Professional Documents
Culture Documents
Chất độc
Chất độc
Chất độc
Colchicin
MedlinePlus a682711
Tên IUPAC[hiện]
Số đăng ký CAS 64-86-8
PubChem CID 6167
IUPHAR/BPS 2367
DrugBank DB01394
ChemSpider 5933
Định danh thành SML2Y3J35T
phần duy nhất
KEGG D00570
ChEBI CHEBI:27882
ChEMBL CHEMBL107
ECHA InfoCard 100.000.544
Dữ liệu hóa lý
SMILES[hiện]
Công dụng
Trong Y học, côn-si-xin là một dược phẩm. Các tác dụng phụ chủ yếu là khó
chịu đường tiêu hóa ở liều cao.[3] Ngoài gout, colchicine được sử dụng để
điều trị sốt Địa Trung Hải từ gia đình, viêm màng ngoài tim, bệnh behçet,
và rung nhĩ.
Trong nhân giống cây trồng nói riêng cũng như gây đột biến nhân tạo nói
chung, chất này được sử dụng rộng rãi, thường để tạo ra tế bào đa bội hoặc
thể đa bội.[4] Tuy dùng côn-si-xin sẽ gây tử vong ở hầu hết các tế bào động
vật bậc cao, nhưng ngược lại: ở bào thực vật, chất này không chỉ được dung
nạp tốt mà còn thường dẫn đến các cây đa bội có ý nghĩa kinh tế nổi trội
thường biểu hiện ở cây lớn hơn, phát triển nhanh hơn và nông sản thường
có chất lượng tốt hơn hản so với "bố mẹ" lưỡng bội bình thường. [5][6] Ứng
dụng thực tế đầu tiên của côn-si-xin có thể là thành tựu tạo ra loài nhân tạo
đầu tiên trên thế giới là cải bắp lai cải củ của Georgi Dmitrievich
Karpechenko.
Thali
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới điều hướngBước tới tìm kiếm
Tali, 81Tl
Phiên âm /ˈθæliəm/
THAL-ee-əm
Số nguyên tử (Z) 81
Áp suất hơi
P (Pa) 1 10 100 1 k 10 k 100 k
ở T (K) 882 977 1097 1252 1461 1758
Tính chất nguyên tử
Hệ số Poisson 0,45
203
Tl 29.524% 203
Tl ổn định với 122 neutron
204
Tl Tổng hợp 3,78 năm) β− 0.764 204
Pb
ε 0.347 Hg
204
205
Tl 70.476% 205
Tl ổn định với 124 neutron
Tali là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Tl và số
nguyên tử bằng 81.
Nó có màu xám của kim loại yếu, trông giống thiếc nhưng thay đổi màu khi tiếp xúc với
không khí. Tali rất độc và đã được dùng trong thuốc diệt chuột và côn trùng. Tuy nhiên
các thuốc này gây ung thư và đã bị đình chỉ hay hạn chế tại một số nước. Nó cũng
được dùng trong các máy dò hồng ngoại.
Mục lục
1Thuộc tính
2Ứng dụng
3Lịch sử
4Độ phổ biến
5Đồng vị
6Cảnh báo
7Tham khảo
8Liên kết ngoài
Arsenic và nhiều hợp chất của nó là những chất cực độc. Arsenic phá vỡ việc sản xuất ATP thông
qua vài cơ chế. Ở cấp độ của chu trình acid citric, arsenic ức chế pyruvat dehydrogenase và bằng
cách cạnh tranh với phốtphat nó tháo bỏ phosphorylat hóa oxy hóa, vì thế ức chế quá trình
khử NAD+ có liên quan tới năng lượng, hô hấp của ti thể và tổng hợp ATP. Sản sinh của peroxide
hiđrô cũng tăng lên, điều này có thể tạo thành các dạng oxy hoạt hóa và sức căng oxy hóa. Các can
thiệp trao đổi chất này dẫn tới cái chết từ hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan (xem ngộ độc
arsen) có lẽ từ cái chết tế bào do chết hoại, chứ không phải do chết tự nhiên của tế bào. Khám
nghiệm tử thi phát hiện màng nhầy màu đỏ gạch, do xuất huyết nghiêm trọng. Mặc dù arsenic gây
ngộ độc nhưng nó cũng có vai trò là một chất bảo vệ.[11].
Arsenic nguyên tố và các hợp chất của arsenic được phân loại là "độc" và "nguy hiểm cho môi
trường" tại Liên minh châu Âu theo chỉ dẫn 67/548/EEC.
IARC công nhận arsenic nguyên tố và các hợp chất của arsenic như là các chất gây ung thư nhóm
1, còn EU liệt kê arsenic trioxide, arsenic pentoxide và các muối arsenat như là các chất gây ung
thư loại 1.
