Professional Documents
Culture Documents
8 Chương Lí Thuyết
8 Chương Lí Thuyết
8 Chương Lí Thuyết
Hành vi người tiêu dùng là một lĩnh vực nghiên cứu có nền tảng từ
các ngành khoa học như tâm lý học, xã hội học, tâm lý học xã hội,
nhân văn học và kinh tế học. Hành vi người tiêu dùng chú trọng đến
việc nghiên cứu tâm lý cá nhân, nghiên cứu những niềm tin cốt yếu,
những giá trị, những phong tục tập quán ảnh hưởng đến hanh vi của
người tiêu dùng và những ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cá nhân trong
mua sắm tiêu dùng. Đặc biệt nghiên cứu hành vi người tiêu dùng là
một phần quan trọng trong nghiên cứu kinh tế học với mục đích tìm
hiểu xem người tiêu dùng sử dụng khoảng bao nhiêu phần trăm thu
nhập cho chi tiêu cá nhân và chi tiêu đó tập trung vào những khoản
mục nào trong cuộc sống của họ, hơn nữa nghiên cứu hành vi tiêu
dùng còn giúp nắm bắt và dự đoán những xu hướng tiêu dùng cùng
với sự thay đổi đó. Song song đó việc nghiên cứu hành vi tiêu dùng
cũng nhằm xem xét việc người tiêu dùng đanh giá, lựa chọn các nhãn
hiệu và đưa ra các quyết định tiêu dùng nhằm thỏa mãn tối đa những
nhu cầu của họ như thế nào?
Bài học đầu tiên trong chương 1 với mong muốn giúp sinh viên tìm
hiểu một số vấn đề sau đây để có cái nhìn khái quát về môn học:
Một số khái niệm cơ bản và vai trò của người tiêu dùng (NTD)
Hành vi người tiêu dùng là gì?
Tại sao phải nghiên cứu hành vi người tiêu dùng?
Nội dung và phương pháp nghiên cứu hành vi người tiêu dùng
Vai trò của nghiên cứu hành vi đối với việc thiết kế chiến lược
Marketing
Với những nội dung nêu trên sau khi học xong chương 1 giảng viên
mong muốn sinh viên đạt được một số yêu cầu sau:
Phân biệt được sự khác nhau giữa người tiêu dùng cá nhân và
người tiêu dùng tổ chức
Hiểu và phát biểu đầy đủ về khái niệm hành vi người tiêu dùng
Giải thích được tầm quan trọng của hành vi người tiêu dùng với
hoạt động Marketing
Phân biệt và xác định một cách rõ ràng về vai trò của người tiêu
dùng
Nắm bắt cụ thể những nội dung và phương pháp nghiên cứu
hành vi người tiêu dùng
Nhận biết được những yếu tố quan trọng tác động đến hành vi
người tiêu dùng
Phân tích được vai trò của nghiên cứu hành vi người tiêu dùng
với việc thiết kê chiến lược Marketing của các doanh nghiệp
1.1 Một số khái niệm cơ bản và vai trò của người tiêu dùng
1.1.1 Người tiêu dùng
Theo quan niệm truyền thống, thuật ngữ “người tiêu dùng” được sử
dụng để chỉ người mua, người sử dụng hàng hóa/ dịch vụ được chào
bán trên thị trường.
Hoặc theo quan điểm mới hơn thì “Người tiêu dùng là người mua,
sử dụng hàng hóa/ dịch vụ cho mục đích tiêu dùng cho sinh hoạt cá
nhân, gia đình và tổ chức” (điều 1, chương I, Pháp lệnh bảo về quyền
lợi người tiêu dùng Việt Nam)
Ví dụ: Người tiêu dùng mua quần áo, thực phẩm, tivi, đầu máy
video… để sử dụng cho gia đinh
Hay theo hiệp hội Marketing Mỹ (AMA): Người tiêu dùng là người
cuối cùng sử dụng, tiêu dùng hàng hóa, ý tưởng, dịch vụ nào đó.
Người tiêu dùng cũng được hiểu là người mua hoặc ra quyết định như
là người tiêu dùng cuối cùng. (Ví dụ một người mẹ mua ngũ cốc cho
đứa trẻ cũng được gọi là người tiêu dùng mặc dù cô ta không là người
tiêu dùng sản phẩm đó).
(Consumer is the ultimate user or consumer of goods, ideas, and
services. However, the term also is used to imply the buyer or
decision maker as well as the ultimate consumer. A mother buying
cereal for consumption by a small child is often called the consumer
althought she may not be the ultimate user)
Với 2 quan điểm này người tiêu dùng được coi như người tiêu dùng
cuối cùng, điều này chưa bao quát được phạm vi nghiên cứu hành vi
người tiêu dùng nên tác giả muốn làm rõ hơn khai niệm này.
Người tiêu dùng có thể bao gồm người tiêu dùng cá nhân và người
tiêu dùng tổ chức căn cứ vào mục đích tiêu dùng hàng hóa/ dịch vụ để
thỏa mãn nhu cầu của họ.
- Người tiêu dùng cá nhân (personal consumers) hay còn gọi là người
tiêu dùng cuối cùng bao gồm những người mua hàng để phục vụ cho
việc tiêu dùng của cá nhân hoặc gia đình họ.
(The individual who buys goods and services for his or her own use,
for household use, for the use of a family member, or for a friend).
Ví dụ: Người tiêu dùng mua quần áo, thực phẩm, tivi, đầu máy
video… để sử dụng cho gia đinh.
- Người tiêu dùng là các tổ chức (organizational consumers): Những
người này mua hàng để sử dụng cho các hoạt động của tố chức.
(A business, goverment agency, or other institution (profit or
nonprofit) that buys the goods, services, and/or equipment necessary
for the organization to function)
Ví dụ: Công ty xây dựng mua xi măng, sắt, gạch để sử dụng cho
việc xây chung cư, khách sạn phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
Người tiêu dùng tổ chức bao gồm người tiêu dùng công nghiệp (họ
mua sắm nguyên, nhiên vật liệu đầu vào phục vụ cho hoạt động sản
xuất để tạo ra sản phẩm hay dịch vụ đầu ra tạo thanh thị trường hàng
tư liệu sản xuất) và người tiêu dùng là các tổ chức (họ là các tổ chức
chính phủ hoặc các tổ chức công đoàn mua sắm hàng hóa hay dịch vụ
phục vụ cho các hoạt động mang tính chức năng của tổ chức tạo thành
thị trường người mua là các tổ chức)
Với yêu cầu của môn học chúng ta đi tìm hiểu hành vi của người
tiêu dùng cụ thể là nhóm người tiêu dùng cá nhân là chủ yếu.
1.1.2 Các vai trò của người tiêu dùng
Nhà tiếp thị phải nhận dạng được người ra quyết định hoặc người có
khả năng gây ảnh hưởng đến quyết định mua sắm, từ đó mới có nỗ
lực Marketing đúng mục tiêu. Vai trò của người tiêu dùng bao gồm:
- Người khỏi xướng: người đầu tiên đưa ra ý tưởng mua một sản
phẩm hay dịch vụ cụ thể
- Người thu thập thông tin: người hỗ trợ tìm kiếm thông tin giúp cho
việc mua hàng đạt hiệu quả và giảm thiểu rủi ro
- Người ảnh hưởng: người có ý kiến, quan điểm ảnh hưởng đến quyết
định mua. Người ảnh hưởng có thể có 2 loại là người ảnh hưởng có
tính chất cố vấn (đưa ra những chỉ dẫn, khuyên bảo, giới thiệu) và
người ảnh hưởng có tính chất áp đặt (ý kiến của họ có tính chất cưỡng
chế)
- Người quyết định: người đưa ra quyết định mua hay không mua,
mua như thế nào và ở đâu,…
- Người mua: người thực hiện giao dịch mua sắm thực tế
- Người sử dụng: người trực tiếp tiêu dùng sản phẩm hay dịch vụ đã
được mua sắm
Ví dụ: Một người đàn ông mua tặng vợ chai nước hoa nhân dịp sinh
nhật của cô ấy. Rõ ràng ông ta chính là khách hàng, là người ra
quyết định mua sắm sản phẩm nhưng ông ta lại không phải người sử
dụng sản phẩm này. Hoặc người vợ muốn mua một chiếc xe máy thì
cả vợ và chồng quyết định nhãn hiệu, nhà sản xuất, nơi mua; và
người chồng phụ trách việc đi mua nhưng người sử dụng lại là người
vợ.
Một số tài liệu khác lại phân tích vai trò của người tiêu dùng bao -
gồm:
- Người gác cổng: Là cá nhân có khả năng cản trở việc tiếp cận đến
người ra quyết định và những người gây ảnh hưởng khác. Trong
nhiều tổ chức, thư ký, trợ lý hành chính và các nhân viên mua hàng
đóng vai trò này.
- Người gây ảnh hưởng: Là cá nhân có ý kiến mà người ra quyết định
đanh giá cao trong khi người đó đưa ra quyết định. Những cá nhân
này có thể có các mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với quyết định
mua hàng cụ thể. Đối với một người mua cá nhân, bạn bè hay đồng
nghiệp là những người gây ảnh hưởng; trong gia đinh, tùy vào sản
phẩm hay dịch vụ, người gây ảnh hưởng có thể là chồng, vợ hay con
cái. Khi các tổ chức mua hàng, nhiều cá nhân từ những bộ phận chức
năng khác nhau có thể gây ảnh hưởng. Ngoài ra, những người khác có
thể đóng vai trò ảnh hưởng bao gồm các hiệp hội khách hàng, những
nhà làm luật, quan chức chính phủ, chính trị gia, tư vấn và “những
bạn hàng”.
- Người xác lập tiêu chuẩn: Là người có ảnh hưởng gián tiếp đối với
việc mua hàng xuất phát từ vai trò của anh ta hay cô ta trong việc xác
lập các quy cách phẩm chất, mặc dù họ có thể không chính thức liên
quan đến chính quyết định đó. Chẳng hạn, khi đưa ra quyết định liên
quan đến nhà ở, kiến trúc sư có thể đóng vai trò này, trong một tổ
chức, đó có thể là kỹ sư.
- Người ra quyết định: Là cá nhân chính thức có quyền ra quyết định.
- Người mua: Là cá nhân có khả năng hoan tất hành động mua hàng
với nhà cung cấp. Ở các gia đinh phương Tây, đối với nhiều sản phẩm
và dịch vụ, theo truyền thống, người nữ chủ gia đinh thường đóng vai
trò này; ở vung nông thôn tại Bangladesh, vai trò này do đàn ông nắm
giữ. Trong các tổ chức, nhân viên mua hàng chính là “người mua”.
- Người sử dụng: Là người nhận được lợi ích của sản phẩm một cách
trực tiếp nhất. Người sử dụng thường ít có vai trò trực tiếp đối với
quyết định mua hàng nhưng bởi vì họ có thể thực hiện có hiệu quả
quyền phủ quyết đối với việc sử dụng sản phẩm cho nên họ trở thành
những người gây ảnh hưởng lớn. Chẳng hạn như, trẻ em là người sử
dụng/gây ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ đối với các sản phẩm ngũ cốc
ăn liền; tại nhà máy, công nhân nào nói rằng “Tôi sẽ không làm việc
với thứ có màu đỏ đó đâu” thì họ có quyền lực mạnh, mặc dù chủ yếu
là quyền nói “không”.
- Kẻ phá bĩnh: Là người cố gắng ngăn không cho công ty bán hàng.
Có thể, đây là nhân viên cũ bất mãn hay là người có ông anh rể làm
việc cho đối thủ cạnh tranh
- Người ủng hộ: Người đẩy mạnh lợi ích của công ty trong nỗ lực bán
hàng. Trước đây người này có thể có nhiều kinh nghiệm với công ty
bán hàng hay có mối quan hệ cá nhân với đội ngũ nhân viên của công
ty này.
- Người cung cấp thông tin: Là người luôn thông tin cho công ty bán
hàng biết được quá trình mua hàng của tổ chức mua, chất lượng mối
quan hệ (công ty và đối thủ cạnh tranh),…
Tóm lại, người mua không nhất thiết phải là người ra quyết định,
lựa chọn sản phẩm, hoặc sử dụng sản phẩm.
1.2 Khái niệm hành vi người tiêu dùng (Consumers behavior)
Theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (AMA): Hành vi người tiêu dùng
là sự tác động qua lại giữa các yếu tố kích thích của môi trường với
nhận thức của con người mà qua sự tương tác đó con người thay đổi
cuộc sống của họ. Hay nói cách khác, hành vi người tiêu dùng bao
gồm những suy nghĩ và cảm nhận mà con người có được và những
hành động mà họ thực hiện trong quá trình tiêu dùng.
Theo Kotler và Levy, hành vi khách hàng là những hành vi cụ thể
của một cá nhân khi thực hiện các quyết định mua sắm, sử dụng và
vứt bỏ sản phẩm hay dịch vụ.
Hành vi người tiêu dùng là một tiến trình cho phép cá nhân hay một
nhóm người lựa chọn, mua sắm, sử dụng hoặc loại bỏ một sản phẩm
hay dịch vụ, những suy nghĩ đã có, kinh nghiệm hay tích lũy, nhằm
thỏa mãn nhu cầu hay ước muốn của họ. (Solomon Michael –
Consumers behavior, 1992)
Theo Leon Schiffiman, David Bednall và Aron O’cass (1997), hành
vi người tiêu dùng là sự tương tác năng động của các yếu tố ảnh
hưởng đến nhận thức, hành vi và môi trường mà qua sự thay đổi đó
con người thay đổi cuộc sống của họ.
Theo Peter D Bennet (1998), hành vi của người tiêu dùng là những
hành vi mà con người tiêu dùng thể hiện trong việc tìm kiếm, mua, sử
dụng, đanh giá sản phẩm và dịch vụ mà họ mong đợi sẽ thỏa mãn nhu
cầu cá nhân của họ.
Theo Charles W. Lamb, Joseph F. Hair và Carl McDaniel (2000),
hành vi của con người tiêu dùng là một quá trình mô tả cách thức mà
người tiêu dùng ra quyết định lựa chọn và loại bỏ một loại sản phẩm
hay dịch vụ.
Vậy qua các định nghĩa trên, hành vi NTD là:
- Những suy nghĩ và cảm nhận của con người trong quá trình mua
sắm và tiêu dùng.
- Sự năng động và tương tác vì nó chịu sự tác động bởi các yếu tố từ
môi trường bên ngoài và có sự tác động trở lại đối với môi trường ấy.
- Bao gồm các hoạt động: mua sắm, sử dụng và xử lý sản phẩm dịch
vụ
Ví dụ (1): Nghiên cứu hành vi tiêu dùng sản phẩm dầu gội đầu để
biết được những vấn đề sau:
- Tại sao người tiêu dùng mua dầu gội (để sạch tóc hay trị gàu)
- Họ mua nhãn hiệu nào (Rejoice hay Clear)
- Tại sao mua nhãn hiệu đó (nhãn hiệu đó chất lượng tốt hay đang
được giảm giá)
- Mua như thế nào (mua lẻ từng chai hay mua sỉ)
- Bao gói nào (chai bao nhiêu ml, gói nhỏ)
- Khi nào mua (mua khi đi chợ, khi cần dùng hay khi đi mua sắm
vào cuối tuần)
- Mua ở đâu (chợ, siêu thị, tiệm tạp hóa)
- Mức độ mua (bao lâu mua một lần)…
Ví dụ (2): Nghiên cứu hành vi tiêu dùng đối với một sản phẩm lâu
bền hơn như hàng trang trí nội thất nhằm hiểu biết những vấn đề sau:
- Loại nội thất cần mua (gỗ, MDF,…)
- Kích cỡ nào khách hàng thường mua
- Kiểu dáng (cổ điển hay hiện đại)
- Tại sao mua (để trang trí nhà cửa, gây ấn tượng cho khách tới nhà)
- Mua như thế nào (trả ngay, trả góp)
- Mua khi nào (vào dịp lễ Tết, vào dịp cửa hàng bán hạ giá)
- Mua ở đâu (siêu thị nội thất, các cửa hàng)
- Bao lâu một lần hoặc khi nào vứt bỏ (đồ nội thất cũ bị hỏng, chán
cái cũ muốn đổi mới)
Tìm hiểu kĩ các vấn đề trên sẽ giúp cho các nhà sản xuất và kinh
doanh dầu gội và đồ trang trí nội thất biết được nhu cầu, động cơ sử
dụng sản phẩm và thói quen mua sản phẩm của khách hàng.
Nghiên cứu NTD hiện nay còn đi xa hơn các khía cạnh nói trên,
NTD được các doanh nghiệp tìm hiểu xem có thấy được các lợi ích
của sản phẩm họ đã mua hay không (kể cả lợi ích xã hội) và họ cảm
nhận, đánh giá như thế nào sau khi sử dụng sản phẩm. Vì các nhà tiếp
thị nhận thức được những vấn đề này sẽ NTD khác.
Hành vi mua
sắm và sử dụng ĐĐiều chỉnh
Cấu trúc nhân chính sách để
khẩu học và hộ bảo vệ quyền
gia đình lợi NTD
Sự hiểu
Nhu cầu, cảm biết hành
xúc, các giá trị vi NTD
và tính cách Chiến lược
Marketing nhằm
thỏa mãn những
nhu cầu của
Những tác Xử lý thông khách hàng mục
động của nhóm tin và ra tiêu
quyết định
1.3.2 Tầm quan trọng của nghiên cứu hành vi NTD trong doanh
nghiệp
Peter Drucker một nhà kinh tế học Mỹ cho rằng: “Mục đích của
Marketing không phải là đẩy mạnh tiêu thụ. Mục đích của Marketing
là nhận biết và hiểu kỹ khách hàng đến mức hàng hóa hay dịch vụ sẽ
đáp ứng đúng thị hiếu của khách hàng và tự nó được tiêu thụ”.
Khi quan tâm đến hành vi NTD, các doanh nghiệp dần dần khám
phá ra những vấn đề sau đây:
- NTD là những cá nhân rất phức tạp, ngoài nhu cầu sinh tồn họ còn
có nhiều nhu cầu khác nữa. Những nhu cầu này tùy thuộc rất nhiều
vào tâm lý cá nhân và tùy thuộc vào xã hội nơi họ đang sinh sống.
- Nhu cầu của NTD rất khác nhau giữa các xã hội, giữa các khu vực
địa lý, giữa các nền văn hóa, tuổi tác, giới tính…
Qua đó, các doanh nghiệp ngày nay đã nhận thức được vai trò quan
trọng của việc nghiên cứu NTD, cụ thể là:
- Phải tiếp cận với NTD và phải hiểu kỹ họ để nhận biết đầy đủ
những động cơ thúc đẩy họ mua sản phẩm, điều này giúp doanh
nghiệp có thể cạnh tranh hiệu quả với các đối thủ của minh.
- Khi triển khai các sản phẩm mới và xây dựng các chiến lược
Marketing kích thích việc mua hàng, việc nghiên cứu hành vi NTD,
ứng dụng nguyên lý hành vi người tiêu dùng trong thiết kế chiến lược
Marketing căng quan trọng. Chẳng hạn cần thiết kế các sản phẩm có
chức năng, hình dáng, kích thước, bao bì, màu sắc,… sao cho phù hợp
với sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng mục tiêu và thu hút sự chú ý
của họ.
- Kiến thức và sự hiểu biết về NTD còn giúp doanh nghiệp xây dựng
các chiến lược Marketing ảnh hưởng, tác động trở lại người tiêu dùng.
Ví dụ công ty P&G khi tung ra sản phẩm bột giặt 2 trong 1 kết hợp
với nước xả vải họ đã tìm hiểu về sở thích, yêu cầu, mong muốn của
NTD và từ đó sản phẩm này được NTD chấp nhận dễ dàng hơn. Và
sản phẩm này sẽ thu hút họ hơn là các sản phẩm cùng loại.
Nắm bắt được điều này nhiều doanh nghiệp thường xuyên tổ chức
hoặc mua thông tin từ các công ty nghiên cứu, điều tra người tiêu
dùng để tìm hiểu nhu cầu, sở thích, thị hiếu, xu hướng tiêu dùng.
Mặt khác, qua nghiên cứu HVNTD cũng giúp doanh nghiệp hạn chế
những tổn thất do họ không hài lòng với sản phẩm thì họ có thể “một
đi không trở lại”, hoặc họ có thể lan truyền những thông tin bất lợi
cho doanh nghiệp.
Sự hiểu biết về hành vi NTD không chỉ thích hợp với các loại hình
doanh nghiệp, mà còn cần thiết cho cả các tổ chức phi lợi nhuận hay
những cơ quan của Chính phủ bảo vệ quyền lợi của NTD để điều
chỉnh các chính sách của minh.
1.4 Nội dung và phương pháp nghiên cứu hành vi NTD
1.4.1 Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu hành vi NTD là nghiên cứu những phản ứng của các cá
nhân khi nghe, nhìn, tiếp xúc, sử dụng các sản phẩm hoặc dịch vụ và
những phản ứng của họ đối với các phương thức tiếp thị sản phẩm
hoặc dịch vụ đó.
Những phản ứng thuộc về hành vi tiêu dùng này phải được nghiên
cứu trong bối cảnh có sự tác động của tâm lý bên trong cùng với ảnh
hưởng của đặc điểm bản thân và môi trường xã hội bên ngoài cá nhân.
1.4.1.1 Những phản ứng của NTD
Qua các cuộc nghiên cứu từ trước đến nay những phản ứng của
NTD bao gồm những phản ứng thuộc về cảm giác, tri giác và hành
động.
Những phản ứng thuốc về cảm giác bộc lộ ra bên ngoài là những
cảm xúc khi họ nghe, nhìn, nghi về sản phẩm, lúc sử dụng sản phẩm
hay khi tiếp xúc với các phương thức tiếp thị của các nhà kinh doanh
sản phẩm hay dịch vụ đó.
Những phản ứng thuộc về tri giác thể hiện qua suy nghi, lý trí, hiểu
biết, đánh giá về sản phẩm, dịch vụ và được bộ lộ bằng những niềm
tin, những quan điểm, ý định, quyết định liên quan đến sản phẩm và
dịch vụ.
Những phản ứng thể hiện qua hành động bao gồm quyết định mua
sắm và những hành động liên quan đến tiêu dùng sản phẩm như mua
làm quà tặng.
Cảm giác và tri giác là hai hình thức của nhận thức con người.
Những phản ứng thuộc về cảm giác và tri giác được coi như là phản
ứng tâm lý của con người.
Bảng 1.1 Phản ứng của NTD khi đối diện với sản phẩm hay dịch vụ
Phản ứng cảm giác - Cảm giác an toàn khi đi máy
bay của VN Airlines
- Khi nhìn vào chai nước Lavie
cảm giác “hợp vệ sinh”
- Các trung tâm ngoại ngữ như
Ila, British Council,… cho chúng
ta cảm giác uy tín
Phản ứng tri giác Hãng VN Airlines có nhiều máy
bay hiện đại, là thành viên của
sky team
- Thông tin trên chai Lavie ghi rõ
thành phần, nguồn nước khoang,
công nghệ xử lý nước,…
- Đội ngũ giảng viên giâu kinh
nghiệm, có nhiều học viên đạt
kết quả cao trong các kỳ thi
chứng chỉ quốc tế,…
Phản ứng hành vi - Chọn hãng VN Airlines khi đi
du lịch
- Mua Lavie khi có nhu cầu giải
khát
- Đăng kí học anh văn tại các
trung tâm trên
1.4.1.2 Những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi NTD
Tất cả những phản ứng thuộc về cảm giác, lý trí, những phản ứng
thể hiện qua hành động của NTD đều chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố
môi trường, các yếu tố cá nhân và các yếu tố tâm lý bên trong của cá
nhân đó.
