Tài Liệu Đọc Tuần 4

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 25

TÀI LIỆU ĐỌC TUẦN 4

I. ĐỘNG LỰC VÀ LOGIC CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC


1. Động lực của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục luôn vận động và phát triển không ngừng. Sự vận động, phát triển của quá
trình giáo dục thể hiện rõ ở từng thành tố của quá trình giáo dục. VD: Khi tham gia vào quá trình
giáo dục, người được giáo dục từ chỗ chưa biết đến chỗ biết, biết ít đến chỗ biết nhiều, từ chỗ chưa
hoàn thiện đễn chỗ hoàn thiện hơn…; Nhà giáo dục trải qua quá trình công tác giáo dục cũng
trưởng thành hơn trong chuyên môn, kinh nghiệm giáo dục….

Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự vận động phát triển của quá trình giáo dục?

Theo quan điểm triết học Mác – xít, mọi sự vật hiện tượng đều luôn vận động và phát triển
không ngừng. Nguyên nhân của sự vận động và phát triển đó là quá trình giải quyết các mâu
thuẫn cơ bản, nội tại của sự vật hiện tượng đó.

Động lực của quá trình giáo dục là những yếu tố thúc đẩy quá trình giáo dục vận động,
phát triển không ngừng. Do đó, động lực của quá trình giáo dục chính là việc giải quyết đúng
đắn và có hiệu quả các mâu thuẫn của quá trình giáo dục.

Quá trình giáo dục có hai loại mâu thuẫn là mâu thuẫn bên ngoài và mâu thuẫn bên trong.

* Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các thành tố của quá trình giáo dục với các điều
kiện khách quan bên ngoài.

VD: Môi trường kinh tế xã hội phát triển đặt ra những yêu cầu cao đối với người công dân,
người lao động, trong khi đó mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, các thành tố khác của quá trình giáo
dục còn xa mới đáp ứng được. Điều đó ảnh hưởng tới hiệu quả của quá trình giáo dục.

Hay, quá trình giáo dục thực hiện những tác động có định hướng tích cực, tiến bộ tới
người được giáo dục nhưng trong khi đó môi trường luôn có những tác động gây nhiễu một
cách tự phát bằng những hiện tượng tiêu cực…Điều đó gây khó khăn, ảnh hưởng tới quá trình
giáo dục…

Việc giải quyết các mâu thuẫn bên ngoài của quá trình giáo dục có hiệu quả sẽ tạo điều
kiện cho quá trình giáo dục phát triển.Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh cụ thể, vào thời điểm
nào đó thì việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài có ý nghĩa quyết định.

Chẳng hạn: quá trình giáo dục hiện nay rất cần tạo môi trường giáo dục giúp cho người
được giáo dục được hoạt động, trải nghiệm, rèn luyện nhiều hình thức đa dạng, phong phú
hơn. Do đó rất cần nguồn tài chính và các điều kiện phương tiện sân bãi…nhất định để thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục. Tuy nhiên, với điều kiện hiện nay ở các trường phổ thông
hiện nay vẫn chưa đáp ứng được. Điều đó có ảnh hưởng quyết định đến việc thực hiện các mục
tiêu, chương trình giáo dục.

* Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các thành tố của quá trình giáo dục với nhau
hoặc mâu thuẫn giữa các yếu tố trong từng thành tố của quá trình giáo dục. VD:

1
- Mâu thuẫn giữa các thành tố trong quá trình giáo dục:

+ Trong quá trình giáo dục: mục đích nhiệm vụ giáo dục đã được được đổi mới, nâng cao
trong khi đó chương trình nội dung giáo dục chưa được đổi mới, phương pháp giáo dục còn lạc
hậu…

+ Nhà giáo dục đặt ra những yêu cầu nhiệm vụ giáo dục cao đối với người được giáo dục,
trong khi đó khả năng trình độ giáo dục hiện có ở người được giáo dục còn bị hạn chế.

- Mâu thuẫn giữa các yếu tố trong từng thành tố của quá trình giáo dục:

+ Trong nhân tố người được giáo dục thường nảy sinh những mâu thuẫn: giữa lời nói và
việc làm, giữa tình cảm và lý trí.

+ Trong nhân tố nhà giáo dục thường có mâu thuẫn giữa trình độ chuyên môn thì tốt song
lại non kém về trình độ sư phạm trong giao tiếp ứng xử với người được giáo dục.

Việc giải quyết các mâu thẫn bên trong của quá trình giáo dục có hiệu quả tạo động lực
thúc đẩy quá trình giáo dục vận động và phát triển.

Trong các mâu thuẫn bên trong của quá trình giáo dục, có một mâu thuẫn tồn tại xuyên
suốt từ đầu đến cuối và có tác dụng chi phối tất cả các mâu thuẫn khác của quá trình giáo dục
được gọi là mâu thuẫn cơ bản.

Mâu thuẫn cơ bản của quá trình giáo dục là: Một bên là các yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục
mới của nhà giáo dục đang đặt ra cho đối tượng giáo dục với một bên là trình độ được giáo dục
và phát triển hiện có của người được giáo dục trước yêu cầu nhiệm vụ đó.

Việc giải quyết hiệu quả mâu thuẫn cơ bản của quá trình giáo dục sẽ tạo ra động lực chủ
yếu thúc đẩy sự vận động và phát triển của quá trình giáo dục.

Vấn đề đặt ra là không phải quá trình giáo dục cứ có mâu thuẫn là có động lực. Mà vấn đề là
mâu thuẫn đó phải được giải quyết một cách hiệu quả. Ví dụ: đối với mâu thuẫn cơ bản của
quá trình giáo dục để mâu thuẫn trở thành động lực của quá trình giáo dục thì quá trình giáo
dục cần phải có các điều kiện cơ bản sau:

- Mâu thuẫn phải được người được giáo dục ý thức một cách đầy đủ. Có nghĩa là các
yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục đặt ra đối với người được GD phải được họ hiểu và có nhu cầu giải
quyết. VD: nhiệm vụ đó là gì? bản thân mình đang ở đâu trước yêu cầu đó…

- Mâu thuẫn đặt ra phải “vừa sức” với người được giáo dục, có nghĩa là không quá khó
và cũng không quá dễ đối với họ. Bằng sự nỗ lực người được giáo dục có thể giải quyết được.

- Mâu thuẫn phải do tiến trình của quá trình giáo dục mang lại. Có nghĩa là: sự xuất hiện
của yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục đối với người được giáo dục là sự tất yếu của quá trình giáo
dục mang lại. Do đó việc đặt ra yêu cầu, nhiệm đúng lúc, đúng thời điểm có ý nghĩa rất quan
trọng, việc quá sớm hay quá muộn đều không kích thích người được giáo dục nỗ lực giải
quyết.

2
2. Lôgic của quá trình giáo dục

* Khái niệm lôgic của quá trình giáo dục

Lôgic của quá trình giáo dục là trình tự vận động hợp quy luật của quá trình giáo dục, nhằm
đảm bảo cho người được giáo dục đi từ trình độ tri thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi, thói
quen hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội tương ứng từ lúc bắt đầu tham gia một hoạt
động giáo dục nào đó, đến trình độ trình độ tri thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi, thói quen
hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội, tương ứng với lúc kết thúc hoạt động giáo dục.

Lôgic của quá trình giáo dục phải được xây dựng sao cho phù hợp với logic của từng nội dung
giáo dục cụ thể và đặc điểm của người được giáo dục. Chính vì vậy nhà giáo dục khi tiến hành tổ
chức hoạt động giáo dục cho những nhóm đối tượng giáo dục khác nhau thì tiến thực hiện cũng
khác nhau. Vì vậy logic của quá trình giáo dục có tính động cao.

* Các khâu của quá trình giáo dục

Quá trình giáo dục mang tính toàn vẹn. Để hình thành và phát triển bất kì một phẩm
chất nhân cách nào đó đều phải tác động vào tất cả các mặt của đời sống tâm lý cá nhân: nhận
thức, tình cảm, kĩ năng hành động ý chí, … Từ lý luận và thực tiễn giáo dục, ta có thể thấy quá
trình giáo dục diễn ra theo các khâu cơ bản sau:

a. Tổ chức điều khiển người được GD nắm vững những tri thức về các chuẩn mực xã
hội đã quy định

Các chuẩn mực xã hội là thước đo giá trị hành vi của con người được xã hội thừa nhận,
có tác dụng định hướng, điều tiết hành vi của cá nhân, của nhóm xã hội trong những điều kiện
nhất định. Chuẩn mực xã hội cũng chính là những điều kiện mà xã hội kiểm tra hành vi của cá
nhân và cá nhân lại có thể sử dụng nó để kiểm tra hành vi của mình trên cơ sở đó hướng tới sự
phát triển xã hội.

Trong xã hội tồn tại rất nhiều hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội: giá trị chuẩn mực
về pháp luật, chuẩn mực về đạo đức, chuẩn mực về truyền thống, chuẩn mực về phong tục tập
quán, chuẩn mực về thẩm mỹ…Trong đó, nhiều loại chuẩn mực về đạo đức, pháp luật đã được
lựa chọn và đưa vào nội dung quá trình giáo dục.

