Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 35

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN

MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

HỌC KỲ:212 / NĂM HỌC 2021-2022

LỚP: L02 ...............................................................................................

NHÓM: 01 .............................................................................................

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Phan Duy Anh ................................

Thành phố Hồ Chí Minh-2022


1
Đề tài 4:

GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

LỚP L02—NHÓM 01—HK212

Sinh viên thực hiện MSSV Điểm số

Cao Cơ Hiệp (nt) 1913390

Lê Thị Vân Anh 1912575

Lê Minh Châu 1912764

Trương Nguyên Hoài 1913413

Võ Chí Hoàng 1913462

Thành phố Hồ Chí Minh-2022


2
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 3

PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................... 5

CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ....... 5

1.1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc .................................................................... 5

1.1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng ........................................................................................ 5

1.1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hằng đầu của cách
mạng Việt Nam ......................................................................................................... 6

1.2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc .............................................. 7

1.2.1. Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân ............................................... 7

1.2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân ............................................. 8

1.3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ............................... 11

1.3.1. Lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng các lợi ích
khác biệt chính Đảng .................................................................................... 11

1.3.2. Kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết dân tộc ........ 12

1.3.3. Phải có lòng khoan dung, độ lượng giữa người với người ................. 11

1.3.4. Niềm tin vào nhân dân ......................................................................... 12

1.4. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc – Mặt
trận dân tộc thống nhất ....................................................................................... 13

1.4.1. Hình thức ............................................................................................. 13

1.4.2. Nguyên tắc hoạt động, xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc
thống nhất ................................................................................................................ 13

1
1.4.2.1. Xây dựng trên nền tảng liên minh công nông- nông dân- tri
thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng .................................................. 17

1.4.2.2. Hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ ...................... 17

1.4.2.3. Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ..................................................................................... 18

CHƯƠNG II: GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ....................................................... 16

2.1. Giá trị về mặt lý luận .................................................................................... 16

2.1.1. Bổ sung và phát triển cho chủ nghĩa Mác – Lênin về lực lượng cách
mạng ..................................................................................................................... 16

2.1.2. Trở thành nền tảng tư tưởng của các đường lối cách mạng xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản.................................................... 20

2.2. Giá trị về mặt thực tiễn................................................................................. 25

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 31

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 32

Đ
n
g
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:
Từ thực tiễn cuộc sống cho thấy, lịch sử Cách Mạng Việt nam đã chứng minh sự
quan trọng, cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tôc. Theo Bác, đại
đoàn kết dân tộc không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị là chính lược lâu dài,
nhất quán của nước ta, mà nó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng nói
riêng và sự phát triển của đất nước nói riêng.
Lịch sử đã có các ví dụ rõ nét về tinh thần này như: Thành công của Cách mạng
tháng tám 1945 là một kết quả rực rỡ của tư tưởng đó. Sức mạnh dân tộc Việt Nam
được phát huy mạnh mẽ và triệt để trên cơ sở tư tưởng độc lập, tự do, chiến dịch đại
đoàn kết được tập hợp trong mặt trận Việt Minh do chính người sáng lập và lãnh đạo.
Vì thế, không chỉ có sĩ nông công binh mà cả vua quan triều Nguyễn cũng ngả theo
cách mạng. Còn những người có tâm huyết với nước với dân thì được thu phục và tận
tụy đến cùng với cách mạng. Kết quả là chỉ với hơn 5000 đảng viên và hơn 20 triệu
đồng bào kết nối thành một khối, dân tộc ta đã làm một cuộc cách mạng long trời, lở
đất, lật đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi thực dân Pháp, Mỹ,…
Trong cùng thời gian đó, phong trào “diệt giặc đói, diệt giăc dốt” được Bác phát
động. Chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp được hang vạn tấn gạo
cứu đói. Phong trào tăng gia sản xuất được đẩy mạnh, diện tích trồng lúa và hoa màu
tăng lên, nạn đói đã sớm được khắc phục và cũng chỉ 1 năm sau Cách Mạng tháng Tám,
đã có hang triệu người biết đọc, biết viết.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với khát vọng cháy bỏng: “ Không gì
quý hơn độc lập, tự do”, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã
được vận dụng một cách sáng tạo, phát huy tới đỉnh cao với nhiều hình thức phong phú
trong điều kiện lịch sử mới, con người mới.
Với nguồn sức mạnh nội lực của ý chí thống nhất đất nước và khát vọng hòa
bình của nhân dân ta, Đảng đã lãnh đạo quân dân cả nước dành thắng lợi cuối cùng

3
trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đưa cả nước bước vào kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng nhờ vào tinh thần đoàn kết của dân
tộc.
Đối với tình hình đất nước hiện nay, kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát
đầu năm 2020, chưa bao giờ từ “Đoàn kết” lại được nhắc đến nhiều như vậy và tinh
thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam một lần nữa thể hiện sức mạnh, hiệu quả to lớn
trong phòng, chống dịch.
Hàng nghìn sinh viên các trường y tình nguyện tham gia chống dịch; hang nghìn
y sĩ; bác sĩ đã nghĩ hưu đăng ký; sẵn sàng tham gia cùng đồng đội trên tuyến đầu chống
dịch; hàm trăm khách sạn; resort tự nguyện trở thành khu cách ly… Và trong những
ngày chống dịch căng thẳng, Tổ Quốc giang tay đón hàng vạn công dân từ nước ngoài
trở về…
Có thể thấy rõ rằng tinh thần đại đoàn kết của nhân dân Việt Nam không phải
ngẫu nghiên mà có được. Tinh thần ấy được hun đúc và rèn luyện trong suốt lịch sử
đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta mà người
thắp nên ngọn lửa ấy là chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Vì cũng lý do cũng như tầm quan
trọng của đại đoàn kết kể trên, nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài: “Giá trị tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”. Từ đó có thể làm rõ được các khái
niệm, quá trình hình thành và phát triển của tinh thần ấy đối với sự phát triển của đất
nước ta cho đến ngày nay.