- Những yếu tố bên ngoài như môi trường văn hóa, nhanh văn hóa,
tầng lớp xã hội, nhôm ảnh hưởng, gia đình là những yếu tố chính tạo
khung cảnh cho hành vi tiêu dùng hình thành.
- Những yếu tố cá nhân như tuổi tác, đường đời, nghề nghiệp, tình
trạng kinh tế, phong cách sống, cá tính là nguyên nhân của các động
cơ, nhu cầu tiêu dùng.
- Những yếu tố tâm lý bên trong con người gồm những yếu tố như
động cơ, nhu cầu, nhận thức, khả năng hiểu biết, niềm tin, thái độ có
ảnh hưởng quan trọng đến các quyết định mua của một người. Vì thế
có thể nói hành vi tiêu dùng là hành vi của cá nhân có động cơ, có
nhận thức và có sự hiểu biết.
Các yếu tố này tác động đến người tiêu dùng khiến họ có những
phản ứng không giống nhau. Các quyết định mua sắm và tiêu dùng
sản phẩm, dịch vụ của người này không thể giống với các quyết định
mua sắm tiêu dùng của người khác do ảnh hưởng của môi trường văn
hóa, xã hội, đặc điểm bản thân và sự thúc đẩy của tâm lý cá nhân.
Ví dụ: Khi mua quần áo mỗi người có những lựa chọn khác nhau về
kiểu dáng, màu sắc, nhãn hiệu,… do họ có tuổi tác, nghề nghiệp, cá
tính, thu nhập khác biệt. Bên cạnh đó họ còn chịu ảnh hưởng bởi
những tác động từ bạn bè, gia đinh, và các quan niệm về thẩm mỹ,
văn hóa trong ăn mặc…
Hình 1.2 Các yếu tố chính ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng và phản
ứng của NTD
1.4.1.3 Những phương thức tiếp thị của doanh nghiệp
- Để kích thích NTD chọn sản phẩm của minh các nhà tiếp thị dùng
phương pháp tác động đến nhận thức và kích thích hành vi của NTD
với mong muốn NTD đưa ra những phản ứng có lợi cho sản phẩm.
- Những tác nhân kích thích tiếp thị cụ thể là các chiến lược
Marketing như chiến lược sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược phân
phối, chiến lược chiêu thị nhằm thu hút người tiêu dùng thông qua
bản chất, đặc tính của sản phẩm, những thuộc tính vật lý của sản
phẩm gồm kích cỡ, kiểu dáng, màu sắc, bao bì, nhãn hiệu sản phẩm,
giá cả của sản phẩm, các thông tin về giá trên quảng cáo, các phiếu
ghi giá, bảng giá trong các cửa hàng, mạng lưới phân phối, các
phương cách đưa hàng hóa đến người tiêu dùng, cách trưng bày cửa
hàng, cửa hiệu, cách bán hàng, các quảng cáo trên tivi, trên báo chí
với kích cỡ, hình ảnh, thời điểm, vị trí của quảng cáo, các chương
trình khuyến mãi…
- Chiến lược Marketing được sử dụng như những yếu tố môi trường
bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi NTD. Nhiệm vụ của nhà quản trị
tiếp thị là làm thế nào để đưa được những chiến lược Marketing có
hiệu quả.
1.4.2 Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu NTD là một công việc không dễ dàng vì đối
tượng nghiên cứu ở đây là con người với những đặc điểm tâm lý khác
nhau. Do đó việc thu nhập dữ liệu về NTD đòi hỏi vận dụng nhiều kỹ
thuật khác nhau. Chính vì thế các nhà nghiên cứu Marketing có thể sử
dụng các phương pháp sau để có được kết quả nghiên cứu tốt nhất
(hình 1.3):
Môi trường
Hình 1.4 Mối quan hệ tương quan giữa nhận thức, hành vi, môi
trường
Ví dụ: Một đứa trẻ có hành vi đòi mẹ của nó mua đồ chơi khi thấy
gian hàng đồ chơi trong nhà sách. Mối quan hệ tương quan giữa nhận
thức, hành vi, môi trường được thể hiện như sau: đứa trẻ đứng trước
gian hàng đồ chơi (môi trường), đã bị thu hút, chú ý, thích, suy nghĩ
(môi trường tác động đến nhận thức) về một sản phẩm đồ chơi và điều
đó thúc đẩy nó nhìn ngắm sản phẩm, cầm lên, xem xét,… và đòi mẹ
mua (nhận thức ảnh hưởng đến hành vi). Hành vi của đứa trẻ khi đi
mua sắm tại gian hàng đó cũng phần nào ảnh hưởng đến việc lựa chọn
hàng hóa để bán và việc trưng bày hàng hóa tại nhà sách (hành vi ảnh
hưởng đến môi trường).
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu NTD trên phạm vi toàn quốc được
các doanh nghiệp Việt Nam tổ chức như các cuộc bình chọn hàng
Việt Nam chất lượng cao của báo Sài Gòn tiếp thị qua các năm, công
trình nghiên cứu về tác động của quảng cáo và khuyến mại đối với
NTD, điều tra xu hướng tiêu dùng của người dân các thành phố,…
Nghiên cứu hành vi NTD được tiến hành trong mọi giai đoạn của
quá trình tiêu dùng: từ trước khi việc mua sắm xảy ra (khi người tiêu
dùng chợt nhận thấy nhu cầu) tới giai đoạn tìm kiếm, đanh giá những
lựa chọn sản phẩm (trải qua các cuộc tìm kiếm thông tin sơ sài đến
các thông tin có tính bao quát), giai đoạn đi đến quyết định mua sắm
thực sự (bao gồm quá trình chọn sản phẩm, chọn nhãn hiệu, chọn cửa
hàng, chọn cách thanh toan chi trả) và cả sau khi việc mua sắm xảy ra
(thái độ lưỡng lự, hài lòng, không hài lòng, mua sắm lại, hoặc tìm
kiếm thêm thông tin).
1.5 Vai trò của nghiên cứu hành vi NTD trong thiết kế chiến
lược Marketing
Nghiên cứu người tiêu dùng nhằm mục đích biết được nhu cầu, sở
thích, thói quen tiêu dùng sản phẩm để từ đó có những thiết kế các
chiến lược Marketing kích thích việc mua. Các chiến lược Marketing
được xem là hiệu quả khi ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức NTD và
thúc đẩy NTD đưa ra các quyết định có lợi cho sản phẩm của doanh
nghiệp. Đây là mối quan hệ tương quan giữa hành vi NTD và chiến
lược Marketing.
Để triển khai các chiến lược Marketing công ty cần tìm hiểu những
vấn đề như trong bảng 1.2 (trang 15) liên quan đến hành vi NTD.
Ứng dụng nghiên cứu hành vi NTD trong thiết kế chiến lược
Marketing
Nghiên cứu hành vi NTD giúp các doanh nghiệp thiết kế chiến lược
Marketing có cơ sở khoa học hơn và hiệu quả hơn do có đầy đủ thông
tin về NTD. Mặt khác, qua đó nhà tiếp thị muốn xác định thị trường
mục tiêu, tìm ra những khúc thị trường mới, kiểm tra được tính thích
ứng của sản phẩm, tính hợp lý của việc định giá, việc phân phối, và
đánh giá được hiệu quả của một chương trình quảng cáo, khuyến mại
đều dựa trên kết quả nghiên cứu hành vi người tiêu dùng.
- Phân khúc thị trường: là cơ sở của hầu hết các chiến lược
Marketing. Để thành công, các nhà tiếp thị phải nắm vững được thị
trường được phân khúc như thế nào và hành vi NTD khác nhau ra sao
ở những phân khúc thị trường khác nhau. Từ đó, các nhà tiếp thị có
thể xác định những nhóm có cùng nhu cầu, thị hiếu, thói quen, để có
thể thiết kế một sản phẩm hoặc một chiến dịch phân phối, khuyeesch
tương riêng.
- Chiến lược sản phẩm: việc nghiên cứu NTD giúp nhà quản trị
Marketing nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của NTD, đưa ra những sản
phẩm có nhiều tiện ích phù hợp với ước muốn của NTD. Ví dụ: Nồi
cơm điện đa năng, máy giặt có chế độ sấy,…
- Đối với việc định giá: Nghiên cứu NTD giúp công ty định giá phù
hợp và tìm ra những mức giá tâm lý mà NTD sẳn sàng chi trả.
Ví dụ: Một công ty mong muốn có vị thế cao cho nhãn hiệu sản phẩm
của mình có thể định giá cao hơn đối thủ cạnh tranh nếu khách hàng
mục tiêu tin vào quan hệ tỉ lệ thuận giữa chất lượng và giá cả. Chẳng
hạn sữa của hãng Abbot, xe hơi BMW,… là những sản phẩm có giá
cả cao nhưng đồng thời nó có chất lượng tương xứng.
- Đối với hoạt động phân phối: Nghiên cứu NTD để nhà tiếp thị biết
được người tiêu dùng có thói quen mua sắm như thế nào từ đó xác
định địa điểm, thời gian, cách thức cung ứng hàng đến tay họ. Ví dụ:
Việc mở các cửa hàng thực phẩm chế biến sẵn ở các con đường thích
hợp sao cho những phụ nữ làm công sở thuận tiện mua thức ăn cho
gia đinh khi họ đi làm về.
- Đối với hoạt động chiêu thị: Nghiên cứu NTD giúp nhà quản trị
chiêu thị xác định xem chương trình quảng cáo, khuyến mại nào có
thể thu hút, thuyết phục họ và biết được nên chọn phương tiện truyền
thông nào để đến được thị trường mục tiêu. Ví dụ: Các chương trình
quảng cáo gắn với các sự kiện như “Omo áo trắng ngời sáng” của
Uniliver hay “Tiếp sức mùa thi” của Thiên Long…; hay các game
show thường mang lại hiệu quả cao hơn
Bảng 1.2: Nghiên cứu NTD trong thiết kế chiến lược Marketing
Chiến lược Những vấn đề cần tìm hiểu qua người tiêu dùng
Marketing
Phân đoạn thị - Đối tượng khách hàng hiện tại cụ thể? Số lượng?
trường Tiêu thức (lứa tuổi, giới tính, tầng lớp xã hội, nơi cư
ngụ, nghề nghiệp, mức thu nhập)
- Khách hàng tiềm năng của sản phẩm? Số lượng?
Tiêu thức?
- Phân khúc thị trường cho sản phẩm theo những tiêu
thức nào của người tiêu dùng?
Sản phẩm - Hiện nay khách hàng đang sử dụng những sản
phẩm nào của doanh nghiệp? Nhãn hiệu?
- Những tiện ích nào của sản phẩm mà NTD tiêu
dùng lựa chọn (lợi ích sử dụng, lợi ích tâm lý, chất
lượng, kiểu dáng, màu sắc…)?
Giá - Tầm quan trọng của giá cả đối với khách hàng ở
những thị trường trọng điểm khác nhau? Mức giá có
thể chấp nhận?
- Sự thay đổi giá có ảnh hưởng gì đối với hành vi
mua sắm? Có thể hình thành mức giá tâm lý?
Phân phối - Khách hàng mua sản phẩm ở đâu? Mua khi nào
(theo ngày, theo mùa)? Mua như thế nào (tùy hứng,
bắt chước người khác, có lựa chọn suy nghĩ)?
- Một hệ thống phân phối khác có thay đổi hành vi
mua sắm của khách hàng?
Chiêu thị - Khách hàng thu nhập thông tin như thế nào (qua
phương tiện truyền thông, qua nhôm tham khảo)?
- Khuyến mại như thế nào để thu hút khách hàng
mua và sử dụng sản phẩm?
- Chương trình quảng cáo được xây dựng như thế
nào để gây ấn tượng nhất cho khách hàng?
Bảng 2.2 Một số điểm khác biệt giữa văn hóa phương Tây và văn hóa
phương Đông
Các nước phương Tây Các nước phương Đông
- Tuổi tác và những giá trị truyền - Tuổi tác và những giá trị truyền
thống không được coi trọng thống được coi trọng
- Mục đích cá nhân là quan trọng - Mục đích của tập thể là quan trọng
- Không có mỗi ràng buộc giữa - Mối ràng buộc giữa cá nhân với gia
cá nhân với gia đình đình là chuẩn mực
- Giáo dục là sự đầu tư cho thành - Giáo dục là sự đầu tư cho thanh thế
đạt cá nhân gia đình
- Không quan tâm đến các nghi - Có ý thức sâu sắc về các nghi thức
thức ngoại giao và cấp bậc
- Chủ động, tự tin trong giao tiếp - Thụ động, thiếu tự tin trong giao
- Tôn trọng lối sống “mở” tiếp
- Không quan tâm nhiều đến giá - Tôn trọng lối sống khép kín
trị gia đình và sự chung thủy - Đề cao giá trị gia đình, coi trọng sự
chung thủy
Ví dụ: Tất cả các quốc gia đều có âm nhạc và âm nhạc là thú tiêu
khiển được mọi người ưa thích nhưng âm nhạc Việt Nam khác âm
nhạc của Mỹ, châu Âu.
Thông qua sự giao lưu văn hóa, dần dần các nền văn hóa có nhiều
điểm chung nhưng vẫn còn có những yếu tố đặc thù. Trong nghiên
cứu hành vi người tiêu dùng điều cần thiết là phải nhận thấy được
những điểm tương đồng, điểm phổ biến của các nền văn hóa và những
điểm khác biệt trong mỗi nền văn hóa để thiết kế các chiến lược
Marketing hiệu quả.
2.3.4 Văn hóa khó thay đổi
Văn hóa được truyền đạt từ thế hệ này sang thế hệ khác và tồn tại
trong những thói quen, tập quán khiến nhiều người khó nhận biết
được, vì thế rất bền vững và khó thay đổi. Tuy nhiên không phải
không có sự thay đổi văn hóa, sự thay đổi có thể đang diễn tiến trong
các cá nhân khi họ tiếp xúc với các nền văn hóa khác nhưng thường
khó khăn, khó nhận biết và rất chậm.
Các nhà kinh doanh có ý định thâm nhập vào một thị trường mới
nên chú ý đến yếu tố này để tránh sự thất bại trong việc thay đổi hành
vi người tiêu dùng.
Ví dụ: Khi MTV xuất hiện ở Ấn Độ, mục tiêu là muốn đem dòng
nhạc Rock, Rap, Pop của phương Tây đến tiểu lục địa này. Ngày nay
thì dòng nhạc này đã chuyển đổi để thích nghi với dòng nhạc
Bhangra của Ấn Độ.
2.3.5 Văn hóa có tính thích nghi
Mặc dù văn hóa khó thay đổi, nhưng các nền văn hóa của các dân
tộc trên thế giới từ trước đến nay đều đã có sự thay đổi. Một vài dân
tộc có thể thay đổi chậm hơn nhưng cũng có những dân tộc năng động
hơn, dễ thích nghi do đó thay đổi nhanh hơn.
Do sự phát triển của khoa học và kĩ thuật, hiện nay các nền văn hóa
đang có khuynh hướng hội nhập và hợp nhất. Yếu tố này làm cho
hành vi tiêu dùng của con người ở các nước trên thế giới có phần nào
đồng nhất, các xu hướng tiêu dùng không quá khác biệt nhau.
Ví dụ: Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật đã cho ra đời những sản
phẩm như máy giặt, máy rửa chén, máy hút bụi,… đã làm thay đổi
văn hóa tiêu dùng của đại đa số những người tiêu dùng thành thị ở
Việt Nam cũng như của các nước trên thế giới.
2.4 Nhánh văn hóa
2.4.1 Khái niệm
Mỗi nền văn hóa chứa đựng những nhóm nhỏ hơn gọi là nhánh văn
hóa. Nhánh văn hóa được hiểu như một nhóm khác biệt tồn tại trong
một nền văn hóa, xã hội rộng lớn và phức tạp hơn. Trong nhánh văn
hóa mỗi thành viên có hành vi đặc trưng, nó bắt nguồn từ niềm tin,
giá trị, chuẩn mực văn hóa, phong tục tập quán riêng khiến nó có sự
khác biệt với các thành viên khác trong xã hội.
2.4.2 Phân loại nhánh văn hóa
Có nhiều cách phân loại nhánh văn hóa khác nhau tác giả phân loại
nhánh văn hóa dựa vào địa lý, dân tộc, khu vực, tôn giáo, tuổi tác,
giới tính, các nhánh văn hóa liên quan đến văn hóa xã hội.
2.4.2.1 Nhánh văn hóa dân tộc
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có nhiều dân tộc khác nhau do sự di
dân từ quốc gia này sang quốc gia khác. Việt Nam hiện nay có 54 dân
tộc bao gồm người Kinh sống trên khắp các vùng lãnh thổ những chủ
yếu ở vùng đồng bằng, gần các con sông, và tại các khu đô thị, hầu
hết các nhóm dân tộc thiểu số (trừ người Hoa, người Khmer, người
Chăm) sống tại các vùng trung du và miền núi, người người Mường
sống chủ yếu trên các vùng đồi núi phía Tây đồng bằng sông Hồng,
tập trung ở Hòa Bình và Thanh Hóa, người Thái định cư ở bờ phải
sông Hồng (Sơn La, Lai Châu), người Tày sống ở bờ trái sông Hồng
(Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên), người Nùng sống ở Lạng Sơn,
Cao Bằng,… Các nhóm dân tộc thiểu số ở trung du và miền núi phía
Nam chủ yếu là các dân tộc bản địa và thường sống tại các lãnh thổ
riêng. Các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, trong đó có Ba
Na, Bru, và Vân Kiều, sống ở cánh Bắc Trường Sơn. Người M’Nông,
Xtiêng và Mạ sống ở đầu phía Nam của dãy Trường Sơn. Các dân tộc
thuộc nhóm Nam Đảo gồm Êđê, Chăm và Gia Rai, đến Việt Nam vào
khoảng thế kỷ 2 trước Công nguyên. Trong các dân tộc này, người
Chăm sinh sống ở đồng bằng ven biển miền Trung, các dân tộc khác
sống rải rác dọc theo dãy Trường Sơn…
Mỗi dân tộc có một hệ thống các niềm tin, giá trị văn hóa, chuẩn
mực văn hóa, phong tục tập quán riêng nên cũng tạo nên hành vi tiêu
dùng riêng. Ví dụ người Chăm An Giang có nguồn gốc, xuất xứ từ
Nam Trung Bộ, thuộc vương quốc Chăm Pa cổ. Dọc theo sông Hậu từ
Châu Đốc trải dài đến giáp biên giới Campuchia có cả thảy 7 làng
Chăm là Châu Giang, Đa Phước, Châu Phong, Lama, Vĩnh Tường,
Búng Lớn, Búng Bình Thiên, Đồng Cô Kỵ. Hiện nay, có khoảng hơn
2000 hộ với trên 13 ngàn người Chăm Islam sinh sống, cư trú tại đây.
Sau các biến cố lịch sử, người Chăm dần thích nghi, hòa nhập với
cuộc sống mới trên vùng đất Tây Nam Bộ. Tuy nhiên, cộng đồng
Chăm An Giang vẫn giữ được những nét văn hóa đặc trưng của tín đồ
theo đạo Islam. Lễ hội là những sinh hoạt văn hóa thiết thân không
thể nào thiếu trong cộng đồng dân tộc Chăm. Người Chăm có rất
nhiều lễ hội. Các lễ hội tiêu biểu của người Chăm An Giang gồm có:
Lễ tạ ơn (Asura) được tổ chức vào mùng 10 tháng Giêng Hồi lịch
(Hồi lịch thường sau âm lịch 1-2 ngày). Lễ cầu an nhằm xin thánh
Allah ban cho con người sự bình an, sức khỏe, mưa thuận gió hòa để
sản xuất nông nghiệp, làm ra lúa gạo, ngũ cốc. Lễ mừng sinh nhật nhà
tiên tri – giáo chủ Mohammed vào ngày 12/4 Hồi lịch hằng năm là
dịp để tín đồ, con cháu, hậu duệ người Chăm tìm hiểu về nguồn gốc,
sự khai sinh, xuất hiện của đạo Hồi. Lễ Ramadan là tháng ăn chay của
người Chăm theo đạo Hồi. Ramadan bắt đầu từ mùng 1 đến ngày 30
của tháng thứ 9 Hồi lịch. Bước vào tháng Ramadan, mọi người Chăm
phải nhịn ăn từ trước khi mặt trời mọc đến mặt trời lặn mỗi ngày. Trẻ
em dưới 15 tuổi được miễn chế độ này. Qua giờ quy định, người ta có
thể ăn uống tự nhiên thoải mái. Ý nghĩa của lễ Ramadan này là sự sẻ
chia, cảm thông với những người nghèo khó, thiếu ăn, thiếu mặc
trong cộng đồng để mọi người yêu thương nhau hơn. Nghi lễ thành
hôn người Chăm. Lễ hội Roya (Tết dân tộc) diễn ra trong ba ngày, từ
1 đến 3 tháng 10 Hồi lịch. Đầu tiên, nam giới trưởng thành (từ 15 tuổi
trở lên) sẽ đến giáo đường hành lễ, cầu nguyện trong một ngày, những
ngày sau đó họ đến nhà hàng xóm thăm hỏi, chúc tụng, chia nhau
những món bánh, thức ăn. Người Chăm An Giang gọi lễ hội này là
“Roya yêu thương”. Vào dịp lễ Roya, người Chăm An Giang thường
vui vẻ tiếp xúc chân tình, cởi mở, nồng hậu đối với du khách cũng
như bà con các dân tộc anh em đến viếng, tham quan làng Chăm. Một
số các nghi lễ mang dấu ấn phong tục tập quán gắn liền với đời sống,
sinh hoạt của người Chăm An Giang như:
LỄ CƯỚI: Theo phong tục dòng Islam, chuyện cưới hỏi của trai gái
người Chăm là do cha mẹ quyết định. Khi người con trai muốn lập gia
đình, cha mẹ anh ta sẽ tìm hiểu, và nhờ ông cả của làng ngỏ lời với
bên gái. Qua mai mối, nếu được chấp nhận, nhà trai sẽ tiến hành lễ
dứt lời (lễ hỏi). Đúng ngày hẹn, bên trai mang lễ vật đến nhà gái gồm
một mâm trái cây và các vật dụng cho cô dâu như áo dài cưới, xà
rông, khăn đội đầu… Vài ngày sau, nhà gái “trả lễ” nhà trai một mâm
bánh và nhà trai trao một phong bì tiền cho nhà gái. Trong ngày cưới,
cô dâu thường mặc áo dài truyền thống màu sáng đẹp, rực rỡ, trùm
khăn ren. Cô dâu được trang điểm rất đẹp cùng với các đồ trang sức
như vòng, kiềng, nhẫn, hoa tai, xuyến… Trang phục của chú rể là
chiếc áo dài truyền thống màu trắng, đầu vấn khăn sà - pạnh.