Nhận thức là cơ sở, là kim chỉ nam cho sự hình thành và điều chỉnh tình cảm, thái độ,
hành vi của mỗi cá nhân. Muốn người được giáo dục tự giác tích cực thực hiện theo các chuẩn
mực xã hội đã quy định. Đòi hỏi nhà giáo dục cần phải tác động tới nhận thức của người được
giáo dục, giúp cho người được giáo dục nắm vững được những tri thức về các chuẩn mực xã
hội bao gồm:

- Ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của các chuẩn mực xã hội quy định.

- Nội dung của các chuẩn mực (bao gồm các khái niệm tương ứng)

- Cách thức thực hiện theo các yêu cầu chuẩn mực đó.

3
Tuy nhiên, kết quả của quá trình nhận thức đó phụ thuộc vào trình độ văn hóa, kinh
nghiệm sống, sự trải nghiệm của mỗi người, là sản phẩm của quá trình học tập và tự tu dưỡng.
Đối với học sinh phổ thông, giáo dục ý thức cá nhân là khâu cực kì quan trọng, quá trình này
được thực hiện thông qua quá trình học tập và các hoạt động rèn luyện trong và ngoài nhà
trường. Qua đó những khái niệm về đạo đức, về quyền lợi và nghĩa vụ, về quy tắc sống, chuẩn
mực xã hội, những giá trị văn hóa sẽ được hình thành.

b. Tổ chức điều kiển người được giáo dục hình thành niềm tin và tình cảm tích cực với
các chuẩn mực xã hội quy định

Chính trong quá trình hình thành, phát triển tri thức về các chuẩn mực xã hội cho người
được giáo dục thì thái độ, niềm tin, tình cảm tích cực đối với các chuẩn mực xã hội ở họ dần
được hình thành.

Trong quá trình giáo dục, niềm tin đối với các chuẩn mực xã hội được thể hiện ở người
được giáo dục theo các mức độ tăng dần như sau:

- Người được giáo dục nắm được những tri thức về các chuẩn mực xã hội

- Tin về mặt lý luận cũng như về mặt thực tiễn đối với tính chân lý đúng đắn của các
chuẩn mực xã hội

- Mong muốn tuân theo những yêu cầu được phản ánh trong các chuẩn mực xã hội.

- Bước đầu có hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội

- Hài lòng về hành vi của mình khi đã hoàn thành phù hợp với các chuẩn mực xã hội

- Tỏ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi của người khác có mâu thuẫn
với những chuẩn mực xã hội.

Chính niềm tin đó cùng với những tri thức tương ứng thu lượm được sẽ tạo nên ở người
được giáo dục ý thức đúng đắn. Trong quá trình hình thành ý thức nói chung, niềm tin nói
riêng cho người được giáo dục đã làm nảy nở những xúc cảm, tình cảm tốt đẹp đối với các
chuẩn mực xã hội. Những xúc cảm, tình cảm tích cực đó như là những “chất men” kích thích
người được giáo dục chuyển hoá ý thức cá nhân thành hành vi thói quen tương ứng.

Kinh nghiệm thực tiễn giáo dục cho thấy:

- Nếu ý thức về các chuẩn mực xã hội của người được giáo dục bị hạn chế thì tình cảm
tương ứng cũng bị hạn chế, điều đó dẫn tới hành vi tương ứng mang tính chất hình thức, thậm
chí không hình thành hoặc rơi vào tình trạng sai lệch.

- Nếu người được giáo dục có nhận thức đúng về các chuẩn mực xã hội mà không có
tình cảm tương ứng thì hành vi tương ứng sẽ khô khan cứng nhắc và thậm chí không hình
thành hay sai lệch: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”

4
- Nếu người được giáo dục nắm các chuẩn mực xã hội một cách không tự giác sẽ dẫn
đến tình trạng nói và làm không đi đôi với nhau và kết quả giáo dục là hình thành bộ mặt nhân
cách giả tạo.

Đối với các trường phổ thông thì công tác giáo dục thái độ, niềm tin, tình cảm tích cực
cho học sinh đối với việc học tập, các mối quan hệ gia đình, bè bạn, xã hội, đối với tự nhiên và
môi trường xung quanh là điều có ý nghĩa rất quan trọng. Giáo dục xây dựng niềm tin cho các
em vào chân lí, lẽ phải, giáo dục tình cảm yêu mến, kính trọng thầy cô giáo, cha mẹ; thân ái
với bạn bè,… và đồng thời chú ý uốn nắn, điều chỉnh kịp thời những biểu hiện thái độ lệch lạc,
thiếu trong sáng làm ảnh hưởng tới hiệu quả quá trình giáo dục.

c. Tổ chức điều khiển người được giáo dục hình thành hành vi và thói quen hành vi phù
hợp với các chuẩn mực xã hội đã quy định

Nhân cách của mỗi ngưòi được thể hiện bằng hành vi và thói quen hành vi của họ chứ
không chỉ dừng ở sự hiểu biết của họ. Hành vi là biểu hiện cụ thể nhất của bộ mặt tâm lí, đạo
đức của con người.

Mục đích của quá trình giáo dục là hình thành ở người được giáo dục phẩm chất nhân
cách của người công dân, người lao động đáp ứng yêu cầu xã hội. Do đó, quá trình giáo dục
quan trọng nhất là phải tổ chức, điều khiển ngưòi được giáo dục tham gia vào những mối quan
hệ hoạt động và giao lưu để họ tự rèn luyện nhằm hình thành những hành vi phù hợp với các
chuẩn mực xã hội và lặp đi lặp lại những hành vi đó thành thói quen tương ứng. Bởi hành vi
văn hóa khi đã trở thành thói quen sẽ mang tính bền vững và tự động hóa trong cách ứng xử
của mọi tình huống cuộc sống hàng ngày của người được giáo dục.

Hành vi và thói quen hành vi của mỗi người được hình thành trong quá trình hoạt động
và được rèn luyện trong các tình huống cụ thể, đa dạng của cuộc sống. Giáo dục hành vi, thói
quen hành vi có văn hóa là kết quả của cả một quá trình học tập tu dưỡng và rèn luyện lâu dài
của người được giáo dục.

Chính vì vậy, quá trình giáo dục phải tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú dưới nhiều
hình thức khác nhau và ngày càng phức tạp đồng thời chú ý bồi dưỡng cho người được giáo dục ý
thức tự rèn luyện, năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên trên cơ sở đó các thói quen hành
vi đạo đức của người được giáo dục mới được hình thành.

Lưu ý: những hành vi hình thành ở người được giáo dục phải thoả mãn các tiêu chí sau
đây:

•Hành vi đó có phù hợp với các chuẩn mực xã hội quy định hay không?

•Hành vi đó có được thể hiện ở mọi nơi mọi lúc hay không?

•Hành vi có được duy trì bền vững theo thời gian hay không?

•Hành vi đó có động cơ đúng hay sai? Có ý nghĩa xã hội và cá nhân như thế nào?

5
Tóm lại: Các khâu trên đây của quá trình giáo dục tác động đồng bộ tới nhận thức, tình
cảm, hành vi thói quen của người được giáo dục có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho
nhau thậm trí là thâm nhập vào nhau: nhận thức là cơ sở là điều kiện cần cho việc hình thành
tình cảm, hành vi tương ứng ở người được giáo dục; Niềm tin, tình cảm là động lực thúc đẩy
cá nhân hoạt động để biến nhận thức thành hành động; Việc thể nghiệm hành vi và rèn luyện
hành vi là yếu tố quyết định sự hình thành phát triển nhân cách của người được giáo dục.

Trong thực tiễn giáo dục, khi vận dụng các khâu của quá trình giáo dục đòi hỏi nhà giáo
dục không nhất thiết phải tuân theo trình tự các khâu nêu trên. Việc vận dụng các khâu sao cho
phù hợp với từng đối tượng, yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục và hoàn cảnh cụ thể nhằm phát huy
tính hiệu quả của quá trình giáo dục.

II. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC

1. Khái niệm nguyên tắc giáo dục

Quá trình giáo dục là quá trình vận động và phát triển có quy luật, là hoạt động có tính
khoa học và tính nghệ thuật cao. Hoạt động giáo dục muốn đạt kết quả mong muốn đòi hỏi nhà
giáo dục không chỉ nắm được các quy luật mà còn phải biết vận dụng những quy luật đó một
cách linh hoạt, sáng tạo.

Các quy luật của giáo dục được phản ánh trong những luận điểm cơ bản, mang tính chất
chỉ đạo toàn bộ tiến trình giáo dục, đó là nguyên tắc giáo dục.

Nguyên tắc giáo dục là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lý luận giáo dục,
có vai trò định hướng trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục, chỉ dẫn việc lựa chọn nội
dung, phương pháp và các hình thức tổ chức nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục và đạt
được mục đích giáo dục đề ra.

Trên bình diện lý thuyết, nguyên tắc giáo dục là những luận điểm được chọn lọc và khái
quát từ lí thuyết về bản chất con người, từ bản chất và quy luật của quá trình giáo dục và vai
trò chủ đạo của giáo dục trong sự hình thành và phát triển nhân cách.