4
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1.1 Vai trò của đại đoàn kết toàn dân tộc
1.1.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”1
Câu nói tuy đơn giản nhưng đã trở thành lẽ sống, phương châm sống và khẩu
hiệu hành động của Đảng và dân tộc ta trong nhiều thế kỷ qua. Người chỉ rõ, trong thời
kỳ kháng chiến, để đánh thắng thực dân và đế quốc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, chỉ yêu nước thôi chưa đủ; Để cách mạng hoàn toàn thắng
lợi, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải tập hợp được mọi lực lượng, xây dựng được
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân
tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán, lâu dài và xuyên suốt quá trình
cách mạng.
Để tập hợp mọi lực lượng thành khối đại đoàn kết toàn dân, cần có chính sách,
phương thức phù hợp với từng đối tượng. Tùy từng thời kì và hoàn cảnh đất nước với
những yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương thức tập hợp quần chúng có
thể được điều chỉnh cho phù hợp với các đối tượng, đoàn thể, nhóm khác nhau. Đoàn
kết dân tộc phải luôn được coi là vấn đề sống còn, quyết định sự thành bại của cách
mạng. Chính sách mặt trận do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra là thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc. Nhờ có tư tưởng nhất quán và chính sách mặt trận đúng đắn,
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi to lớn. Hồ Chí Minh viết: "Đoàn
kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công,

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, sđd, tập 10, tr.607.

5
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân
dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng
miền Bắc; Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được
thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc".
Từ thực tế xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát
thành nhiều luận điểm mang tính chân lý về vai trò và sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc: "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”1, "Đoàn kết là một lực lượng vô
địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi"2; "Đoàn kết là sức mạnh,
đoàn kết là thắng lợi"3, "Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”4, "Bây giờ
còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con
cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”5.
1.1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hang đầu của cách mạng
Việt Nam.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và của dân
tộc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước nhân nghĩa - đoàn kết là sức mạnh, là
mạch nguồn của mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là mục
tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ
đường lối, chủ trương, chính sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Trong các buổi nói
chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nêu: "Mục đích của Đảng có thể bao gồm trong
8 chữ là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”6. Để thực hiện mục tiêu

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, sđd, tập 7, tr.392.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, sđd, tập 7, tr.397.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, sđd, tập 11, tr.22.
4
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, sđd, tập 11, tr.154.
5
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, sđd, tập 8, tr.392.
6
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, sđd, tập 6, tr.183.

6
này, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần quan điểm quần
chúng, phải gần gũi quần chúng, lắng nghe quần chúng; vận động, tổ chức và giáo dục
quần chúng, coi sức mạnh của cách mạng là ở nơi quần chúng; phải thấm nhuần lời dạy
"dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân được quán triệt trong mọi chủ trương, chính
sách, đường lối hoạt động của Đảng. Nhấn mạnh vấn đề này là nhấn mạnh tới vai trò
của thực lực cách mạng. Bởi vì, cách mạng muốn thành công nếu chỉ có đường lối
đúng thì chưa đủ, mà trên cơ sở của đường lối đúng và tình hình thực tiễn của đất nước
trong từng giai đoạn lịch sử mà Đảng phải cụ thể hóa thành những mục tiêu, nhiệm vụ
và phương pháp cách mạng phù hợp để có thể tập hợp quần chúng, tạo thực lực cho
cách mạng. Thực lực đó chính là khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh còn chỉ ra
rằng, đại đoàn kết dân tộc không phải chỉ là mục tiêu của Đảng, mà còn là nhiệm vụ
hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, phải do quần
chúng, vì quần chúng. Từ trong phong trào đấu tranh để tự giải phóng và xây dựng xã
hội mới tốt đẹp, quần chúng nảy sinh nhu cầu đoàn kết và sự hợp tác. Sứ mệnh của
Đảng Cộng sản lúc bấy giờ là phải thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển
những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành những đòi hỏi
tự giác, thành hiện thực có tổ chức trong khối đại đoàn kết, tạo thành sức mạnh tổng
hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho
con người.
Ngày nay, trong quá trình đất nước đổi mới, Đảng ta tiếp tục khẳng định đề cao
vai trò của khối đại đoàn kết, tăng cường sự gắn kết khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây
dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và ra sức xây
dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như
Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn.
1.2. Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc:
1.2.1. Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân

7
Để có thể kế thừa và phát huy tư duy chính trị truyền thống của cha ông: “Nước
lấy dân làm gốc”; đồng thời thấm nhuần nguyên lý Mác-xít “Cách mạng là ngày hội
của quần chúng”, Hồ Chí Minh đã tìm sức mạnh của công cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước đó chính là lực lượng nhân dân: “Trong bầu trời không có
gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân” 1. Khái niệm “dân” của Hồ Chí Minh là đồng bào, là anh em cùng một nhà.
Dân là không phân biệt già trẻ, gái trai, giàu nghèo. Dân là toàn dân, toàn thể dân tộc
Việt Nam, bao gồm cả dân tộc đa số, thiểu số, có đạo hay không có đạo, tất cả những
người cùng sống trên dãi đất này. Người dùng khái niệm này để chỉ tất cả mọi công
dân của nước Việt Nam, những người được gọi là “con Lạc cháu Hồng”. Như vậy, hàm
nghĩa của “dân” theo Người mang nghĩa rất rộng, vừa được hiểu là mỗi cá nhân, vừa
được hiểu là tất cả đồng bào, nhưng dân không phải là một khối đồng nhất mà là một
cộng đồng gồm nhiều giai tầng, có lợi ích chung và riêng, có vai trò và thái độ khác
nhau với sự phát triển của xã hội. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Người là đoàn kết
tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai cấp, các chính đảng, đoàn thể, các dân tộc, tôn
giáo, kể cả những người trước đây lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải, quay về với
chính nghĩa của dân tộc. Đoàn kết trong tư tưởng của Người là đoàn kết rộng rãi, mở
rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ. Nguyên tắc đoàn
kết rộng rãi được dựa trên điểm tương đồng là: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống chúng ta,
bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ… Ai có tài, có sức, có đức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ…” 2
1.2.2. Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân:
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy lợi ích tối
cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng, kết hợp hài

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 10, tr.453.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 9, tr.244.

