Professional Documents
Culture Documents
Chương 6
Chương 6
Chương 6
Nội dung 3: Trình bày vi phạm hành chính – Cấu thành vi phạm hành
chính
1.Khái niệm vi phạm hành chính:
- Là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của
pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính(Khoản 1 Điều 2 Luật xử lý VPHC 2012)
Xảy ra trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, xâm hại các quy tắc quản lý nhà
nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm hình sự.
Chủ thể vi phạm hành chính rất đa dạng, có thể là các cơ quan nhà nước,các
tổ chức và cá nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài, ngườikhông
quốc tịch).
-Vi phạm hành chính có 4 đặc điểm chính: hành vi, tính trái quy định pháp luật
xâm hại nguyên tắc quản lí nhà nước, tính có lỗi của hành vi, chịu xử lí vi phạm
hành chính.
Các hành vi trái pháp luật quản lí hành chính được thể hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động
Đặc điểm vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật xâm hại các quy tắc
quản lí nhà nước. Sẽ không có vi phạm hành chính nếu không có hành vi trái
pháp luật xâm phạm các quy tắc này.
Tính có lỗi của hành vi vi phạm hành chính. Đây là yếu tố quan trọng trong
yếu tố xác định mặt chủ quan của hành vi, thể hiện ý chí của người thực
hiện. Lỗi trong vi phạm hành chính được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc
vô ý.
+ Lỗi cố ý thể hiện ở nhận thức của chủ thể có hành vi biết được tính chất nguy hại
của hành vi của mình, thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý
thực hiện và mong muốn điều đó xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý
thức để mặc hậu quả xảy ra.
+ Lỗi vô ý thể hiện ở chủ thể thực hiện hành vi không nhận thức được tính chất
nguy hại của hành vi đó mặc dù có thể hoặc cần phải nhận thức được hoặc nhận
thức được nhưng cho rằng hậu quả không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được hậu
quả.
Vi phạm hành chính phải bị xử phạt theo quy định của pháp luật. Luật xử lí
vi phạm hành chính là khung pháp lí cơ bản điều chỉnh việc xử lí vi phạm
hành chính. Trong nguồn luật này đặt ra các nguyên tắc xử lý vi phạm; các
biện pháp xử lý vi phạm; các đối tượng bị xử lý vi phạm;…
Để xác định một hành vi xảy ra trong thực tế có phải là vi phạm hành chính hay
không, cần phải xác định các dấu hiệu pháp lý của các yếu tố cấu thành loại vi
phạm pháp luật này. vi phạm hành chính được cấu thành bởi 04 yếu tố gồm mặt
khách quan, chủ thể, chủ quan, khách thể.
- Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan là hành vi vi phạm hành chính. Khi xem
xét đánh giá hành vi của cá nhân hay tổ chức nào đó có phải là hành vi vi phạm
hành chính hay không phải dựa vào các căn cứ pháp lý vững chắc xác định hành vi
đó phải được pháp luật quy định là sẽ bị xử phạt bằng các biện pháp xử phạt vi
phạm hành chính. Đối với một số loại hành vi vi phạm hành chính không chỉ đơn
thuần dựa vào dấu hiệu nội dung trái pháp luật trong hành vi mà còn phải dựa vào
các dấu hiệu khác cụ thể:
Dấu hiệu bắt buộc là yếu tố lỗi của chủ thể vi phạm. Lỗi là trạng thái tâm lý của
một người đối với hành vi vi phạm của chính họ. Người nào nhận thức được hành
vi của mình là trái pháp luật, có hại cho xã hội bị pháp luật cấm mà vẫn thực hiện
thì được xác định là vi phạm hành chính.
+ Lỗi vô ý là trường hợp người thực hiện hành vi có đầy đủ khả năng nhận thức,
điều khiển hành vi nhưng do vô tình, hoặc thiếu thận trọng dẫn đến vi phạm hành
chính..
+ Lỗi cố ý là trường hợp người thực hiện hành vi vi phạm hành chính biết hành vi
của mình là nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hành chính cấm mà vẫn cố tình thực
hiện.
Khi xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, chỉ cần xác định tổ chức đó
có hành vi trái pháp luật hành chính và hành vi đó theo quy định của pháp
luật bị xử phạt bằng các biện xử phạt vi phạm hành chính là đủ.