Trên bình diện thực tế, nguyên tắc giáo dục được rút ra từ những kinh nghiệm giáo dục
tiên tiến, đã được chứng minh bằng thực tiễn lịch sử xã hội.

Nguyên tắc giáo dục là một hệ thống nhiều luận điểm, mỗi luận điểm chỉ dẫn một hay
nhiều mặt của hoạt động giáo dục. Nguyên tắc giáo dục trở thành cơ sở cho mọi hoạt động
giáo dục, giúp cho những người làm công tác giáo dục nói chung và giáo viên nói riêng vận
dụng, làm chỗ dựa để tiến hành các quá trình giáo dục đúng phương hướng và đạt hiệu quả.

Tuy nhiên, nguyên tắc giáo dục không phải là những “đơn thuốc”, những cẩm nang có
sẵn ứng với các hoạt động giáo dục thực tiễn. Nó chỉ cung cấp cho nhà giáo dục hệ thống
những cơ sở lí luận, làm chỗ dựa để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đa dạng và sinh động.

2. Hệ thống nguyên tắc giáo dục

6
2.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích trong các hoạt động giáo dục

Tính mục đích của hoạt động giáo dục giúp cho các nhà giáo dục có phương hướng suy
nghĩ và hành động đúng đắn. Nó nâng cao tính tư tưởng chỉ đạo trong hoạt động giáo dục,
tránh được những hoạt động giáo dục tự phát, tùy tiện, vô tổ chức hay lệch chiều, chệch
hướng.

Giáo dục là hoạt động có mục đích, do đó nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức quá
trình giáo dục đều phải căn cứ vào mục đích và phải đạt được mục đích giáo dục.

Bất kỳ một hoạt động GD nào trong và ngoài nhà trường đều có mục đích là giáo dục
thế hệ trẻ trở thành người công dân, những người lao động giàu lòng nhân ái, năng động, sáng
tạo, biết sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có tiềm năng, thích ứng được với cuộc
sống đang đổi mới toàn diện, sâu sắc hiện nay.

Để thực hiện nguyên tắc này trong quá trình giáo dục cần:

- Giáo dục cho thế hệ trẻ thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, niềm tin, lý tưởng xây
dựng nước ta trở thành nước giầu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, hạnh phúc theo định
hướng XHCN có lối sống và nếp sống văn hoá.

- Giáo dục cho người được giáo dục ý thức và năng lực giải quyết được những mối quan
hệ giữa những giá trị truyền thống (sống trung thực, tình nghĩa, đoàn kết, tương trợ, cần cù, tiết
kiệm, anh dũng, kiên cường, hiếu học…) và những giá trị hiện đại (bảo vệ môi trường, vấn đề
dân số, nhân quyền, tôn trọng sự đa dạng sinh học, đa dạng văn hoá, hữu nghị, hợp tác, tính
hiệu quả trong công việc…), những giá trị dân tộc và những giá trị nhân loại (chân, thiện, mỹ,
hoà bình, tự do, công lí, niềm tin…).

- Tổ chức cho họ thực sự tham gia vào các hoạt động xã hội một cách thích hợp.

- Giúp cho họ có khả năng “miễn dịch” với những tác động tiêu cực đi ngược lại với
những chuẩn mực xã hội đã qui định.

2.2. Nguyên tắc giáo dục gắn với đời sống xã hội với lao động

Quá trình giáo dục góp phần đào tạo người công dân, người lao động hoà nhập vào cuộc
sống xã hội với hoạt động lao động. Chính bản thân cuộc sống và hoạt động lao động lại là
môi trường, phương tiện góp phần tích cực vào sự hình thành phát triển nhân cách con người.

Thông qua các hoạt động hàng ngày của cuộc sống thực, hoạt động lao động vừa sức
làm cho con người khỏe mạnh về thể chất, thoải mái về tinh thần, thông minh, sáng tạo hơn.
Đặc biệt, lao động giúp cho con người nhận ra những giá trị cuộc sống, biết yêu thương, quý
trọng lẫn nhau và quý trọng thành quả lao động. Lao động hình thành cho thế hệ trẻ thái độ
đúng đắn đối với người lao động, đối với những sản phẩm lao động, có ý thức hợp tác, tương
trợ, giúp đỡ lẫn nhau để đạt được kết quả cao nhất. Lao động sáng tạo ra của cải vật chất và
tinh thần, giúp cải tạo thói hư tật xấu….

7
Vì vậy, giáo dục gắn với đời sống xã hội và lao động chính là làm cho thực tiễn cuộc
sống trở nên là môi trường, phương tiện thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của quá trình giáo
dục.

Để thực hiện nguyên tắc này, quá trình giáo dục cần phải:

- Tổ chức cho người được giáo dục có những hiểu biết về cuộc sống nói chung, hoạt
động lao động sáng tạo nói riêng của đất nước đang trong quá trình đổi mới, từ đó giáo dục
cho họ ý thức được vai trò làm chủ đất nước của mình, những nghĩa vụ, trách nhiệm mà họ
phải hoàn thành đối với bản thân, gia đình và cộng đồng.

- Tổ chức thường xuyên những hoạt động sinh hoạt tập thể, hoạt động lao động hữu ích
cho người được giáo dục tham gia một cách vừa sức vào sự nghiệp xây dựng đất nước, xây
dựng trật tự, kỷ cương xã hội trong cộng đồng dân cư …qua đó hình thành ở họ ý thức và
phẩm chất cần thiết của người công dân, người lao động trong tương lai.

- Tránh tách dời quá trình giáo dục khỏi cuộc sống thực tiễn, khỏi sự nghiệp lao động.
Vì như vậy dẫn đến hậu quả những người được GD sẽ trở nên không hoà nhập vào cuộc sống
lao động, xây dựng đất nước giầu mạnh, công bằng, văn minh.

- Khuyến khích người được giáo dục tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo tự rèn luyện
tính trong các hoạt động lao động, hoạt động sinh hoạt tập thể ở gia đình, nhà trường và cộng
đồng xã hội. Tổ chức tốt các hoạt động sinh hoạt của đời sống cá nhân người được giáo dục.

2.3. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục ý thức và tạo lập thói quen
hành vi của người được giáo dục

Mục đích của quá trình giáo dục là hình thành phẩm chất nhân cách, những thói quen
hành vi, nếp sống, tình cảm tích cực cho người được giáo dục. Chính trong quá trình giáo dục
đòi hỏi người được giáo dục phải trải qua các thời kì nhận thức, thể nghiệm, luyện tập, rèn
luyện để biến các yêu cầu chuẩn mực xã hội thành hành vi, thói quen hành vi tương ứng ở họ.
Vì vậy, quá trình giáo dục chỉ đạt được hiệu quả khi các tác động giáo dục phải tác động đồng
bộ toàn diện nhân cách bao gồm cả nhận thức, xúc cảm, tình cảm và hành vi, ý chí của người
được giáo dục.

Trong quá trình giáo dục: tác động tới nhận thức của người được giáo dục là quá trình
giúp người được giáo dục nắm vững các quy tắc, chuẩn mực xã hội, hiểu rõ các giá trị, ý nghĩa
của các hành vi văn hóa. Nhận thức là cơ sở để hình thành niềm tin, tình cảm tích cực và
những hành vi, thói quen hành vi văn hóa phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Hành vi, thói
quen hành vi của người được giáo dục là kết quả của ý thức cá nhân, đồng thời là cơ sở để
khẳng định trình độ nhận thức và thái độ người được giáo dục về các chuẩn mực xã hội.

Hành vi, thói quen hành vi là biểu hiện lối sống, phương thức sống của cá nhân trong
cuộc sống hàng ngày, là biểu hiện nhân cách của họ. Hành vi, thói quen hành vi của mỗi người
cũng chính là biểu hiện trình độ giáo dục của người đó. Do vậy, sự thống nhất giữa giáo dục ý

8
thức và hành vi, thói quen hành vi cho người được giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là nguyên tắc
chỉ đạo các hoạt động giáo dục.

Khi thực hiện nguyên tắc này, trong quá trình giáo dục cần lưu ý:

- Chống tình trạng lời nói không đi đôi với việc làm trong cuộc sống, lao động và học
tập hàng ngày.

- Nhà giáo dục luôn phải là những tấm gương sáng về mọi mặt cho đối

tượng giáo dục noi theo.

- Cần tổ chức các hình thức hoạt động đa dạng, hấp dẫn, tạo điều kiện cho các đối tượng
giáo dục luyện tập, trải nghiệm nhằm phát triển năng lực trí tuệ, tạo lập thói quen hành vi văn
hóa, phẩm chất đạo đức của người công dân, người lao động hiện đại.

- Bên cạnh đó, quá trình giáo dục cần uốn nắn, điều chỉnh kịp thời những nhận thức,
thái độ, hành vi thói quen không phù hợp với các chuẩn mực xã hội và khuyến khích người
được giáo dục tự rèn luyện trong cuộc sống hàng ngày để khẳng định bản thân.

2.4. Nguyên tắc giáo dục trong tập thể và bằng tập thể

Tập thể là một nhóm người, một cộng đồng người được liên kết với nhau bằng những
hoạt động chung có tính tổ chức để thực hiện mục đích chung chân chính. Nhờ vậy mà lợi ích
chung của tập thể và lợi ích riêng của từng cá nhân trong tập thể thống nhất với nhau và thống
nhất với mục đích của xã hội.