Lễ cưới của người Chăm An Giang thường diễn ra trong 3 ngày và
1 đêm với các nghi thức như: Lễ Akad Nikad (lễ hôn phối), lễ Takhôk
Khage (lễ lên ghế), đêm Malâm Anưk Thàgà (đêm con gái), lễ Penan
Tin (lễ đưa rể). Một vị chức sắc hoặc một người có uy tín trong làng
cầm một chiếc khăn tay dẫn chú rể về nhà vợ, theo sau là đoàn nhà
trai đưa rể cầm lọng, ô, vừa đi vừa thổi kèn, đánh trống, ca hát những
bài hát Chăm và thánh ca dài theo đường làng, ấp xóm. Khi đã có mặt
đông đủ đại diện hai bên gia đình và thầy cả, nghi thức kà pụn (bắt tay
giao con) sẽ được tiến hành nghiêm túc – đây là nghi lễ quan trọng
nhất trong đám cưới người Chăm dòng Islam. Cha đẻ cô dâu hoặc
người thay thế sẽ cầm tay chú rể nói: “Ta gả con gái ta tên… cho con
với số tiền sính lễ là…” và chú rể sẽ đáp lại “Tôi đồng ý cưới… với
số tiền sính lễ là…”. Sau đó thầy cả sẽ kiểm soát sính lễ của nhà trai
mang qua. Mọi việc ổn thỏa, những người có mặt cùng với thầy cả sẽ
đọc kinh cầu nguyện chúc phúc cho cô dâu, chú rể sống trăm năm
hạnh phúc. Sau thủ tục này, đôi nam nữ trở thành vợ chồng chính
thức.
TANG MA: Khi trong nhà có người hấp hối, gia đình sẽ cho những
người thân đến để đọc kinh Cô – Ran, mục đích là cho người sắp từ
trần có thể ra đi nhẹ nhàng, thanh thản. Khi người thân tắt thở, gia
đình làm lễ “pagalao” tức là sự công nhận người ấy đã “chết thật” và
dùng tay vuốt nhẹ từ trán xuống trên khuôn mặt người đã khuất.
Người chết, theo tục lệ, phải được chôn ngay trong ngày (trong vòng
24 giờ). Người Chăm không sử dụng quann tài, khâm liệm, nhạc lễ,
hương đăng, bái lạy cho người quá cố. Trước khi đem an táng, người
chết được tắm rửa cẩn thận theo nghi thức. Sau đó được bó trong một
tấm vải màu trắng (ka-panh) có kích thước phù hợp với thi thể, không
được dùng kéo cắt, chỉ may và cũng không được dùng vải tốt, “ka-
panh” được xé ra quấn vào người chết và phủ hở khuôn mặt. Sau khi
được bó vào trong vải, người chết được đặt trên một cái kiệu nằm gọi
là “ham-đu” và đem đến thánh đường làm lễ “sambahyang mayit”
(cầu hôn, cầu nguyện), tiếp đến mới đem ra nghĩa trang. Trong đám
tang của người Chăm không sử dụng kèn trống và không được khóc
lóc. Khi người chết được đặt xuống huyệt, thi thể phải tiếp xúc với
đất, cấm che lót phía dưới (đất trở về với đất). Không chôn theo đồ
đạc, quần áo, tàn sản. Mộ người chết đơn sơ, không có núm (bằng
phẳng), chỉ có hai phiến đá (khắc tên tuổi, nguyên quán năm sinh,
năm mất…) ở đầu và chân. Sau khi an táng, người nhà thường xuyên
tới thăm, đọc kinh Cô-Ran cầu nguyện cho linh hồn người quá cố
được sớm lên thiên đàng theo đấng Allah. Ngoài các lễ hội truyền
thống mang biểu hiện tôn giáo, tín ngưỡng, người Chăm An Giang
còn tổ chức nhiều lễ hội khác: Ngày hội Văn hóa dân tộc Chăm Búng
Bình Thiên ở huyện An Phú (Quốc Khánh 2/9), Ngày hội Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đồng bào dân tộc Chăm tỉnh An Giang, được tổ
chức hai năm một lần tại các huyện có dân tộc Chăm sinh sống. Trong
các lễ hội thường có các trò chơi dân gian: đẩy gậy, kéo co, đua
ghe…; trong liên hoan văn nghệ có các thể loại ca, múa, nhạc cụ thể
hiện bản sắc dân tộc; ngoài ra, còn có các tiết mục trình diễn trang
phục, phục dựng lễ cưới truyền thống nhằm giới thiệu sinh động, rõ
nét đặc trưng văn hóa Chăm. Tây Nam Bộ là vùng đất cư trú, sinh
sống của nhiều dân tộc anh em như: Kinh, Khmer, Hoa, Chăm từ khi
vùng đất này còn rất hoang sơ.
Qua quá trình lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, tiền nhân ta đã
bồi đắp nên Đồng bằng sông Cửu Long phì nhiêu, trù phú. Cộng đồng
các dân tộc ở Tây Nam Bộ có truyền thống đoàn kết gắn bó giúp đỡ
nhau trong chiến tranh chống giặc ngoại xâm cũng như trong hòa bình
xây dựng, phát triển đất nước. Người Chăm ở An Giang là một bộ
phận trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam được Nhà nước quan
tâm giúp đỡ về nhiều mặt, trong đó có chính sách bảo tàng, bảo tồn
những giá trị văn hóa phi vật thể - Lễ hội, phong tục, tập quán Chăm
là những sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng mang yếu tố tâm linh đặc thù.
2.4.2.2 Nhánh văn hóa khu vực
Dân cư của mỗi quốc gia đều cư trú ở các khu vực có sự khác nhau
về khí hậu, đất đai, thổ thưỡng và điều kiện kinh tế xã hội, giáo dục,
… đã dẫn đến sự khác nhau về văn hóa và hành vi tiêu dùng. Trong
các khu vực rộng lớn có thể được chia nhỏ thành những phân đoạn
nhỏ hơn đó là từng vùng như khu vực nông thôn, khu vực thành thị,
các tỉnh thuộc khu vực miền Bắc, miền Trung, miền Nam,… với sự
khác nhau về phong tục tập quán, sự nhận thức về sản phẩm, sự lựa
chọm, mua sắm, sử dụng hàng hóa của NTD.
Ví dụ: “Người miền Bắc thích “thương hiệu”, người miền Nam sẵn
sàng thử sản phẩm mới. Người miền Bắc thích quảng cáo “đao to
búa lớn”, người miền Nam lại thích hài hước, vui nhộn,… Sự trải dài
về địa lý và sự phong phú trong văn hóa, lịch sử đã hình thành nên
một Việt Nam với những thói quen rất đặc trưng. Chính những “đặc
trưng” đó đã tác động sâu sắc đến thói quen và hành vi mua sắm của
người tiêu dùng từng vùng miền. Tất nhiên, không có nhà sản xuất
nào chỉ sản xuất thức ăn cho người miền Bắc, cũng chẳng dịch vụ
nào chỉ phục vụ riêng cho người miền Nam nhưng trên thực tế, đã có
những loại dầu gội mà chỉ có người miền Tây Nam Bộ mới xài,
những loại bia chỉ có người miền Bắc mới uống và những giá cả mà
chỉ có người Sài Gòn mới dám mua…” (Tạp chí Marketing, Số 57
trang 29)
2.4.2.3 Nhánh văn hóa tuổi tác
Theo cách phân đoạn thị trường theo tiêu thức tuổi tác thì có thể
chia NTD thành từng nhóm tuổi như trẻ em, thiếu niên, trung niên và
lão niên. Nhánh văn hóa tuổi tác cũng phân tích sự khác biệt về văn
hóa tiêu dùng của các nhánh văn hóa tuổi như cách phân chia trên. Sự
khác nhau về hành vi tiêu dùng của các nhánh văn hóa trên là do sự
khác biệt về đặc điểm tâm sinh lý, tình trạng hôn nhân, tình trạng kinh
tế,…
Những nghiên cứu gần đây cho thấy một sự thay đổi rất lớn trong
hành vi tiêu dùng của người lớn tuổi, có thể gọi là những “thế hệ ông
bà” mới. Ở tuổi 50, họ vẫn nhìn cuộc sống rất lạc quan. Họ tự cho
mình là “những người già năng động”, có nguồn tài chính ổn định do
lương hưu hay nguồn chu cấp đều đặn của con cháu. Họ tham gia
mạnh mẽ vào các đoàn hội, các câu lạc bộ dưỡng sinh hay nhiều khi
cả câu lạc bộ khiêu vũ cổ điển. Họ thường ít phụ thuộc vào con cái
hơn do hầu hết con cái đã có gia đình riêng và khá thành đạt.
Người lớn tuổi Việt Nam ngày nay có xu hướng quan tâm nhiều hơn
đến bản thân mình. Nếu như trước kia mối quan tâm hàng đầu của
người lớn tuổi là gia đình, trông nom con cháu, thì nay vị trí đó được
cân bằng với nhiều mối quan tâm về bản thân hoặc các hoạt động xã
hội khác.
Khác với thế hệ ông bà trước đây, người lớn tuổi hiện nay không tự
giam mình tách biệt với thế giới xung quanh mà vẫn luôn cập nhật về
tình hình xã hội, các kiến thức mới, lối sống mới. Để có thể gần gũi
hơn với con cháu, nhiều cụ ông cụ bà còn học thêm cả internet, sử
dụng điện thoại di động vì từ chính những kiến thức này, người lớn
tuổi không cảm thấy bị lạc hậu hay lỗi thời do đó có thể hòa đồng
cùng cháu nội cháu ngoại.
Người lớn tuổi thường rất thận trọng trong việc ra quyết định mua
sắm, một phần do ngân sách chi tiêu hạn hẹp, một phần do tâm lý
muốn tìm hiểu và áp dụng những kinh nghiệm của mình hay do có
nhiều thời gian để tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi ra quyết định.
Người lớn tuổi thường rất trung thành với nhãn hiệu. Khi họ đã chọn
thương hiệu nào thì có xu hướng chọn thương hiệu đó cho những lần
mua tiếp theo. Điều nàu cũng được giải thích một phần bởi mức độ
mạo hiểm thường giảm dần theo lứa tuổi. Nếu như ở tuổi thanh niên,
họ sẵn sàng thử những sản phẩm mới thì ở tuổi này người tiêu dùng
thường phải cân nhắc rất nhiều yếu tố như giá cả, chất lượng, nguồn
gốc,… trước khi thử. Chính tâm lý tiêu dùng này là một lợi thế với
những nhãn hiệu đã chiếm được lòng tin của người lớn tuổi và cũng
là bất lợi cho những thương hiệu chậm chân hơn.
Thông tin truyền miệng thường mang lại hiệu quả cao trong chiến
lược tiếp thị tới người lớn tuổi. Do có nhiều thời gian rảnh rỗi và
thường tham gia các hoạt động cộng đồng, người lớn tuổi luôn có
một nhu cầu trao đổi thông tin rất lớn. Trong khi họ có thể không trò
chuyện hòa hợp với con cháu do khác nhau về quan điểm sống thì họ
lại rất thoải mái trao đổi với bạn hữu. Họ nói về những sản phẩm họ
dùng, lý do tại sao họ dùng sản phẩm đó và thường là đưa ra nhiều lý
lẽ để bảo vệ chính kiến tiêu dùng của mình. Chính vì vậy, thông tin
truyền miệng thường rất hiệu quả khi thuyết phục người tiêu dùng lớn
tuổi dùng thử sản phẩm mới.
Thông điệp quảng cáo hướng tới các khách hàng lớn tuổi cũng đang
có xu hướng chuyển đổi từ thông tin về lợi ích thực dụng của sản
phẩm sang lợi ích tâm lý có được khi tiêu dùng sản phẩm đó (Từ
“functional benefits” sang “emotional benefits”). Các thông điệp
cũng nên có tiết tấu nhẹ nhàng để khác giả lớn tuổi có đủ thời gian
cảm nhận. (Marketing hướng tới người lớn tuổi – Nguyễn Trọng Tấn)
2.4.2.4 Nhánh văn hóa giới tính
Sự khác biệt giới tính kéo theo sự khác biệt về nhu cầu, nam giới có
thể sẽ có nhu cầu cao về rượu, bia, thuốc lá, xe hơi; nữ giới thì có nhu
cầu về mỹ phẩm, đồ gia dụng, thực phẩm chức năng, dịch vụ làm đẹp,
thời trang,…
Ngày nay, sự bình đẳng trong quan hệ nam nữ đã tạo nhiều cơ hội
nhưng cũng không ít thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam trong
nắm bắt sự thay đổi trong xu hướng tiêu dùng. Trong xã hội hiện đại
vai trò của phụ nữ được đề cao, họ vượt ra khỏi phạm vi gia đình và
đóng góp rất lớn công sức trong xã hội. Chính vì thế, nhu cầu cá nhân
họ ngày một cao hơn, đa dạng hơn và có sự thay đổi nhanh chóng để
bắt nhịp với sự phát triển về kinh tế xã hội trên thế giới.
Với nghiên cứu của FTA được thực hiện dựa trên 600 người tiêu
dùng thuộc hai nhóm nam, nữ vào năm 2012 đã cho thấy sự khác biệt
trong nhu cầu và chi tiêu của nam và nữ. Với kết quả nghiên cứu này
đã hỗ trợ rất lớn cho các doanh nghiệp xây dựng chiến lược sản phẩm,
dịch vụ phù hợp.
1. Các hoạt động và hình thức giải trí
Theo nghiên cứu hoạt động giải trí thường xuyên của nữ giới là xem
TV (50%) và đi mua sắm (34%) trong khi nam giới lại dành nhiều
thời gian cho hoạt động online (34%) và đi cà phê (54%).
Đây là 1 trong 3 hoạt động thường xuyên của hai nhóm đối tượng
này, vì vậy đối với nhóm sản phẩm dành cho nữ giới nên chú trọng
quảng cáo trên TV, kích hoạt thương hiệu tại các siêu thị, trung tâm
thương mại… Đối với nhóm sản phẩm dành cho nam giới có thể tăng
cường PR sản phẩm qua các web, forum chuyên dụng, hoặc kích hoạt
thương hiệu tại các quán cà phê…
2. Các vấn đề cá nhân đang quan tâm
Nữ giới quan tâm đến gia đình, học hành và sức khỏe nhiều hơn
trong khi đó nam giới quan tâm đến công việc, tài chính và tình yêu.
Đây một phần cũng do ảnh hưởng tư tưởng. Nữ giới thường thích
những yếu tố cộng gộp gắn liền với gia đình trong khi nam giới với
tính tự quyết cao thích các yếu tố khẳng định được vị trí, giá trị bản
thân.
Nam giới có xu hướng đầu tư cho sự nghiệp nhiều hơn nữ giới, tỉ lệ
thành công ở nam giới cũng cao hơn (5% nam giới ở độ tuổi 20 – 29
đứng ở vị trí cấp quản lý hoặc đảm nhiệm việc kinh doanh lớn, trong
khi tỉ lệ này ở nữ giới chỉ ~1%)
3. Mục tiêu cuộc sống
Thăng chức/tăng lương là các mục tiêu quan trọng nhất đối với cả
nam và nữ. Tuy nhiên nam giới chú trọng cho mục tiêu làm giàu cao
hơn nữ giới (17% - 10%), còn tỉ lệ nữ giới muốn nâng cao trình độ lại
nhiều hơn nam giới (17% - 15%)
4. Chi tiêu cá nhân
Theo giới tính, nữ giới chi nhiều hơn cho áo quần và các sản phẩm
chăm sóc sắc đẹp (16% so với 11%), và chi ít hơn cho hẹn hò, liên lạc
và đi lại.
Trong khi đó nam giới có xu hướng phải chi nhiều hơn cho giao
thông liên lạc (14%), giải trí (12%) và đặc biệt là chi phí hẹn hò (cao
hơn nhiều so với nữ giới)
5. Mua sắm
- Vai trò quyết định
54% nữ giới là người quyết định chính trong ngành hàng thực phẩm
và 53% quyết định chính trong mặt hàng đồ dùng thiết yếu. Trong khi
59% nam giới quyết định chính nhiều hơn đối với các loại đồ dùng
lâu bền và 62% đối với sản phẩm công nghệ.
- Kênh mua sắm
Chợ và cửa hàng tạp hóa là nơi phổ biến nhất để mua các đồ dùng
thiết yếu (bao gồm các sản phẩm chăm sóc cá nhân, sản phẩm vệ sinh,
…). Siêu thị cũng là một kênh mua sắm quan trọng.
Khi mua thực phẩm, chợ vẫn là lựa chọn đầu tiên và phổ biến nhất
tiếp đó là siêu thị nhưng không đáng kể.
Các sản phẩm chăm sóc sắc đẹp chủ yếu ở các shop quần áo/mỹ
phẩm và các siêu thị.
Bên cạnh đó, 15% là mua chợ và 11% ở trung tâm thương mại.
Trong khi đó các sản phẩm công nghệ được mua nhiều trong các
showroom, hệ thống cửa hàng siêu thị chuyên dụng.
- Yếu tố ảnh hưởng tới quyết định mua
Mặc dù cùng quan tâm tới giá cả, chất lượng nhưng nữ giới có xu
hướng quan tâm nhiều hơn tới thiết kế, màu sắc trong khi nam giới
quan tâm nhiều hơn đến độ bền, tiết kiệm nhiên liệu.
Truyền miệng đóng vai trò quan trọng nhất trong thói quen mua sắm
của cả nam và nữ nhưng nữ giới có xu hướng nghe theo sự góp ý của
bạn bè và người thân nhiều hơn nam giới. Khi được người thân hoặc
bạn bè trực tiếp giới thiệu họ có thể quyết định mua sản phẩm dễ dàng
hơn khi xem quảng cáo trên truyền hình hoặc các nguồn thông tin
khác.
Nữ giới cho rằng quảng cáo trên TV giúp họ định hướng mua sắm
đối với các sản phẩm làm đẹp, chăm sóc cá nhân, thực phẩm.
Đối với nam giới vai trò của quảng cáo trên TV khá quan trọng đối
với việc chọn mua đồ dùng lâu bền nhưng ít quan trọng hơn khi chọn
mua sản phẩm công nghệ. Đối với nhân viên bán hàng, nữ giới đề cao
yếu tố thân thiện nhã nhặn trong khi nam giới đề cao sự hiểu biết, tư
vấn chuyên môn.
2.5 Ứng dụng nghiên cứu văn hóa vào hoạt động Marketing
2.5.1 Hoạt động Marketing quốc tế
Doanh nghiệp khi đưa sản phẩm đến một thị trường nước ngoài cần
phải xem sản phẩm của mình có phù hợp hay không với nhu cầu, sở
thích, tập quán của khách hàng địa phương. Chẳng hạn không thể đem
thịt bò bán ở Ấn Độ.
Nếu thị trường có nhu cầu thì xem xét đến nhu cầu, mục đích, thói
quen sử dụng hàng hóa, dịch vụ đó như thế nào, xem xét thị hiếu, sở
thích, xem xét các phản ứng của người tiêu dùng trọng điểm như thế
nào trước các phương thức Marketing của doanh nghiệp.
Ví dụ: Hallmark – Một loại thiệp có in sẵn các thông điệp chúc
mừng – đã rất thành công ở Anh và Mỹ nhưng khi sang Pháp nó đã
không chiếm được cảm tình vì người Pháp thích được tự tay viết ra
những lời chúc dành cho những người thân yêu của họ.
Sự khác biệt văn hóa trong thị trường quốc tế tạo những thách thức
lớn lao cho nhà tiếp thị. Những sự hiểu lầm ý nghĩa của các thông
điệp, các hình ảnh của quảng cáo, kiểu mẫu sản phẩm do ngôn ngữ
bất đồng, do tập quán kinh doanh khác nhau có thể gây bất lợi cho
doanh nghiệp.
Ví dụ: Trong quyển “Sự thật về 100 thất bại thương hiệu” có nói
đến sự thất bại của Pepsi ở Đài Loan là do câu khẩu hiệu “Đến và
Sống với Thế hệ Pepsi” được chuyển sang Hoa ngữ là “Pepsi sẽ
mang tổ tiên các bạn trở về từ cõi chết”
Các nhà tiếp thị thường giải quyết sự khác biệt văn hóa giữa các thị
trường bằng một số phương pháp chung như sau:
- Công ty đưa ra chiến lược Marketing thích hợp với đặc điểm của
mỗi thị trường.
- Công ty có thể tiêu chuẩn hóa chiến lược Marketing của mình qua
nhiều thị trường khác nhau
- Công ty có thể sử dụng chiến lược Marketing để biến đổi văn hóa
Chúng ta đã biết văn hóa rất khó thay đổi và sự thay đổi diễn ra rất
chậm. Tuy nhiên sự biến chuyển văn hóa vẫn xảy ra và Marketing
đóng một vai trò quan trọng trong sự thay đổi này.
Ví dụ: Sự thay đổi về cách uống cà phê của Việt Nam mang đậm
phong cách hiện đại. Trước kia người uống cà phê nhất là cà phê
phin, ngày nay cà phê hòa tan được ưa chuộng vì sự tiện lợi của nó.
Sự thay đổi này có sự góp phần không nhỏ của Nescafe khi họ thâm
nhập vào thị trường Việt Nam.
2.5.2 Marketing thị trường trong nước
Trong thị trường nội địa, những ảnh hưởng của văn hóa cũng quan
trọng như trong thị trường quốc tế nhưng khó nhận thấy hơn vì bản
thân nhà kinh doanh quá quen thuộc và coi điều đó như là một phần
trong cuộc sống hàng ngày của mình.
Tìm hiểu về văn hóa giúp các doanh nghiệp có thể:
- Nhắm đến một vài nhánh văn hóa để làm thị trường mục tiêu của
mình và thiết kế các chiến lược Marketing phù hợp với đặc điểm của
từng thị trường.
Ví dụ: Sản phẩm xa xỉ, đắt tiền thường nhắm đến thị trường thành
phố. Sản phẩm giấy vàng mã, nhang đèn được nhắm đến nhóm khách
hàng hay đi chùa cúng bái hoặc xuất sang thị trường Đài Loan.
- Xây dựng chiến lược Marketing phù hợp với những giá trị văn hóa
cốt lõi.
Ví dụ: Để có thể xây dựng thành công sản phẩm X-men công ty ICP
đã đánh vào tâm lý thích khẳng định sự thành đạt, tự tin của phái
mạnh.
- Dự đoán được những biến chuyển văn hóa, kịp thời tung sản phẩm
mới ra thị trường, thiết kế chiến lược Marketing thu hút người tiêu
dùng.
Ví dụ: Công ty Vissan đã nắm bắt sự biến đổi về nhu cầu nội trợ
của phụ nữ ngày nay. Họ vừa phải chu toàn công việc cơ quan vừa
chăm sóc cho gia đình do đó thời gian rất eo hẹp nên các loại thức ăn
chế biến sẵn hoặc sơ chế của Vissan đã tung ra thị trường và đã bán
rất chạy.
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Trong phạm vi Marketing và hành vi NTD, văn hóa là toàn bộ
những niềm tin, giá trị, chuẩn mực, phong tục, tập quán,… dùng
để hướng dẫn hành vi người tiêu dùng.
Văn hóa ảnh hưởng sâu sắc đến hành vi NTD. Tuy nhiên đôi lúc
nó cũng có sự thay đổi và hợp nhất. Do đó, mặc dù có sự khác
biệt về văn hóa tiêu dùng của các dân tộc nhưng bên cạnh đó nó
cũng có những điểm tương đồng.
Nhánh văn hóa là những nhóm văn hóa nhỏ đồng nhất trong xã
hội. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến sở thích, cách lựa chọn, đánh
giá, mua sắm và tiêu dùng sản phẩm. Chính các yếu tố dân tộc,
tôn giáo, địa lý, tuổi tác, giới tính là nền tảng cho việc phân chia
các nhánh văn hóa. Việc phân khúc các nhánh văn hóa giúp các
nhà tiếp thị nhận diện rõ hơn nhu cầu của khách hàng từ đó có
thể thiết kế các chiến lược Marketing cho phù hợp.
