tiểu luận triết

You might also like

Download as rtf, pdf, or txt
Download as rtf, pdf, or txt
You are on page 1of 18

Phần A : Lời Mở Đầu

Mục tiêu xây dưng xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Một trong những nhiệm vụ là xác lập quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát triển kinh tế xã hội. Trong đó nội dung
cốt lõi là xác lập cơ cấu về sở hữu tư liệu sản xuất và cơ cấu thành phần kinh tế một cách
phù hợp với yêu cầu của quy luật thực tế khánh quan của nền kinh tế trong thời kỳ quá
độ của nước ta. Và bất kể một tư nhân hay doanh nghiệp nào thì trong thời kỳ hoạt động
sản xuất thì mục tiêu đó là thu lợi nhuận cho các nhà tư bản mà biểu hiện của nó là giá trị
thặng dư. Lợi nhuận là muc tiêu của các nhà tư bản khi tham gia sản xuất, các nhà tư bản
chính là nơi tạo ra giá trị thặng dư cho đất nước qua đó điều này rất quan trọng trong nền
kinh tế của đất nước Và để làm rõ và tìm hiểu sâu hơn đó là lý do để làm tiểu luận với
chủ để " Các phương pháp làm gia tăng lợi nhuận của tư bản sản xuất ".

I: Tư bản sản xuất

1.Sự tuần hoàn của tư bản sản xuất

a) Sự tuần hoàn

b) Tư bản sản xuất

2.Tổng quan về chu chuyển tư bản và thời gian sản xuất

3.Các bộ phận về tư bản sản xuất

a)Tư bản cố định

b) Tư bản lưu động

II: Khái quát về lợi nhuận và lợi nhuận tư bản doanh nghiệp

1. Lợi nhuận

2. Nguồn gốc lợi nhuận của tư bản sản xuất

III: Các giải pháp làm gia tăng lợi nhuận của tư bản sản xuất
Phần B: Nội Dung
I; Tư bản sản xuất

1.Sự tuần hoàn của tư bản sản xuất

a) Sự tuần hoàn

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chúng giữa quá trình sản xuất và quá
trình lưu thông. Lưu thông của tư bản, theo nghĩa rộng, là sự vận động của tư bản, nhờ đó
mà tư bản lớn lên và thu được giá trị thặng dư, cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển
của tư bản.

Tư bản công nghiệp (với nghĩa các ngành sản xuất vật chất), trong quá trình tuần
hoàn đều vận động theo công thức:

Sự vận động này trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản
xuất.

-Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn lưu thông:

Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất để mua tư liệu sản xuất và
sức lao động.

Quá trình lưu thông đó được biểu thị như sau:

Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, chức năng giai đoạn này là
mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất.

Giai đoạn thứ hai - giai đoạn sản xuất:

Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất (TBSX), có chức
năng thực hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra hàng
hóa là trong giá trị của nó có giá trị thặng dư. Trong các giai đoạn tuần hoàn của tư bản
thì giai đoạn sản xuất có ý nghĩa quyết định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Kết thúc của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa.

- Giai đoạn thứ ba - giai đoạn lưu thông:

H' - T'

Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng là thực
hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm một lượng giá trị
thặng dư. Trong giai đoạn này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng.
Hàng hóa của nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền.

Kết thúc giai đoạn thứ ba, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản tiền tệ. Đến đây,
mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban đầu trong
tay chủ của nó nhưng với số lượng lớn hơn trước.

Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tinh tuần hoàn: tư
bản ứng ra dưới hình thái tiền và rồi đến khi quay trở về cũng dưới hình thái tiền có kèm
theo giá trị thặng dư. Quá trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp lại không ngừng gọi là sự vận
động tuần hoàn của tư bản.

Vậy, tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần
lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi lại quay trở
về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.

Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường trong điều kiện các giai đoạn
khác nhau của nó không ngừng được chuyển tiếp. Mặc khác, tư bản phải nằm lại ở mỗi
gia đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Hay nói cách khác, tuần hoàn của tư
bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện sau đây được thỏa mãn: một là,
các giai đoạn của chúng diễn ra liên tục; hai là, các hình thái tư bản cùng tồn tại và được
chuyển hóa một cách đều đặn. Vì vậy, tư bản là một sự vận động tuần hoàn của tư bản, là
sư vận động liên tục không ngừng.

Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của tư bản công
nghiệp: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa.

Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã hội cũng như từng tư bản
cá biệt đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái. Ba hình thái của tư bản không phải
là ba loại tư bản khác nhau, mà là ba hình thái của một tư bản công nghiệp biểu hiện
trong quá trình vận động của nó. Song cũng trong quá trình vận động ấy đã chứa đựng
khả năng tách rời của ba hình thái tư bản. Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản,
khả năng tách rời đó đã làm xuất hiện tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay, hình thành
các tập đoàn khác trong giai cấp tư bản: chủ công nghiệp, nhà buôn, chủ ngân hàng, v.v.
chia nhau giá trị thặng dư.
Nghiên cứu tuần hoàn của tư bản là nghiên cứu mặt chất trong sự vận động của tư
bản, còn mặt lượng của sự vận động được nghiên cứu ở chu chuyển của tư bản.

b) Tư bản sản xuất

Các nhà kinh tế học tư sản thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản
xuất đều là tư bản. Thực ra, bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu
tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi
nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi
chế độ tư bản bị xóa bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa. Như vậy, tư bản
không phải là một vật mà là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người và người
trong quá trình sản xuất, nó có tính chất tạm thời trong lịch sử.

Qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư, có thể định nghĩa chính xác tư
bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công
nhân làm thuê. Tư bản là phản ánh quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản
chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra.

2. Tổng quan về chu chuyển cơ bản và thời gian sản xuất

Sự tuần hòan của tư bản, nếu xét nó với tư cách là một quá trình định kỳ đổi mới và
thường xuyên lặp đi lặp lại thì gọi là chu chuyển của tư bản. Những tư bản khác nhau chu
chuyển với vận tốc khác nhau tùy theo thời gian sản xuất và lưu thông của hàng hóa.
Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

- Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất.

Thời gian sản xuất bao gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian
dự trữ sản xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của nhiều nhân
tố như: tính chất của ngành sản xuất; quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm: sự tác động
của quá trình tự nhiên đối với sản xuất; năng suất lao động và tình trạng dự trữ các yếu tố
sản xuất.

- Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian
lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng
không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian
bán hàng hóa. Thời gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc các nhân tố sau đây: thị trường
xa hay gần, tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của vận tải và giao thông.

Thời gian chu chuyển của tư bản càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư
được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.

Các loại tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số vòng chu
chuyển không giống nhau. Để so sánh tốc độ vận động của các tư bản khác nhau, người
ta tính số vòng chu chuyển của các loại tư bản đó trong một thời gian nhất định.

Tốc độ chu chuyển của tư bản là số vòng (lần) chu chuyển của tư bản trong một năm. Ta
có công thức số vòng chu chuyển của tư bản như sau:

n = CH/ch

Trong đó: (n) lả số vòng (hay lần) chu chuyển của tư bản; (CH) là thời gian trong năm;
(ch) là thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản.

Ví dụ: Một tư bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 6 tháng thì tốc độ chu chuyển trong
năm là:

n = 12 tháng / 6 tháng = 2 vòng

Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỷ lệ nghịch với thời gian 1 vòng chu chuyển của
tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gian
lưu thông của nó.
3. Các bộ phận về Tư bản sản xuất

a) Tư bản cố định

Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà
xưởng, V.V. tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển
hết mệt lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong
thời gian sản xuất.

Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị hao mòn dần
trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:

+ Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy. Hao
mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của
tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.

+ Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra ngay
cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn
hoặc có giá trị tương đương, nhưng công suất cao hơn. Để tránh hao mòn vô hình, các
nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc,
v.v. nhằm tận dụng máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.

Ý nghĩa: Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng
quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại
hao mòn hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó, mà có điều
kiện đổi mới thiết bị nhanh, nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.

b) Tư bản lưu động

Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu,
vật liệu phụ, sức lao động, v.v.. Giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản
sau mỗi quá trình sản xuất, khi hàng hóa được bán xong.
Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động là phương
thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất.