Tập thể học sinh trong nhà trường là nơi học sinh học tập, giao lưu với thầy cô, bạn bè
với những hoạt động chung có tổ chức, có chương trình, kế hoạch chặt chẽ theo chương trình
giáo dục quy định, có bộ máy tự quản, có nội quy, kỷ luật chặt chẽ và được mọi người tôn
trọng tự giác chấp hành; có dư luận, truyền thống tập thể…

Với ý nghĩa như vậy, tập thể nói chung, tập thể học sinh nói riêng được coi như là môi
trường, phương tiện để giáo dục con người. Vì thông qua tập thể và bằng tập thể nhân cách
mỗi người tác động qua lại với nhau. Tập thể chính là phương tiện giáo dục từng thành viên
trong tập thể đó thông qua: các hoạt động chung, nội qui, kỉ luật tập thể dư luận tập thể, truyền
thống tập thể…)

Để thực hiện nguyên tắc này trong quá trình giáo dục cần:

- Nhà giáo dục luôn chú ý xây dựng tập thể học sinh trở thành một tập thể vững mạnh.
Một tập thể học sinh vững mạnh là tập thể phải đảm bảo các yếu tố sau đây:

+ Mục đích của cá nhân, tập thể thống nhất với mục đích của xã hội.Cụ thể: cần coi
trọng đúng mức lợi ích cá nhân trong sự thống nhất với lợi ích chung của tập thể, lợi ích cá
nhân chân chính là động lực phát triển trực tiếp đối với sự phát triển cá nhân. Tuyệt đối tránh
các tình trạng cực đoan hoá lợi ích cá nhân hoặc lợi ích chung của tập thể, tạo ra sự đối lập
giữa chúng.

9
+ Có chương trình các hoạt động chung được tổ chức khoa học, đa dạng, phong phú thu
hút được mọi người tham gia với sự tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của những người
được giáo dục.

+ Có hệ thống nguyên tắc hoạt động chung được mọi thành viên ý thức đầy đủ và tự
giác thực hiện (xây dựng nội quy, kỷ luật cụ thể, chặt chẽ, bao hàm các mặt hoạt động)

+ Có bộ máy cán bộ tự quản (cán bộ lớp, đoàn) có năng lực, uy tín, nhiệt tình và bản
lĩnh được mọi người yêu quý.

+ Tạo được dư luận tập thể lành mạnh: hoan nghênh và ủng hộ những nhận thức, thái
độ, hành vi tích cực và lên án phê phán những biểu hiện nhận thức, thái độ, hành vi sai trái làm
hại tới lợi ích chung đi ngược với những chuẩn mực xã hội đã qui định.

+ Phát huy được tinh thần tự quản của học sinh trên cơ sở sự định hướng của

nhà giáo dục, tạo cơ hội và điều kiện cho các thành viên tự rèn luyện, tự kiểm tra, đánh giá kết
quả hoạt động rèn luyện của cá nhân, nhóm, tập thể.

- Lôi cuốn mọi người được giáo dục vào tập thể, tổ chức, kích thích họ liên kết với
nhau, cùng tham gia vào công việc chung một cách cách tự giác với ý thức làm chủ.

- Nhà giáo dục luôn ý thức vai trò chủ đạo của mình trong mọi khâu, mọi hoạt động,
một mặt của công tác giáo dục học sinh.

- Nhà giáo dục lưu ý bên cạnh những tác động chung cần có những tác động riêng phù
hợp với từng đối tượng giáo dục trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.

2.5. Nguyên tắc tôn trọng và yêu cầu hợp lý đối với người được giáo dục

Mỗi con người là một chủ thể hoạt động có ý thức. Mọi tác động từ bên ngoài đều thông
qua chủ thể hoạt động. Mặt khác, mọi sự nỗ lực của con người là để khẳng định bản thân. Do
vậy, con người luôn có niềm tin vào bản thân, có lòng tự trọng, và có nhu cầu được người khác
tôn trọng. Vì vậy, muốn giáo dục con người thì trước hết phải tôn trọng nhân cách con người.
Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục cần phải tôn trọng nhân cách người được giáo dục, coi
họ như một chủ thể tự giáo dục một cách tích cực, độc lập, tin tưởng và lạc quan đối với họ.
Có như vậy mới nâng cao được lòng tự trọng, lòng tự tin vào nghị lực của họ, khích lệ tinh
thần cầu tiến, ý thức vươn lên không ngừng của họ.

VD: Tôn trọng nhân cách là tôn trọng nhân phẩm, tự do tư tưởng, tự do thể hiện nhu
cầu, nguyện vọng và thói quen sống của mỗi cá nhân, không ai có quyền xúc phạm đến thân
thể, phẩm giá, danh dự của con người.

Tôn trọng nhân cách con người cũng đồng nghĩa với tin tưởng con người, thể hiện sự
mong muốn, tin tưởng, khuyến khích của các nhà giáo dục đối với người được giáo dục. Tuyệt
đối không thành kiến với học sinh, ngay cả đối với những học sinh mắc phải những lỗi lầm lớn.

10
Vì nếu có ác cảm, định kiến với học sinh thì sẽ làm cho các em mất tự tin mặc cảm và xa lánh
nhà giáo dục, bạn bè và tập thể nên càng mất có hội được giáo dục.

Song vấn đề cần nhấn mạnh là: càng tôn trọng nhân cách người được GD bao nhiêu thì
càng phải đưa ra những yêu cầu hợp lí đối với họ bấy nhiêu. Đặt ra những yêu cầu hợp lý là
vừa sức, khả thi đối với họ cũng chính là thể hiện niềm tin đối với họ, tạo môi trường hoạt
động để người được giáo dục nỗ lực thực hiện, rèn luyện trên cơ đó phát triển nhân cách.

Những yêu cầu hợp lý đối với người được giáo dục phải đảm bảo: yêu cầu phải đáp ứng
đòi hỏi của mục đích giáo dục; Vừa sức, khả thi đối với người được giáo dục; Có tác dụng kích
thích người được giáo dục tự giác tích cực, chủ động thực hiện; Có khả năng mang lại hiệu quả
mong muốn.

Quá trình giáo dục thực hiện nguyên tắc này cần lưu ý:

- Nhà giáo dục phải có lòng thương yêu học sinh.

- Nhà giáo dục phải tôn trọng phẩm giá, danh dự, thân thể của học sinh,

- Khuyến khích lòng tự trọng ở các em.

- Đề ra các yêu cầu ngày càng cao đối với người được giáo dục

- Luôn luôn tỏ ra nghiêm khắc nhưng chân thành, tin tưởng, thiện trí.

- Kịp thời phát huy ưu điểm của người được giáo dục, trên cơ sở đó kích thích và giúp
đỡ họ khác phục những sai sót trong rèn luyện

- Tránh tình trạng thô bạo, thiếu tin tưởng, định kiến…đối với người được giáo dục,
đồng thời cũng tránh tình trạng nuông chiều dễ dãi đối với họ.

VD: Một số hiện tượng có biểu hiện thiếu tôn trọng học sinh như: nói năng thô bạo, coi
thường nhân phẩm, dọa nạt, sỉ nhục, đánh đập,…; những định kiến, đố kị, bi quan, thiếu tin
tưởng vào khả năng phát triển và hoàn thiện nhân cách của trẻ; những hiện tượng nuông chiều,
buông thả dẫn đến học sinh tự do vô kỉ luật…Cần được khắc phục trong công tác giáo dục

2.6. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò tổ chức sư phạm của nhà giáo dục và
vai trò tự giác, tích cực, độc lập sáng tạo tự giáo dục của người được giáo dục

Trong quá trình giáo dục, dưới tác động chủ đạo của nhà giáo dục sẽ giúp cho tính chủ
động, độc lập sáng tạo của người được giáo dục được hình thành và phát triển. Và ngược lại:
khi tính chủ động, độc lập sáng tạo của người được giáo dục được hình thành và phát triển thì
sẽ tạo điều kiện cho nhà giáo dục phát huy tác dụng chủ đạo của mình ngày càng cao.

Trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo, tổ chức lãnh đạo quá trình
hình thành, phát triển những phẩm chất, hành vi, thói quen ở học sinh, thể hiện:

11
- Nâng cao ý thức trách nhiệm, vai trò lãnh đạo sư phạm của giáo viên trong việc theo
dõi, kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động của tập thể học sinh và của từng học
sinh.

- Thuyết phục học sinh biết định hướng và quyết tâm phấn đấu đạt những mục đích đã
đề ra.

- Lựa chọn các phương pháp, phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ giáo dục cho phù
hợp.

Khi thực hiện nguyên tắc này cần chú ý một số yêu cầu sau:

- Nhà GD phải có năng lực chung (Thiết kế, tổ chức, giao tiếp, nghiên cứu đối tượng) và
năng lực giáo dục chuyên biệt (Xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức
tổ chức các hoạt động giáo dục, kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục)

- Tuyệt đối không buông lỏng vai trò chủ đạo của nhà giáo dục.