Câu hỏi
1. Phân biệt giá trị văn hóa, chuẩn mực văn hóa và phong tục tập
quán? Cho ví dụ minh họa
2. Cho ví dụ về sự giao thoa văn hóa trong xu hướng tiêu dùng của
người tiêu dùng Việt Nam
3. Cho ví dụ một vài lễ hội để chứng minh văn hóa hay nhánh văn
hóa ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng
4. Theo bạn các sản phẩm thời trang đang được giới trẻ Việt Nam
ưa chuộng có phải là sự hợp nhất của văn hóa phương Tây
không?
5. Theo bạn, quan điểm tôn trọng những giá trị truyền thống ở Việt
Nam hiện nay còn tồn tại không? Những giá trị đó đã ảnh hưởng
như thế nào tới hành vi tiêu dùng của giới trẻ hiện nay.
6. Thói quen tiêu dùng của bạn có bị ảnh hưởng bởi nhánh văn hóa
không? Cho ví dụ
CHƯƠNG 3
CÁC YẾU TỐ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN HÀNH
VI NGƯỜI TIÊU DÙNG CÁ NHÂN
Trong bản thân mỗi người tiêu dùng đều nhận thấy càng lớn chúng
ta càng đòi hỏi nhiều hơn không chỉ là đòi hỏi những nhu cầu về vật
chất mà còn có cả những đòi hỏi về tinh thần, mong muốn mở rộng
mối quan hệ từ gia đình ra đến bạn bè, đồng nghiệp và đến các mối
quan hệ xã hội rộng lớn khác. Với các mối quan hệ khác nhau đó
chúng ta nhận thấy có sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa thành viên này với
thành viên khác, của nhóm này với nhóm khác. Sự ảnh hưởng này
không chỉ dừng lại ở nhận thức mà còn cả đến hành vi ứng xử và mua
sắm. Sự ảnh hưởng này càng sâu rộng hơn nếu đó là những sản phẩm
có giá trị cao như xe hơi, nhà cửa, du lịch, … và sự ảnh hưởng này
luôn luôn thay đổi không ngừng.
Vì thế việc tìm hiểu những ảnh hưởng xã hội đến hành vi tiêu dùng
của NTD là cần thiết giúp cho các nhà tiếp thị đạt kết quả trong những
nỗ lực marketing để đem lại những giá trị cao hơn trong kinh doanh.
Nội dung của chương bao gồm hai phần chính:
Phần đầu tìm hiểu và phân loại các nhóm xã hội, xem xét ảnh
hưởng của những nhóm xã hội tiêu biểu đến
hành vi tiêu dùng.
Phần thứ hai đi sâu vào việc tìm hiểu tác động của gia đình, nhóm
tham khảo, giai tầng xã hội đối với người tiêu dùng.
Sau khi học xong chương này sinh viên có thể:
Trình bày các khái niệm về nhóm xã hội và nhóm tham khảo
Phân biệt được các nhóm xã hội
Nhận biết các chức năng của nhóm, hiểu được các tác động của
các nhóm như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, nhóm tham khảo, …
đến quá trình tiêu dùng
Hiểu được bản chất của hộ gia đình và các giai đoạn khác nhau
trong chu kì sống của hộ gia đình. Đánh giá vai trò của gia đình
trong các quyết định iên quan đến mua sắm. Nắm bắt được các xu
hướng hiện tại và tương lai liên quan đến hành vi tiêu dùng.
Đánh giá được tác động của các tầng lớp xã hội đến quyết định
lựa chọn mua sản phẩm.
Vận dụng kết quả nghiên cứu những tác động nói trên để đưa ra
các chính sách tiếp thị
3.1. Nhóm xã hội
3.1.1. Khái niệm
Nhóm xã hội là một tập thể gồm hai hay nhiều người trở lên
ảnh hưởng, tác động lẫn nhau để hoàn thành những mục tiêu các nhân
hay mục tiêu chung. Mỗi nhóm có những quy tắc “luật lệ” riêng mà
các thành viên cần tuân theo.
Ví dụ: Nhóm các cựu chiến binh, nhóm các thành viên chơi
chứng khoán …
Đặc điểm của nhóm
Mỗi thành viên trong nhóm xã hội có vai trò và địa vị
nhất định
Ví dụ: Người cha trong gia đình có thể là giám đốc một công
ty, là con của ông bà, là chồng, là một công dân của xã hội.
Ứng dụng việc nghiên cứu vai trò của nhóm xã hội trong
hoạt động Marketing:
Người tiêu dùng thường mua những sản phẩm phù hợp với
vai trò, địa vị của mình. Những nhà tiếp thị sáng tạo có thể chỉ dẫn và
cung cấp những sản phẩm nhằm giúp những cá nhân giữ đúng vai trò
của họ và được sự chấp nhận của nhóm.
Ví dụ: Các hãng sản xuất xe hơi hiện nay họ nhắm vào tầng lớp giám
đốc trẻ, thành đạt và các sản phẩm này càng làm tăng thêm hình ảnh
thành đạt, giàu có của khách hàng mục tiêu
3.1.2. Phân loại nhóm xã hội
Nhóm xã hội có thể được phân loại theo những cách sau
Phân loại nhóm Đặc tính
Nhóm sơ cấp Quan hệ thường xuyên, thân mật,
ý kiến, quan điểm của cá nhân
được quan tâm.
Nhóm thứ cấp
Quan hệ có thể thường xuyên,
thiếu sự thân mật, không quan
tâm đến ý kiến người khác.
Nhóm chính thức Có cơ cấu tổ chức rõ ràng, có
nguyên tắc chung, có mục đích
riêng, một số cá nhân giữ vai trò
điều hành nhóm.
Nhóm không chính thức
Tổ chức lỏng lẻo, thiếu mục
đích, những nguyên tắc không
được viết thành văn.
Nhóm thành viên Cá nhân là những thành viên của
nhóm.
Nhóm biểu tượng Cá nhân không thể gia nhập
nhóm bắt chước giá trị, thái độ,
hành vi của nhóm.
Gia đình
Bạn bè
CHƯƠNG 4
CÁC YẾU TỐ CÁ NHÂN TÁC ĐỘNG ĐẾN HÀNH
VI TIÊU DÙNG
Hành vi tiêu dùng bị chi phối bởi các yếu tố môi trường bên ngoài
như văn hóa và xã hội được đề cập ở hai chương trước. Trong chương
này tác giả muốn đi vào phân tích những yếu tố môi trường bên trong
có ảnh hưởng lớn đến hành vi mua của NTD đó là yếu tố cá nhân. Sự
ảnh hưởng của yếu tố cá nhân bao gồm: tuổi tác, nghề nghiệp, cá tính,
phong cách sống, tình trạng kinh tế,…đến hành vi tiêu dùng của NTD
là rất đa dạng và luôn thay đổi.
Nội dung của chương trình này chia thành 2 phần chính:
Tìm hiểu các yếu tố như tuổi tác, nghề nghiệp, cá tính, phong
cách sống, tình trạng kinh tế có vai trò quan trọng như thế nào
đối với quyết định mua của khác hàng.
Tìm hiểu các yếu tố cá nhana của khách hàng để từ đó có thể
thiết lập những chiến lược Marketing hiệu quả.
Học xong chương này sinh viên có thể:
Giải thích được sự ảnh hưởng của các yếu tố cá nhân đến hành
vi mua của NTD
Phân tích được sự ảnh hưởng của các yếu tố đó đến hành vi mua
của họ
Tiến hành ứng dụng của việc tìm hiểu các yếu tố cá nhân của
NTD mục tiêu vào hoạt động Marketing của Doanh nghiệp
4.1. Tuổi tác và các giai đoạn trong chu kỳ đời sống
4.1.1.Khái niệm
Thời gian đã qua kể từ khi sinh tính bằng năm đến một thời điểm
nào đó.
Khi nghiên cứu về tuổi người ta nghiên cứu sự khác nhau trong nhu
cầu do yếu tố tâm sinh lý tạo nên.
-Nhu cầu tiêu dùng của con người luôn có sự thay đổi theo từng độ
tuổi khác nhau, hoặc quá trình tiếp xúc với xã hội…
Ví dụ: Ở lứa tuổi mẫu giáo đa phần những đứa trẻ thích màu hòng,
khi lớn lên màu sắc yêu thích sẽ thay đổi như thích màu tím, khi về
già lại thích màu đen. Do vậy các sản phẩm cũng được thiết kế màu
sắc cho phù hợp với từng lứa tuổi..
-Việc tiêu dùng cũng thay đổi qua các giai đoạn trong chu kì đời
sống của gia đình do sự thay đổi số lượng và tuổi tác của các thành
viên trong gia đình dẫn đến tâm lý, nhu cầu và sở thích thay đổi.
Ví dụ: Gia đình có trẻ em thì có nhu cầu lớn về sữa. Gia đình có
thanh thiếu niên thì có nhu cầu về thực phầm và học tập.
4.1.2. Ứng dụng vào hoạt động marketing
Căn cứ vào đặc điểm cá nhân này, doanh nghiệp có thể phân thị
trường thành những giai đoạn nhỏ để đưa ra các sản phẩm có cộng
dụng khác nhau phục vụ từng lứa tuổi, hoặc chọn một phân đoạn để
phục vụ (bảng 4.1).
Bảng 4.1. Nhu cầu của NTD ở từng độ tuổi thông qua việc mua sắm
sản phẩm
Độ tuổi Hàng hóa, nhu cầu mua sắm
Trẻ sơ sinh Thực phẩm, sữa cho từng độ tuổi
- 5 tuổi Đồ dùng, quần áo, đồ chơi cho trẻ
Từ 6 – 5 Thực phẩm, các sản phẩm bổ sung chất dinh dưỡng
tuổi Áo quần, sách vở, dụng cụ học tập
Học năng khiếu, học các môn thể thao
Các dịch vụ vui chơi, băng nhạc, phim ảnh, truyện, báo dành
cho thiếu nhi, thiếu niên
Từ 16 – 22 Nhu cầu giống như trên nhưng số lượng tăng hơn
tuổi Đặc biệt, nhu cầu giải trí và nhu cầu học tập là rất lớn
Từ 23 – 34 Nhu cầu về quần áo, mỹ phẩm, xe máy, đồ gia dụng, đồ điện
tuổi tử
Các dịch vụ chăm sóc sắc đẹp
Nhà ở, các sp phục vụ cho cưới hỏi, lễ hội
Nhu cầu học tập, sách, báo
Từ 35 – 54 Nhà cửa rộng rãi hơn, xe tốt hơn, đồ nội thất mới và đẹp hơn
tuổi Tập luyện thể dục thể thao, thể dục thẩm mỹ
Nhu cầu về mỹ phẩm, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp
Sách báo, du lịch
Từ 55 tuổi Dịch vụ y khoa, thuôc men
trở lên Du lịch, Sách báo y học, thể dục duy trì sức khỏe
Các sản phẩm phục vụ cho hoạt động từ thiện
- Đối với sản phẩm cùng công dụng phục vụ cho các thị trường
theo độ tuổi khác nhau, sản phẩm phải thay đổi về mẫu mã, kích
thước, màu sắc, bao bì cho phù hợp với từng lứa tuổi. Ví dụ:
Giày dép cho trẻ em thường có nhiều màu sắc sặc sỡ, chất liệu
tốt; tuổi thanh thiếu niên thì kiểu dáng phải đa dạng, hợp thời
trang; tuổi trung niên thì chú trọng đến độ bền, màu nhã nhặn,
nhẹ nhàng êm chân…
- Muốn hoạt động chiêu thị của mình có hiệu quả, các nhà tiếp thị
cũng phải quan tâm đến yếu tố tuổi tác khi đưa ra các chiến dịch
quảng cáo, khuyến mãi:
Đối với những người tiêu dùng trẻ tuổi quảng cáo thường đưa
ra những gợi ý như ganh đua, bắt chước theo thị hiếu, phong
trào mới để kích thích sự mua hàng, khuyến mãi thường kích
thích sự phiêu lưu, may rủi như mua hàng được tham dự các
cuộc xổ số trúng thưởng.
Ví dụ: Nhắm vào đối tượng khách hàng là nam thanh niên thành
đạt nên X-men đã sử dụng những hình ảnh tạo sự phiêu lưu, mạo
hiểm và đầy ấn tượng với slogan “Bó tay sao được”
Đối với người lớn tuổi quảng cáo trên đưa ra những gợi ý về
các nhu cầu biểu lộ địa vị, sự thành đạt, sự kính trọng, nhu
cầu an toàn…, người lớn tuổi thích mua hàng kèm theo quà
tặng hay giảm giá hơn là xổ số may rủi.
Ví dụ: SG Tourist thiết kế chương trình tour đặc biệt để chào thu là
“Mùa thu Paris – Dành cho người cao tuổi” với giá ưu đãi dành cho
khách từ 60 – 80 tuổi là 62.073.000 đ/khách (>60 tuổi: 62.910.000
đ/khách), với 8 ngày khám phá Paris – thủ đô của những công trình
văn hóa – lịch sử nổi tiếng thế giới, phù hợp gu tham quan của người
cao tuổi: tháp Eiffel, quảng trường La Concorde, Nhà thờ Đức Bà,
lâu đài Napoleon – Fontainebleau, cung điện Versailles, vườn
Luxembourg…khách cao tuổi sẽ được tặng nón và khăn lem quàng cổ
và được bố trí nghỉ ngơi trong hệ thống khách sạn sang trọng, chế độ
ăn uống được chú trọng đảm bảo phù hợp khẩu vị và dinh dưỡng cao.
+ Những người tiêu dùng định hướng theo nguyên tắc: đi theo tiêu
chuẩn thi tượng được lý tưởng hóa, hành động của họ thường dựa vào
niềm tin và thái , của cá nhân họ, những người này ưa thích những
nhãn hiệu có giá trị và có chí. lượng.
+ Những người tiêu dùng định hướng địa vị: với khao khát được
người khác chấp nhận và nhận được ý kiến từ họ. Những người này
quan tâm trước tiên đến niềm tin và thái độ của người khác, chuộng
những nhãn hiệu có uy tín.
+ Những người tiêu dùng định hướng xã hội: hoạt động của họ có tính
chất cộng đồng, là những người tìm kiếm cảm giác mạnh, muốn chấp
nhận rủi ro, thích những sản phẩm có tính hoạt động như: vợt, banh
tennis, cây golf, dù để nhảy, ván trượt tuyết...
Các nguồn lực: Nguồn lực nhằm nói đến toàn bộ các đặc điểm
tâm lý, vật lý, dân số và vật chất bao hàm giáo dục, thu nhập, y
tế, sự sốt sắng trong mua sắm và mức năng lượng, phân loại từ
tối thiểu đến dư thừa mà theo đó khách hàng sử dụng. Hai khía
cạnh này kết hợp lại tạo ra tám lối sống khác nhau
• Người thành đạt tối đa Người thành công, hoạt bát, tinh tường và
“đảm nhận trách nhiệm” với lòng tự trọng cao và nguồn lực dồi dào,
nỗ lực phát triển, tìm tòi thể hiện chính mình bằng nhiều cách.
• Người hoàn thành (định hướng theo nguyên tắc) Người chững chạc,
thoả mãn, thoải mái, có giáo dục và suy nghĩ chín chắn, tôn trọng trật
tự, kiến thức và trách nhiệm. Họ thường dựa những quyết định của
mình vào những nguyên tắc được tuân thủ nghiêm ngặt, có vẻ bình
tĩnh và tự tin; các hoạt động giải trí chủ yếu diễn ra tại nhà.
• Người thành đạt (định hướng theo địa vị) Người thành công trong
nghề nghiệp, thích làm việc, cảm thấy có khả năng tự kiểm soát chính
cuộc sống của họ. Họ tôn trọng cơ cấu, khả năng dự đoán và tính ổn
định và toàn tâm toàn ý đối với công việc và gia đình. Cuộc sống xã
hội của họ xoay quanh gia đình, nhà thờ và công việc.
• Người kinh nghiệm (định hướng theo hành động) Trẻ tuổi, năng nổ,
nhiệt tình, bốc đồng và nổi loạn. Họ tìm kiếm sự đa dạng và phấn
khích, trở nên nhanh chóng háo hức đối với các khả năng mới và
nguội lạnh cũng nhanh như thế. Năng lượng của họ thoát ra thông qua
hoạt động thể dục, giải trí ngoài trời, thể thao và các hoạt động xã hội.
• Người tin tưởng (định hướng theo nguyên tắc) Người bảo thủ,
truyền thống với niềm tin cụ thể dựa vào những chuẩn mực truyền
thống lâu đời như gia đình, nhà thờ, cộng đồng và quốc gia. Họ làm
theo những hoạt độn thường nhật đã thiết lập từ lâu chủ yếu xoay
quanh nhà ở, gia đình, các tổ chức xã hội và tôn giáo.
• Người nỗ lực (định hướng theo địa vị) Tìm kiếm động lực, tự xác
định mình và sự chấp nhận của những người xung quanh. Không chắc
chắn về chính mình và có nguồn lực kinh tế, xã hội và tâm lý thấp,
người nỗ lực quan tâm nhiều đến ý kiến và sự chấp nhận của người
khác.
• Người hành động (định hướng theo hành động) Người thực tế với
các kỹ năng tốt đánh giá cao sự tự lực. Họ sống trong bối cảnh truyền
thống về gia đình, công việc thực tế và giải trí thể chất, không quan
tâm đến sở hữu vật chất ngoại trừ vật chất có mục đích sử dụng thực
tế.
* Nguồn lực thấp Ngrời đấu tranh Có nguồn lực kinh tế, xã hội và
tình cảm hạn chế. Ho nhận thấy thế giới xung quanh quá áp lực và
khó khăn và tập trung vào nhu cầu trước mắt.
Dựa vào khung lối sống các nhà Marketing đã thiết kế chiến lược
Marketing cho phù hợp:
- Căn cứ để phân khúc thị trường. Chẳng hạn nhà tiếp thị có thể
chọn tiêu thức tâm lý, cụ thể có thể chọn cung cấp sản phẩm cho
đối tượng khách hàng thành đạt, có nguồn lực tài chính cao.
Ví dụ: Áo sơmi của Pierre Cardin nhắm tới đối tượng khách hàng là
nam giới, thành đạt và có thu nhập cao nên sản phẩm này được thiết
kế sang trọng, giá cả cao.
- Sự tác động của truyền thông có thể làm thay đổi phong cách
sống của khách hàng từ đó thay đổi hành vi mua hàng.
Ví dụ: Giới trẻ ngày nay có phong cách sống sành điệu và hiện đại
hơn qua việc thay đổi hành vi mua và hành vi thanh toán từ mua trực
tiếp tại điểm bán và thanh toán bằng tiền mặt chuyển sang mua
online và thanh toán bằng thẻ visa, master card. Kết quả này là sự
thành công trong công tác truyền thông của các ngân hàng.
4.5. Cá tính
Theo Phillip Kotler “Cá tính là những đặc tính tâm lý nổi bật của
mỗi con người, tạo ra thế ứng xử có tính ổn định và nhất quán đối môi
trường xung quanh”
Con người có thể có cá tính như: tự tin, thận trọng, khiêm nhường,
hiếu thắng, ngăn nắp, dễ dãi, năng động, bảo thủ, cởi mở,.. Những cá
tính khác biệt tạo ra những hành vi mua hàng khác biệt.
Cá tính ổn định và khó thay đổi vì thế thái độ, cách xử sự của một
người trước các tình huống khác nhau có thể dự đoán được. Điều này
khiến các doanh nghiệp quan tâm đến cá tính khi các quyết định tiêu
dùng về sản phẩm của họ liên quan đến tính cách cá nhân. Các nhà
tiếp thị có thể dựa trên cơ sở cá tính để phân khúc thị trường, tiêu
chuẩn hóa sản phẩm, triển khai các chiến dịch xúc tiến bán hàng.
Ví dụ: Xe máy Suzuki được sản xuất để đáp ứng cho một số đông
khách hàng trẻ tuổi thích thời trang, thích được chú ý.
Tự quan niệm ảnh hưởng rất nhiều bởi tâm lý, văn hóa, xã hội, một
người , dung về mình như thế nào tùy thuộc vào trình độ văn hóa,
giáo dục và môi trường xung quanh của người đó.
- Tự quan niệm thực tế (real self) là cái nhìn chủ quan của một người
về chính nó.
đó.
Ví dụ: Xe hơi Lexus cho người thành đạt; bia Tiger cho “bản lĩnh
đàn ông thời nay”; hay nước hoa Lancome cho sự sang trọng và quý
phái...
4.5.4. Ứng dụng nghiên cứu cá tính khách hàng vào hoạt động
marketing
Nhiều doanh nghiệp đã tiến hành nghiên cứu hành vi mua sắm của
người tiêu dùng và xem các hàng hóa mà người tiêu dùng sử dụng
phản chiếu cá tính của họ. Chẳng hạn công ty Honda Việt Nam đưa
ra thị trường những kiểu xe máy thể hiện cả tinh của người tiêu dùng
và tổ chức những buổi trình diễn đầy ấn tượng để nâng cao giá trị
của sản phẩm, tạo cho người tiêu dùng thấy hình ảnh của họ trong
đó.
Một số người tiêu dùng có xu hướng liên kết yếu tố cá tính với màu
sắc của sản phẩm. Chẳng hạn họ liên kết những màu sắc dưới đây với
các cá tính:
Màu xanh tượng trưng cho những người có cá tính bình tĩnh,
bộc trực, trung thành, thông minh, tìm kiếm sự thành công.
Màu vàng là màu của những người giàu sáng kiến, duy tâm,
kiên nhẫn, say mê.
Màu đỏ cho thấy những cá tính như năng động.
Màu xám cho biết những người có cá tính không phụ thuộc, kín
đáo.
Màu nâu tượng trưng cho những người vững vàng, đáng tin cậy.
Màu tím tượng trưng cho sự thủy chung, kín đáo.
Màu đen tượng trưng cho sự bí ẩn, u buồn...
Màu sắc Mối liên hệ với cá tính Những nhận thức Marketing bên trong
Xanh da trời Quyền lực, sự tôn kính - Màu xanh của chai Heneiken liên kết
với sự mát diệu
- Sữa gầy ít calories
- Màu yêu thích của Mỹ
Xanh lá Tự nhiên, thư giản và - Doanh thu bán gừng khô Canada tăng
sống động khi thay đổi đóng gói từ màu đỏ sang
màu xanh hay trắng
Cam Sức mạnh, không nghi - Thu hút nhanh chóng sự chú ý
lễ
Nâu Tự nhiên, nam tính, sức - Màu yêu thích của đàn ông
mạnh sảng khoái - Cà phê trong hộp màu nâu rất đặc
Đen Quyền lực, sức mạnh và - Quần áo sang trọng, thể hiện quyền lực
sự huyền bí - Sản phẩm điện tử kỹ thuật cao
Vàng, Bạc Vưng giả, quý phái, - Gợi ý giá trội hẳn
giàu có
Căn cứ vào sự liên kết cá tính với màu sắc của người tiêu dùng các
công ty đã có nhiều cân nhắc trong các quyết định sử dụng màu sắc
trên sản phẩm và trên bao bì sản phẩm.
Sự xác định những cá tính cụ thể liên quan đến hành vi tiêu dùng
cũng có ích trong sự phát triển các chiên lược phân đoạn thị trường
của công ty. Các công ty có thể phân chia thị trường mục tiêu của
mình thành những đoạn thị trường nhỏ hơn dựa vào đặc điểm cá tính.