Ý nghĩa: Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư
bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó
tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu
động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm
tăng lên.

II: Khái quát về lợi nhuận và lợi nhuận của tư bản doanh nghiệp

1. Lợi nhuận

a) Khái niệm lợi nhuận

Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có khoảng chênh
lệch, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hóa,
(c+v)<(c+V+m) cho nên sau khi bán hàng hóa nhà tư bản không những bù đắp số tư bản
đã ứng mà còn thu được số tiền lời ngang bằng với giá trị thặng dư số tiền này được gọi
là lợi nhuận.

Nếu ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức:

W = c + v + m = k + m bây giờ sẽ chuyển thành:

W = k + p ( hay giá trị hàng hóa bằng chi phí sản xuất của tư bản chủ nghĩa cộng với lợi
nhuận)

Gía trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn
bộ nền tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hóa là lợi nhuận.

2. Nguồn gốc lợi nhuận của tư bản sản xuất


Giá trị thặng dư là một phạm trù nói lên mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong
đó sống thực tế của xã hội tư bản, giá trị thặng dư chuyển hóa và biểu hiện thành lợi
nhuận. Vì vậy để tạo ra lợi nhuận thì nhà tư bản cần tạo giá trị thặng dư, cụ thể ở đây là
do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Để hiểu rõ về quá trình tạo ra giá trị
thặng dư ta xét bài toán sau:

Giả định đề xuất 10kg sợi, cần 10kg bông và giá 10kg bông là 10$. Để chế biến số bông
đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2$; giá trị
sức lao động trong một ngày là 3$ và sức lao động được mua bán theo đúng giá trị. Ngày
lao động 12 giờ; trong một giờ lao động người công nhân tạo ra một lượng giá trị là 0,5$;
cuối cùng giả định trong qua trình sản xuất sợi đã hao phí thời gian lao động ca biệt
ngang bằng với hao phí lao động xã hội cần thiết.

Với giả định như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến thời điểm mà ở đó bù đắp
được giá trị lao động(6 giờ) thì chưa sản xuất ra giá trị thặng dư. Trên thực tế quá trình
lao động không dừng lại ở đó. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động một ngày. Vậy
việc sử dụng sức lao động trong ngày thuộc về nhà tư bản.

Chẳng hạn, nhà tư bản bắt công nhân lao động 12 giờ trong ngày như đã thỏa thuận thì:

Chi phí sản xuất

· Tiền mua bông (20kg):20$

· Tiền hao mòn máy móc:4$

· Tiền mua sức lao động trong một ngày:3$

· Tổng cộng:27$

Giá trị sản phẩm mới (20kg sợi)


· Giá trị của bông chuyển vào sợi: 20$

· Giá trị của máy móc được chuyển vào sợi:4$

· Giá trị mới do sức lao động của công nhân tạo ra tạo ra trong 12 giờ lao động: 6$

· Tổng cộng: 30$

Như vậy, toàn bộ chi phí của nhà tư bản để mua sức lao động là tư liệu sản xuất là 27$.
Trong 12 giờ công nhân tạo ra một sản phẩm mới (20kg sợi) có giá trị bằng 30$ lớn hơn
trước là 3$. 27$ ứng trước được chuyển thành 30$ mang lại giá trị thặng dư là 3$. Khi
bán sản phẩm nhà tư bản sẽ thu được lợi nhuận là: 30-27=3$

Như vậy nguồn gốc của lời nhuận là từ lao động thặng dư từ công nhân và bản chất của
lợi nhuận là giá trị thặng dư.

III: Các giải pháp làm gia tăng lợi nhuận của tư bản sản xuất

1.Tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm.

Doanh thu chính là khoản mà nhà tư bản nhận được thông qua hoạt động bán các sản
phẩm do người lao động làm ra và đầu tư. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi,
việc tăng doanh thu tiêu thụ sẽ làm tăng lợi nhuận cho các nhà tư bản. Tuy nhiên việc
tăng doanh thu lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Do vậy, để tăng doanh thu cho các nhà tư
bản ta có thể thực hiện một số biện pháp cơ bản sau:

Xây dựng phương án sản xuất và tiêu thụ có hiệu quả.

Đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của các nhà tư bản. Bởi
vì với bất cứ Nhà tư bản nào có một phương án sản xuất và tiêu thụ tư liệu sản xuất đúng
đắn sẽ góp phần làm giảm sự tiêu tốn về tiền bạc và công sức mà nhà tư bản vẫn đạt được
kết quả tốt, nghĩa là phương án sản xuất và tiêu phải có tính khả thi phù hợp với nhu cầu
của người sử dụng, đối tượng tiêu thụ sản phẩm và số lượng cầm sản xuất ra sản phẩm
một cách cụ thể và chính xác.

vấn đề đặt ra ở đây là phương án sản xuất và tiêu thụ được xây dựng phải khả thi, phù
hợp với lượng cầu của người tiêu dùng, khai thác hết lợi thế tiềm năng, điểm mạnh của
nhà tư bản để nâng cao hiệu quả việc sử dụng vốn, để đạt được lợi nhuận tối đa cho nhà
tư bản. Muốn vậy cac snahf tư bản cần phải làm như sau:

Các nhà tư bản phải xác định nguồn lực lượng lao động và tư liệu sản xuất sẵn có (cơ
hội, nguy cơ, điểm mạnh, điểm yếu), nguồn vật tư cần đưa vào thêm để hoàn thành sản
phẩm hay trình độ của người lao động cần thiết để tạo ra sản phẩm đó.

Có thể tạo ra các lớp dạy kỹ năng lao động cơ bản khi sử dụng với máy móc cần thiết hay
kỹ năng trình độ của người lao động nhằm nâng cao tay nghề của công nhân tận dụng
nguồn lao động sẵn có.

Đầu tư để nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm tiêu thụ

Nâng cao khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Để làm được điều đó, ngoài việc nhà tư bản phải
có những biện pháp quản lý và sử dụng lao động một cách hợp lý, nâng cao trình độ tay
nghề của công nhân, bố trí lao động phù hợp với trình độ và kỹ năng của họ, các nhà tư
bản còn phải đầu tư cho sản xuất cả về chiều rộng lẫn chiều sâu như hiện đại hoá máy
móc thiết bị, mạnh dạn ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất, bên cạnh đó cần làm tốt
công tác quảng cáo tiếp thị sản phẩm, công tác tổ chức bán hàng.

Ngoài ra, vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm tiêu thụ cũng là một mối quan tâm hàng
đầu của doanh nghiệp. để nâng cao chất lượng sản phẩm của nhà tư bản phải chú trọng
tới việc thay đổi công nghệ cho phù hợp với xu thế thị trường, vấn đề đào tạo con người
phải được quan tâm đúng mức. Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ, việc ứng dụng khoa học công nghệ vào trong sản xuất cũng phải được quan tâm để
từ đó tạo ra nhiều sản phẩm.

Xây dựng kết cấu sản phẩm có lợi nhất

Kết cấu sản phẩm là một nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu theo những chiều hướng khác
nhau, nó có thể làm tăng hoặc giảm lợi nhuận tiêu thụ. để đạt được lợi nhuận cao, câc nhà
tư bản cần đầu tư nghiên cứu, đa dạng hoá chủng loại sản phẩm trong đó phải xác định
một số mặt hàng chủ lực.

2.Hạ giá thành sản phẩm

Hạ giá thành sản phẩm thực chất là việc tiết kiệm các chi phí về lao động sống và lao
động vật hoá bỏ ra cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. việc tiết kiệm các khoản chi
phí trực tiếp tạo nên thực thể sản phẩm phải được thực hiện một cách hợp lý để không
làm ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, đối với chi phí bán sản phẩm phải tuỳ vào đặc
điểm của sản phẩm, điều kiện tự nhiên, xã hội, nhu cầu người tiêu thụ.