- Phải biết ứng xử sư phạm khéo léo

- Người được giáo dục phải tự giác, tự vận động đi lên dưới tác dụng chủ đạo của nhà
giáo dục, tránh rơi vào tình trạng cực đoan coi thường tác dụng chủ đạo của nhà giáo dục hoặc
thụ động làm theo ý kiến của nhà giáo dục.

- Tôn trọng sáng kiến và sự độc lập của học sinh.

- Thu hút sự tham gia tích cực của học sinh vào các hoạt động chung, thường xuyên
theo dõi, động viên uốn nắn những sai lệch một cách kịp thời.

- Phát huy vai trò tự quản của tập thể học sinh, biến những yêu cầu giáo dục thành
những yêu cầu tự giáo dục của tập thể và của từng cá nhân.

- Lựa chọn các biện pháp và hình thức tổ chức giáo dục, giúp học sinh tự đánh giá kết
quả rèn luyện của bản thân, của tập thể, từ đó đề ra các mục tiêu phấn đấu mới.

2.7. Nguyên tắc bảo đảm tính hệ thống, kế tiếp, liên tục trong công tác giáo dục

Nguyên tắc này đòi hỏi: quá trình giáo dục phải được thực hiện các tác động giáo dục
theo một hệ thống đồng bộ thống nhất (từ mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp,
phương tiện, hình thức tổ chức, kiểm tra đánh giá, nhà giáo dục…), kế tiếp nhau và liên tục tác
động đến nhân cách người được giáo dục ở mọi nơi, mọi lúc trên cơ sở đó mục tiêu giáo dục
mới đạt được hiệu quả.

Bởi, trong quá trình giáo dục:

- Một phẩm chất nhân cách được hình thành là kết quả tổng hợp của nhiều tác động, của
nhiều nhân tố trong một thời gian dài liên tục.

12
- Quá trình giáo dục là một quá trình hình thành một hệ thống những phẩm chất nhân
cách của người được giáo dục chứ không phải những phẩm chất riêng lẻ.

- Quá trình giáo dục diễn ra theo hướng giai đoạn trước đặt nền móng cho giai đoạn sau,
những giai đoạn sau phải kế tiếp và phát triển những kết quả của giai đoạn trước

- Quá trình giáo dục phải được tổ chức sao cho những phẩm chất nhân cách người được
giáo dục hình thành và phát triển không bị giãn đoạn vì mỗi lần giãn đoạn là một lần chững lại,
hoặc thụt lùi sự phát triển nhân cách của họ.

Khi thực hiện nguyên tắc này, quá trình giáo dục cần lưu ý:

- Nội dung giáo dục, những tác động giáo dục, hoạt động giáo dục phải có tính hệ
thống, không tản mạn, rời rạc.

- Những kết quả giáo dục, kinh nghiệm giáo dục đã thu được cần được kế thừa có chọn
lọc, không coi thường hay phủ định.

- Giáo dục phải được tiếp tục trong mọi không gian, thời gian, không ngắt quãng, giãn
đoạn.

2.8. Nguyên tắc đảm bảo thống nhất giữa tính vừa sức chung và tính vừa sức riêng
của đối tượng giáo dục

Ở mỗi giai đoạn lứa tuổi, nhân cách con người đạt tới một trình độ phát triển nhất định,
thậm chí trong cùng một lứa tuổi sự phát triển nhân cách của mỗi người cũng khác nhau. Mỗi
người được giáo dục có những đặc điểm tâm sinh lý, kinh nghiệm, hoàn cảnh, điều kiện sống,
học tập, lao động khác nhau.

VD: Sự khác nhau ở những người được giáo dục về : Đặc điểm tâm sinh lí cá nhân (sức
khỏe, trình độ nhận thức, vốn kinh nghiệm, xúc cảm, tình cảm, lí trí, xu hướng, tính cách, nhu
cầu, động cơ…); những đặc điểm riêng của đời sống cá nhân (điều kiện kinh tế, văn hóa, giáo
dục, các mối quan hệ với gia đình, bạn bè, người thân…); đặc điểm điều kiện kinh tế, văn hóa,
xã hội, phong tục tập quán,…vùng miền nơi họ sinh sống…Do vậy trong quá trình giáo dục,
bên cạnh những tác động giáo dục đảm bảo tính vừa sức chung thì cần phải có những tác động
giáo dục riêng phù hợp với từng đối tượng trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể trên cơ sở
đó quá trình giáo dục mới mang lại hiệu quả.

Khi thực hiện nguyên tắc này nhà giáo dục cần lưu ý:

- Tìm hiểu, nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, đặc điểm giới tính; đặc điểm về
sức khỏe, trình độ được giáo dục, tính cách, nhu cầu, động cơ, điều kiện hoàn cảnh riêng của
từng đối tượng giáo dục.

- Trên cơ sở nắm vững đặc điểm đối tượng giáo dục nhà giáo dục xác định mục tiêu,
nhiệm vụ, lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục cho phù hợp, có hiệu
quả với nhóm đối tượng và từng đối tượng giáo dục cụ thể.

13
- Quá trình giáo dục cần đa dạng các hình thức tổ chức giáo dục nhằm thu hút được sự
tham gia tích cực của nhiều người được giáo dục và phát triển được tiềm năng đa dạng của các
em.

- Cần có thái độ tôn trọng, khuyến khích người được giáo dục tham gia vào quá trình
giáo dục; Tôn trọng sự đa dạng về tiềm năng, nhân cách của đối tượng giáo dục; Đảm bảo
quyền bình đẳng của những người được giáo dục tham gia vào các mối quan hệ ứng xử, các
hoạt động giáo dục…

2.9. Nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội

Nhà trường, gia đình, xã hội là môi trường giáo dục không thể thiếu trong sự phát triển
nhân cách. Sự thống nhất ba môi trường: gia đình, nhà trường và xã hội tạo nên môi trường
hoàn chỉnh với những tác động đồng bộ tới sự hình thành, phát triển nhân cách. Trong đó cần
nhấn mạnh vai trò của giáo dục nhà trường là môi trường giáo dục rất quan trọng giữ vai trò
chủ đạo.

Giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội đều có vai trò chung là góp
phần đào tạo thế hệ trẻ, song mỗi lực lượng lại có những sức mạnh giáo dục đặc thù, ở lực
lượng giáo dục này có mà ở lực lượng giáo dục khác lại không có. Phối hợp các lực lượng giáo
dục chính là khai thác được các sức mạnh giáo dục đặc thù ấy để tạo ra một sức mạnh giáo dục
tổng hợp nhằm tác động vào thế hệ trẻ.

Sự thống nhất các lực lượng giáo dục chính là nhằm xây dựng một môi trường giáo dục,
tạo điều kiện thuận lợi để giáo dục học sinh được liên tục, thường xuyên. Sự thống nhất các
lực lượng sẽ tạo ra được một sức mạnh tổng hợp tác động đến sự hình thành và phát triển nhân
cách học sinh. Ngược lại, giáo tục phân tán, không đồng bộ theo các khuynh hướng khác nhau
có thể phá vỡ sự toàn vẹn, thống nhất của giáo dục, dẫn đến hậu quả khó lường trước được nếu
như có hiện tượng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Trong sự thống nhất, phối hợp giữa các lực lượng giáo dục. Giáo dục nhà trường là cơ
quan chuyên trách đảm nhiệm chức năng giáo dục thế hệ trẻ mà xã hội trao cho. Do đó quá
trình giáo dục của nhà trường giữ vai trò chủ đạo: vai trò chủ động thiết kế, tổ chức các hoạt
động phối hợp với giáo dục gia đình và xã hội:

Để thực hiện nguyên tắc này, giáo dục nhà trường cần chú ý:

- Nhà giáo dục cần hiểu rõ đặc điểm giáo dục của từng lực lượng giáo dục ảnh hưởng
tới sự phát triển nhân cách người được giáo dục.

- Thống nhất giữa nhà trường với gia đình và xã hội về mục đích, mục tiêu, nội dung,
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục và cách thức liên kết giáo dục.

- Liên kết, phối hợp tổ chức các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường để giáo
dục học sinh ở mọi lúc, mọi nơi theo những mục tiêu đã từng đặt ra.

14
- Tạo nên mối liên hệ thường xuyên giữa nhà trường và gia đình, giữa cha mẹ học sinh
và thầy cô giáo.

- Khai thác có chọn lọc những tác động tích cực đồng thời góp phần điều chỉnh, ngăn
chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và cộng đồng, xã hội.

Tóm lại: Các nguyên tắc giáo dục là một hệ thống toàn diện, chúng không tồn tại tách
biệt mà có quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, bổ sung, hỗ trợ nhau. Trong quá trình tổ
chức các hoạt động giáo dục, với vai trò chủ đạo của mình, nhà giáo dục cần quán triệt vận
dụng phối hợp các nguyên tắc giáo dục một cách linh hoạt, sáng tạo nhằm thực hiện tốt mục
tiêu, nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích giáo dục đặt ra.