8
hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, bộ phận và toàn cục, giai cấp và dân tộc, quốc gia
và quốc tế. Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc tiếp tục được khẳng định: “Đại đoàn
kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công
nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác” 1, và sau này Người bổ sung
thêm nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa công nhân, nông dân với
trí thức: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao
động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần phải đoàn kết
chặt chẽ thành một khối”2 .
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn có sự kết hợp hài hòa, gắn kết và nhất quán
giữa hai yếu tố dân tộc và giai cấp. Đoàn kết dân tộc trên cơ sở lấy liên minh công -
nông làm gốc, không một lúc nào quên đi lợi ích giai cấp, bên cạnh đó, Người có một
tư duy vượt trước khi khẳng định chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của cách mạng
Việt Nam.Theo Người, sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc chỉ được phát huy khi
tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cả dân tộc
hay toàn dân chỉ có thể tạo nên một sức mạnh to lớn, trở thành lực lượng vô địch khi
được tổ chức thành một khối chặt chẽ, được giác ngộ sâu sắc về mục tiêu lý tưởng,
được định hướng bởi một đường lối chính trị đúng đắn, nếu không thì dù quần chúng
nhân dân có số đông tới hàng triệu người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh
và rời rạc.
Ngay từ khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã rất
lưu ý tới công tác tập hợp quần chúng, đưa họ vào những tổ chức yêu nước phù hợp
với đặc điểm của từng giới, lứa tuổi, giai cấp, tôn giáo... Bao trùm tất cả là tư tưởng
muốn thu nạp được đông đảo các tầng lớp nhân dân vào Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận cần thu nạp được đông đảo quần chúng nhân dân, những người ít nhiều có
tinh thần yêu nước, Mặt trận cần là một tổ chức rộng rãi. Rộng rãi nhằm thực hiện đoàn

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 9, tr. 244.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 10, Sđd, tr. 376.

9
kết được nhiều tổ chức, nhiều lực lượng không phân biệt giàu nghèo, đảng phái, xu
hướng chính trị... Người nói: “Mặt trận bao gồm tất cả những người yêu nước, không
phân biệt khuynh hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, giai cấp xã hội, nam nữ và tuổi
tác”1 . Do đó Mặt trận không chỉ thu hút được mọi tầng lớp lao động nghèo khổ, bị áp
bức, mà còn thu hút được cả tầng lớp trên không thuộc nhân dân lao động và một bộ
phận phân hóa trong hàng ngũ của kẻ thù. Trong Mặt trận, xương sống và sức mạnh
chủ yếu của khối đại đoàn kết là khối liên minh công nông làm nền tảng. Mối quan hệ
giữa Mặt trận với liên minh công nông phản ánh về mặt tổ chức xã hội mối quan hệ
biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Trong đó, tách biệt hoặc nhấn mạnh một chiều vai
trò của Mặt trận hoặc liên minh công nông đều không đúng với biện chứng của đời
sống cách mạng, không đúng với nguyên tắc đoàn kết của Người. Tuyệt đối hóa vai
trò, vị trí của liên minh công nông, hạ thấp vai trò của Mặt trận sẽ dẫn đến cực đoan,
“tả khuynh” và bệnh cô lập, hẹp hòi. Ngược lại, nhấn mạnh, đề cao một chiều vai trò
của Mặt trận, xem nhẹ liên minh công nông sẽ dẫn tới hữu khuynh, vô chính phủ.
Người từng nói rằng: “Trong chính sách đoàn kết cần phải chống hai khuynh hướng sai
lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc” 2.
Trong lực lượng phong phú của Mặt trận, Đảng Cộng sản Việt Nam được xác
định là một thành viên, bởi Đảng là bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân, Đảng là
người lãnh đạo của khối đại đoàn kết toàn dân. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng là tuyên truyền, giáo dục để quần chúng giác ngộ sự cần thiết phải đoàn kết
lại; chọn lựa những hình thức, phương pháp tổ chức thích hợp để có thể thu hút rộng
rãi các lực lượng yêu nước, tiến bộ trong dân chúng; hướng dẫn khối đại đoàn kết toàn
dân đấu tranh, lao động sáng tạo theo những mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với lợi ích
thiêng liêng của dân tộc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Người cũng nhấn
mạnh quyền lãnh đạo Mặt trận không phải Đảng tự phong cho mình, mà phải được

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 6, tr.331.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 9, tr.244.

10
nhân dân thừa nhận: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của
mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất.
Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính
sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh
đạo” 1.
Tóm lại, lực lượng góp thành sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc là toàn dân,
trong đó lấy liên minh công - nông - trí làm nền tảng được tập hợp trong một Mặt trận
thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn đã trả lời chỉ trên cơ sở tuân thủ
nguyên tắc này, đại đoàn kết toàn dân tộc mới có sức mạnh bền vững và trường tồn.
1.3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc:
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc , quy tụ , đoàn kết được mọi giai cấp ,
tầng lớp cần phải bảo đảm các điều kiện sau đây :
1.3.1. Lấy lợi ích chung làm điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng các lợi ích khác
biệt chính Đảng
Phải chú trọng xử lý các mối quan hệ lợi ích rất đa dạng, phong phú trong xã hội
Việt Nam. Chỉ có xử lý tốt mối quan hệ lợi ích, trong đó tìm ra điểm tương đồng, lợi
ích chung thì mới đoàn kết được lực lượng. Mục đích chung của Mặt Trận được Hồ
Chí Minh xác định cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới
mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Theo Người, đại đoàn kết phải
xuất phát từ mực tiêu vì nước, vì dân, trên cở sở yêu nước, thương dân, chống áp bức
bốc lột, nghèo nàn lạc hậu. Người cho rằng, nếu nước được độc lập mà dân không
được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy, đoàn kết
phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu
phấn đấu, đây là nguyên tắc bất di bất dịch, là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để
quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc và tôn giáo vào trong Mặt trận.

1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 3, tr.168.