Sau đó triển khai các chiến lược marketing – mix thích hợp với từng
đoạn thị trường.
Sau khi phân đoạn người tiêu dùng theo các kiểu cá tính, công ty có
thể đưa ra những phương thức quảng cáo và chọn lựa các phương tiện
truyền thông nhằm hướng tới những nhóm cá tính này.
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà tiếp thị nhận thấy rằng khách
hàng mua sắm hàng hóa và dịch vụ phản ánh những tính cách mà họ
tự thấy về bản thân hoặc những sản phẩm có khả năng làm họ gần
với những tính cách mà họ ước muốn. Chẳng hạn những người tự
xem mình như là người có cá tính năng động thường tham gia vào
những nhóm thể dục, thể thao. Những người tự thấy mình là người tài
năng, thành công trong kinh doanh thường thích chơi tennis, bowling,
golf. Các nhà tiếp thị đã cố gắng triển khai các hình ảnh của nhãn
hiệu sản phẩm để đáp ứng sự tự hình dung của từng thị trường mục
tiêu.
TÓM TẮT CHƯƠNG 4
Tuổi tác, đường đời, nghề nghiệp, tình trạng kinh tế, phong cách
sống, cá tính của một cá nhân cũng ảnh hưởng đến hành vi tiêu
dùng của họ. Căn cứ vào những đặc điểm cá nhân này nhà tiếp
thị có thể phân chia thành những đoạn nhỏ để đưa sản phẩm đến
người tiêu dùng cùng với các phương thức marketing thích hợp.
Việc phân thị trường thành những phân đoạn dựa trên phong
cách sống có thể sử dụng phương pháp VALS2TM để xác định
các nhóm phong cách sống. Cả tính của người tiêu dùng được
nghiên cứu trong mối liên quan đến các hình ảnh, tính cách mà
họ tự đặt cho họ đó là sự tự quan niệm
* Câu hỏi:
1. Theo phương pháp VALS 2TM, sinh viên cho biết mình thuộc loại
khách nào khi tiếp cận với SP?
2. Bạn giải thích như thế nào về việc: mặc dù không có hai cá nhân có
cá tính y hệt nhau, cá tính vẫn được các nhà nghiên cứu người tiêu
dùng sử dụng làm cơ sở cho việc phân khúc thị trường (mỗi khúc thị
trường bao gồm rất nhiều người).
3. Cá tính ảnh hưởng như thế nào đến sự chấp nhận sản phẩm, nhãn
hiệu mới của người tiêu dùng. Theo hạn quảng cáo sản phẩm, nhãn
hiệu mới phải như thế nào mới có thể thuyết phục được các loại người
tiêu dùng này.
4. Là một nhà nghiên cứu thị trường cho một công ty sản xuất xe máy.
Bạn hãy thử phân khúc thị trường theo tiêu thức sự quan niệm. Hãy
triển khai các hình ảnh của nhãn hiệu sản phảm để đáp ứng sự tự quan
niệm của thị trường mục tiêu.
Case study:
Công ty mỹ phẩm Sài Gòn chuẩn bị tung ra một sản phẩn với hương
vani và hương gỗ. Giám đốc Marketing đang suy nghĩ một thông điệp
để chuyền tải tính mềm mại, dịu dàng, quyến rũ của loại nước hoa
này. Trường phòng marketing hiến kế với câu slogan “Thoảng nhẹ làn
hương”, trong khi phó phòng marketing thì cho rẵng cần phải nêu lên
được phong cách cảu khách hàng khi sử dụng sản phẩm và làm sao để
tạo cho khách hàng nhìn thấy mình qua sản phẩm.
a. Bạn ủng hộ ý kiến của trưởng phòng hay phó phòng? Hãy bảo vệ
ý kiến của mình bằng một câu slogan cụ thể.
b. Bạn hãy cho biết sở thích của mình về sản phẩm nước hoa, nhà
tiếp thị có thỏa mãn sở thích của bạn không?
Hành vi tiêu dùng ngoài bị sự chi phối của các yếu tố văn hóa, xã
hội, cá nhân còn bị ảnh hưởng sâu sắc bởi yếu tố tâm lý. Yếu tố tâm
lý cho ta thấy rõ tầm quan trọng khi nắm bắt nhu cầu và động cơ mua
hàng của người tiêu dùng vì người tiêu dùng chỉ phát sinh hành vi
mua hàng khi nhu cầu bị thôi thúc bởi động cơ. Mặt khác, các yếu tố
tâm lý khác như nhận thức, sự hiểu biết, phán đoán, niềm tin, thái độ
của người tiêu dùng sẽ xảy ra khi người tiêu dùng tiếp xúc với sản
phẩm, dịch vụ. Một nhà Marketing muốn chiếm lĩnh “bộ óc” của
người tiêu dùng thì cần nắm rõ những diễn biến tâm lý đang diễn ra
trong đầu họ để dẫn dắt và điều khiển nó theo cách mà doanh nghiệp
mong muốn. Để đạt được mục tiêu này, tác giả mong muốn cung cấp
cho sinh viên cái nhìn sâu sắc về diễn biến tâm lý của người tiêu dùng
khiến hành vi mua của họ bị chi phối.
Do đó, trong chương này tác giả sẽ trình bày và phân tích những nội
dung sau:
• Nhận thức
• Sự hiểu biết
• Niềm tin và thái độ
• Giải thích được sự ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý đến hành vi
mua của NTD
• Phân tích sự ảnh hưởng của các yếu tố đó đến hành vi mua của
họ
• Tiến hành ứng dụng của việc tìm hiểu các yếu tố tâm lý của
NTD mục tiêu vào hoạt động Marketing của Doanh nghiệp
Sau Maslow có nhiều nhà tâm lý học đã phát triển thêm tháp này như
thêm các tầng khác nhau:
Tầng Cognitive: Nhu cầu về nhận thức, hiểu biết - học để hiểu
biết góp phần vào kiến thức chung
Tầng Aesthetic: Nhu cầu về thẫm mỹ - có sự yên bình, ham
muốn hiểu biết về những gì thuộc về nội tại
Tầng Self-transcendence: Nhu cầu về sự tôn bản ngã – một trạng
thái siêu vị kỳ hướng đến trực giác siêu nhiên, lòng vị tha, hòa
hợp, bác ái (Theo Wikipedia)
Tuy nhiên mọi người chấp nhận rộng rãi mô hình 5 cấp bậc nhiều hơn
Những ứng dụng của thang bậc nhu cầu Maslow
(1) Lý thuyết của Maslow có thể ứng dụng vào hoạt động
marketing cho những mặt hàng tiêu dùng, nó thường phục vụ
để thỏa mãn mỗi thang bậc nhu cầu của mỗi cá nhân, mỗi con
người.
Ví dụ: sự thỏa mãn từng thang bậc nhu cầu của khách hàng
khi sử dụng cà phê Trung Nguyên (dựa vào quảng cáo của cà phê
Trung Nguyên)
Thang bậc nhu cầu Lợi ích của cà phê Trung Nguyên
Tự hiện bản thân Tạo nguồn cảm hứng
Tôn trọng, cái tôi Sự tự tin, thành đạt
Xã hội Cảm giác vui vẻ, quây quần
An toàn Không có các chất tạo bọt độc hại
Sinh lý Tỉnh táo, nồng ấm
(2) Thang bậc nhu cầu cũng được sử dụng như là một căn cứ để phân
đoạn thị trường, các nhà tiếp thị có thể triển khai chiến lược sản phẩm
nhằm vào từng phân đoạn. Ví dụ: Bia Heiniken nhằm vào người tiêu
dùng cao cấp, quảng cáo của loại bia này sử dụng hình ảnh, ngôn
ngữ gần với lọai Khách hàng mục tiêu đã chọn.
(3) Thang bậc nhu cầu của Maslow cũng được sử dụng cho việc định
vị sản phẩm
– Ứng dụng này dựa vào quan điểm không có nhu cầu nào được thỏa
mãn hoàn toàn và cá nhân luôn luôn bị thúc đẩy từ nhu cầu này đến
nhu cầu khác, từ thang bậc nhu cầu này đến thang bậc nhu cầu tiếp
theo, việc gợi mở nhu cầu là những ý tưởng của các nhà tiếp thị tài
năng. Ví dụ: Các xe máy giá rẻ, tiện dụng được quảng cáo cho nhu
cầu cơ bản là đi lại. Các xe có thêm một số tính năng được giới thiệu
đến những người thích sự an toàn, tiện lợi. Các hãng sản xuất xe máy
đắt tiền như Spacy đề cập đến nhu cầu sang trọng, thời trang (nhu
cầu ở bậc thứ tư) để định vị sản phẩm của mình.
Ngoài ra một khung nhu cầu cũng được phổ biến do David Mc
Clelland phát triển xác định ba loại nhu cầu chính:
• Nhu cầu thành đạt: ước muốn đạt được những mục tiêu thông qua
chính nỗ lực của mình
• Nhu cầu hòa nhập: ước muốn được người khác chấp nhận
• Nhu cầu quyền lực: ước muốn tạo ảnh hưởng đối với hành vi của
người khác
5.2. Nhận thức của người tiêu dùng
5.2.1. Nhận thức (conscious) là gì?
Thực tế đối với mỗi người là một hiện tượng riêng biệt, được nhận
biết, suy nghĩ, đánh giá căn cứ vào nhu cầu, mong muốn, động cơ và
những kinh nghiên nhân của người đó. Đó là nhận thức của con
người.
Ví dụ: Khách hàng cho rằng khi mua trứng gà ở siêu thị thì hoàn
toàn, về chất lượng và vệ sinh an toàn.
Vì lẽ đó hành động và phản ứng của con người không căn cứ vào
thực tế, quan mà dựa trên nền tảng nhận thức. Động cơ thúc đẩy con
người hành động hành động của con người lại phụ thuộc vào nhận
thức của họ về hiện thực xung quanh. Từ nhận thức con người biểu lộ
tình cảm và thái độ. Do đó, các nhà tiếp thị thu hiều kỹ nhận thức của
từng lọai KH để có thể đề ra chiến lược Marketing Mix phù hợp
5.2.2. Các loại đầu vào của nhận thức
Nhận thức về sản phẩm của một người là kết quả của hai loại đầu
vào khác như và tác động lẫn nhau:
(1) Những yếu tố kích thích từ môi trường bao gồm sự vật, hiện tượng
bên ngoài (hiện thực xung quanh) tác động đến giác quan như kích
thước, màu sắc, trọng lượng, hình thể sản phẩm, bao bì, nhãn hiệu,
các quảng cáo, cách chào mời bán hàng.
(2) Những yếu tố được cung cấp bởi bản thân cá nhân đó như những
mong muốn, động cơ, sự hiểu biết dựa trên những kinh nghiệm có từ
trước.
5.2.3. Các hình thức của nhận thức
Nhận thức diễn ra dưới hai hình thức:
(1) Cảm giác là hình thức thấp nhất của nhận thức, cho ta biết những
thuộc tính riêng lẻ của sự vật đang tác động vào giác quan. Ví dụ, khi
ngửi thấy những mùi khó chịu thì tạo cảm giác ghét SP và khi ngửi
thấy mùi thơm của món ăn thì tạo cảm giác đói bụng, thèm ăn.
Các giác quan tiếp nhận như mắt, tai, mũi, miệng và da có chức năng
nhìn, nghe, nguy nếm và cảm thấy. Khi các giác quan chịu tác động
của những sự vật, hiện tượng đơn giản như quảng cáo, bao bì, một
nhãn hiệu sẽ phát sinh ra những phản ứng gọi là cảm giác.
(2)Tri giác là hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác, phản ánh
trực tiếp và trọn vẹn sự vật, hiện tượng bên ngoài với đầy đủ các đặc
tính của nó.
Đó là những phản ứng như: niềm tin, thái độ, quan điểm, ý định.
5.2.4. Quá trình nhận thức
Quá trình nhận thức bao gồm việc chọn lọc, tổ chức, giải thích
thông tin.
a. Tính chọn lọc của nhận thức
Con người thường xuyên bị tấn công hàng ngày bởi những kích
thích từ môi trường xung quanh như sản phẩm, dịch vụ, các chương
trình quảng cáo thương mại. Điều này khiến tạo nên rất nhiều cảm
giác. Nhưng con người vẫn lựa chọn một cách tiềm thức đối với
những kích thích này. Nói chung con người chỉ tiếp nhận và thức
được một phần những kích thích hướng tới họ.
Sự chọn lọc của nhận thức ảnh hưởng bởi những yếu tố: chính kích
thích đó, động cơ của người tiêu dùng vào thời điểm đó và kinh
nghiệm có trước của người này.
b. Tính tổ chức của nhận thức
Con người không tiếp nhận các kích thích từ môi trường một cách
rời rạc mà có xu hướng tổ chức vào các nhóm và nhận thức chúng
như một tổng thể thống nhất. Ví dụ: Khi thấy một cái túi xách (kích
thích) ta sẽ liên tưởng đến các vật liệu để làm ra SP, các màu sắc,
các kiểu dáng mà một túi xách thường có.
c. Sự giải thích các kích thích
Nhận thức phụ thuộc vào sự giải thích các kích thích. Sự giải thích
các kích thích khác nhau giữa các cá nhân, dựa trên mong muốn, nhu
cầu, động cơ ở thời điểm nhận thức. Chẳng hạn nhìn đôi giày, vật
liệu, màu sắc, kiểu dáng một người đang cần tìm một đôi giày mới
thay thế đôi giày cũ của mình thì có thể cho là bền, đẹp, hợp thời
trang, hoặc ngược lại. Nhưng nếu không có nhu cầu hay hoàn toàn
không có ý định mua giày người đó sẽ xem lướt qua và cho rằng đôi
giày không có gì đặc biệt.
5.2.5. Tiềm thức (subconscious)
Tiềm thức là sự nhận biết sự vật, hiện tượng dưới mức ý thức.
Ngoài sự nhận biết các kích thích có ý thức, có chọn lọc, người ta cho
rằng con người cũng có thể được kích thích ở dưới mức ý thức. . Ví
dụ: Khi nhìn thấy nước bạn thường phát sinh nhu cầu tiềm thức là
nước, mặc dù thức tế bạn không thấy khát nước..
Tuy nhiên nhiều cuộc kiểm nghiệm khác chứng minh ngược lại rằng
các cá nhân có thể nhận thức ở dưới mức nhận biết song họ cũng
không bị thuyết phục đến nỗi có những hành động đáp lại những kích
thích tiềm thức đó, nghĩa là những kích thích tiềm thức đó không ảnh
hưởng đến hành vi mua hàng của họ.
Đôi khi người ta không ý thức được những tình cảm và niềm tin của
họ xuất phát từ đâu cũng như nhiều người khi nghe, xem quảng cáo
nhưng họ không nhận thức được rằng họ đang nghe, xem. Điều này
làm nhiều người lầm tưởng rằng quảng tiềm thức hiệu quả hơn những
quảng cáo được nhận biết công khai.
Hiện nay hình thức quảng cáo tiềm thức bị lên án vì nó điều khiển
người tiêu dùng khiến họ không ý thức được những món hàng mà
mình mua. Ở Việt Nam, một số doanh nghiệp dùng hình thức quảng
cáo này bằng cách dùng hình ảnh, âm thanh đánh vào thị giác và thính
giác của người tiêu dùng. Một số doanh nghiệp lại chọn cách đánh
vào đầu, trái tim hay cái bụng của người tiêu dùng tức là đánh vào suy
nghĩ, phán đoán, phân tích, tưởng tượng, niềm tin, giá trị, bản ngã...
hay là khơi gợi tình cảm, cảm xúc của người tiêu dùng hay nhắm trực
tiếp vào ham muốn của họ.
5.2.6. Ứng dụng trong marketing với trình độ nhận thức của
người tiêu dùng
a. Chiến lược định vị:
Định vị là cách doanh nghiệp để lại ấn tượng trong tâm trí khách
hàng do đó các doanh nghiệp thường tác động vào nhận thức của
khách hàng mục tiêu bằng hình ảnh, mùi hương, âm thanh qua việc
tác động vào các giác quan của họ như nhìn, ngửi, nghe...từ đó những
ấn tượng đó đã đi vào tâm trí họ một cách tự nhiên mà họ không
cưỡng lại được khiến cho các sản phẩm của doanh nghiệp chiếm lĩnh
tâm trí khách hàng so với đối thủ cạnh tranh,
Thực tế các doanh nghiệp thường khó thành công trong chiến lược
định vị do không dự đoán chính xác phản ứng của khách hàng. Để
khắc phục nhược điểm này các doan nghiệp thường sử dụng bản đồ
nhận thức (Perceptual mapping) để có thể đánh giá thế của doanh
nghiệp mình so với đối thủ cạnh tranh. Cần chú ý khi tiến hành định
vị phải mang tính thống nhất từ hình ảnh, thông điệp, bao gói đến
phương tiện truyền thông... đúng theo cách tiếp nhận thông tin của
khách hàng mục tiêu.
Ví dụ: Để có thể thành công trong việc tác động vào nhận thức của
khách hàng qua việc định vị sản phẩm thân thiện với môi trường thì
Edena đã chọn màu xanh là màu chủ đạo của thương hiệu với logo
màu trắng nổi bật trên nền xanh, cùng slogan “Nâng niu từng giấc
ngủ ngon” đến việc chọn chất liệu vải sợi đã giúp Edena ghi dấu ấn
trong tâm trí khách hàng.
b. Chiến lược sử dụng phương tiện truyền thông
Quá trình nhận thức của người tiêu dùng đều trải qua sự chọn lọc có
chủ đích vì vậy để đạt hiệu quả của việc tiếp nhận thông tin nhà tiếp
thị cần lựa chọn phương tiện truyền tin phù hợp với khách hàng mục
tiêu của mình. Mỗi đối tượng khách hàng họ thường xem thông tin
trên một số phương tiện chủ yếu mà họ tin tưởng và phù hợp với nhận
thức của họ. Họ cho rằng đó là phương tiện truyền thông sẽ giúp họ
có đầy đủ thông tin trước khi chọn và quyết định mua. Do đó, sự phù
hợp giữa khách hàng tiêu với nguồn thông tin và phương tiện truyền
tin là vô cùng quan trọng để tạo cho nhu cầu mua nhanh chóng thành
hành vi mua sản phẩm của doanh nghiệp.
c. Chiến lược bán lẻ
Để thông tin về sản phẩm đến với khách hàng mang tính trật tự và
không bị rối loạn thì nhà tiếp thị cần có chiến lược bán lẻ thật hiệu
quả như sắp xếp thông tin tiếp cận khách hàng theo thứ tự trước sau
có tính toán. Ngoài các hoạt động truyền thông doanh nghiệp còn chú
trọng đến cách bài trí, bày hàng tại các quầy, kệ cho hợp lý để thông
tin của doanh nghiệp được khách hàng tiếp cận trước, dễ nhìn thấy,
mang tính liên tục và có ấn tượng nhất định. Kỹ thuật trưng bày tại
điểm bán được coi như một vũ khí lợi hại trong marketing hiện nay để
tiếp cận với tầm nhìn của khách hàng. Mặt khác, việc định một mức
giá bán hợp lý hay còn gọi là mức giá tâm lý có thể dễ dàng đánh gục
khách hàng trong chiến lược này.
d. Bao gói và thông điệp truyền thông
Một trong những vũ khí lợi hại tác động vào nhận thức của khách
hàng là việc thiết kế bao gói nhằm thu hút sự chú ý và tạo sự khác biệt
đối với đối thủ cạnh tranh. Mặt khác bao gói là một công cụ đánh vào
nhận thức của khách hàng nhanh và lưu lại lâu nhất do đó doanh
nghiệp cần tranh thủ để đưa hình ảnh bao bì và cách đóng thật ấn
tượng và độc đáo vào trí nhớ của khách hàng. Tuy nhiên, việc quan
tâm của khách hàng chỉ xảy ra khi họ có sự chú tâm đến việc mua
hàng. Chính vì thế doanh nghiệp cần nhanh chóng truyền hình ảnh về
sản phẩm đến với khách hàng qua công tác truyền thông ngay cả khi
họ không quan tâm đến sản phẩm.
Để gây sự chú ý các nhà tiếp thị thường dùng công cụ quảng cáo với
hình ảnh, mắt với những thông điệp gây “hot” để đánh vào nhận thức
của khách hàng mục tiêu khiến họ khó quên và dễ liên tưởng đến
những vấn đề mang tính “thời sự”. Sự lưu dấu hình ảnh, thông điệp là
công cụ tấn công đắc lực vào bộ nhớ dài hạn của khách hàng mục
tiêu.
e. Chiến lược xây dựng tên cho sản phẩm
Việc đặt tên cho sản phẩm giống như ta đã tạo cho nó một cá tính và
cá tính chính là điểm khác biệt để nhận diện giữa sản phẩm này với
sản phẩm khác. Việc đặt tên phù hợp có thể làm tăng doanh số bán
hoặc ngược lại. Một số mặt hàng công với những cái tên gắn liền với
những con số như HP3000, IBM360,.. đã đánh vào nhận thức của
người tiêu dùng đây là mặt hàng gắn liền với sự cải tiến rất nhanh
nhạy và công nghệ lẫn mẫu mã. Tuy nhiên có những cái tên rất giản dị
như Sony, Apple, X. men, Konica,..cũng đạt đến sự thành công vượt
bậc vì sự đơn giản đã đem lại lợi thế là dễ nhớ, dễ thuộc và dễ gọi nên
nó tồn tại bền vững trong tâm trí của khách hàng.
5.3. Sự hiểu biết (Learning)
5.3.1. Hiểu biết
a. Khái niệm
Sự hiểu biết diễn tả những thay đổi trong hành vi của một người do
kết quả của kinh nghiệm có được từ sự học hỏi và sự từng trải về
cuộc sống, về cách đối nhân xử thế.
Hiểu biết tiêu dùng là quá trình các cá nhân tích lũy kinh nghiệm và
kiến thức về việc mua và sử dụng các sản phẩm, sau đó họ sẽ sử dụng
các kinh nghiệm và kiến thức này trong các hành vi mua và sử dụng
sản phẩm trong tương lai.
b. Quá trình hiểu biết
Quá trình hiểu biết tiêu dùng bao gồm những yếu tố tương tác: động
cơ, gợi ý, đáp ứng, củng cố.
Yếu tố thứ nhất là động cơ, xuất phát từ nhu cầu và mục đích. Động
cơ có vai thúc đẩy quá trình hiểu biết, trong đó nhu cầu và mục đích
mua là những kích thích.
Yếu tố thứ hai là những gợi ý hay tín hiệu. Đây là những kích thích
nhất động cơ của người tiêu dùng. Những kích thích có thể là những
sản phẩm với kiểu Dáng sản phẩm, bao bì sản phẩm, giá sản phẩm,
cách trưng bày trong một các mẫu quảng cáo trên báo chí, phiếu giảm
giá, ý kiến gợi ý của các người khác.
Những đáp ứng là phản ứng của cá nhân trước những động cơ và
gợi ý. Đáp ứng ở đây có thể là hành động mua sản phẩm.
Sự củng cố là kết quả từ một đáp ứng thích hợp. Chẳng hạn mua
được sản phẩm có chất lượng, nhiều lợi ích sẽ tạo cho khách hàng
niềm tin, thái độ tốt đối với sản phẩm.