III . NỘI DUNG GIÁO DỤC


1. Khái niệm nội dung giáo dục
Giáo dục la quá trình trình tổ chức các hoạt động đa dạng nhằm hình thành
nhân cách cho người học nhằm đáp ứng yêu cầu của mục tiêu xã hội đặt ra. Đê thực hiện mục
tiêu giáo dục – đào tạo, nhà giáo dục tổ chức , hướng dẫn người học các nội dung giáo dục cần
chiếm lĩnh. Nội dung giáo dục được tiếp cận dưới nhiều quan điểm:

Xét mặt lý luận, tiếp cận theo quan điểm hệ thống, quá trình giáo dục là một hệ thống
có tính toàn vẹn, gồm các thành tố khác nhau và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nội
dung giáo dục là một trong những thành tố đó. Nội dung giáo dục là sự cụ thể hóa của mục đích
giáo dục, chịu sư chi phối của mục đích giáo dục. Đồng thời, nội dung giáo dục là cơ sở để xác
định các phương pháp giáo dục. Như vậy, nội dung giáo dục là toàn bộ hệ thống kinh nghiệm lịch
sử xã hội của loài người được các nhà sư phạm lựa chọn, chế biến để tổ chức cho đối tượng giáo
dục chiếm lĩnh ở trên ba phương diện: nhận thức – thái độ, tình cảm – hành vi, thói quen nhằm
thực hiện các mục tiêu giáo dục đặt ra.

Xét về mặt thực tiễn, nội dung giáo dục là toàn bộ các hoạt động giáo dục trong nhà
trường bởi vì không có nội dung giáo dục thì không có hoạt động giáo dục.

2. Nguyên tắc xây dựng nội dung giáo dục


2.1. Đảm bảo phù hợp với mục tiêu giáo dục
Mục đích giáo dục nói chung, mục tiêu GD nói riêng có tác dụng định hướng cho
việc xây dựng nội dung GD nói chung, nội dung các loại hình trường, bậc học, nghành học,
cấp học, các hoạt động GD nói riêng.
2.2. Đảm bảo tính liên tục, hệ thống
- Nội dung GD phải có tính liên tục: từ bậc học dưới lên bậc học trên, từ cấp học dưới
lên cấp học trên không bị ngắt quãng đảm bảo hành vi người được GD mới được củng cố và
phát triển không ngừng.
- Nội dung GD phải có tính hệ thống: những điều GD trước làm cơ sở, tiền đề cho
những điều GD sau, những điều GD sau lại củng cố, phát triển điều GD trước. Nội dung GD
được xây dựng từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó để tạo điều kiện người
được GD nắm được dễ dàng và thực hiện được hệ thống các CMXH.

15
2.3. Đảm bảo mối quan hệ giữa những giá trị truyền thống và những giá trị hiện
đại
- Nội dung GD được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ giữa những giá trị truyền thống
và những giá trị hiện đại cụ thể:
+ Sàng lọc giữ lại vốn giá trị truyền thống vẫn còn giá trị, ý nghĩa (lòng nhân ái,
tinh thần càn cù lao động sáng tạo, hiếu học…) đồng thời hiện đại hoá chúng. Loại
bỏ những giá trị truyền thống đến nay không còn phù hợp, không còn có ý nghĩa (Gia đình
đông con là nhà có phúc, nhất nam viết hữu thập nữ viết vô, phụ nữ…).
+ Bổ xung những giá trị hiện đại mới được nảy sinh trong hoàn cảnh đất nước đổi
mới, hoà nhập với cuộc sống chung của nhân loài (gia đình ít con, làm giầu chính đáng, làm
ban với mọi dân tộc, mọi quốc gia…)
- Nội dung GD phải đảm bảo được mối quan hệ giữa những giả trị dân tộc và những
giá trị nhân loại :
+ Duy trì và phát triển những giá trị mang bản sắc dân tộc (cách chào hỏi, ăn
mặc, mối quan hệ các thành viên trong gia đình, quan hệ thầy trò…)
+ Bổ xung những giá trị của nhân loại nhằm làm phong phú thêm những giá trị dân
tộc (hoà bình, bảo vệ môi trường, bảo vệ các di sản văn hoá dân tộc, nhân quyền…)
+ Tuyệt đối tránh 2 tình trạng: Dân tộc hẹp hòi (phủ định những giá trị nhân loại),
hoặc làm mất bản sắc dân tộc chạy theo những giá trị nhân loại một cách vô nguyên tắc .
2.4. Nội dung giáo dục đảm bảo phải tính đến đặc điểm tâm lý và trình độ nhận
thức của người được giáo dục
Mỗi người được GD có những đặc điểm ở mỗi lứa tuổi khác nhau (Tâm sinh lý,
trình độ, vốn kinh nghiệm...). Vì vậy quá trình GD phải đảm bảo tính vừa sức
VD: - Học sinh tiểu học: Nội dung GD dừng ở đưa ra những chuẩn mực hành vi.
- Học sinh THCS: Đề cập tới phẩm chất đạo đức, nghĩa vụ đạo đức.
- Học sinh THPT: Đưa những vấn đề thuộc phạm trù đạo đức .
- Sinh viên: Đưa những vấn đề thuộc đạo đức học .
2.5. Nội dung giáo dục đảm bảo tính đồng tâm
Có những chuẩn mực được lặp đi lặp lại nhiều lần từ lớp dưới lên lớp trên, bậc
học dưới lên bậc học trên song ngày càng được mở rộng, đào sâu, khái quát hoá ngày càng
cao. Trên cơ sở đó người được GD mới nâng cao hiểu biết về các CMXH, định hướng cho
hành vi ngày càng tự giác, tránh được tình trạng hành vi mang tính hình thức, thiếu ý thức.

III. NỘI DUNG GIÁO DỤC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG

1. Giáo dục đạo đức và ý thức công dân

a. Giáo dục đạo đức

- Khái niệm

+ Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác
trong các mối quan hệ của con người với con người.

16
+ Giáo dục đạo đức là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống và
có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục để bồi dưỡng cho họ những phẩm chất
đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã hội.

- Nhiệm vụ của giáo dục đạo đức


+ Giáo dục đạo đức, ý thức công dân giúp học sinh hình thành thế giới quan, nhân sinh
quan khoa học, nắm được những quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội, có ý thức thực hiện
nghĩa vụ của người công dân, từng bước trang bị cho học sinh định hướng chính trị kiên định,
rõ ràng.

+ Giúp học sinh hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong đường lối chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, có ý thức học tập, làm việc tuân thủ theo hiến pháp và pháp
luật.

+ Bồi dưỡng cho học sinh năng lực phán đoán, đánh giá đạo đức, hình thành niềm tin
đạo đức, yêu cầu học sinh phải thấm nhuần các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức do xã hội
quy định, biết tiếp thu văn minh nhân loại kết hợp với đạo đức truyền thống và văn hóa của
dân tộc.

- Nội dung giáo dục đạo đức


+ Giáo dục chủ nghĩa yêu nước

+ Giáo dục lí tưởng sống tốt đẹp mang lại hạnh phúc cho bản thân và cho cộng đồng xã
hội.

+ Giáo dục ý thức đạo đức trong các mối quan hệ xã hội theo những chuẩn mực xã hội
đặt ra: yêu thương, tôn trọng, khoan dung, đoàn kết, hợp tác, sáng tạo, bảo vệ lẽ phải, hướng
tới những điều “chân, thiện, mĩ”.

+ Giáo dục hành vi văn minh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Các con đường giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường
* Thông qua giảng dạy, học tập các môn khoa học tự nhiên, xã hội và nhân văn giúp
học sinh hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và các phẩm chất nhân cách.

+ Qua giảng dạy các môn Văn học, Lịch sử, Địa lí…giúp học sinh biết được cội nguồn
của đất nước, lịch sử phát triển của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử. Từ đó hình thành tình yêu
quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc, sẵn sàng lao động để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Qua giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân giúp học sinh hình thành các khái niệm
chính trị, đạo đức, pháp luật, tạo lập thói quen tư duy và hành động theo hiến pháp và pháp
luật.

* Thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục và sinh hoạt tập thể đa dạng, phong phú:

+ Hoạt động lao động – sản xuất, thể dục, thể thao, văn hóa, văn nghệ, học tập, tham
quan…Qua các hoạt động này học sinh được trải nghiệm về các chuẩn mực đạo đức.

17
+ Tổ chức các sinh hoạt tập thể, giao lưu, phong trào thi đua, phong trào rèn luyện đạo
đức, lối sống văn minh trong lớp, trong trường.

+ Tổ chức các hoạt động chính trị, xã hội để nâng cao tư tưởng chính trị cho học sinh
như tham dự các ngày lễ kỉ niệm lịch sử của đất nước, các lễ hội dân tộc ở địa phương, hoạt
động đền ơn đáp nghĩa….

+ Tổ chức và xây dựng các đoàn thể học sinh thật vững mạnh như: Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí minh, Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là các tổ chức chính trị của
tuổi trẻ, trường học lớn để giáo dục chính trị, đạo đức, văn hóa cho học sinh.

b. Giáo dục ý thức công dân

- Khái niệm:

+ Ý thức công dân là một phạm trù xã hội học, nó phản ánh trình độ nhận thức của công
dân về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Nhà nước.