11
1.3.2. Kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết dân tộc
Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình
dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc và đã trở thành giá trị bền vững,
thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu
truyền qua nhiều thế hệ. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc
chiến đấu và chiến thắng thiên tai dịch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc
dân tộc được giữ vững.
1.3.3. Phải có lòng khoan dung, độ lượng giữa người với người
Theo Hồ Chí Minh, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những
ưu điểm, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu… Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải
có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng phần thiện dù nhỏ nhất của mỗi người, vậy
mới tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người từng căn dặn đồng bào: ‘’Năm ngón
tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng văn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong
mấy triệu người cũng có người thế này hay thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều
dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con
Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối
lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết,
có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang.”
1.3.4. Niềm tin vào nhân dân
Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, phấn đấu vì hạnh phúc
của nhân dân là nguyên tắc tối cao trong cuộc sống. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối
truyền thống dân tộc “Nước lấy dân làm gốc”. “Chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”,
đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý Mác Xít “Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng”. Dân là chỗ dựa vững chắc đồng thời cũng là nguồn sức mạnh vô địch của
khối đại đoàn kết dân tộc, quyết định thắng lợi của cách mạng. Vì vậy, muốn thực hiện
đại đoàn kết dân tộc, phải có niềm tin vào nhân dân.

12
1.4. Hình thức, nguyên tắc tổ chức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc- Mặt trận dân
tộc thống nhất:
1.4.1. Hình thức
Khối đại đoàn kết dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh khi được
tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, đó là mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt
trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi
người dân nước Việt, cả trong nước và kiều bào sinh sống ở nước ngoài. Hồ Chí Minh
rất chú trọng đến việc tập hợp quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù
hợp như các hội ái hữu hay tương trợ, công hội hay nông hội, đoàn thanh niên hay hội
phụ nữ, đội thiếu niên nhi đồng hay phụ lão, hội Phật Giáo cứu quốc, Công giáo yêu
nước hay những nghiệp đoàn… trong đó bao trùm là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Do yêu cầu và nhiệm vụ của từng chặng đường lịch sử, Mặt trân dân tộc thống
nhất đã có những tên gọi khác nhau: Hội phản đế đồng minh (năm 1930); Mặt trận Dân
chủ Đông Dương (năm 1936); Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương (năm 1939);
Mặt trận Việt Minh (năm 1941); Mặt trận Liên Việt (năm 1951); Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam (năm 1960); liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và
hòa bình Việt Nam (năm 1968); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (các năm 1955, 1976) ….
Tuy nhiên, dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng thực chất chỉ là một, là tổ chức chính
trị xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái,
các tổ chức, cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là
độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
1.4.2. Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
1.4.2.1. Xây dựng trên nền tảng liên minh công nông- nông dân- tri
thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

Hồ Chí Minh xác định mục đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất là nhằm
tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt

13
trận là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên minh giữa giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là
nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc của Hồ Chí Minh, trên cơ
sở đó để mở rộng Mặt trận, làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, kết thành
một khối vững chắc trong Mặt trận. Người viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn
kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc
thống nhất”. Sở dĩ phải lấy liên minh công nông làm nền tảng “vì họ là người trực tiếp
sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức
bốc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi
tầng lớp khác”. Người căn dặn, không nên chỉ nhấn mạnh vai trò công nông, mà còn
phải thấy vai trò và sự cần thiết phải liên minh với các giai cấp khác, nhất là với đội
ngũ trí thức.

Đảng Cộng Sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo, Đảng
không có lợi ích riêng, mà gắn liền với lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng lãnh đạo
đối với mặt trận thể hiện ở khả năng nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra quy luật khách
quan sự vận động của lịch sử để vạch đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp,
lãnh đạo Mặt trận hoàn thành nhiệm vụ của mình là đấu tranh giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

1.4.2.2. Hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ

Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị- xã hội rộng lớn của cả dân tộc,
bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi
ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận phải dựa trên nguyên tắc hiệp thương
dân chủ, mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng
nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình
thức. Những lợi ích riêng chính đáng, phù hợp với lợi ích chung của đất nước, của dân

14
tộc cần được tôn trọng, những gì riêng biệt, không phù hợp sẽ dần được giải quyết
bằng lợi ích chung của dân tộc, bằng sự nhân thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi
người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Do vậy, hoạt
động của Mặt trận phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ mới quy tụ được các tầng
lớp giai cấp, đảng phái, tôn giáo vào Mặt trận dân tộc thống nhất.

1.4.2.3. Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ

Theo Hồ Chí Minh , đoàn kết trong Mặt trận phải là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết,
thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Trong Mặt trận, các thành viên
có những điểm tương đồng nhưng cũng có những điểm khác biệt, nên cần có sự bàn
bạc để đi đến nhất trí. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cần đồng tồn dị”, lấy
cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; đồng thời Người nêu rõ: “Đoàn kết thực
sự nghĩa là mục đích phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu
tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập
trường thân ái, vì nước, vì dân” để tạo nên sự đoàn kết gắn bó chặt chẽ, lâu dài tạo tiền
đề mở rộng khối đại đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất .

15
Chương 2: GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Giá trị về mặt lý luận
2.1.1. Bổ sung và phát triển cho chủ nghĩa Mác – Lênin về lực lượng cách
mạng
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân,
giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng thì phải trở thành dân tộc.
Xuất phát từ việc phân tích thực trạng xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đã bổ sung, vận
dụng sáng tạo luận điểm này của chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định: ở Việt Nam giải
phóng dân tộc là tiền đề để giải phóng các giai cấp bị áp bức, bóc lột trong xã hội,
trong đó có giai cấp công nhân. Nhận định nêu trên của Hồ Chí Minh xuất phát từ đặc
điểm của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tổ chức hệ thống cai trị trên
mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
đều nằm dưới sự cai trị, áp bức, bóc lột của thực dân Pháp. Ngoài giai cấp công nhân
và nông dân thì các giai cấp, tầng lớp còn lại như tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trí thức,
địa chủ, phú nông, thậm chí cả các chức sắc tôn giáo Việt Nam..., cũng đều là những
người dân chịu nỗi đau mất nước, chịu sự cai trị tàn độc của thực dân Pháp. Tại Hội
nghị thành lập Đảng, Người đã yêu cầu: “Đảng… phải thu phục cho được đại bộ phận
giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng… Đảng phải hết
sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi
vào phe vô sản giai cấp... ”1. Vì vậy độc lập dân tộc là lợi ích chung của toàn dân tộc
và tất cả các giai tầng trong xã hội đều có khả năng tham gia phong trào giải phóng dân
tộc.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra cuộc cách mạng vô sản hay phong trào công nhân
không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tư bản nếu không có khối

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H, 2011, tập 3, tr.3.