Ví dụ: Một người có nhu cầu nghỉ ngơi và giảm stress, có động cơ
muốn đi du lịch. Đứng trước rất nhiều công ty du lịch với nhiều thông
tin khác nhau, khách hàng có thể tìm kiếm các thông tin về giá cả,
loại hình du lịch, các dịch vụ kế toán phương tiện đi lại,... của từng
công ty du lịch. Khách hàng xem những chương trình quảng cáo,
nghe nói có đợt giảm giá. Khách hàng được người thân và bạn bè
góp ý và khuyến khích (những gợi ý), tất cả những điều này ảnh
hưởng đến anh ta và có đáp từng là chọn tour du lịch sinh thái của
Sàigòn Tourist. Sau khi sử dụng dịch vụ, anh ta cảm thấy thỏai mái,
thân thiện, tiện lợi, an toàn như anh ta mong muốn thì niềm tin và
thái độ về dịch vụ được củng cố. Sự củng cố có thể dẫn đến việc mua
nhãn hiệu sản phẩm, dịch vụ đó nhiều lần trong tương lai khi có nhu
cầu. Quá trình mua hàng này tạo ra kinh nghiệm và sự hiểu biết.
Hiểu biết tiêu dùng là một quá trình liên tục phát triển và thay đổi,
là kết quả của sự liên kết những thông tin mới được thu nhận trong
môi trường hàng ngày với những thông tin cũ được lưu giữ trong trí
nhớ.
Những thông tin mới luôn luôn được giải thích dựa vào kiến thức và
kinh nghiệm trước đó. Ví dụ, để hiểu cầu quảng cáo của một nhãn
hiệu tivi “Tivi được áp dụng mạch tổ hợp điều khiển bằng kỹ thuật số
tiên tiến thế giới” người tiêu dùng phải biết mạch tổ hợp và kỹ thuật
số là gì mới hiểu rõ thông tin này.
Những hiểu biết mới tích lũy được từ kinh nghiệm trực tiếp (sử
dụng trực tiếp) hay gián tiếp (thu thập được từ đọc sách báo tài liệu,
quan sát hay suy nghĩ).
Một số hiểu biết được tích lũy do chủ định (do sự tìm koemes thông
tin về sản phẩm một cách cẩn thận), phẩn lớn hiểu biết do ngẫu nhiên
không cần cố gắng nhiều.
Hiểu biết nhiều hay ít do kinh nghiệm nhiều hay ít, người lớn tuổi
học hỏi nhiều; từng trải nhiều có kinh nghiệm mua bán thành thạo hơn
người ít tuổi, ít từng trải, non nớt ý thức. Người từng trải về phương
diện nào sẽ có kinh nghiệm mua bán về phương diện đó. Chẳng hạn
phụ nữ thường sành sỏi trong việc mua bán các mặt hàng thực phẩm
hơn nam giới. Nam giới lại thành thạo về hàng công nghệ và điện tử.
5.3.3. Ứng dụng lý thuyết hiểu biết vào hoạt động marketing
Ứng dụng lý thuyết hiểu biết các nhà tiếp thị có thể gợi mở nhu cầu
của người dùng bằng:
- Sử dụng những gợi ý có tính chất thúc đẩy (quảng cáo rầm rộ,
khuyến mại).
Ví dụ: Khi tung sản phẩm sữa tươi 100% Vinamilk đã có một chiến
dịch quảng cáo rầm rộ. Với chiến dịch quảng cáo như vậy Vinamilk
đã tạo một cơn sốt sử dụng sản phẩm này đối với trẻ em.
- Cung cấp sự củng cố có tính chất tích cực (hướng dẫn sử dụng, bảo
hành, bảo trì).
Ví dụ: Để tạo mối quan hệ thân thiết và củng cố niềm tin với khách
hàng siêu thị điện máy Nguyễn Kim thường có chế độ bảo hành cho
từng sản phẩm. Và khi khách hàng mua sản phẩm thì được tư vấn và
hướng dẫn sử dụng một cách tận tình và chu đáo.
- Đối với sản phẩm mới hoặc đối với thị trường mới muốn thâm nhập
công ty có thể gợi nên những thôi thúc như của đối thủ cạnh tranh và
cung cấp những gợi ý tương đồng, vì người mua dễ dịch chuyển lòng
trung thành sang những nhãn hiệu tương tự hơn là những nhãn hiệu
bất tương đồng.
Ví dụ: Để cạnh tranh với Yomost của cô gái Hà Lan thì Vinamilk tung
ra sản phẩm Yomilk với những lợi ích, công dụng gần giống với
Yomost.
- Công ty cũng có thể thành công khi đưa sản phẩm của mình ra thị
trường với những gợi mở thôi thúc khác biệt cùng với việc cống hiến
các lợi ích mạnh mẽ nó đối thủ cạnh tranh khiến cho khách hàng phải
thay đổi thái độ.
Ví dụ: Quảng cáo các sản phẩm sữa bột trẻ em trên báo chí và tivi
thường đưa ra những lợi ích như giúp phát triển về thể lực, trí não và
xương cứng cáp... Riêng sữa bột Gain đưa ra những đặc điểm khác
biệt hơn ngoài những đặc điểm chung là có chất taurin làm bổ não,
thông minh và chỉ quảng cáo trên một vài tạp chí chuyên đề ý tế để
định vị sản phẩm có tính chất như một dược phẩm.
Một ví dụ ứng dụng của lý thuyết hiểu biết vào hoạt động marketing
của một vài nhà sản xuất với mục đích làm người tiêu dùng lặp lại
hành vi mua hàng. Với những kích thích như công cụ, mẫu mã, chất
lượng, giá cả, nhà sản xuất sử dụng những gợi ý như sau để được
người tiêu dùng đáp ứng bằng hành động mua hàng thường xuyên.
Mẫu sản phẩm tặng khách hàng Khách hàng nhận sản phẩm
dùng thử + phiếu giảm giá có giá trị và phiếu giảm giá
lớn cho lần mua lần sau
Mua lần thứ nhất + phiếu giảm
Mua sản phẩm và nhận
giá có giá trị ít hơn thúc đẩy lần
phiếu giảm giá
mua sau
Hình 5. 3: Một ví dụ ứng dụng lý thuyết hiểu biết vào hoạt động
marketing
Người tiêu dùng có thể hình thành nhiều phán đoán khác nhau khi
nhìn thấy một sản phẩm hoặc khi xem một chương trình quảng cáo.
Sau khi phán đoán con người có thể hình thành niềm tin hoặc thái độ
về một sự vật hay một vấn đề
5.4.1. Niềm tin (belief)
Niềm tin là những ý nghĩa cụ thể mà con người có được về một sự vật
hay một vấn đề nào đó. Niềm tin đôi khi dựa trên cảm xúc, đôi khi
không dựa trên cảm xúc con người và ảnh hưởng đến hành vi của
người tiêu dùng.
Lý do nhà tiếp thị quan tâm đến những niềm tin của KH về sản
phẩm
- Các nhà tiếp thị rất quan tâm đến những niềm tin của người tiêu
dùng về thuộc tính và lợi ích sản phẩm của mình. Chẳng hạn
nhiều người tiêu dùng tin rằng sữa Vinamilk là ngon, bổ dưỡng
và giá rẻ. Những niềm tin này tạo nên hình ảnh sản phẩm hoặc
hình ảnh nhãn hiệu trong tâm trí người tiêu dùng và hành vi của
họ dựa trên những tin tưởng đó.
- Một niềm tin về một thuộc tính nào đó của nhãn hiệu cũng bao
hàm sự gán ghép, sự liên tưởng nhãn hiệu đó với thuộc tính
được tin tưởng. Ví dụ: Bột giặt Tide được liên tưởng với “tẩy
trắng”, xe máy Honda được liên tưởng với “tiết kiệm nhiên
liệu”, nệm Kymdan liên tưởng đến “giấc ngủ êm ái”...
- Các doanh nghiệp luôn luôn muốn người tiêu dùng tin tưởng về
một số đặc tính hay lợi ích của sản phẩm để tạo sự khác biệt và
lợi thế đối với nhãn hiệu cạnh tranh. Ví dụ: Nệm Kymdan tốt
cho những người có bệnh về cột sống, sữa Anlene tốt cho xương
nên phù hợp với người bị bệnh loãng xương.
Khác với việc đo lường niềm tin của người tiêu dùng nhằm xác định
những thuộc tính của sản phẩm có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối
với người tiêu dùng. Sự đo lường thái độ được tiến hành bằng cách
tìm hiểu những đánh giá tổng quát như thích, không thích, sản phẩm
tốt hay xấu. Nhưng người ta thường không phân biệt điều này trong
khi tiến hành nghiên cứu người tiêu dùng. .
Có nhiều phương pháp để đo lường thái độ nhưng những phương
pháp định , sau đây là phổ biến:
- Thang điểm có ý nghĩa đối nghịch nhau (Semantic Differential
Scale hay Bipolar Adjective Scale)
Người nghiên cứu sử dụng một chuỗi những tính từ trong đó
từng cặp trái nghĩa nhau chẳng hạn như: tốt – xấu, mới – cũ, tin
tưởng - không tin tưởng, rõ rệt - mờ nhạt, chất lượng cao - chất
lượng thấp, trông lịch sự - trông không lịch sự, sang trọng - không
sang trọng, chua – ngọt, có điểm đặc biệt nào đó- không có điểm gì
đặc biệt, thoải mái không thoải mái, ít dư vị – để lại nhiều dư vị,
mạnh – yếu, thích thú dễ chịu - không thấy thích thú dễ chịu, cảm
giác nhẹ nhàng – cảm giác nặng nề, hương vị đặc biệt - hương vị
không có gì đặc biệt, có vẻ không loãng - có vẻ loãng.
Người được hỏi cho biết ý kiến bằng cách trả lời trên thang điểm có
ý nghĩa đối nghịch nhau gồm 5 hoặc 7 vị trí hay hạng mục đánh giá.
Thang điểm có 5 hạng mục đánh giá rất – khá – vừa nọ, vừa kia – khá
– rất, thang điểm có 7 hạng mục đánh giá: rất – khá – hơi - vừa nọ,
vừa kia – hơi – khá - rất.
- Thang điểm Likert (Agree - Disagree Scale)
Người nghiên cứu không sử dụng những cặp tình từ có ý nghĩa đối
nghịch nhau mà chỉ sử dụng một câu nói, một lời phát biểu, người
được phỏng vấn chi trả lời đồng ý hay không đồng ý đến mức độ nào.
Thang điểm Likert có 5 hạng mục: hoàn toàn đồng ý – đồng ý –
không có ý kiến – không đồng ý – hoàn toàn không đồng ý.
c. Nghiên cứu định lượng về thái độ người tiêu dùng dựa theo lý
thuyết Fishbein và Ajzen :
Hai nhà nghiên cứu hành vi người tiêu dùng Fishbein và Ajzen cho
rằng ty một số niềm tin được liên kết chặt chẽ với nhau sẽ hình thành
thái độ và người tiêu dùng nào có những niềm tin thích hợp về sản
phẩm càng lớn thì thái độ đối với sản phẩm càng tích cực hơn. Điều
này được biểu thị theo công thức sau:
A0 = biei
A0 : Thái độ đối với sự vật (một sản phẩm, một dịch vụ, một vấn đề,
một hành vi hay một sự kiện)
bi : Niềm tin về thuộc tính i (được định lượng trong giới hạn khả năng
o có i)
ei : Sự đánh giá về i
Phương trình này cho thấy niềm tin và sự đánh giá được tính tóan
bằng phép nhân và mỗi sản phẩm được tăng lên b lần khi e được cộng
thêm.
Ví dụ: Một khách hàng được yêu cầu cho biết niềm tin của mình về
giá trị dinh dưỡng của sữa Vinamilk và đánh giá tầm quan trọng về
giá trị dinh dưỡng của sản phẩm Vinamilk
Niềm tin được định lượng theo một thang điểm từ -3 đến + 3: niềm
tin về hàm lượng canxi, omega có trong sữa được xác định ở điểm
(+3), khá đắt (+1), bao bì đẹp, sạch sẽ (+2).
Những giá trị dinh dưỡng của sản phẩm Vinamilk được đánh giá
theo mức độ quan trọng từ -3 đến +3:
- Hàm lượng canxi, omega (+1): đối với người quan tâm đến sự
phát triển chiều cao và trí thông minh ở trẻ
- Giá cao được đánh giá (-2): đối với người đó giá rẻ cũng khá
quan trọng, giá đắt được coi như yếu tố bất lợi của sản phẩm
- Bao bì đẹp, sạch sẽ (+3): người đó quan tâm nhiều đến yếu tố
vệ sinh và thẩm mỹ
Bảng dưới đây cho thấy các b lần e được cộng lại đã đưa ra một
thái độ chung về sản phẩm sữa Vinamilk là +7
Tổng cộng +7
5.4.3 Ứng dụng nghiên cứu thái độ vào hoạt động marketing
a. Thay đổi thái độ của người tiêu dùng
Thái độ được hình thành từ những kinh nghiệm cá nhân, qua những
tiếp xúc trong xã hội, là kết quả của việc thỏa mãn hay không thỏa
mãn một mong muốn nào đó. Thái độ bao giờ cũng là thái độ đối với
một đối tượng cụ thể và khó thay đổi.
Do đó nhà kinh doanh nên làm cho sản phẩm phù hợp với thái độ
của thị trường mục tiêu hơn là cố gắng thay đổi chúng.
Nhà tiếp thị chỉ có hai lựa chọn:
(1) Xác định thái độ người tiêu dùng, nếu thấy sản phẩm không
thích hợp, công ty có thể thiết kế lại sản phẩm hoặc thay đổi sản phẩm
cho phù hợp với mong muốn, nhu cầu của họ như: thay đổi về kiểu
dáng, tạo sự đa dạng về chất lượng, giá cả, thay đổi về kích thước bao
bì, thay đổi trong phân phối, thay đổi chiến lược trong hoạt động bán
lẻ.
(2) Hoặc cố gắng thay đổi thái độ của người tiêu dùng làm cho họ
thích hợp với sản phẩm và có lợi cho sản phẩm. Điều này khó hơn rất
nhiều. Công ty phải chi phí rất lớn mới mong thay đổi thái độ người
tiêu dùng. Có thể thay đổi người tiêu dùng băng những cách sau đây:
+ Thay đổi động cơ, mong muốn thúc đẩy người tiêu dùng mua hàng
bằng cách tăng cường chức năng sử dụng của sản phẩm, chức năng
biểu thị các giá trị xã hội, các giá trị cá nhân, quan điểm, lối sống và
tăng cường nhận thức về nhãn hiệu sản phẩm.
+ Sử dụng quảng cáo
+ Kết hợp sản phẩm với một sự kiện xã hội. Chẳng hạn Dutch Lady
với “đèn đom đóm” trong mùa tựu trường, bút bi Thiên Long với
“tiếp sức mùa thi” trong mùa thi tuyển sinh
+ Tác động vào người đứng đầu dư luận hoặc sử dụng ý kiến, thái độ
của người có uy tín cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến các cá nhân có
quan hệ. Ví dụ: Trong" ngành thực phẩm thường sử dụng ý kiến của
chuyên gia dinh dưỡng.
1. Bạn có sưu tầm các bao bì của các sản phẩm có những màu sắc mà
bạn thích không? Nếu có bạn làm cách nào để có nó?
2. Hãy kể về một sản phẩm mà bạn đã mua do sự thức đây của động
cơ và có biết doanh nghiệp đã tác động như thế nào để làm tăng sự
căng thẳng của bạn?
3. Bạn hãy đưa ra một vài mẫu quảng cáo mà bạn cho rằng những
mẫu quảng cáo này gợi lên những cảm xúc.
5. Hãy viết lại một vài luận điệu của quảng cáo hay slogan mà bạn đã
nghe và trở thành quen thuộc (do lặp đi lặp lại) và thấy có thể tin cậy
được. Hãy giải thích lý do vì sao bạn dễ dàng nhớ và tin tưởng nhãn
hiệu đó
Case study:
Đọc bài và phân tích các yếu tố tâm lý ảnh hưởng như thế nào đến
hành vi mua của khách hàng đối với trường hợp mua hàng trong bài
sau.
Ali Mollshoseyni, Studying Impacts of Psychological Factors on
Cosumer's buying Bahavior at Iranian Chair Stores - Institute of
Intedisciplinary Business Research , Feb 2012, Vol 3, No 10
CHƯƠNG 6
QUÁ TRÌNH RA QUYẾT ĐỊNH MUA CỦA
NGƯỜI TIÊU DÙNG CÁ NHÂN
Trong các chương trước bài giảng đã trình bày rõ nét về các yếu tố
ảnh hưởng đến hành vi mua của người tiêu dùng cá nhân giúp nhận
diện được những nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau trong hành vi
mua sắm của họ. Tuy nhiên, để có thể nhận diện được cụ thể sự ảnh
hưởng này vào thời điểm nào trong quá trình mua đó thì phải nắm rõ
các giai đoạn trong quá trình mua cũng như nhận ra được các tình
huống mua hàng qua đó thúc đẩy quá trình mua diễn ra nhanh hơn với
những lợi thế cạnh tranh tốt hơn.
Chính vì thế nội dung chương sẽ bao gồm:
Các tình huống mua hàng
Các giai đoạn trong quá trình ra quyết định mua của người tiêu
dùng cá nhân
Quá trình quyết định của người mua đối với sản phẩm mới
Học xong chương này sinh viên có thể :
Mô tả các tình huống mua hàng cụ thể và quá trình ra quyết định
mua
Phân tích các giai đoạn của quá trình ra quyết định mua
Trình bày quá trình quyết định mua đối với sản phẩm mới
Áp dụng vào một tình huống mua hàng cụ thể để phân tích các
giai đoạn của quá trình mua
6.2. Các giai đoạn trong quá trình quyết định mua
hàng
Quá trình quyết định của người mua bao gồm: nhận biết nhu cầu, tìm kiếm thông in, đánh giá lựa
chọn, quyết định mua, cân nhắc sau khi mua được xem như là quá trình quyết định của người mua.
(hình 4.1). Giai đoạn đầu của quá trình, việc thừa nhận nhu cầu thường bị tác động mạnh mẽ bởi
những yếu tố văn hóa, xã hội, yếu tố cá nhân và yếu tố tâm lý.
NHẬN BIẾT TÌM KIẾM ĐÁNH GIÁ QUYẾT ĐỊNH CÂN NHẮC
NHU CẦU THÔNG TIN LỰA CHỌN MUA SAU MUA
Hình 6.1: Mô hình quá trình quyết định của người mua.
Trong mỗi giai đoạn của quá trình mua hàng, người mua phải có những quyết định cụ thể và mỗi
giai đoạn được xem như là mỗi bậc thang của ý thức. Quá trình quyết định của người mua phù hợp
với những biến chuyển tâm lý của người mua khi trực diện với sản phẩm, dịch vụ hay những nỗ lực
tiếp thị của doanh nghiệp. Trước những kích thích về sản phẩm, dịch vụ và những nỗ lực tiếp thị của
doanh nghiệp người tiêu dùng sẽ có những phản ứng thông qua cảm giác và trị giác, sau đó trị giác
con người sẽ dẫn đến những hiểu biết, niềm tin, thái độ và ý định. Cuối cùng là hành động mua và sự
cân nhắc sau khi mua.
Nhận
Thái độ Niềm tin Thái độ
thức
Hình 6.2: Quá trình biến chuyên tâm lý của người mua
Ứng dụng trong Marketing
Nhà quản trị tiếp thị sử dụng các chiến lược và thủ thuật nhằm thay đổi các yếu tố tâm lý, đặc biệt là
nhận thức và thái độ của người tiêu dùng để tạo ra các phản ứng thuận lợi cho sản phẩm của họ, thúc
đẩy quá trình mua hàng và gia tăng sự liên tục của quá trình này.
Tuy nhiên không phải tất cả mọi hành vi mua hàng đều trải qua tất cả các giai đoạn nói trên mà đôi
khi quá trình đó xảy ra không theo thứ tự hoặc bỏ qua một vài bước, hoặc đôi khi họ mua hàng do
ngẫu hứng mà không chịu tác động bởi các chiến lược marketing.
Quá trình quyết định của người mua gồm có năm giai đoạn:
- Nhận biết nhu cầu
- Tìm kiếm thông tin
- Đánh giá các lựa chọn
- Quyết định mua
- Cân nhắc sau khi mua.
Giai đoạn đầu của quá trình, việc nhận thức vấn đề bị tác động mạnh mẽ bởi so những yếu tố văn
hóa, xã hội, yếu tố cá nhân và yếu tố tâm lý.
Ví dụ: Quá trình này có thể chứng minh bằng trường hợp của một gia đình gồm cha mẹ và hai đứa
con. Họ có nhu cầu về một du lịch để giảm stress và là phần thưởng cho con họ vì kết quả học tập
của chúng (nhận biết nhu cầu). Bố mẹ hỏi thăm bạn bè và những người thân, họ xem những thông tin,
những quảng cáo về những tour du lịch mới, những công ty du lịch nổi tiếng (tìm kiếm thông tin). Sau
đó họ thu thập tất cả những thông tin cần thiết, xem xét những tất cả các hình thức du lịch, và đánh
giá xem vấn đề nào là quan trọng – chất lượng dịch vụ, giá cả, sự an tòan, hình thức khuyến mãi hay
sự tin cậy (đánh giá). Họ quyết định mua tour đi Nhatrang- Đà Lạt của Saigòn Tourist (quyết định
mua). Sau đó họ cùng đi du lịch và vừa rà soát lại những sự thỏa mãn về dịch vụ du lịch đó (cân nhắc
sau khi mua).
Bia Saigon: Có thể bạn không cao nhưng người khác cũng phải ngước nhìn
Yamaha: Sức mạnh của bạn, chính là sự khác biệt
Ericsson: Sang trọng và tinh tế
Biti's: Nâng niu bàn chân Việt
P/S: Nụ cười trẻ thơ
c. Cách trang trí, bày hàng
Ví dụ: Để Promotion cho sữa Gain IQ công ty Abbot đã tổ chức cuộc thi trưng bày hàng cho các
điểm bán lẻ. Chính điều này tạo hứng thú cho các nhà phân phối và cũng tạo cho Khách hàng có sự
quan tâm đến sản phẩm hơn.
Vật phẩm
quảng cáo
c. Cải tiến sản phẩm hay thay đổi một vài chi tiết rất nhỏ của sản phẩm cũ cũng có thể phát sinh nhu
cầu.
Ví dụ: Để đánh vào một phân khúc thị trường mới Honda đã tung ra dòng sản phẩm Wave anpha
plus. Và Honda đã làm phát sinh nhu cầu ở những người buôn bán nhỏ.
Khi sự thôi thúc của nhu cầu đủ mạnh, người tiêu dùng bắt đầu tìm kiếm thông tin
để hiểu biết về sản phẩm và lựa chọn, quyết định. Tìm kiếm là giai đoạn thứ hai của
quá trình ra quyết định mua.
Quá trình tìm kiếm có thể xảy ra “bên trong” hoặc “bên ngoài”. Nếu việc tìm kiếm bên trong thành
công có thể sẽ không xảy ra việc tìm kiếm những thông tin từ nguồn bên ngoài.
- Trường hợp mua lần đầu việc tìm kiếm các thông tin bên trong xảy ra ngay sau khi nhu cầu được
nhận ra, toàn bộ trí não hoạt động, kiểm tra lại tất cả hiểu biết trong bộ nhớ về các thông tin liên quan
để cung cấp cho quá trình ra quyết định mua.