Đây là phương hướng cơ bản, lâu dài để tăng lợi nhuận cho các nhà tư bản sản xuất kinh
doanh. Đặc biệt trong cơ chế có sự cạnh tranh về giá, nếu giá sản phẩm càng thấp thì các
nhà tư bản càng có lợi thế để hạ giá bán sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, làm tăng
doanh thu và tăng lợi nhuận. Việc tiết kiệm các chi phí về lao động sống, lao động vật
hoá có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với các nhà tư bản mà còn đối với toàn xã hội. Vì
vậy, nó không chỉ tạo điều kiện cho các nhà tư bản tự bù đắp chi phí sản xuất kinh doanh
và có lãi mà còn giúp các nhà tư bản sử dụng tiết kiệm vốn để mở rộng quy mô sản xuất,
tăng khối lượng sản phẩm sản xuất ra. Để giảm được chi phí hạ giá thành sản phẩm các
nhà tư bản cần thực hiện các biện pháp sau:

Phấn đấu tăng năng suất lao động.

Năng suất lao đông phản ánh năng lực sản xuất của người lao động, biểu hiện bằng số sản
phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian hay thời gian cần thiết để làm ra một đơn vị sản
phẩm. Tăng năng suất lao động có nghĩa là tăng số sản phẩm làm ra hay giảm số thời
gian cần thiết để làm ra một đơn vị sản phẩm, điều này làm cho chi phí nhân công trong
một đơn vị sản phẩm giảm đi. Hơn nữa việc tăng năng suất lao động còn kéo theo sự
giảm đi hàng loạt các chi phí khác đặc biệt là chi phí cố định để hạ giá thành sản phẩm.
Do đó, để tăng năng suất lao động các nhà tư bản cần áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp
sau:

Đầu tư đổi mới quy trình công nghệ, hiện đại hoá máy móc thiết bị.

Trong điều kiện hiện nay, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã tạo ra khả năng to lớn để
các nhà tư bản đổi mới quy trình công nghệ, cải tiến máy móc thiết bị sao cho phù hợp
với quy trình sản xuất kinh doanh của tư bản. Có như vậy mới tạo ra được tiền đề cho
việc sử dụng triệt để công suất máy móc thiết bị. Đây là biện pháp trực tiếp tăng năng
suất lao động.

Tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị.

Việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị phải được tiến hành đồng thời theo hai hướng
là : tăng số lượng máy móc thiết bị trên đầu lao động và nâng cao hiệu quả sử dụng máy.
Muốn vậy phải tổ chức lại quy trình sản xuất, tăng giờ máy chạy, giảm giờ máy ngừng
hoạt động do hỏng hóc, thiếu nguyên nhiên vật liệu, thiếu người vận hành… Đồng thời
phải thường xuyên kiểm tra, sữa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị, thực hiện đúng các
yêu cầu của quy trình vận hành máy móc.

Sắp xếp, bố trí lao động một cách hợp lý.

Việc sắp xếp, bố trí lao động một cách hợp lý nhằm tạo nên sự đồng bộ thống nhất, tạo ra
sự gắn kết hài hoà giữa các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. điều
đó giúp cho doanh nghiệp có thể sử dụng thời gian của mình một cách hiệu quả, góp phần
tăng năng suất lao động.

Nâng cao trình độ tay nghề và ý thức của người lao động

Để tăng năng suất, nhà tư bản không thể không thực hiện công tác đào tạo và bồi dưỡng
cho người lao động để nâng cao trình độ tay nghề. Hơn nữa, tư bản phải luôn quan tâm
chăm lo đời sống của cán bộ công nhân viên thông qua tiền lương và các chính sách khen
thưởng hợp lý nhằm khuyến khích, động viên người lao động hăng say với công việc, gắn
trách nhiệm với công việc của mình. Đồng thời các nhà tư bản phải có những biện pháp
quản lý lao động cho phù hợp với nhà máy hay xưởng mình.

Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu.

Tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao trong quá trình sản xuất sẽ góp phần lớn vào việc hạ
giá thành sản phẩm sản xuất ra. Để tiết nguyên vật liệu tiêu hao cần phải giảm tỷ lệ hao
hụt nguyên vật liệu và mức tiêu hao nguyên vật liệu trong một đơn vị sản phẩm. Vì vậy,
các nhà tư bản cần phải thực hiện tốt các biện pháp sau:

Kết hợp kế hoạch sản xuất với công tác cung ứng nguyên vật liệu.
Các nhà tư bản phải lập kế hoạch cung ứng nguyên vật liệu sao cho phù hợp với kế hoạch
sản xuất, tránh tình trạng sản xuất bị ngừng trệ do thiếu nguyên vật liệu hoặc tình trạng
nguyên vật liệu ứ đọng quá lớn. Các nhà tư bản phải chọn nguồn cung cấp gần, thuận tiện
cho việc chuyên chở, giá cả phải chăng đặc biệt là phải ổn định nguồn cung cấp những
vật tư chính, đây cũng là nhân tố giúp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.

Tổ chức quản lý nguyên vật liệu một cách tốt nhất.

Tổ chức quản lý nguyên vật liệu một cách tốt nhất để sao cho đảm bảo về số lượng, chất
lượng nguyên vật liệu. Các nhà tư bản phải thường xuyên kiểm tra giám sát các loại
nguyên vật liệu nhập về, tránh tình trạng nhập phải các loại nguyên vật liệu kém phẩm
chất hoặc để xẩy ra tình trạng hao hụt nguyên vật liệu quá lớn. Ngoài ra nhà tư bản cần
chú ý đến khâu bảo quản, dự trữ vật tư, thực hiện quản lý và sử dụng nguyên vật liệu tiết
kiệm ngay từ khâu mua vào, áp dụng phương pháp quản trị hàng tồn kho dự trữ thích hợp
nhằm tối thiểu hoá chi phí.

Các nhà tư bản phải xây dựng được định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho một đơn vị
sản phẩm, xây dựng định mức phế phẩm vật tư hợp lý.

Định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm là số nguyên vật liệu cần
thiết để tạo ra một đơn vị sản phẩm theo yêu cầu kỹ thuật nhất định. Mức tiêu hao thực tế
so với định mức càng nhỏ bao nhiêu thì vật tư được sử dụng càng tiết kiệm bấy nhiêu. Để
giảm bớt tiêu hao nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm doanh nghiệp cần: áp dụng
tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, xây dựng được các mối liên hệ gắn bó trách
nhiệm chặt chẽ giữa các khâu mà nguyên vật đi qua, tránh tình trạng có những khâu
nguyên vật liệu không được quản lý chặt chẽ dẫn đến lãng phí, hao hụt lớn, tăng cường
kiểm tra các định mức tiêu hao nguyên vật liệu, ngăn chặn và xử lý kịp thời các trường
hợp gây thất thoát lãng phí vật tư. Có kế hoạch sử dụng nguyên vật liệu thay thế trong
những trường hợp cần thiết trên cơ sở đảm bảo chất lượng sản phẩm cũng như giá thành
của sản phẩm đó.
Giảm các loại chi phí gián tiếp

Chi phí gián tiếp bao gồm các khoản : chi phí tiền lương công nhân gián tiếp, tiền thuê
mặt bằng( nếu có) , chi phí nhân viên quản lý, chi phí khác…. Các khoản chi phí này
không liên quan trực tiếp đến sản xuất sản phẩm. Do vậy, để giảm chi phí gián tiếp cần
phải xây dựng được cơ cấu bộ máy quản lý gọn nhẹ, hiệu quả không chồng chéo, phù hợp
với đặc điểm riêng của từng bộ phận và xưởng sản xuất và đặc điểm chung của từng khâu
sản xuất, từ đó tiết kiệm chi phí quản lý.

Ngoài ra, các khoản chi phí gián tiếp này rất dễ bị lạm dụng trong chi tiêu. Do đó, nhà tư
bản cần phải có biện pháp quản lý khoản chi phí này có hiệu quả. Nên xây dựng hạn mức
chi phí cho các khoản mục này và chi tiêu theo hạn mức đã định.