16
liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong đó giai cấp công nhân
giữ vai trò lãnh đạo. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động
với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể
thực hiện được. Cho nên liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn
của cách mạng.
Xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức làm lực lượng chủ lực của cách
mạng là sự phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách
mạng ở Việt Nam dựa trên chủ nghĩa Mác-lênin và từ thực tiễn của xã hội Việt Nam.
Người nhấn mạnh: “Tuyên ngôn của Đảng nói: “Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm
những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách
mạng nhất”. Và “lao động trí óc cần được khuyến khích, giúp đỡ, phát triển tài năng”1.
Thực tế lịch sử Việt Nam, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, trí thức là
tầng lớp có số lượng khiêm tốn trong xã hội, nhưng luôn đi đầu trong các phong trào
đấu tranh chống Pháp, bảo vệ độc lập, đòi lại quyền dân tộc, tự chủ. Trí thức cũng là
những người đi tiên phong trong việc tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại,
đón nhận những luồng tư tưởng mới, tiến bộ từ bên ngoài, thực hiện tuyên truyền, giáo
dục quần chúng nhân dân. Từ thực tế trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi trí thức cùng
với công nhân và nông dân là chủ lực của cách mạng. Theo Người, dù đa số xuất thân
từ các thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tư sản, nhưng trí thức Việt Nam đều
bị đế quốc áp bức. Những người trí thức có tiếng tăm đều bị đưa đi đày, tất cả các
trường tư thục đều bị đóng cửa và tất cả các sách báo nước ngoài đều bị cấm. Người
chỉ ra hai yếu tố tích cực của trí thức Việt Nam: “Có đầu óc dân tộc và đầu óc cách
mạng” và nhận xét: “trí thức có học thức, dễ có cảm giác chính trị. Họ không trực tiếp
bóc lột lao động. Vì vậy, họ dễ tiếp thu sự giáo dục cách mạng và cùng đi với công
nông”.

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 7, tr.71.

17
Tư tưởng coi trọng trí thức và mối quan hệ công - nông - trí thức của Chủ tịch Hồ
Chí Minh tạo nên lực lượng chủ lực của cách mạng được thể hiện nhất quán, xuyên
suốt trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Người đã viết: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và
trung nông về phía giai cấp vô sản”. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
Người khẳng định: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến
quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng
cần”1 Người nhấn mạnh: “Chính là những đảng cách mạng lại càng trọng trí thức: vì
muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân dân
thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư... Tóm lại, cách
mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức”. Gắn kết
giữa công, nông với trí thức, Người yêu cầu: Đảng phải thực hiện “công nông trí thức
hóa; trí thức công nông hóa” và giải thích: Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để
nâng cao trình độ tri thức của mình, trí thức cần gần gũi công nông và học tập tinh thần,
nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông. Theo Người, “đó là nhiệm vụ
chung và cần kíp, mà chúng ta phải cùng nhau cố gắng làm cho kỳ được”.
Phân tích sự cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam được tiến hành bằng bạo lực,
đàn áp khốc liệt những người yêu nước Việt Nam đứng lên chống Pháp, nên để chống
lại bạo lực của chính quyền thực dân Pháp, giành lại nền độc lập, cần đến một cuộc
khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Từ năm 1924, Hồ Chí Minh đã cho rằng: “Để có cơ
thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: Phải có tính chất một cuộc
khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn…”. Từ quan niệm nêu trên,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng làm chỗ
dựa cho phong trào quần chúng. Tháng 12 năm 1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Chỉ thị
thành lập “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”. Đó là sự kiện lịch sử quan

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 8, tr.59.

18
trọng, đánh dấu bước khởi đầu việc xây dựng và phát triển quân đội cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Lực lượng vũ trang được xây dựng theo quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là đội quân công tác, đội quân chiến đấu, nhấn mạnh nhiệm vụ tuyên
truyền vận động quần chúng. Ngay việc lấy tên là “Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định rõ đây là đội quân công tác, kết hợp
nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức quần chúng đấu tranh, làm chỗ dựa cho quần chúng
đấu tranh chính trị với tác chiến. Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Người nhấn
mạnh quan hệ máu thịt giữa bộ đội với nhân dân, như “cá với nước”, “bộ đội ta từ nhân
dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”. Theo Người, sức mạnh của lực lượng vũ trang,
trước hết là từ nhân tố con người, phẩm chất và sự giác ngộ chính trị của người chiến
sỹ, nên đề ra quan điểm “người trước, súng sau” trong xây dựng lực lượng vũ trang.
Quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang gắn bó với nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với tư tưởng xây dựng “trận
địa lòng dân” trong các khu căn cứ cách mạng, từ Pắc Bó mở rộng ra toàn tỉnh Cao
Bằng, thành căn cứ địa cách mạng ở 6 tỉnh Cao - Bắc - Lạng - Thái - Hà - Tuyên..., các
“an toàn khu” gần các đô thị lớn..., góp phần thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng
quần chúng trong cả nước, tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Sau khi thành lập Nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân, tư tưởng xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong xây dựng lực
lượng quân đội quốc gia Việt Nam trung với nước, hiếu với dân, gắn bó chặt chẽ với
nhân dân, cùng nhân dân giữ vững nền độc lập dân tộc. Những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp (1946 - 1950), trong hoàn cảnh hoàn toàn tự lực cánh sinh,
dựa vào sức mình để chống lại đội quân xâm lược Pháp, nhờ dựa vào dân, gắn bó với
nhân dân, quân đội ta “càng đánh, càng mạnh”, phát triển từ các trung đoàn chủ lực lên
các đại đoàn chủ lực… Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang
cách mạng ngày càng lớn mạnh, đủ ba thứ quân, gồm cả những binh chủng và vũ khí
hiện đại, chiến thắng đội quân nhà nghề của Mỹ trong bốn chiến lược chiến tranh ở

