
cá nhân, tổ chức khác để dìm giá, làm sai lệch kết quả đấu giá tài sản”. Hoặc hợp đồng
có thể bị hủy bỏ theo quy định tại khoản 6 Điều 33 Luật Đấu giá tài sản 2016 khi có một
trong các căn cứ sau:

8
- Tổ chức không có chức năng hoạt động đấu giá tài sản mà tiến hành cuộc đấu giá
hoặc cá nhân không phải là đấu giá viên mà điều hành cuộc đấu giá, trừ trường
hợp cuộc đấu giá do Hội đồng đấu giá tài sản thực hiện.
- Tổ chức đấu giá tài sản cố tình cho phép người không đủ điều kiện tham gia đấu
giá theo quy định của pháp luật tham gia đấu giá và trúng đấu giá.
- Tổ chức đấu giá tài sản có một trong các hành vi: không thực hiện việc niêm yết
đấu giá tài sản; không thông báo công khai việc đấu giá tài sản; thực hiện không
đúng quy định về bán hồ sơ đăng ký tham gia đấu giá, tổ chức đăng ký tham gia
đấu giá; cản trở, hạn chế người tham gia đấu giá đăng ký tham gia đấu giá.
- Tổ chức đấu giá tài sản thông đồng, móc nối với người tham gia đấu giá trong quá
trình tổ chức đấu giá dẫn đến làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá hoặc hồ sơ
tham gia đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản.
- Tổ chức đấu giá tài sản tổ chức cuộc đấu giá không đúng quy định về hình thức
đấu giá, phương thức đấu giá theo Quy chế cuộc đấu giá dẫn đến làm sai lệch kết
quả đấu giá tài sản.

Ba là kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy theo quyết định của người có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
theo khoản 6 Điều 33 Luật Đấu giá tài sản 2016 và theo quy định tại khoản 3 Điều 56
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP.

Khoản 3 Điều 56 quy định: “Bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả “hủy kết quả
bán đấu giá tài sản” đối với hành vi vi phạm hành chính “không thực hiện quy định về
việc niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản” quy định tại điểm a khoản 1
Điều 29 Nghị định số 60/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư
pháp.”

1.3.2 Hậu quả pháp lý khi hủy kết quả bán đấu giá tài sản

Được quy định tại Khoản 2 Điều 48 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về bán đấu giá
tài sản như sau:

Kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả
bằng tiền. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

9
Căn cứ để thực hiện việc bán đấu giá tài sản thì phải xác định được giá của tài sản.

Việc định giá tài sản kê biên được quy định tại Điều 98 Luật thi hành án dân sự
năm 2008 và Điều 26 Nghị định 62/NĐ – CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, theo đó giá
của tài sản kê biên do các đương sự thỏa thuận với nhau, khi các đương sự thỏa thuận
được với nhau thì giá đó được lấy làm giá khởi điểm để bán đấu giá, nếu các đương sự
không thỏa thuận được về giá tài sản thì bắt buộc phải có tổ chức thẩm định giá để tiến
hành định giá tài sản; khi có kết quả của tổ chức thẩm định giá có thể tiến hành bán tài
sản đã kê biên theo hình thức đấu giá.

1.3.3 Thẩm quyền hủy kết quả đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Khoản 13 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định những tranh chấp về
dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: “Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài
sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về
thi hành án dân sự”. Do vậy xác định Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền giải
quyết đối với các yêu cầu khởi kiện tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản.

Ngoài quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc hủy kết quả bán đấu
giá tài sản được nêu trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì việc hủy kết quả bán đấu
giá tài sản còn được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 48 Nghị định 17/2010/NĐ-CP,
ngày 04/3/2010 của Chính phủ: “Kết quả bán đấu giá tài sản bị huỷ theo quyết định của
người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính và theo quy định tại khoản 3 Điều 56 Nghị định này.”

Khoản 3 Điều 56 Nghị định số 17/2010/NĐ- CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ bổ
sung biện pháp khắc phục hậu quả bằng biện pháp “hủy kết quả bán đấu giá tài sản” đối
với hành vi vi phạm hành chính “không thực hiện quy định về việc niêm yết, thông báo
công khai việc bán đấu giá tài sản” quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 29 Nghị định số
60/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp.

Như vậy, kết quả bán đấu giá tài sản đối với các trường hợp có vi phạm hành chính
thì trong từng trường hợp cụ thể có thể bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh, Chánh thanh tra Sở tư pháp, Chánh thanh tra Bộ tư pháp hủy kết quả
bán đấu giá tài sản.

10
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỦY KẾT QUẢ ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ.