- Trường hợp mua những món hàng dùng thường xuyên như bột giặt, dầu ăn, kem đánh răng hoặc các
dịch vụ lặt vặt như sửa xe máy, sửa chữa đồ điện tử gia dụng, việc ra quyết định chỉ đơn giản dựa vào
thói quen, vào trí nhớ và những hiểu biết hiện có, người tiêu dùng nhớ và mua đúng loại nhãn hiệu
hàng hóa như lần mua trước.
6.2.2.3 - Mức độ tìm kiếm thông tin từ môi trường bên ngoài
Mức độ của quá trình tìm kiếm được phản ánh qua số nhãn hiệu sản phẩm được xem xét đến, số
cửa hàng, cửa hiệu được lui tới, bao nhiêu đặc tính và nguồn thông tin được xem xét phân tích trong
quá trình tìm kiếm cũng như số thời gian đã dành vào đó. Mức độ tìm kiếm thông tin liên quan đến
tình huống mua hàng, đặc tính của sản phẩm và đặc tính của người mua (bảng 4.1).
Bảng 6.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tìm kiếm thông tin
Đặc tính của sản Đưa ra các chiến lược sản phẩm thích hợp, quảng cáo tập trung thông tin đến
phẩm người tiêu dùng những đặc tính của sản phẩm mà họ quan tâm.
Cửa hàng đến mua Có các quyết định về kênh phân phối đúng đắn.
sắm
Giá cả Cân nhắc khi xây dựng giá
Nguồn thông tin Chọn lựa phương tiện truyền thông khách hàng thường sử dụng
tham khảo
Bảng 6.3 Tương quan giữa hướng tìm kiếm thông tin của người tiêu dùng và hoạt động marketing của
doanh nghiệp
Nhãn hiệu sản phẩm Tạo dựng vị trí cạnh tranh vững vàng so với các đối thủ cạnh tranh
Đặc tính sản phẩm Đưa ra các chiến lược sản phẩm thích hợp, quảng cáo tập trung thông
tin đến người tiêu dùng những đặc tính của sản phẩm mà họ quan tâm.
Cửa hàng đến mua sắm Có các quyết định về kênh phân phối đúng đắn
Giá cả Cân nhắc khi xây dựng giá
Nguồn thông tin tham Chọn lựa phương tiện truyền thông khách hàng thường sử dụng
khảo
Ví dụ: Dựa vào các cuộc nghiên cứu thị trường mới đây nhà tiếp thị biết được người tiêu dùng
thường tìm kiếm thông tin qua Internet vì vậy các nhà tiếp thị thường đưa những thông tin về sản
phẩm qua phương tiện này.
6.2.2.5 Các nguồn thông tin được người tiêu dùng sử dụng trong
quá trình tìm kiếm
Trong quá trình tìm kiếm thông tin về sản phẩm, nguồn thông tin mà người tiêu dùng thường sử dụng
là mối quan tâm chủ yếu của các nhà tiếp thị. Những vấn đề mà các nhà tiếp thị cần biết là:
- Nguồn thông tin nào mà khách hàng tiềm năng có thể tiếp cận để thu thập các thông tin liên quan
đến sản phẩm.
-Nguồn thông tin nào gây ảnh hưởng quan trọng đến việc chấp nhận nhãn hiệu của doanh nghiệp vào
nhóm nhãn hiệu để lựa chọn của người mua.
-Những loại thông điệp nào là phù hợp để người mua dễ dàng và thuận lợi trong việc xử lý thông tin
mà họ cần.
-Việc sử dụng các nguồn thông tin thay đổi tùy theo loại sản phẩm và đặc tính của người mua. Có thể
chia các nguồn thông tin của người tiêu dùng thành bốn nhóm:
a. Nguồn cá nhân
Người tiêu dùng nhận thông tin về sản phẩm, dịch vụ qua gia đình, bạn bè, người quen, hàng xóm.
Đây là những nguồn thông tin vô cùng quan trọng qua sự “truyền miệng” hoặc “rỉ tai”.
Theo Philip Kotler, thời đại này công cụ marketing phổ biến là WOM (word-ofmouth), nó được coi là
công cụ đáng tin cậy hơn quảng cáo và là công cụ có sức mạnh rất lớn (Marketing mới cho thời đại
mới- Tổ chức giáo dục Pace 17/08/2007)
b. Nguồn thương mại
Thông tin về sản phẩm, dịch vụ từ quảng cáo, từ nhân viên bán hàng, thông tin ghi trên bao bì, nhãn
hiệu, thông tin tại triển lãm, hội chợ, các nơi trưng bày hàng hóa.
- Quảng cáo
Các quảng cáo về sản phẩm, dịch vụ trên báo chí, tivi có hiệu quả rất cao, tác động đến nhận thức và
hành vi mua hàng của người tiêu dùng. Ví dụ: Để đánh vào nhận Bài thức và hành vi mua của NTD
các công ty sữa như Vinamilk, cô gái Hà Lan, TH true milk... thường dùng phương tiện quảng cáo
trên báo hoặc tivi.
- Nhân viên bán hàng
Nhân viên bán hàng rất cần thiết cho việc trao đổi thông tin giữa người bán và người mua, thông tin
thắc mắc của khách hàng về giá cả, đặc tính, địa điểm mua hàng được nhân viên bán hàng giải thích
một cách nhanh chóng hơn. Ví dụ: Để tiếp cận với khách hàng một cách tốt nhất và giải đáp mọi thắc
mắc của khách hàng công ty Prudential đã huấn luyện một đội ngũ tư vấn đầy năng lực và kinh
nghiệm.
- Bao bì, nhãn hiệu hàng hóa
Các thông tin trên bao bì, nhãn hiệu hàng hóa cũng là nguồn cung cấp quan trọng và hiệu quả cho
khách hàng. Đặc biệt là những thông tin về thành phần chế tạo dinh dưỡng, cách sử dụng hay chế biến
làm tăng cảm giác yên tâm cho khách hàng khi quyết định mua. Ví dụ: Trong siêu thị bao bì đóng vai
trò người bán hàng thầm lặng và nó giúp ích rất nhiều trong việc tư vấn mua hàng của khách hàng.
- Ngoài ra ý định mua có thể thay đổi do kết quả của các hoạt động marketing. Các nhà tiếp thị
cần tác động mạnh đến người tiêu dùng trong phạm vi này để thúc đẩy quyết định mua hàng.
6.2.5.1 - Tại sao phải nghiên cứu và phân tích hành vi sau khi
mua
Người tiêu dùng sẽ nghĩ như thế nào và có những đánh giá gì sau khi mua sắm, Họ có thỏa mãn
chưa hay họ nghĩ là mình đã sai lầm trong việc chọn lựa. Tìm hiểu hành vi sau khi mua sắm hết sức
quan trọng đối với các nhà quản trị tiếp thị vì những lý do sau đây:
- Sau khi mua người tiêu dùng vẫn tiếp tục đánh giá, so sánh với các sản phẩm có thể thay thế khác
như trước khi họ quyết định mua.
- Nghiên cứu hành vi sau khi mua sắm mới biết được khách hàng hài lòng hay không và họ được thỏa
mãn đến mức độ nào. Từ đó có thể thiết kế những chiến lược marketing hoàn hảo hơn.
- Đáp ứng đúng nhu cầu của người tiêu dùng, tạo sự thỏa mãn cho họ khi dùng sản phẩm và từ đó sẽ
dẫn đến lòng tin hay sự trung thành với nhãn hiệu sản phẩm. Niềm tin, thái độ xuất hiện ở giai đoạn
này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến ý định mua sắm lần nữa trong tương lai và dẫn đến những thông tin
truyền miệng tốt, xấu hoặc có thể xảy ra việc khiếu kiện nhà kinh doanh.
- Việc thu hút được một khách hàng mới là công việc tốn kém và khó khăn trong điều kiện cạnh tranh
quyết liệt hiện nay. Vì thế việc duy trì và giữ khách hàng đang trở thành chiến lược quan trọng của
doanh nghiệp.
Ví dụ: Hàng năm vào ngày 8/3 Debon luôn gởi thiệp chúc mừng đến KH thân thiết và nhân tiên giới
thiệu SP mới hay Để thay lời tri ân đến khách hàng Kymdan có chương trình khuyến mãi giảm giá 5
– 10% khi khách hàng mua hàng của Kymdan hay đổi sản phẩm mà khách hàng đã sử dụng được 10
năm để duy trì mối quan hệ và tạo lòng tin cho khách hàng .
- Nhà kinh doanh phải quảng cáo trung thực đúng với giá trị sử dụng thực tế mà sản phẩm sẽ mang lại
cho khách hàng để tạo sự kỳ vọng có tính khả thi. Quảng cáo vượt quá tính năng thực sự của sản
phẩm sẽ làm cho khách hàng kỳ vọng cao và dễ dẫn đến những phản ứng bất lợi cho doanh nghiệp.
6.3. Quá trình quyết định của người mua đối với sản phẩm mới
6.3.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chấp nhận sản phẩm
mới
Đặc tính của người tiêu dùng và một số đặc tính của sản phẩm ảnh hưởng đến LÀ ảnh hưởng đến
quá trình chấp nhận sản phẩm mới.
6.3.2.1- Những đặc tính của người tiêu dùng
Thái độ chấp nhận sản phẩm mới của người tiêu dùng không giống nhau. Việc chấp nhận cái mới
phụ thuộc vào cá tính, có những người nhanh chóng chấp nhận mua và tiêu dùng sản phẩm mới khi nó
vừa xuất hiện trên thị trường nhưng phần đông phải mất một thời gian khá lâu sau khi thu thập thêm
các thông tin và dựa vào kinh nghiệm của những lần mua trước mới chấp nhận sản phẩm mới.
Một vài nghiên cứu phân tích sự chấp nhận sản phẩm mới của người tiêu dùng phân biệt năm nhóm
người mua hàng căn cứ vào thời gian chấp nhận sản phẩm mới:
- Những người cách tân
- Những người chấp nhận sớm
- Những người đa số sớm chấp nhận
- Những người đa số muộn chấp nhận
- Những người bảo thủ, lạc hậu
Hình 4.4 cho thấy quá trình chấp nhận sản phẩm mới của người tiêu dùng, một số ít người chấp
nhận ngay và sau đó số người chấp nhận sẽ tăng lên nhanh chóng khi lợi ích của sản phẩm đã hiển
nhiên rõ ràng, tỷ lệ giảm dần ở số người không chấp nhận.
(2) Mức độ phù hợp với nhận thức và hành vi hiện tại của người tiêu dùng trong cộng đồng. Một sản
phẩm không đòi hỏi sự thay đổi lớn các giá trị, niềm tin hoặc hành động của người tiêu dùng thì dễ
được họ chấp nhận hơn. Ví dụ những loại thuốc nhuộm tóc có màu sắc ngoài hai màu đen và nâu ít
được người tiêu dùng mua và dùng thử.
3) Mức độ dễ dàng trong việc sử dụng sản phẩm mới. Một sản phẩm không đòi hỏi sự huấn luyện
phức tạp và lâu dài để sử dụng sẽ được người tiêu dùng chấp nhận nhanh hơn.
(4) Mức độ dễ dùng thử sản phẩm mới ở qui mô nhỏ, hạn chế. Một sản phẩm đồ dàng được dùng thử
sẽ được người tiêu dùng chấp nhận nhiều hơn. Ví dụ khách hàng được lái thử một xe máy, mặc thử
một cái áo, nếm một miếng bánh, mua một chai dầu gội đầu nhỏ để dùng thử là những cách làm
người tiêu dùng giảm thiểu rủi ro, từ đó dễ dàng chấp nhận sản phẩm mới.
(5) Mức độ dễ quan sát hoặc mô tả sản phẩm cho người khác hoặc mức độ dễ nhận thấy những hiệu
quả của sản phẩm. Những sản phẩm mới được đề cập công khai và thường xuyên có thể được chấp
nhận nhanh hơn.
Ngoài những đặc tính cơ bản nói trên, sản phẩm mới còn có những đặc tính khác ảnh hưởng đến sự
chấp nhận của người tiêu dùng như giá cả, sự tin cậy về kỹ thuật, uy tín và danh tiếng của công ty
cung ứng sản phẩm mới và biểu tượng của sản phẩm.
Các nhà tiếp thị cần chú ý tất cả những yếu tố này và đặc biệt quan tâm đến những yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp, mạnh khi triển khai sản phẩm mới và chương trình marketing.
TÓM TẮT CHƯƠNG 6
Quá trình quyết định mua bao gồm năm giai đoạn: nhận thức vấn đề, tìm kiếm thông tin, đánh
giá các lựa chọn, quyết định mua và hành vi sau khi mua.
Giai đoạn đầu của quá trình, nhận thức vấn đề ảnh hưởng bởi những yếu tố văn hóa, xã hội,
cá nhân và tâm lý.
Trong một số tình huống mua hàng, người tiêu dùng không trải qua tất cả năm giai đoạn mà
có thể bỏ qua một vài giai đoạn hoặc không theo thứ tự các bước của quá trình.
Tìm hiểu các giai đoạn trong quá trình quyết định mua giúp nhà tiếp thị sử dụng các phương
thức tiếp thị dẫn dắt người tiêu dùng trải qua các giai đoạn để đi đến quyết định mua.
Nghiên cứu và phân tích hành vi của người tiêu dùng sau khi mua cũng rất quan trọng vì nếu
đáp ứng đúng nhu cầu và làm người tiêu dùng thỏa mãn sẽ dẫn đến niềm tin và thái độ tốt đẹp
đối với sản phẩm.
Đối với sản phẩm mới việc khảo sát quá trình quyết định của người mua, thái độ của người
mua và những đặc tính của sản phẩm cũng giúp doanh nghiệp đưa sản phẩm mới đến người
tiêu dùng dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Câu hỏi:
1. Tại sao giai đoạn hành vi sau khi mua được coi là phần quan trọng của quá trình
mua của người tiêu dùng?
2. Cho biết một SP mua sắm gần nhất của bạn- sản phẩm mua sắm đó có trải qua đúng các giai đoạn
trong quá trình quyết định mua hàng?
3. Bạn hãy cho biết những loại hàng hóa hay dịch vụ nào thích hợp với việc sử dụng những nguồn
thông tin cá nhân, loại hàng hóa nào phù hợp với nguồn thông tin thương mại, kinh nghiệm và công
cộng.
4. Hãy cho biết bạn đã từng bị tác động bởi quảng cáo khi quyết định mua sắm chưa? Theo bạn đó là
tác động có lợi hay bất lợi cho DN? Tại sao?
5. Theo bạn khi được giới thiệu một sản phẩm mới bạn bị tác động bởi các yếu tố nào? Cho ví dụ một
sản phẩm cụ thể.
Case study 1:
Honda chuẩn bị tung ra một mẫu sản phẩm mới. Đây là kiểu xe tay ga, có tính năng vượt trội hơn tất
cả các sản phẩm trước đây. Tuy nhiên nó là dạng xe hao tốn nhiên liệu hơn các sản phẩm của công ty
trước đây. Trước nguy cơ giá xăng tăng lên thường xuyên như hiện nay, Honda phải làm gì để có thể
rút ngắn khoảng thời gian cân nhắc, đắn đo của khách hàng. Các bạn thử hiến kế xem.
CHƯƠNG 7
PHÂN TÍCH HÀNH VI NTD CÁ NHÂN VÀ PHÂN
KHÚC THỊ TRƯỜNG
Đánh giá được tầm quan trọng của phân khúc thị trường và định vị sản phẩm trong hoạt động
marketing
Mô tả được sự tác động của chiến lược phân khúc và định vị đến người tiêu dùng.
Áp dụng được kiến thức đã học xây dựng một hình ảnh cụ thể cho sản phẩm trong nhận thức
của người tiêu dùng.
7.1. Phân khúc thị trường
7.1.1. Lý do phân khúc thị trường
- Phát hiện ra nhu cầu, thói quen mua sắm khác nhau giữa các cá nhân
- Nắm rõ lý do tại sao lại có sự khác biệt đó. Những nguyên nhân tạo ra sự khác biệt giữa những
người tiêu dùng sẽ được xem như những cơ sở để phân khúc
Các tiêu thức phân khúc và ứng dụng nghiên cứu hành vi NTD
7.1.3.1. Phân khúc theo đặc điểm địa lý
Sự khác biệt về đặc điểm địa lý tạo nên sự khác biệt về nhu cầu, sở thích. Do đó, các Doanh nghiệp
cần chú trọng đến yếu tố này trong việc phân tích hành vi mua của người tiêu dùng. Đặc biệt với
những mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm thì yếu tố này ảnh hưởng rất rõ.
Ví dụ: Doanh nghiệp Phở 24 rất thành công ở thị trường Việt Nam vì đã tìm hiểu kỹ sở thích của
khách hàng ở từng vùng miền như khi bản ở thị trường miền Bắc thì doanh nghiệp không có đĩa giá,
nhưng có thêm giờ quảy nóng, còn bán ở thị trường miền Nam thì có đĩa giá và không có giò cháo
quảy.
Ví dụ: Hiện nay, trên thị trường quần áo, trang sức thời trang xuất hiện một số kiểu quần áo, trang
sức rất lạ mắt phục vụ cho nhóm đối tượng khách hàng tuổi teen, yêu thích thể loại nhạc Hip Hop.
Đây chỉ là một nhóm nhỏ khách hàng những doanh nghiệp cũng đã nghiên cứu và cố gắng đáp ứng
sở thích của tiểu phân khúc này. Mặt khác, doanh nghiệp cũng có thể căn cứ vào mức độ trung thành
của khách hàng đối với sản phẩm hay nhãn hiệu để có thể tạo cho khách hàng sự yêu thích, an tâm và
sự thoải mái hơn khi sử dụng sản phẩm.
Trong quá trình nghiên cứu mức độ trung thành của khách hàng ta có thể chia ra các mức độ trung
thành khác nhau như: khách hàng không trung thành, khách hàng hay dao động, khách hàng quen
thuộc có xu hướng trung thành.
* Đối với khách hàng hay thay đổi nhãn hiệu tức là loại khách hàng không trung thành.
Doanh nghiệp cần nghiên cứu những lý do dẫn đến sự thay đổi để có những đối sách phù hợp.
Có những lý do cần được xem xét như:
Sự thay đổi do những kích thích bởi chiến lược marketing như: giảm giá, quảng cáo, khuyến
mãi, hay bị tác động bởi sự mời chào của người bán,...
Sự thay đổi vì những lý do không rõ ràng như do lầm lẫn nhãn hiệu, do Sự tiện lợi khi mua
hàng, hay do sự bày hàng của các cửa hàng,... "
Từ việc tìm hiểu kỹ những lý do khiến khách hàng thay đổi thói quen mua hàng sẽ giúp doanh
nghiệp có những chiến lược cụ thể như:
Thường xuyên thay đổi nội dung quảng cáo, tiến hành quảng cáo rầm rộ, hay thường xuyên
có chương trình khuyến mãi để lôi kéo sự quan tâm của loại khách hàng hay thay đổi bởi các
kích thích marketing .
Ví dụ: Dầu gội đầu Sunsilk nhắm vào phân khúc thị trường là nữ giới, có thu nhập thấp, nên doanh
nghiệp Unilever thường xuyên có chương trình khuyến mãi khi khách hàng mua sản phẩm như tặng
thêm dầu xả, tặng thêm những gói dầu gội khác hay liên tục có những mẫu quảng cáo mới lạ cho sản
phẩm này.
* Đối với những khách hàng hay thay đổi nhãn hiệu bởi những lý do không rõ ràng, bốc đồng thì
doanh nghiệp nên thiết kế bao bì, mẫu mã , kiểu dáng đẹp để thu hút sự quan tâm của họ; hay chọn
chỗ đặt hàng ngay quầy thu ngân hoặc ngay tầm mắt của khách hàng...
Ví dụ: Nhắm vào phân khúc thị trường là trẻ em, đối tượng khách hàng luôn tìm kiếm sự mới lạ, hay
thay đổi, doanh nghiệp bánh kẹo Bibica thường xuyên thay đổi màu sắc, mùi vị và liên tục quảng cáo
nhằm thu hút trẻ em. Mặt khác, trong các siêu thị Bibica cũng chú trọng đến chỗ đặt hàng ngay tầm
mắt của trẻ để khiến trẻ có thể phát sinh nhu cầu khi đi mua hàng với bố mẹ
* Đối với khách hàng hay dao động doanh nghiệp cần tiến hành quảng cáo nhắc nhở và có chiến
lược duy trì và giữ khách hàng như khuyến mãi, thường xuyên liên lạc bằng thư hay email với khách
hàng, tặng quà cho khách hàng vào ngày sinh nhật,...
Ví dụ: Để giữ khách hàng hiện tại Coca Cola thường xuyên sử dụng hình thức quảng cáo nhắc
nhở, hay tru tiên chi phí cho việc giữ khách hàng cũ. Hay Debon thường xuyên liên lạc với khách
hàng cũ bằng việc gởi thư cá nhân hay gởi thiệp và quà chúc mừng nhân ngày sinh nhật nhằm
tạo mối quan hệ thân thiết để họ luôn nhớ đến nhãn hiệu của doanh nghiệp..
* Đối với khách hàng có xu hướng trung thành thì doanh nghiệp cần tạo cho khách hàng những giá
trị gia tăng về sản phẩm mà họ đã tin tưởng, luôn luôn làm mới sản phẩm bằng những tính năng vượt
trội so với đối thủ cạnh tranh và nên có chiến lược cung cấp những lợi ích đặc biệt; quyền lợi ưu tiên
cho đối tượng khách hàng này,..
Ví dụ: Khách hàng trung thành của hãng Sony luôn gắn bó với các nhãn hiệu của hãng vì Sony
luôn quan tâm đến việc làm mới mình bằng việc tạo ra những điểm nổi trội cho sản phẩm của công ty
so với đối thủ cạnh tranh.
Hay với thẻ Lotus cho khách hàng là hội viên của hãng Vietnam Airlines thì khách hàng sẽ được
hưởng những quyền lợi như tru tiên đặt chỗ, làm thủ tục chuyến bay, tru tiên mang hành lý quá số ký
qui định, cộng điểm thưởng,... Chính những lợi ích mà khách hàng nhận được đã tạo sự gắn kết hơn
giữa doanh nghiệp với khách hàng.
- Tạo ra những khác biệt thật sự nổi trội so với các sản phẩm cạnh tranh với những tính năng, công
dụng mà người tiêu dùng đang rất quan tâm.
Ví dụ: Để có thể định vị vào tâm trí khách hàng là một sản phẩm cần thiết cho sức khoẻ và sắc đẹp
Vinamilk đã tạo một sologan rất ấn tượng cho sữa chua uống Probi “Trong khoẻ khoắn, ngoài xinh
tươi” và sản phẩm được sự đón nhận rất nồng nhiệt không chỉ ở lứa tuổi teen mà còn cả ở những
người lớn tuổi vì xu hướng tiêu dùng thực phẩm hiện nay là quan tâm đến sức khoẻ và sắc đẹp.
Bảng 7.1. Các biến tạo đặc điểm khác biệt trong chiến lược định vị
Xác định đối thủ cạnh tranh: Quá trình này yêu cầu tâm suy nghĩ rất rộng. Các đối thủ cạnh
tranh không chỉ dừng lại ở những sản phẩm hoặc thương hiệu nằm trong danh mục sản phẩm
của doanh nghiệp, hoặc là doanh nghiệp phải cạnh tranh một cách trực tiếp.