+ Giáo dục ý thức công dân là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ
thống và có kế hoạch của nhà giáo dục tới người được giáo dục để bồi dưỡng cho họ nhận thức
về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân đối với nhà nước và có những hành vi thiết
thực để trở thành người công dân có ích cho đất nước.

- Nhiệm vụ của giáo dục ý thức công dân trong nhà trường
+ Giáo dục chính trị - tư tưởng cho học sinh: giáo dục cho học sinh lòng yêu nước, giáo
dục cho học sinh hiểu rõ chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, mục tiêu xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh; làm cho học sinh quan tâm đến các vấn đề chính trị, xã hội đang diễn
ra trong nước và thế giới; rèn luyện cho chọc sinh quan tâm đến những vấn đề chính trị, xã hội
đang diễn ra trong nước và trên thế giới; rèn luyện cho học sinh và thói quen và kĩ năng tham
gia các hoạt động xã hội, tham gia vào các phong trào chính trị, văn hóa được tổ chức ở địa
phương và nhà trường.

+ Giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi pháp luật: giúp cho học sinh hiểu biết về
nghĩa vụ nghĩa vụ và quyền lợi của công dân để biết sống và hành động theo pháp luật, có ý
thức đấu tranh với những biểu hiện vi phạm pháp luật, có ý thức tuyên truyền, giúp đỡ mọi
người xung quanh thực hiện đúng pháp luật.

- Nội dung giáo dục ý thức công dân trong nhà trường phổ thông
+ Đường lối phát triển của của Đảng và Nhà nước.

+ Lí tưởng cách mạng

+ Diễn biến chính trị trong và ngoài nước

+ Quyền và nghĩa vụ của trẻ em trong quan hệ với gia đình, nhà trường, xã hội như:
quyền được nuôi dưỡng, giáo dục; quyền được học tập, vui chơi, lao động…Nghĩa vụ học tập,
rèn luyện và phấn đấu trở thành người công dân có ích cho Đất nước; nghĩa vụ tuân theo các

18
quy định của pháp luật.

- Các con đường giáo dục ý thức công dân


+ Thông qua giảng dạy các bộ môn trong nhà trường

+ Thông qua tổ chức các hoạt động giáo dục đa dạng: tham quan, tuyên truyền, giao
lưu, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu……

2. Giáo dục thẩm mĩ

- Khái niệm:

Giáo dục thẩm mĩ là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống và có
kế hoạch của nhà giáo dục tới học sinh nhằm hình thành cho họ quan điểm thẩm mĩ và năng
lực cảm thụ, thưởng thức, sáng tạo cái đẹp đúng đắn cho học sinh.

- Nhiệm vụ của giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường


+ Giúp học sinh hình thành quan điểm thẫm mĩ đúng đắn, nâng cao năng lực thẩm mĩ
như: cảm thụ, đánh giá và cao nhất là năng lực sáng tạo cái đẹp trong tự nhiên, trong cuộc sống
và trong nghệ thuật.

+ Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ phù hợp với các giá trị văn hóa
của dân tộc và văn minh của thời đại.

+ Làm cho học sinh luôn hướng tới cái đẹp và hành động theo cái đẹp, biểu hiện và
sáng tạo cái đẹp ở mọi nơi, mọi lúc trong cuộc sống hàng ngày từ giao tiếp cho đến tổ chức
cuộc sống để từ đó tu dưỡng đạo đức để tạo nên cái đẹp về nhân cách.

- Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho học sinh trong nhà trường
+ Giáo dục cái đẹp trong nghệ thuật: Giáo dục nghệ thuật chiếm vị trí chủ yếu trong nội
dung giáo dục thẩm mĩ. Nghệ thuật phản ánh cuộc sống dưới nhiều hình thức đa dạng như văn
học, âm nhạc, múa, điện ảnh, truyền hình… và được tập trung điển hình và mang tính tiêu biểu
hơn vì thế nó có sức truyền cảm và có tác dụng to lớn.

+ Giáo dục cái đẹp trong tự nhiên: Tự nhiên chính là nguồn tư liệu sống không bao giờ
cạn kiệt của giáo dục thẩm mĩ. Phong cảnh quê hương, đất nước; các danh lam thắng cảnh, môi
trường tự nhiên nơi học tập và sinh sống….đều có những vẻ đẹp khác nhau.

+ Giáo dục cái đẹp trong xã hội: Cái đẹp trong xã hội hết sức phong phú và đa dạng.
Cái đẹp thể hiện trong mỗi nhân cách con người, trong hành vi, thái độ mà con người ứng xử
với nhau trong cuộc sống….

- Các con đường giáo dục thẩm mĩ trong nhà trường


* Thông qua giảng dạy các bộ môn đặc biệt là các môn thuộc khoa học xã hội và nhân
văn. Các môn này giúp học sinh nhận thức những khái niệm cơ bản về văn hóa – thẩm mĩ,
nhận ra những giá trị đích thực của văn hóa, văn minh nhân loại và dân tộc.

19
* Thông qua giáo dục nghệ thuật: thông qua giảng dạy các bộ môn nghệ thuật như thơ
ca, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, truyền hình…và thông qua hoạt động văn hóa, văn nghệ như
hội thi sáng tác, biểu diễn các hình thức nghệ thuật: ca hát, nhảy, múa, vẽ tranh, chơi các dụng
cụ âm nhạc…

* Thông qua xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhà trường và xã hội:
Môi trường văn hóa là nơi con người giao tiếp, ứng xử với nhau dựa trên những giá trị tốt đẹp như
yêu thương, chia sẻ, đồng cảm, tôn trọng, hợp tác…và cùng hướng tới những điều tốt đẹp. Ở nhà
trường, cảnh quan và các mối quan hệ giao lưu được thể hiện từ trang phục, ngôn ngữ, ánh mắt,
nét mặt…đều là phương tiện quan trọng để giáo dục thẩm mĩ cho học sinh.

* Thông qua tiếp xúc với thiên nhiên và xã hội: Nhà giáo dục tổ chức cho học sinh đi tham
quan, du lịch đến các danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, công trình văn hóa… để bồi dưỡng
tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc.

3. Giáo dục lao động và hướng nghiệp

a. Giáo dục lao động

- Khái niệm

Lao động là phương thức tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Trong quá trình lao
động, các mối quan hệ xã hội giữa con người được hình thành qua đó thiết lập bộ mặt nhân
cách riêng cho mỗi người.

Giáo dục lao động là những tác động sư phạm một cách có mục đích, có hệ thống và có
kế hoạch của nhà giáo dục tới học sinh nhằm hình thành cho học sinh quan điểm đúng đắn về
lao động, hình thành thái độ tích cực đối với lao động, nhu cầu và thói quen đối với lao động.

- Nhiệm vụ của giáo dục lao động


+ Giáo dục cho học sinh thái độ đúng đắn đối với lao động; có tinh thần trách nhiệm cao
đối với công việc, nghề nghiệp; có thói quen lao động cần cù, bền bỉ, có ý thức tổ chức, kỉ luật,
lao động sáng tạo, cần cù, có kỉ luật, có trách nhiệm; có bổn phận và nghĩa vụ vì lợi ích của bản
thân, gia đình và xã hội.

+ Cung cấp cho học sinh học vấn kĩ thuật tổng hợp, tư duy kĩ thuật hiện đại đặc biệt là
khoa học công nghệ;

+ Cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản về ngành, nghề và thị trường lao động.
Chuẩn bị cho học sinh có những kĩ năng lao động kĩ thuật nghề nghiệp ở một lĩnh vực nghề
nghiệp nhất định của đát nước và địa phương.

+ Bồi dưỡng tình yêu thương, quý trọng, tôn trọng đối với người lao động, trân trọng
các thành quả lao động.

+ Hình thành thói quen lao động có văn hóa: làm việc có kế hoạch, khoa học, biết tiết
kiệm, biết cách lao động và nghỉ ngơi hợp lí….

20
- Nội dung giáo dục lao động
- Nội dung chương trình lao động cho học sinh trong nhà trường phổ thông thể hiện
trong chương trình môn Công nghệ được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Chương trình có
hai phần: phần bắt buộc (phần chung) và phần tự chọn (phần riêng). Phần chung nhằm trang bị
cho học sinh tri thức, kĩ năng cần thiết đối với hoạt động kĩ thuật. Phần riêng sẽ giúp học sinh
hiểu được kĩ thuật công nông nghiệp, nghề nghiệp đang phát triển ở địa phương nhờ đó học
sinh được định hướng nghề. Nội dung giáo dục lao động hiện nay trong nhà trường cần hướng
vào việc trang bị cho học sinh tri thức, kĩ thuật – công nghệ, nghề nghiệp, phát triển kĩ năng
lao động, chuẩn bị cho các em lựa chọn nghề và sẵn sàng tham gia lao động.

- Các loại hình lao động trong nhà trường phổ thông:

+ Lao động học tập: là dạng lao động cơ bản, chiếm thời gian nhiều nhất trong các hoạt
động của học sinh trong nhà trường mục đích chủ yếu là cung cấp cho học sinh hệ thống kiến
thức khoa học. Hoạt động học tập chỉ thực sự là một dạng lao động mang tính giáo dục đối với
học sinh khi có sự tham ga tích cực của trí tuệ và được tổ chức một cách khoa học và hợp lí.