19
miền Nam, trong chiến tranh điện tử, chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân,
hải quân, quật ngã pháo đài bay B.52 trên bầu trời Hà Nội. Ngày nay, lực lượng vũ
trang cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã và đang bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội; công
cuộc đổi mới, nền văn hóa và môi trường hòa bình của đất nước… Đó là những sự kiện
nổi bật, minh chứng cho sự đúng đắn, sáng tạo trong xây dựng lực lượng vũ trang Việt
Nam, trong xây dựng lực lượng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2.1.2. Trở thành nền tảng tư tưởng của các đường lối cách mạng xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, nhất
quán và xuyên suốt để tập hợp lực lượng cách mạng và là nhân tố quyết định sự thành
công. Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc chính là
cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh. Tình nghĩa tương
thân “máu chảy, ruột mềm”, “môi hở, răng lạnh”, “tay đứt, ruột xót”, “một giọt máu
đào hơn ao nước lã” đã thấm sâu vào tâm can của Hồ Chí Minh. Người đã từng khẳng
định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể
mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. “Chúng ta đều chung một tổ tiên dòng
họ, đều là ruột thịt anh em… Không ai có thể chia rẽ con một nhà… Không ai có thể
chia rẽ nước Việt Nam ta”1.Ý chí kiên định của Người thổi bùng lên sức mạnh và tinh
thần bất khuất của Nhân dân ta trước âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch.

Hồ Chí Minh luôn khẳng định tầm vóc của vấn đề đoàn kết trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Người nhiều lần nhấn mạnh: “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của
chúng ta để khắc phục khó khăn, giành thắng lợi”2, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, tập 13, tr.119.

2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 6, tr.55.

20
của thành công”1. Do đó, phải luôn luôn giữ gìn khối đại đoàn kết – chiếc chìa khóa
vạn năng đã giúp cho Đảng ta trong hơn 90 năm qua đưa đất nước vượt qua bao thác
ghềnh hiểm trở đến bến bờ thắng lợi.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong hoạch định chủ
trương đường lối của Đảng cụ thể là Đại hội X:

Đầu tiên là lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc vì "Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" . Mục tiêu trên là ước vọng ngàn đời
của bao người Việt Nam. Yêu nước, đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước
đã trở thành lẽ sống của cả dân tộc, của mỗi người Việt Nam qua các thời đại. Mục tiêu
trên cũng là ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tôi chỉ có một ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Đó cũng là
điều mong muốn cuối cùng của Người trước lúc ra đi: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn
kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh". Giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc vì "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là đích đến để gắn bó đồng bào các dân
tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài. Mục tiêu "Dâu giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" được xác
định từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng họp tháng 1-1994, được Đại hội IX
của Đảng bổ sung thành "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"
và được Đại hội X tái khẳng định lại một lần nữa. Ngày nay, sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục phát huy cao độ, trở thành động lực của công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước. Ðại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là bài

1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 7, tr.49.

21
học lớn của cách mạng Việt Nam. Thực hiện lời dạy của Bác Hồ :“ Đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đang là động lực, kết nối sức
mạnh vô địch của toàn dân tộc Việt Nam. Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới do
Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.

Ðảng ta tiếp tục khẳng định tại Đại hội X: Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực
hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đại đoàn kết dân tộc là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm
tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia-
dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để
tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật
thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi
ích giữa các thành viên trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
điều vì lợi ích của nhân dân. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Các cấp ủy Đảng và chính quyền phải thường xuyên lắng nghe

22
tâm tư nguyện vọng của nhân dân, trao đổi, đối thoại, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải
quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân; tạo nên niềm tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, sự đồng thuận của nhân dân trong xã hội.
Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương,chính sách
của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ
chế ,chính sách để phát huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề
lớn của đất nước; bảo đảm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân , vì
nhân dân; khắc phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội; tạo
sự đồng thuận trong xã hội và góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh; xây dựng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước với nhân dân trong quá trình phát triển đất nước.

Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong công tác
dân vận tiếp tục được khẳng định và nâng cao trong đời sống chính trị - xã hội của đất
nước. Mối quan hệ gắn bó giữa Mặt trận và các đoàn thể với các tầng lớp nhân dân
ngày càng được củng cố, tăng cường, phát huy. Ðường lối chủ trương của Ðảng, Nhà
nước về đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện và thể chế hóa bằng các
chính sách, pháp luật. Các tầng lớp nhân dân chung sức, chung lòng cùng Ðảng, Nhà
nước vượt qua khó khăn, thử thách, giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển kinh tế -
xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống nhân dân và nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã và đang kế thừa,
phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, góp phần to
lớn tạo nên sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân
dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước trong xây dựng và phát triển nhanh, bền vững đất nước. Các
phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động xã hội rộng lớn do Mặt trận và các tổ

23
chức thành viên phát động ngày càng đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân
hưởng ứng tích cực. Ðặc biệt, các phong trào, cuộc vận động “ Toàn dân xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở’’; “Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn
minh’’; “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam’’; hoạt động bảo vệ biên giới,
chủ quyền, biển đảo, phòng chống thiên tai, bão lũ và đoàn kết giúp nhau phát triển
kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện, lá lành đùm lá rách,
các hoạt động tự quản ở cộng đồng dân cư... có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết
cộng đồng xây dựng quê hương, đất nước.

Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công-
nông-trí. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần đầu tư, quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh
chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp
của công nhân. Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá trình
phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Nâng cao năng suất lao động trong
nông nghiệp và cải thiện chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; thực hiện có hiệu
quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp. Xây
dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng
tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống
hiến. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò
tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc
hoạch định đường lối,chủ trương của Đảng,chính sách, pháp luật của Nhà nước và các
dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

24
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, gồm Đảng, chính quyền, Mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trong đó, động lực chủ yếu để xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và
xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã
hội. Để khối đại đoàn kết dân tộc được bền chặt, đạt được sự đồng thuận xã hội, đòi
hỏi mọi thành viên trong đó phải tôn trọng và hành động theo những nguyên tắc và ý
chí chung và mỗi quyết định được thông qua phải phản ánh, thể hiện nguyện vọng, lợi
ích của toàn xã hội. Trong 90 năm thực hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại
đoàn kết dân tộc, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn
vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp với
tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh". Trong quá trình phát triển ấy, trên tinh thần "lấy dân làm gốc", xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nguyên tắc hiệp thương dân chủ được
coi là "chìa khóa vạn năng" để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp, đoàn kết và phát
huy sức mạnh toàn dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước
cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng vững mạnh như
mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2.2. Giá trị về mặt thực tiễn:


Bằng tinh thần nhân văn cao cả và nhãn quan chính trị sắc bén, suốt cả cuộc đời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm
về đại đoàn kết dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng, các cấp
chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân. Người nhận thức sâu sắc, đoàn kết không chỉ

25
tạo nên sức mạnh mà còn là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành bại,
được mất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù.. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, không phải là việc một, hai người có thể làm được. Do đó, cần đoàn kết
toàn dân tộc, có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người Việt Nam vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc bao gồm tất cả các giai cấp,
tầng lớp, lực lượng, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo, các cá nhân yêu nước, người
Việt Nam ở nước ngoài, kể cả những người đã lầm đường lạc lối nhưng đã biết hối cải
trở về với nhân dân. Theo Người, mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người đều có thể còn có
những hạn chế, nhược điểm. Nhưng, vì lợi ích chung của cách mạng phải có lòng
khoan dung, độ lượng, trân trọng phần thiện dù là nhỏ nhất ở mỗi người mới có thể tập
hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng
ta cũng thật thà đoàn kết với họ… Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc
và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”1.
Người cũng đã khẳng định, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc phải kế thừa
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần cộng đồng của dân tộc Việt Nam, phải có
lòng khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.
Đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là phương pháp tổ chức,
tập hợp lực lượng, mà cao hơn là một bộ phận hữu cơ, một tư tưởng xuyên suốt trong
đường lối chiến lược cách mạng. Người khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân
tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”2 . Đoàn kết toàn dân tộc vừa là điều kiện tiên
quyết, sống còn, vừa là tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc không chỉ dừng lại trong nhận thức, mà phải được
cụ thể hóa trong mọi bước đi, tình huống của cách mạng. Người nhấn mạnh “Ta đoàn

1
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, 2011, tập 9, tr.177
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 9, tr. 244

26
kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây
dựng nước nhà”1.
Với chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở thống nhất lợi ích quốc gia
dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng; nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân tộc
là liên minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng, Người chỉ rõ, cần giải quyết
hài hòa lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, dân cư ở các
vùng miền khác nhau. Phát huy mặt tương đồng, hóa giải điểm khác biệt. Mẫu số
chung để đại đoàn kết toàn dân tộc là: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tự do,
giàu mạnh: “Toàn dân đoàn kết nhất trí thì chúng ta nhất định xây dựng được nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tự do, giàu mạnh”2. Để phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Người cho rằng, trước hế t, cần tuyên truyền, vận động
nhân dân. Thứ hai, phải chăm lo xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh. Về Nhà nước, Đảng phải làm cho Nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước
với nhân dân. Coi đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc ta trong dựng nước
và giữ nước, mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đoàn kết là một đức tính cơ bản của người
cách mạng. Ai không có khả năng tập hợp, đoàn kết quần chúng và các đồng chí của
mình thì không thể làm cách mạng, không thể làm cán bộ. Người căn dặn: “Các đồng
chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”3.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong suốt sự nghiệp cách
mạng của nước ta, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã quán triệt sâu sắc tư tưởng
của Người về đại đoàn kết trong các văn kiện của Đảng, như: Nghị quyết 07-NQ/TW
của Bộ Chính trị ngày 17/11/1993 về "Đại đoàn kết dân tộc, tăng cường Mặt trận Dân

1
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.244.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 10, tr. 576.
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, Sđd, tập 15, tr. 611.

27
tộc thống nhất trong tình hình mới". Nghị quyết này đã phản ánh tập trung nhất sự kết
thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong sự nghiệp đổi mới với
nội dung chủ yếu là: phát huy truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết
mọi người Việt Nam tán thành công cuộc đổi mới, nhằm mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Nghị quyết đi
vào cuộc sống đã tạo ra bước ngoặt cho sự tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc và
công tác Mặt trận trong công cuộc đổi mới đất nước, tập hợp thêm lực lượng mới, đặc
biệt là những người trước đây từng làm việc dưới chế độ Mỹ - Ngụy và những người
Việt Nam hiện đang sinh sống ở nước ngoài. Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban
chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX), tháng 01/2004 về “Phát huy sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nghị
quyết này cũng đã đề ra mục tiêu: “Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất
của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội”. Cùng với các quan điểm như “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; đại đoàn kết toàn
dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp
pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích
tập thể và lợi ích toàn xã hội,... xem đó là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát
triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả
hệ thống chính trị...”
Tại các Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI tiếp tục bổ sung nhấn mạnh hơn vai trò,
tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc trong thời đại mới. Đại hội lần thứ XII của