Đánh giá nhận thức của người tiêu dùng về các đối thủ cạnh tranh: Đó là đánh giá những đặc
tính quan trọng khi người tiêu dùng chú ý đến một sản phẩm hay một thương hiệu? Người
tiêu dùng phải được mời tham dự những cuộc toạ đàm hoặc thông qua cuộc khảo sát để chỉ ra
những đặc tính quan trọng của sản phẩm trong quyết định tiêu dùng của họ. Quá trình này tạo
nên cơ sở để quyết định các vị trí cạnh tranh.
Đánh giá các vị trí của đối thủ cạnh tranh: Sau khi xác định các yếu tố liên quan và tầm quan
trọng tương ứng đối với người tiêu dùng, chúng ta phải xác định mỗi đối thủ cạnh tranh định
vị sản phẩm theo đặc tính nào, so sánh tương đối với các đối thủ khác. Các cuộc khảo sát
người tiêu dùng được yêu cầu để thực hiện đánh giá này.
Phân tích sự ưa chuộng của người tiêu dùng: Các nghiên cứu về phân đoạn thị trường cho
thấy rằng có rất nhiều yếu tố có thể phân biệt các nhóm khách hàng, bao gồm phong cách
sống, động lực mua hàng, sự khác biệt về nhân chủng học. Mỗi phân đoạn này sẽ có động lực
khác nhau và sự đánh giá tầm quan trọng khác nhau.
Ra quyết định: Các nhà quản lý thường phải trả lời một số câu hỏi. Liệu chiến lược phân đoạn
thị trường có phù hợp hay không?nguồn lực tài chính có đủ để truyền thông vị trí của thương
hiệu hiệu quả hay không? mức độ cạnh tranh mạnh như thế nào? chiến lược định vị hiện tại
có đang được thực hiện hay không?
Giám sát thực hiện chiến lược: Khi chiến lược được triển khai, doanh nghiệp phải giám sát
mức độ thành công trên thị trường, thực hiện các cuộc nghiên cứu khảo sát để đo lường hình
ảnh của sản phẩm hay của hãng một cách liên tục. Các doanh nghiệp phải luôn xác định được
những nhận thức thay đổi của khách hàng, bất cứ một nhận thức lệch lạc về nào về hình ảnh
của thương hiệu cần phải được chú ý và điều chỉnh ngay. Đồng thời, tác động của các đối thủ
cạnh tranh vào nhóm khách hàng của doanh nghiệp cũng luôn cần được theo dõi. Ví dụ: Khi
xây dựng chiến lược định vị cho thương hiệu X- Men việc đầu tiên doanh nghiệp xác định đối
thủ cạnh tranh chính là Romano và đối thủ cạnh tranh khác ít quan trọng hơn như Clear
Men, ..Song song đó, X Men đã đánh giá nhận thức của khách hàng về Romano là sản phẩm
của đấng mày rấu theo phong cách Ý (đây chính là sai lầm trong chiến lược định vị của
Romano - Định vị hẹp) và Clear Men là sản phẩm dầu gội trị gàu của nam (là một nhánh của
dầu gội Clear). Chính những suy nghĩ của khách hàng đã giúp cho Xmen thành công trong
chiến lược định vị “X men đàn ông đích thực”. Hiện nay, ngoài X-Men, công ty CP còn có
các thương hiệu phụ (sub-brand) như X-Men For Boss nhắm đến khách hàng có thu nhập
cao, dầu gội thể thao X-Men Hatrick và những thương hiệu mới như dầu gội trị gầu chuyên
biệt cho nam Dr.Men và sản phẩm chăm sóc tóc cho lứa tuổi mực tím Teen-X cũng được bán
rất chạy. Trong quá trình định vị X- Men luôn theo sát từng thương hiệu nhằm chỉnh đốn và
có chiến lược điều chỉnh ngay khi có sự cố.
Có rất nhiều chiến lược định vị khác nhau mà các doanh nghiệp thường áp dụng như:
• Định vị dựa trên thuộc tính hay lợi ích sản phẩm: là cách đưa ra một thuộc tính mà đối thủ cạnh
tranh không đưa ra trong sản phẩm của họ. Mỗi sản phẩm có thể định vị hai hay nhiều thuộc tính.
Ví dụ Honda bền, tiết kiệm nhiên liệu
• Định vị là nhãn hiệu tiên phong: là những nhãn hiệu có sự đầu tiên trên thị trường về một đặc
tính, lợi ích cụ thể. Ví dụ: Iphone định vị tiên phong là dòng smartphone cảm ứng đa điểm đầu
tiên,
• Định vị bằng giá cả: Định vị giá cả cao cùng với chất lượng cao, giá thấp chất lượng cao,...Ví
dụ: Big C giá rẻ những sản phẩm có chất lượng tốt
• Định vị bằng người sử dụng sản phẩm: dùng để mở rộng thị trường, mục tiêu là nhắm đến
những đoạn thị trường rộng hơn và nhiều lợi nhuận hơn.Ví dụ: Tã giấy Caryn dành cho người già
• Định vị dựa trên việc so sánh với đối thủ cạnh tranh: mục đích chính của chiến lược định vị này
là công ty thuyết phục khách hàng rằng sản phẩm của công ty có ưu điểm hơn so với đối thủ cạnh
tranh. Ví dụ: “Tide trăng sáng hơn” là muốn so sánh với bột giặt thông thường khác
• Định vị bằng tình huống sử dụng: việc định vị sử dụng sản phẩm gắn với những tình
huống sử dụng cụ thể khiến khách hàng dễ dàng liên đến tưởng sản phẩm khi gặp hướng đó. Ví
dụ: Omo matic dành cho máy giặt hay bánh Trung thu Kinh Đô sử dụng trong dịp Tết trung thu.
7.3. Thiết kế chiến lược marketing mix hỗ trợ cho chiến lược định vị
Các chiến lược marketing – mix ảnh hưởng mạnh mẽ đến định vị sản phẩm. Nếu doanh nghiệp
xây dựng được các chiến lược marketing - mix hiệu quả sẽ hỗ trợ tốt cho công tác định vị.
- Các chiến lược sản phẩm có hiệu quả sẽ làm cho người tiêu dùng nhận thức tốt về sản phẩm.
- Giá cả cũng ảnh hưởng đến nhận thức của người tiêu dùng. Những sản phẩm đắt tiền được
đánh giá cao hơn về chất lượng, ngược lại những sản phẩm rẻ tiền thường bị xem là kém chất
lượng. Phù hợp với câu “tiền nào của nấy”. Do đó, các nhà tiếp thị thường dùng chiến lược
giá tâm lý để định vị trong tâm trí người tiêu dùng khi giá bán của sản phẩm là giá lẻ thì sản
phẩm đó được coi là rẻ; sản phẩm bán với giá chẵn thì được coi là sản phẩm tốt.
- Khuyến mại và quảng cáo cho người tiêu dùng biết những thông tin về sản phẩm, những
điểm đặc biệt, độc đáo của sản phẩm và điều này cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức
của họ. Chính điều này đã hướng những nhà tiếp thị luôn tìm tòi, chọn lọc nhiều mẫu quảng
cáo mới lạ, độc đáo.
- Địa điểm phân phối sản phẩm cũng rất quan trọng. Người tiêu dùng thường nghĩ rằng những
sản phẩm cao cấp được bán ở những cửa hàng cao cấp. Những cửa tiệm bình thường khó bán
được những sản phẩm đắt tiền.
Ví dụ: Công ty mỹ phẩm Shiseidođược định vị là sản phẩm cao cấp do đó khi thiết kế sản phẩm
công ty chú trọng đến chất lượng với triết lý kinh doanh “chất lượng là trên hết”, không để bất
cứ 1% phế phẩm lọt ra ngoài thị trường để có thể tạo nhận thức tốt về sản phẩm từ phía người
tiêu dùng chiến lược giá của công ty chú trọng đến là định giá cao để tạo cho khách hàng tâm lý
mua được hàng tốt và chất lượng hàng đầu; trong việc xây dựng chiến lược chiêu thị Shiseido
chú trọng đưa ra những tính năng độc đáo và khác biệt của sản phẩm như chống viêm da, không
gây kích ứng với mọi loại da, không có hóa chất, loại bỏ độc tố trên da, .. và mẫu TVC của
Shiseido với cách xếp người hết sức độc đáo, tạo ấn tượng mạnh đến khách hàng khi thiết kế và
lựa chọn kênh phân phối Shiseido chú trọng đến sự sang trọng nên chọn những Trung tâm
thương mại cao cấp như Diamond hay Parkson với cách bài trí cửa hàng đẹp , lộng lẫy.
Cần quan tâm lưu ý sao cho các nỗ lực marketing nhất quán và phối hợp tốt đẹp với chiến lược
định vị. Sự mâu thuẫn trong hệ thống marketing – mix sẽ tạo một nguy cơ tiềm ẩn.
Nếu doanh nghiệp định vị nhãn hiệu của sản phẩm có chất lượng cao hơnnhững nhãn
khác,doanh nghiệp cần phải bảo đảm rằng:
- Sản phẩm phải dùng chất liệu tốt
- Giá được định cao
- Quảng cáo nhấn mạnh đến chất lượng
- Sản phẩm phải được bán ở những cửa hàng cao cấp
Các hãng mỹ phẩm như Lancome, Shiseido,... là những nhãn hiệu định vị trong tâm trí người tiêu
dùng là nhãn hiệu có chất lượng cao. Do đó các sản phẩm này chú trọng đến việc sản xuất những sản
phẩm có chất lượng tốt, giá cả cao và được bán ở những trung tâm thương mại cao cấp.
Phân khúc thị trường là sự phân chia thị trường tổng thể thành những nhóm người tiêu dùng
có những đặc tính tương tự để chọn một hay một vài nhóm thích hợp làm thị trường mục tiêu.
Vì vậy trước khi phân khúc thị trường, nhà tiếp thị cần phải nghiên cứu tìm hiểu người tiêu
dùng.
Phân khúc thị trường dựa trên các đặc điểm chính như địa lý, nhân khẩu học, tâm lý và hành
vi. Phân khúc thị trường dựa trên đặc điểm tâm lý và hành vi có tính chất phức tạp vì ảnh
hưởng bởi nhận thức, quan điểm, tính cách cá nhân của người tiêu dùng.
Sau khi tiến hành nhà tiếp thị cần xây dựng một hình ảnh cụ thể cho sản phẩm trong nhận
thức của người tiêu dùng. Điều cần thiết là phải triển khai một chiến lược đầy đủ bao gồm tất
cả những yếu tố của marketing hỗn hợp. Hiểu biết về người tiêu dùng giúp nhà tiếp thị thiết
kế các chiến lược marketing hỗn hợp hiệu quả để vận hành chiến lược định vị.
Câu hỏi
1. Xem một mẫu quảng cáo của sữa Anlene, cho biết sữa Anlene đã tái định vị bằng người sử
dụng và tình huống sử dụng để mở rộng thị trường như thế nào?
2. Nếu bạn là giám đốc Marketing của một doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng như: dầu gội đầu,
xà bông tắm, nước ngọt có ga, nước trái cây, bánh kẹo, xỉ măng, sắt thép, đồ gỗ gia dụng.... Hãy
tiến hành phân khúc thị trường cho các sản phẩm đó.
3. Doanh nghiệp Thái Tuấn tung ra thị trường bộ sưu tập Hoa Áo Trắng cho nữ sinh tại TP HCM.
Nếu là bạn là giám đốc Marketing bạn phải làm gì để định vị cho sản phẩm này?
4. Hãy cho biết hiện nay điện thoại di động Samsung Galaxy Note 3 sử dụng chiến lược định vị
như thế nào cho sản phẩm của họ?
(2) Nhóm NTD trung thành trung thành với nhãn hiệu
và chỉ thỉnh thoảng thay đổi tạm thời với những lý
do như: khi hết hàng, khi một nhãn hiệu mới xuất
hiện trên thị trường và mua về dùng thử, khi một
nhãn hiệu cạnh tranh bán giảm giá.
(3) Nhóm NTD thay đổi sự trung thành sang nhãn hiệu
khác điều này sảy ra khi sản phẩm đang ở giai đoạn
suy thoái của chu kỳ sống. Tuy nhiên nếu sự
chuyển đổi lòng trung thành sang nhãn hiệu khác
của cùng một công ty thì có thể lại là điều thuận lợi
vì thương hiệu sản phẩm đó có thể đắt hơn vì lợi
nhuận biên tế nhiều hơn.
(4) Nhóm NTD phân chia sự trung thành cho hai hoặc
nhiều nhãn hiệu của sản phẩm. Vì những lý do sau
đây: gia đình có nhiều thành viên, mỗi người có sở
thích, có mục đích khác nhau về sản phẩm. Ví dụ:
Gia đình có 2 con, đứa lớn sử dụng sữa tươi Cô Gái
Hà Lan những đứa nhỏ thì sử dụng sữa bột Abbot.
(5) Nhóm NTD không quan tâm tới nhãn hiệu.
Ví dụ: Một người đàn ông khi mua các sản phẩm
tiêu dùng thiết yếu như kem đánh răng, xà phòng
giặt đồ hay dầu gọi thường không chú ý đến nhãn
hiệu của sản phẩm.
*Ứng dụng trong Marketing:
- Đối với những NTD trung thành có mức độ sử dụng lớn, phải có
chiến lược chuyển đổi lòng trung thành của họ snag nhãn hiệu
của công ty bằng cách sử dụng quảng cáo so sánh.
- Đối với những NTD trung thành có mức độ sử dụng ít, công ty
phải tìm cách để họ gia tăng lượng hàng sử dụng.
Ví dụ: Khi hướng dẫn sử dụng sữa các công ty thường khuyến
khích NTD nên uống một ngày khoảng 3 ly sữa (250ml) sẽ giúp
tăng trưởng chiều cao, phát triển trí não, tăng sức đề kháng…
cho người sử dụng.
- Đối với NTD không quan tâm đến nhãn hiệu nhưng có mức độ
sử dụng nhiều, công ty phải đưa ra một tên nhãn có liên quan
đến một thuộc tính nổi bật của sản phẩm hoặc đưa ra một lợi thế
mới của sản phẩm.
Ví dụ: Trong dịp Trung thu, nhu cầu mua bánh làm quà tặng rất
cao. Do đó, công ty Kinh Đô đã quảng cáo nhiều đến chất
lượng, sự sang trọng, tính tiện ích của sản phẩm nhằm lôi kéo sự
quan tâm của NTD.
- Nhóm NTD cá nhân thay đổi sự trung thành sang một nhãn hiệu
khác của công ty. Điều này có thể tạo ra lợi nhuận cao hơn.
- Đối với những NTD không quan tâm đến nhãn hiệu, mức độ sử
dụng ít, công ty cần đưa ra một tên nhãn có liên quan đến một
thuộc tính nổi bật của sản phẩm và tạo sự gia tăng mức độ sử
dụng bằng cách đưa ra một lợi thế của sản phẩm
Ví dụ: Kẹo trái cây Bốn Mùa của Bibica đã tạo cho NTD thấy
được lợi ích khi sử dụng sản phẩm (có thể sử dụng để thay thế
cho trái cây cả bốn mùa)
Ảnh hưởng của yếu tố môi trường các chiến lược giá, phân phối,
chiêu thị đối với chiến lược sản phẩm
8.4.1,Ảnh hưởng của yếu tố môi trường
Những vấn đề đang diễn biến trên thị trường tác động đến nhận thức
của người tiêu dùng như:
- Sản phẩm cùng loại xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường,
người tiêu dùng khó có thể đánh giá và lựa chọn chính xác trước
các nhãn hiệu khác nhau
Ví dụ: Hiện nay trên thị trường có đến hơn 300 nhãn sữa bột
khác nhau với nhiều mức giá và chất lượng khác nhau sẽ tạo cho
NTD khó khăn trong chọn lựa hay để chọn nhầm sản phẩm kém
chất lượng…
- Sản phẩm với nhiều công dụng và nhiều lợi ích gây cho NTD sự
phân vân khi quyết định.
Ví dụ: Điện thoại di động Nokia hiện nay trên thị trường với
nhiều chức năng như đèn flash, đèn pin, ghi âm (voice recorder),
máy ảnh và ghi chú, gửi tin nhắn bằng tiếng, gửi lời nhắn, gửi
file qua Bluetooth, ghi lại những cuộc đàm thoại, chức năng
quản lý trên điện thoại, POP3 e-mail, tự soạn nhạc, chuông…đã
khiến người tiêu dùng khó khăn để lựa chọn.
- Chất lượng giữa các nhãn hiệu của cùng loại sản phẩm được các
nhà sản xuất quan tâm và đề cao trong các quảng cáo làm người
tiêu dùng khó so sánh.
Ví dụ: Các sản phẩm dầu gọi đầu của Unilever hay P&G được
quảng cáo là những sản phẩm có chất lượng tốt làm cho người
tiêu dùng khó so sánh để đưa ra quyết định mua.
- Hình thức, kiểu dáng của sản phẩm luôn luôn được thay đổi để
tạo sự mới lạ và thu hút NTD.
Ví dụ: Các mẫu quần áo, trang sức, giày dép,…luôn luôn chú
trọng đến việc thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc…nhằm thu
hút sự quan tâm và mua sắm của NTD
- Các doanh ngiệp không ngừng đưa ra thị trường sản phẩm mới
kích thích sự tiêu dùng.
Ví dụ: Sau sự thành công vang dội của nước tăng lực Number
One công ty Tân Hiệp Phát vẫn không ngừng nghiên cứu để
tung ra thị trường những sản phẩm mới để thỏa mãn nhu cầu
NTD như Trà xanh 0 độ , sữa đậu nành Number One…
Tóm lại, để có thể tạo ra một sản phẩm có chất lượng tốt và luôn được
đón nhận nhiệt từ phía NTD cá nhân doanh nghiệp cần phải chú ý các
vấn đề nêu trên.
8.4.2.Ảnh hưởng của chiến lược giá
Giá cả cũng tạo ra hình ảnh nhãn hiệu và cung cấp một lợi thế tương
đối về chức năng, Giá cao có thể bao hàm chất lượng cao đối với một
số sản phẩm vì người dùng thường nhận thức có mối liên kết giữa giá
cả và chất lượng.Giá cả cũng được sử dụng định vị một nhãn hiệu.
Vi dụ: Nhãn hiệu túi xách của Louis Vuitton có giá rất cao nhưng
hình ảnh sang trọng, quý phái, cao cấp của nhãn hiệu có thể tạo nên
giá trị của sản phẩm trong mắt người dùng và đó cũng là yếu tố định
vị cho sản phẩm là sản phẩm cao cấp.
8.4.3.Ảnh hưởng của chiến lược phân phối
Mặt khác, những kỹ thuật phân phối được các nhà tiếp thị sử dụng
như địa điểm phân phối, phương thức phân phối, số lượng các đại lý,
các kích hoạt trong các cửa tiệm như cách trang trí, cách bày hàng
cũng thu được nhiều kết quả trong việc tạo hình ảnh cho sản phẩm.
Ví dụ: Phở 24 đã rất chú trọng đến việc thiết kế của tiệm, cách bài
trí, cung cách phục vụ và cả việc chọn lựa chén bát, trang trí đĩa rau,
…nhằm mục đích để NTD đánh giá cao về sản phẩm.
8.4.4.Ảnh hưởng của chiến lược chiêu thị
Chiến lược quảng cáo thường được sử dụng để tạo ra hình ảnh riêng
cho nhãn hiệu bằng cách thông tin đến người dùng những thuộc tính
mà họ nên tìm kiếm ở sản phẩm và nhấn mạnh tính ưu việt của nhãn
hiệu trong giới hạn những thuộc tính này.
Ví dụ: Để nhấn mạnh đến thuộc tính khác biệt giữa dầu gội cho nam
và cho nữ công ty ICP với nhãn hiệu X-men đã rất thành công khi
tung sản phẩm ra thị trường.
TÓM TẮT CHƯƠNG 8:
Người tiêu dùng hiểu biết về sản phẩm qua thuộc tính, lợi ích sản
phẩm, kết quả sử dụng sản phẩm và qua việc nhận thấy một ý nghĩa
hay giá trị nào đó khi dùng sản phẩm.
Mục tiêu của chiến lược sản phẩm là tạo ra nhiều cơ hội để thúc đẩy
người tiêu dùng có hành vi tiếp xúc với sản phẩm và trung thành với
nhãn hiệu sản phẩm.
Các nhà tiếp thị phân biệt năm nhóm NTD mua hàng để triển khai
chiến lược marketing nhằm thúc đẩy sự trung thành với nhãn hiệu:
nhóm NTD trung thành tuyệt đối, nhóm NTD trung thành tương đối
với nhãn hiệu, nhóm NTD hay thay đổi, nhóm NTD phân chia sự
trung thành cho hai hoặc nhiều nhãn hiệu, nhóm NTD không quan
tâm tới nhãn hiệu.
Trước khi đưa ra các chiến lược sản phẩm, nhà tiếp thị phải tìm hiểu
những nhận thức, thái độ, hành vi của người tiêu dùng đối với thuộc
tính, lợi ích, ý nghĩa của sản phẩm. Trong khi thực hiện nhà tiếp thị
phải thường xuyên tiếp cận với khách hàng để đánh giá hiệu quả của
các chiến lược, nắm bắt được những thay đổi về tâm lý tiêu dùng và
xu hướng tiêu dùng của thị trường trọng điểm nếu có, từ đó có thể
điều chỉnh kịp thời các chiến lược sản phẩm của mình.
* Câu hỏi:
1. Theo bạn chiến lược sản phẩm của những hàng hóa sau đây ảnh
hưởng như thế nào đến hành vi mua hàng của bạn: dịch vụ du lịch,
thực phẩm, đồ điện tử.
2. Theo bạn những đặc tính nào của sản phẩm mới có thể tạo được
sự thành công nhanh chóng và những đặc tính nào của sản phẩm cần
thiết cho những chiến lược marketing hiệu quả?
3. Người tiêu dùng mong muốn gì khi mua kem dưỡng da Pond's?
Cho biết đặc tính của sản phẩm này và đặc tính của người sử dụng sản
phẩm này.
4. Người tiêu dùng cách tân có giúp gì cho việc sử dụng và tiêu thụ
sản phẩm mới. Là một nhà tiếp thị bạn phải tác động như thế nào để
người tiêu dùng mua sản phẩm mới của bạn?
5. Hiện nay trên thị trường xuất hiện loại sữa chua uống hương vị
trà xanh của Vinamilk, theo bạn mục đích của Vinamilk trong việc
tung ra một loại sữa cho có hương vị mới? Hãy đưa ra những lý do để
bảo vệ quan điểm của bạn.
* Case study: Tương cà chua Heinz
1. Những phân tích cốt lõi
• Không ngần ngại theo đuổi một ý tưởng mạnh bạo
• Phát hiện đáng giá của hãng Heinz. Người tiêu dùng phải úp
ngược chai nước tương cà chua để lấy được giọt cuối cùng
2. Tóm tắt
• Heinz là một trong những công ty sản xuất hàng chục thực
phẩm lớn nhất thế giới.
• Chai tương cà chua Heinz là một trong những biểu tượng
marketing nổi tiếng nhất tại Anh quốc.
• Năm 2001 công ty cho ra đời loại bao bì úp ngược đầu tiên, và
lập tức doanh số tăng vọt.
YÊU CẦU:
1. Hãy cho biết Heinz đã thành công nhờ vào những yếu
tố chính nào?
2. Nêu giai đoạn hiện nay bạn nghĩ Heinz nên quan tâm
vấn đề gì cho sản phẩm của họ?