3.Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

Đây là điều kiện để nhà tư bản tồn tại, phát triển và thu lợi nhuận cao trong nền kinh tế.
Nhằm đạt được hiệu quả cao, với chi phí đầu vào thấp nhất các doanh nghiệp phải sử
dụng vốn sao cho có hiệu quả cao nhất. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, doanh nghiệp
phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định, đồng thời tăng nhanh tốc độ tuần hoàn và
chu chuyển của vốn lưu động. ngoài ra trong quá trình hoạt động nếu có vốn nhàn rỗi thì
nhà tư bản nên đầu tư ra ngoài như đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, các chứng chỉ có giá
khác, liên doanh liên kết, gửi ngân hàng… để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tăng lợi
nhuận.

Bên cạnh đó, các nhà tư bản cũng cần cân nhắc lựa chọn nguồn tài trợ vốn một cách hợp
lý nhằm giảm chi phí sử dụng vốn và đảm bảo an toàn tài chính cho hoạt động sản xuất.
Các nhà tư bản nên nghiên cứu, cân nhắc sử dụng đòn bẩy tài chính một cách hiệu quả
để tăng lợi nhuận vốn chủ sở hữu.

Trên đây chỉ là một số phương hướng cơ bản để nâng cao lợi nhuận cho các nhà tư bản.
Tuỳ theo đặc điểm hoạt động sản xuất của mình mà các nhà tư bản cần vận dụng tổng
hợp một cách uyển chuyển, sáng tạo những biện pháp trên đây để đạt được hiệu quả kinh
doanh tốt nhất, đạt được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện các nguồn lực có giới hạn.

Tóm lại, lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản. để đánh giá được chất lượng hoạt động của một
nhà tư bản chúng ta phải phân tích một cách toàn diện, sâu sắc toàn bộ các chỉ tiêu về lợi
nhuận, tỷ suất lợi nhuận mà chúng ta đã nêu. Việc phân tích không chỉ xem xét lợi nhuận,
tỷ suất lợi nhuận của các nhà tư bản cao hay thấp mà phải tiến hành so sánh các chỉ tiêu
giữa các năm với nhau để thấy được xu hướng của nhà tư bản là phát triển hay suy thoái
hoặc so sánh các chỉ tiêu của tư bản với số trung bình của ngành hay các có điều kiện sản
xuất kinh doanh tương tự nhằm xác định vị trí của tư bản là tiên tiến hay lạc hậu…
Phần C: Kết Luận
Những phân tích trên đã cho thấy rằng lợi nhuận là vấn đề hàng đầu của các nhà tư
bản. Các nhà tư bản luôn tìm cách bóc lột sức lao động của người lao động hay những
người công nhân, sự bóc lột sức lao động càng lớn thì nhà tư bản tạo ra của cải càng
nhiều. Bên cạnh đó, lợi nhuận là nguồn duy trì hoạt động của các nhà tư bản nhưng người
lao động vẫn cần hưởng mức lương xứng đáng với công sức đã bỏ ra để đáp ứng được
các nhu cầu khách quan của cuộc sống. Lợi nhuận phản ánh sự phát triển nền kinh tế - xã
hội của một đất nước vì vậy cần có những kế hoạch và phương án hợp lý để tăng lợi
nhuận cho các nhà tư bản. Đầu tư là vấn đề cốt lõi cho việc tạo ra các giá trị thặng dư mà
nó chính là biểu hiện chính của lợi nhuận. Hãy là nhà đầu tư thông minh trong các lĩnh
vực và ngành nghề khác nhau.

Tài Liệu Tham Khảo

-Nguồn tài liệu sẵn có trong giáo trình: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa

Mác-Lênin

-Loigiaihay.com Thế nào là tư bản lưu động và thế nào là tư bản cố định
https://loigiaihay.com/the-nao-la-tu-ban-co-dinh-va-tu-ban-luu-dong-y-nghia-cua-viec-
phan-chia-cap-pham-tru-tren-c126a20520.html

-Voer.edu.vn tham khảo có chỉnh sửa bổ sung về các giải pháp làm gia tăng lợi nhuận của
tư bản sản xuất

https://voer.edu.vn/m/phuong-huong-va-bien-phap-tang-loi-nhuan-cho-doanh-nghiep/
b145a2e6

You might also like