28
Đảng (2016) khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng
Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Để phát
huy sức mạnh đoàn kết dân tộc sức mạnh đoàn kết dân tộc, Đại hội đã đề ra phương
hướng, nhiệm vụ tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp công nhân và đội ngũ tri thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh
mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, “dân giàu, mước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương
đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia- dân
tộc; đề cao tinh thần dan tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập
hợp, đoàn kết mọi người dân Việt Nam ở trong nước và ngoài nước, tăng cường quan
hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết
dân tộc.
Nhờ có đường lối đại đoàn kết đúng đắn, sau 30 năm đổi mới đất nước toàn diện
do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả
các lĩnh vực, vị thế của đất nước trên quốc tế ngày càng tăng, kinh tế tăng trưởng, đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, chính trị ổn định…Tuy
nhiên, đến giai đoạn hiện nay - giai đoạn toàn cầu hóa, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế với sự biến động hết sức phức tạp, khó lường của tình hình quốc tế và trong
nước, đó là: sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến
hòa bình” vẫn còn hiện hữu, khủng bố, đảo chính và xung đột vũ trang ngày càng gia
tăng ở khắp các khu vực trên thế giới, tranh chấp căng thẳng ở Biển Đông…Còn trong
nước nạn tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp, chưa thực sự được đầy lùi. Đứng trước
những nguy cơ này thì tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết lại càng thể hiện rõ giá
trị lý luận và thực tiễn sinh động của nó. Về lý luận thì đây là một chân lý khoa học vĩ
đại, là chìa khóa hữu hiệu nhất để giải quyết mọi khó khăn, thách thức hiện nay của đất
nước, chân lý này đã được Người căn dặn Đảng ta rất kỹ trong di chúc rằng: “Các đồng

29
chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”, “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát
triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”;
về thực tiễn phát huy được khối đại đoàn kết toàn dân tộc là tạo được “sức mạnh vô
địch” mà không có kẻ thù nào có thể chiến thắng được. Vì vậy, chỉ có dân chủ rộng rãi
và đại đoàn kết thực sự thì chúng ta mới bảo vệ vững chắc được độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội như điều mong muốn cuối
cùng của Bác trước lúc vĩnh biệt dân tộc ta để về với thế giới người hiền.

30
PHẦN KẾT LUẬN
Trong mỗi trái tim của những người con đất Việt dù ở trong hay ngoài nước thì
họ luôn luôn ý thức và tiềm ẩn tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc. Vì vậy, khơi nguồn và
phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi
chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng
dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá
nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản
lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn dân là một bài
học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị quan
trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Sức sống diệu kỳ của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chứng minh trong thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Phương pháp đại đoàn kết của Người thực sự là một khoa
học, nghệ thuật của sự cảm hóa, thu phục lòng người. Đó là nghệ thuật khơi dậy và
nhân lên những điều tốt đẹp, nhân bản trong mỗi con người dù cho nó đã bùng cháy
như ngọn lửa hay đang âm ủ như hòn than trong đống tro tàn để nhằm mục đích cuối
cùng là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cách mạng.
Ở thời điểm dân tộc ta đã bước sang thế kỷ XXI những thời cơ và thách thức
đan xen nhau đang thường xuyên tác động đến khối đại đoàn kết dân tộc. Hơn lúc nào
hết, thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc, phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan
điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện cùng với thực tiễn biến đổi của đất
nước. Tư tưởng ấy vẫn là ngọn nguồn tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt
Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trang thông tin điện tử Hồ Chí Minh (2020), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc, truy cập từ https://dbnd.quangngai.gov.vn/i6018-tu-tuong-ho-chi-
minh-ve-dai-doan-ket-dan-toc.aspx
2. Nghị quyết số 23–NQ/TW (13/03/2003), Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung Ương Đảng (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Nguyễn Ngọc An (2020), Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách
mạng , truy cập từ https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-
tim-duong-cuu-nuoc/hanh-trinh-lich-su/con-duong-cuu-nuoc-cua-nguyen-ai-quoc-
va-gia-tri-doi-voi-tien-trinh-cach-mang-viet-nam-661660
4. Đồng Quang Thái (2021), Cổng thông tin điện tử cục thi hành án dân sự (2021),
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, truy cập từ
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/con-duong-sang-lap-dang-cong-san-viet-nam-
cua-nguyen-ai-quoc-ho-chi-minh-133686
5. Lê Minh Phượng(2021), Dấu ấn Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam, truy cập từ http://tuyengiaokontum.org.vn/Lich-su/dau-an-
nguyen-ai-quoc-doi-voi-su-ra-doi-cua-dang-cong-san-viet-nam-3067.html
6. Trần Hậu (2020), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Thống
nhất: Kinh nghiệm và bài học cho hôm nay, truy cập từ
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-
/2018/820533/dang-cong-san-viet-nam-lanh-dao-mat-tran-dan-toc-thong-nhat--
kinh-nghiem-va-bai-hoc-cho-hom-nay.aspx
7. Trang thông tin điện tử Huyện ủy Hướng Hóa (2021), Tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, truy cập từ
https://huonghoa.tinhuyquangtri.vn/tang-cuong-khoi-dai-doan-ket-toan-dan-toc-
theo-tu-tuong-ho-chi-minh
8. Hoàng Bằng Giang (2016), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết - giá trị lý
luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam hiện nay, truy cập từ
https://tuyenquang.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-
tuc.aspx?ItemID=10264&l=TinTuc
9. Nguyễn Thị Phương Hoa (2019), Củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân
tộc hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, truy cập từ https://tuyengiao.vn/theo-

32
guong-bac/cung-co-phat-trien-khoi-dai-doan-ket-toan-dan-toc-hien-nay-theo-tu-
tuong-ho-chi-minh-125265

10. Nguyễn Văn Hùng (2021), Đại đoàn kết dân tộc - Nguồn sức mạnh, nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt
Nam, truy cập từ https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/dai-doan-ket-dan-toc-
nguon-suc-manh-nhan-to-co-y-nghia-quyet-dinh-bao-dam-thang-loi-ben-vung-
cua-su-nghiep-133869
11. Lê Hải Bình (2022), Đại đoàn kết toàn dân tộc – Cội nguồn sức mạnh, động lực
chủ yếu của cách mạng Việt Nam, truy cập từ https://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-
tang-tu-tuong-cua-dang/dai-doan-ket-toan-dan-toc-coi-nguon-suc-manh-dong-luc-
chu-yeu-cua-cach-mang-viet-nam-137537

12. Nguyễn Đăng Bình (2021), Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kế t toàn
dân tộc, truy cập từ https://www.baokontum.com.vn/xa-hoi/gia-tri-tu-tuong-ho-
chi-minh-ve-dai-doan-ket-toan-dan-toc-21492.html

33

You might also like