2.1 Những kết quả đạt được khi áp dụng quy định về hủy kết quả đấu giá tài sản
vào thực tiễn

Thời gian qua, hoạt động thực thi áp dụng bán đấu giá tài sản và hủy kết quả đấu giá
tài sản đã được áp dụng và thực thi khá tốt trên thực tiễn và đạt được nhiều kết quả đáng
mong đợi. Sự ra đời của Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về
bán đấu giá tài sản trên cơ sở kế thừa Nghị định 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 đã góp
phần đưa công tác bán đấu giá tài sản trong thời gian qua ở nước ta đi vào ổn định.

Những vụ bán đấu giá tài sản thuộc Sở Tư pháp ở các quận, huyện, thành phố tăng
lên đáng kể, nhiều phiên có những vụ bán đấu giá tài sản với giá trị lớn. Các trường hợp
hủy kết quả đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự vô cùng hợp lý, theo đúng trình tự,
thủ tục của pháp luật quy định của pháp luật, những yêu cầu khiếu nại quyết định hủy kết
quả đấu giá tài sản ngày một ít đi, việc hủy kết quả diễn ra đúng thẩm quyền, và diễn ra
đúng theo trình tự, thủ tục của pháp luật.

Điển hình như Quyết định Số: 09/2019/QĐST-DS - QUYẾT ĐỊNH ĐÌNH CHỈ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ đối với tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh
toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự. Cụ thể, đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 191/2018/TLST-DS
ngày 25-7-2018 về việc “Tranh chấp hủy kết quả bán đấu giá tài sản và yêu cầu tuyên bố
hợp đồng bán đấu giá tài sản vô hiệu”, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1983; Địa chỉ: ấp NC, xã LHT, huyện
TĐ, tỉnh Sóc Trăng.

Bị đơn: Cty TNHH Dịch vụ Đấu giá và Tư vấn MN; Địa chỉ: Số xxx đường LTK,
Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Đào Quốc T1 – Tổng Giám đốc của
Công ty TNHH Dịch vụ Đấu giá và Tư vấn MN; Địa chỉ: Số xxx đường PL, Phường X,
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

11
Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Hữu T không có quyền
khởi kiện lại vụ án theo quy định pháp luật. Trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng
cứ kèm theo cho ông Nguyễn Hữu T. (nếu có yêu cầu)

Trả ông Nguyễn Hữu T số tiền tạm ứng án phí là 900.000 đồng theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí, lệ phí số 0001961 ngày 13-7-2018 của Chi Cục Thi hành án Dân sự
thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.

Hệ thống pháp luật quy định về hủy kết quả đấu giá tài sản ngày càng hoàn thiện,
được đồng bộ, chặt chẽ, dễ dàng hơn cho việc áp dụng thi hành vào thực tế.

2.2 Mặt hạn chế, thiếu sót.

Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc thực thi pháp luật về hủy bán đấu giá
tài sản thì trong những năm qua, công tác thi hành pháp luật về hủy kết quả bán đấu giá
tài sản vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập trong bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự
từ thực tiễn ở Việt Nam chúng ta.

Về công tác bán đấu giá tài sản của các tổ chức bán đấu giá tài sản và các cơ quan
thi hành án dân sự đã giúp ích rất nhiều cho công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được trong việc bán đấu giá tài sản thi hành án thì vẫn còn gặp
một số vấn đề hạn chế, bất cập nhất định và cũng là bài toán nan giải cho các tổ chức bán
đấu giá tài sản và các cơ quan thi hành án dân sự trên cả nước nói chung.

Công tác hủy kết quả bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự vẫn còn nhiều
thiếu sót, hạn chế sau :

- Chấp hành viên còn vi phạm các quy định của pháp luật.
- Tài sản đấu giá thành nhưng không bàn giao được hoặc kéo dài việc bàn giao.
- Pháp luật quy định cơ chế kiểm sát hoạt động hủy kết quả bán đấu giá tài sản còn
chưa rõ ràng, cụ thể.
- Tâm lý của khách hàng ngại mua tài sản thi hành án.
- Việc thi hành án khó khăn, phức tạp vì người phải thi hành án phải thi hành cho
nhiều người được thi hành án.
- Tài sản đấu giá thành nhưng không bàn giao được hoặc kéo dài việc bàn giao.

Đặc biệt, pháp luật về hủy kết quả bán đấu giá tài sản vẫn còn nhiều hạn chế sau :

12
2.2.1 Quyền yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản.

Đây là một trong những quy định vẫn còn hạn chế trong hủy kết quả đấu giá tài sản
hiện nay. Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì
người có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản tại khoản 2
Điều 102: “Người mua được tài sản bán đấu giá, chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng
minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản”.