Arsenic gây ra ngộ độc arsen do sự hiện diện của nó trong nước uống, "chất phổ biến nhất là
arsenat [HAsO42-; As(V)] và arsenit [H3AsO3; As(III)]". Khả năng của arsenic tham gia phản ứng oxy
hóa-khử để chuyển hóa giữa As (III) và As (V) làm cho khả năng nó có mặt trong môi trường là
hoàn toàn có thể. Theo Croal và ctv thì "việc hiểu về điều gì kích thích oxy hóa As (III) và/hoặc hạn
chế khử As (V) có liên quan tới xử lý sinh học các khu vực ô nhiễm. Nghiên cứu các tác nhân oxy
hóa As (III) tự dưỡng thạch hóa học và các tác nhân khử As (V) dị dưỡng có thể giúp hiểu về oxy
hóa và/hoặc khử arsenic.[12]
Phơi nhiễm nghề nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Phơi nhiễm arsenic ở mức cao hơn trung bình có thể diễn ra ở một số nghề nghiệp. Các ngành
công nghiệp sử dụng arsenic vô cơ và các hợp chất của nó bao gồm bảo quản gỗ, sản xuất thủy
tinh, các hợp kim phi sắt và sản xuất bán dẫn điện tử. Arsenic vô cơ cũng tìm thấy trong khói tỏa ra
từ các lò cốc gắn liền với công nghiệp nấu kim loại. [13]
Nhiễm bẩn arsenic trong nước ngầm đã dẫn tới đại dịch ngộ độc arsenic tại Bangladesh[14] và các
nước láng giềng. Người ta ước tính khoảng 57 triệu người đang sử dụng nước uống là nước
ngầm có hàm lượng arsenic cao hơn tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới là 10 phần tỷ. Arsenic
trong nước ngầm có nguồn gốc tự nhiên và nó được giải phóng ra từ trầm tích vào nước ngầm do
các điều kiện thiếu oxy của lớp đất gần bề mặt. Nước ngầm này bắt đầu được sử dụng sau khi
các tổ chức phi chính phủ (NGO) phương Tây hỗ trợ chương trình làm các giếng nước lớn để lấy
nước uống vào cuối thế kỷ XX. Chương trình này được đề ra nhằm ngăn ngừa việc uống nước từ
nước bề mặt bị nhiễm khuẩn, nhưng lại không chú trọng tới kiểm định arsenic trong nước ngầm.
Nhiều quốc gia và khu vực khác ở Đông Nam Á, như Việt Nam, Campuchia, Tây Tạng, Trung Quốc,
được coi là có các điều kiện địa chất tương tự giúp cho quá trình tạo nước ngầm giàu arsenic. Ngộ
độc arsen đã được báo cáo tại Nakhon Si Thammarat, Thái Lan năm 1987, và arsenic hòa tan
trong sông Chao Phraya bị nghi là chứa hàm lượng cao arsenic nguồn gốc tự nhiên, nhưng đã
không có vấn đề gì với sức khỏe công cộng do việc sử dụng nước đóng chai. [15]
Miền bắc Hoa Kỳ, bao gồm các phần thuộc Michigan, Wisconsin, Minnesota và Dakota cũng có hàm
lượng arsenic trong nước ngầm khá cao. Mức độ ung thư da cao hơn gắn liền với phơi nhiễm
arsenic tại Wisconsin, mặc dù ở mức thấp hơn tiêu chuẩn 10 phần tỷ của nước uống. [16]
Chứng cứ dịch tễ học từ Chile chỉ ra mối liên hệ phụ thuộc liều lượng giữa phơi nhiễm arsenic kinh
niên và các dạng ung thư khác nhau, cụ thể là khi các yếu tố rủi ro khác, như hút thuốc, cũng tồn
tại. Các hiệu ứng này được chứng minh là tồn tại dưới 50 phần tỷ.[17]
Nghiên cứu về tỷ lệ ung thư tại Đài Loan[18] gợi ý rằng sự gia tăng đáng kể trong tử suất do ung thư
dường như chỉ ở mức trên 150 phần tỷ.
Phân tích các nghiên cứu dịch tễ học nhiều nguồn về phơi nhiễm arsenic vô cơ gợi ý rằng rủi ro nhỏ
nhưng có thể đo được tăng lên đối với ung thư bàng quang ở mức 10 phần tỷ.[19] Theo Peter
Ravenscroft từ khoa Địa trường Đại học Cambridge [20] khoảng 80 triệu người trên khắp thế giới tiêu
thụ khoảng 10 tới 50 phần tỷ arsenic trong nước uống của họ. Nếu họ tiêu thụ chính xác 10 phần tỷ
arsenic trong nước uống của mình thì phân tích dịch tễ học đa nguồn trích dẫn trên đây phải dự báo
2.000 trường hợp bổ sung về ung thư bàng quang. Điều này thể hiện sự ước tính quá thấp rõ nét về
ảnh hưởng tổng thể, do nó không tính tới ung thư phổi và da. Những người chịu phơi nhiễm arsenic
ở mức cao hơn tiêu chuẩn hiện tại của WHO nên cân nhắc tới chi phí và lợi ích của các biện pháp
giải trừ arsenic.
Arsenic có thể được loại bỏ ra khỏi nước uống thông qua đồng ngưng kết các khoáng vật sắt bằng
oxy hóa và lọc nước. Khi cách xử lý này không đem lại kết quả mong muốn thì các biện pháp hút
bám để loại bỏ arsenic có thể cần phải sử dụng. Một vài hệ thống hút bám đã được chấp thuận cho
các điểm dịch vụ sử dụng trong nghiên cứu do Cục Bảo vệ Môi trường (EPA) và Quỹ Khoa học
Quốc gia (NSF) Hoa Kỳ tài trợ.
Việc tách arsenic ra bằng từ trường ở các gradient từ trường cực thấp đã được chứng minh ở các
máy lọc nước tại điểm sử dụng với diện tích bề mặt lớn và các tinh thể nano manhetit đồng nhất
kích thước (Fe3O4). Sử dụng diện tích bề mặt riêng lớn của các tinh thể nano Fe 3O4 thì khối lượng
chất thải gắn liền với loại bỏ arsenic từ nước đã giảm đáng kể.[21]