+ Lao động sản xuất của học sinh trong nhà trường: là dạng lao động có ý nghĩa to lớn,
đó là sự tham gia trực tiếp của học sinh vào một lĩnh vực nghề nghiệp nào đó đem lại sản phẩm
cụ thể thông qua đó hình thành những phẩm chất quý báu của người lao động.

+ Lao động công ích xã hội: Lao động công ích của học sinh rất phong phú như tu sửa
trường lớp, sân chơi, thư viện, dọn dẹp đường phố, bảo vệ môi trường sinh thái…

+ Lao động tự phục vụ: Được học sinh tiến hành ở gia đình như :vệ sinh nhà cửa, sửa
chữa đồ dùng sinh hoạt, chăm sóc cây cối, vật nuôi… tiến hành ở nhà trường như : vệ sinh
trường lớp, sửa chữa đồ dùng học tập, chăm sóc vườn trường…

- Các con đường giáo dục lao động


* Thông qua dạy học các môn khoa học tự nhiên, xã hội – nhân văn, thủ công và công
nghệ. Các môn học này cung cấp kiến thức và phương thức lao động theo khoa học và hình thành
kĩ năng vận dụng khoa học vào đời sống.

* Tổ chức cho học sinh trực tiếp tham gia vào lao động với nhiều hình thức khác nhau
như lao động học tập, lao động công ích, lao động tự phục vụ….để học sinh được trải nghiệm
về ý nghĩa mà lao động mang lại cho bản thân và cho người khác.

* Thông qua tham quan các cơ sở sản xuất theo kế hoạch, phân bố nội dung của giáo dục
lao động theo trình tự giáo dục. Giáo dục lao động thông qua tham quan vừa giúp học sinh hình
thành tâm lí, ý thức, vừa học tập kĩ thuật để chuẩn bị bước vào cuộc sống.

b. Giáo dục hướng nghiệp

- Khái niệm

Giáo dục hướng nghiệp là những tác động của nhà giáo dục có tính định hướng nghề

21
nghiệp nhằm giúp học sinh lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở trường, nguyện
vọng của cá nhân và phù hợp với yêu cầu về nhân lực của thị trường lao động.

- Nhiệm vụ của giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông
+ Định hướng nghề nghiệp: Cung cấp thông tin về sự phát triển nghề nghiệp trong xã
hội nhấ là những nghề đang cần nhiều nguồn nhân lực. Những thông tin này bao gồm:

§ Thị trường lao động, nhu cầu nhân lực cho các lĩnh vực ngành nghề
§ Đặc điểm và yêu cầu của từng nghề về trình độ công nghệ, những yêu cầu về kiến
thức, kĩ năng, sức khỏe, tính cách của người lao động đối với nghề nghiệp.
§ Trình độ học lực, sở trường, hứng thú, nguyện vọng của từng học sinh
§ Hệ thống các trường dạy nghề
§ Công ty, nhà máy, xí nghiệp…
+ Tư vấn nghề nghiệp: Tư vấn nghề nghiệp là hoạt động giúp cá nhân, đặc biệt là thanh
thiếu niên trong quá trình định hướng, tìm chọn cũng như thay đổi nghề. Như vậy, tư vấn nghề
nghiệp là hình thức tác động hướng nghiệp thông qua sự góp ý và lời khuyên của những nhà
chuyên môn đối với việc lựa chọn nghề. Người làm công tác tư vấn (sự kết hợp của ba thành
viên: nhà tư vấn tâm lý giáo dục, nhà tư vấn y học, nhà tư vấn kinh tế lao động) tư vấn thông
qua quá trình tiếp xúc với học sinh, với cha mẹ học sinh, với các giáo viên bộ môn…nắm được
đặc điểm nhân cách của học sinh, hoặc qua khảo sát, điều tra đánh giá các môn văn hóa, môn
kĩ thuật và lao động sản xuất, nghiên cứu các sản phẩm hoặc kết quả hoạt động…người làm
công tác tư vấn đưa ra những lời khuyên phù hợp trong việc chọn nghề.

+ Tuyển chọn nghề: Người làm công tác tư vấn nghề nghiệp sử dụng một phác đồ
nghề nghiệp để giới thiệu cho học sinh, chỉ ra cho học sinh thấy được mức độ phù hợp hay
không phù hợp giữa nhận thức, khả năng của cá nhân với yêu cầu thực tế khách quan của
nghề để học sinh quyết định chọn nghề gì.

Ba nhiệm vụ công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông có mối quan hệ gắn bó hữu
cơ với nhau, nó được thể hiện bằng sơ đồ:

22
Hình: Sơ đồ tam giác hướng nghiệp và các hình thức hướng nghiệp
(K.K.Platonov)

- Các con đường giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường

+ Thông qua dạy học các môn khoa học cơ bản đặc biệt là môn kĩ thuật: Các môn
học này cung cấp học học sinh những kiến thức cơ bản và có hệ thống về khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội và tư duy. Giáo viên liên hệ bài giảng với các ngành nghề có liên
quan với các yêu cầu về thị trường lao động và những phẩm chất cần có phù hợp với công
việc lao động nghề nghiệp.

+ Thông qua tổ chức cho học sinh học các nghề phổ thông tại các trung tâm hướng
nghiệp dạy nghề như chăn nuôi, làm vườn…các nhà sửa chữa dân dụng, nghề truyền thống…

+ Tổ chức cho học sinh tham quan các nhà máy, xí nghiệp, các cơ quan văn hóa, xã hội,
các viện nghiên cứu khoa học; tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về nghề.

+ Thông qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa tìm hiểu về nghề, giao lưu với các chuyên
gia tư vấn tâm lí, tư vấn nghề để giải đáp các thắc mắc khi học sinh lựa chọn nghề và tuyên
truyền tới phụ huynh học sinh.

+ Tổ chức các trung tâm hướng nghiệp ở trường phổ thông.

4. Giáo dục thể chất

- Khái niệm

Giáo dục thể chất là sự tác động có mục đích, kế hoạch của nhà giáo dục đến đối tượng

23
giáo dục nhằm nâng cao sức khỏe, hình thành và phát triển các yếu tố tâm lí và thể chất của
học sinh.

- Nhiệm vụ của giáo dục thể chất trong nhà trường


+ Hình thành các loại hình vận động và các phẩm chất vận động cho học sinh. Tăng
cường thể chất, sức khỏe cho học sinh. Tổ chức cho học sinh rèn luyện thân thể, thúc đẩy cơ
thể học sinh phát triển bình thường, tăng cường thể chất và sức khỏe cho học sinh, phát triển
toàn diện năng lực hoạt động cơ bản của cơ thể cũng như nâng cao thể chất: tốc độ, độ nhạy
cảm, sức mạnh, độ dẻo dai…), nâng cao năng lực thích ứng với môi trường tự nhiên cho học
sinh.

+ Giúp học sinh dần dần nắm vững tri thức cơ bản và những kĩ năng, kĩ xảo của vận
động thể dục thể thao, tạo nên thói quen tự giác rèn luyện thân thể một cách khoa học.

+ Truyền thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho học sinh, hướng dẫn học sinh phòng ngừa
bệnh tật, bảo vệ và tăng cường sức khỏe tâm sinh lí.

+ Thông qua thể dục, tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức cho học sinh tạo nên phong
cách đạo đức tốt đẹp.

- Nội dung giáo dục thể chất trong nhà trường


+ Vận động thể dục thể thao: Đây là nội dung chủ yếu để phát triển sức khỏe cho học
sinh. Vận động thể dục thể thao bao gồm các bài thể dục buổi sáng, giữa giờ, các môn thể thao
như điều kinh, bóng đá, cầu lông, bơi lội….

+ Vệ sinh nhà trường: yêu cầu nhà trường cần xây dựng chế độ học tập, sinh hoạt hợp
lí. Thiết bị sinh hoạt trong nhà trường như bàn ghế, cửa sổ, cửa ra vào, hướng ánh sáng, độ
phản quang của bảng…đều đòi hỏi phải phù hợp với mức độ học tập và tình trạng phát triển cơ
thể của học sinh.

- Các con đường giáo dục thể chất trong nhà trường
+ Thông qua giảng dạy môn thể dục

+ Tổ chức rèn luyện thể dục buổi sáng, giữa giờ

+ Tổ chức các hội khỏe thi đấu các môn thể dục, thể thao trong trường và giữa các
trường trong khu vực.

+ Tổ chức tham quan, du lịch kết hợp thi đấu thể thao.

+ Tổ chức các câu lạc bộ ngoại khóa mời các chuyên gia huấn luyện….

5. Những nội dung giáo dục mới trong xã hội hiện đại

Xã hội hiện đại đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi mọi người đều có ý thức, quan tâm và
cùng hành động vì một thế giới tốt đẹp hơn. Hiện nay, những nội dung giáo dục mới cần được đưa
vào trong nhà trường phổ thông là:

24
- Giáo dục môi trường

- Giáo dục dân số

- Giáo dục giới tính

- Giáo dục phòng chống HIV

- Giáo dục giá trị

- Giáo dục kĩ năng sống

- Giáo dục quốc tế

25

You might also like