Như vậy, theo quy định hiện hành, ngoài chấp hành viên thì chỉ người mua được
tài sản bán đấu giá mới có quyền yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá; còn người
được thi hành án và người phải thi hành án không có quyền này.

Từ những quy định này mà trong thực tiễn đã gặp phải vướng mắc đó là người
phải thi hành án (là người bị chấp hành viên kê biên tài sản để bán đấu giá) có căn cứ cho
rằng việc bán đấu giá không thực hiện đúng quy định pháp luật, làm ảnh hưởng nghiêm
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ nhưng họ lại không có quyền yêu cầu Tòa án hủy
kết quả bán đấu giá; trong khi người mua được tài sản và chấp hành viên là những người
tham gia bán đấu giá thì không yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản.

Cho nên đã dẫn đến việc người phải thi hành án khiếu nại nhiều nơi gây kéo dài
thời gian thi hành án, cơ quan thi hành án thì không giao được tài sản cho người mua tài
sản bán đấu giá dẫn đến người mua tài sản bán đấu giá khiếu nại cơ quan thi hành án dân
sự và rất nhiều hệ lụy khác.

Ngoài ra, quy định chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả
bán đấu giá tài sản còn tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau. Cụ thể là chấp hành viên nào
mới có quyền yêu cầu: Chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành quyết định thi
hành án có liên quan đến tài sản bán đấu giá hay bất kỳ chấp hành viên nào.

Thực tế chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể vấn đề này. Tuy nhiên, quan điểm được
đồng thuận nhiều nhất là chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành quyết định thi
hành án có liên quan tài sản bán đấu giá vì họ là người được giao nhiệm vụ trực tiếp thực
hiện việc bán đấu giá tài sản và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động liên quan đến việc
bán đấu giá tài sản.

13
2.2.2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết

Thẩm quyền giải quyết vụ án thực hiện theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ và theo quy định tại Điều 40
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn.

Tuy nhiên, trong thực tiễn có một vấn đề vẫn còn quan điểm khác nhau và việc này
rất khó có thể xác định đúng về thẩm quyền của Tòa án có quyền hủy kết quả bán đấu giá
tài sản. 1

2.3.Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, thiếu sót.

Các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập trong việc bán đấu giá tài sản thi
hành án dân sự từ thực tiễn ở nước ta thời gian qua đó là :

Thứ nhất là trình độ dân trí còn thấp, hiểu biết kém, việc phổ cập pháp luật còn khó
khăn. Ý thức chấp hành các quy định pháp luật về thi hành án của người dân còn chưa
tốt, còn có biểu hiện chây ỳ và chống đối của người phải thi hành án thường chây ỳ,
không hợp tác với cơ quan thi hành án, khi được triệu tập đến làm việc thì không đến. Do
đó, đa số các quyết định, văn bản phải tiến hành thủ tục niêm yết.

Thứ hai, do quy định pháp luật về hủy kết quả đấu giá tài sản trong thi hành án dân
sự còn nhiều bất cập và hạn chế.

Các cơ quan, cán bộ pháp luật có thẩm quyền còn chưa thực sự hiểu và nắm rõ các
quy định pháp luật dẫn đến việc hủy kết quả đấu giá tài sản dẫn đến việc áp dụng xử lý
còn sai pháp luật, chưa đúng quy định dẫn đến những mâu thuẫn và khiếu nại, sự không
hài lòng của người dân, giảm uy tín bộ mặt của các quan tư pháp tại Việt Nam.

CHƯƠNG 3 : ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC.

3.1. Một số yêu cầu hoàn thiện pháp luật về hủy kết quả bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự.

Pháp luật về hoạt động bán đấu giá nói chung và hủy kết quả về bán đấu giá trong
thi hành án dân sự nói riêng trong thời gian qua đã có những bước tiến bộ rõ rệt. Các điều

1
Dương Tấn Thanh, Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, Vướng mắc về giải quyết tranh chấp kết quả
bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự
14
khoản trong các luật đã làm sáng tỏ rất nhiều vấn đề, tạo tiền đề cơ sở pháp lý cho hoạt
động bán đấu giá tài sản.

Tuy nhiên, giống như rất nhiều lĩnh vực khác, trên thực tế pháp luật về hủy kết quả
bán đấu giá trong thi hành án dân sự khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn một số khó khăn
vướng mắc cần phải khắc phục, gỡ bỏ để hoàn thiện hơn. Vì vậy, cần phải :

- Phải tăng cường hơn nữa quan hệ, phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến
hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

- Cần đảm bảo tính đầy đủ, chính xác của các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu
của tài sản đưa ra bán đấu giá trong thi hành án dân sự.

- Cần phải xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.

- Về mặt thủ tục, yêu cầu thực hiện niêm yết công khai thủ tục thi hành án tại các
cơ quan thi hành án cho người dân dễ tìm hiểu, nắm bắt để họ có thái độ hợp tác với cơ
quan thi hành án.

- Cần sửa đổi, bổ sung quy định về người bảo quản tài sản thi hành án.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về hủy kết quả bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

- Về giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi
hành án dân sự:

Thứ nhất, đối với pháp luật thi hành án dân sự: Cần quy định cụ thể tài sản trước
khi đưa ra bán đấu giá phải là tài sản mà cơ quan thi hành án dân sự đang quản lý hoặc
một cơ quan thứ ba quản lý, không thể giao cho người phải thi hành án dân sự và người
thân thích của họ quản lý. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng bán đấu giá không
có người mua (do sợ rủi ro), tránh thiệt hại cho người có tài sản (nhiều người mua dẫn
đến không bị ép giá, giảm giá) rút ngắn thời gian, đẩy nhanh tiến độ thi hành án (chỉ bán
một lần hoặc hai lần là đã thực hiện xong), giảm khó khăn áp lực cho cơ quan thi hành án
dân sự (hạn chế sai phạm, dành nhiều thời gian cho các vụ việc khác).

Cần sửa đổi, bổ sung những quy định về thẩm quyền xử lý hủy kết quả bán đấu giá
tài sản, siết chặt cơ chế quản lý và thực thi pháp luật.
15
Hai là, đối với các văn bản pháp luật có liên quan: Cần phải có quy định riêng, đặc
thù cho việc bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.

Điều này xuất phát từ những đặc thù riêng biệt của trình tự, thủ tục thi hành án dân
sự, đặc điểm đặc trưng của tài sản. Không nên có quy định chung thủ tục bán đấu giá
cưỡng bức như trong thi hành án dân sự với việc bán đấu giá tài sản tự nguyện như tài
sản thông thường khác.

3.3.Về giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bán đấu giá tài sản
trong thi hành án dân sự.

Thứ nhất, phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để giúp phát
triển hơn nữa hoạt động bán đấu giá thời gian tới, cũng như cần phải tạo ra sự chuyển
biến cơ bản về nhận thức trong nhân dân về hoạt động bán đấu giá nói chung và bán đấu
giá tài sản thi hành án nói riêng.

Thứ hai, phải kiện toàn tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án và đội ngũ đấu giá
viên thực hiện tốt nhiệm vụ bán đấu giá bảo đảm hoạt động bán đấu giá tài sản được xã
hội hóa một cách sâu sắc.

Bên cạnh đó, cần thiết phải tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước của Sở Tư pháp
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đồng thời hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý
đầy đủ cho sự phát triển của đội ngũ đấu giá viên.

Thứ ba, các cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp cần
phải có Quy chế phối hợp chặt chẽ với nhau hơn nữa tạo thành một mối thống nhất để
cùng nhau chia sẻ những khó khăn trong công việc chung và từ đó có hướng giải quyết
hợp tình, hợp lý, đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên nhằm ngày càng mang lại
hiệu quả cao hơn trong công tác bán đấu giá tài sản đảm bảo thi hành án.

KẾT LUẬN

Tóm lại, đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự được hình thành trong nhwuxng
quy định của Pháp lệnh về thi hành án dân sự năm 1989 và đã phát triển thành dịch vụ
bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp. Hiện nay, hoạt động bán đấu giá tài sản được quy định
tại nhiều văn bản luật và chủ yếu áp dụng đối với tài sản nhà nước, tài sản thi hành án, tài
sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính... nhằm bảo đảm cho việc xử lý các tài
16
sản này được công khai, minh bạch, khách quan, giảm thiểu các tiêu cực trong việc xử lý
tài sản.

Hủy kết quả đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự là một bước quan trọng để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể, đảm bảo cho pháp luật được thực
thi có hiệu quả trên thực tế.

Tuy nhiên, trong thời gian qua, hủy kết quả bán đấu giá tài sản trong thi hành án
dân sự cũng còn bộc lộ những hạn chế nhất định khi áp dụng vào thực tiễn cần phải khắc
phục, gỡ bỏ để hoàn thiện hơn mang lại hiệu quả như mong muốn.

Để nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự cũng như dễ
dàng thực thi trong thực tiễn, nhà nước cần phải sửa đổi, bổ sung một số các quy định
trong pháp luật thi hành án dân sự đồng thời phải tăng cường các biện pháp tổ chức thực
hiện pháp luật về lĩnh vực này.

17
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Bộ luật Dân sự 2015

2.Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)

3.Nghị định số: 62/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của luật thi hành án dân sự

18

You might also like